Cương lĩnh năm 1991 đã được đại hội X bổ xung và phát triển về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào

Tài liệu Cương lĩnh năm 1991 đã được đại hội X bổ xung và phát triển về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào: Bài thu hoạch Câu hỏi: Cương lĩnh năm 1991 đã được đại hội X bổ xung và phát triển về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Đồng chí nêu rõ ý nghĩa của những vấn đề bổ sung đó. Đồng chí phải làm gì để góp phần thực hiện cương lĩnh của đảng. Trả lời: Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ( tháng 6- 1991), đồng chí tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thông qua đã trình bầy: Đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn; quá độ đi lê...

doc11 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cương lĩnh năm 1991 đã được đại hội X bổ xung và phát triển về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài thu hoạch Câu hỏi: Cương lĩnh năm 1991 đã được đại hội X bổ xung và phát triển về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Đồng chí nêu rõ ý nghĩa của những vấn đề bổ sung đó. Đồng chí phải làm gì để góp phần thực hiện cương lĩnh của đảng. Trả lời: Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ( tháng 6- 1991), đồng chí tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thông qua đã trình bầy: Đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn; quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại; hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. 1.Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 2. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Những khó khăn, thuận lợi của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. trong khi đó, các thế lực thù địch trên thế giới luôn tìm mọi thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta. Chúng ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản, đó là: + Có sự lãnh đạo của Đảng được rèn luyện trong đấu tranh, dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; có chính quyền nhân dân và môi trường hoà bình xây dựng. + Dân tộc ta anh hùng, có ý trí vươn lên mạnh mẽ; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, lao động cần cù sáng tạo. + Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất- kỹ thuật ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá. + Hiện nay, chúng ta có những cơ hội mới do cuộc cách mạng khoa học- công nghệ mang lại. 3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong Cương lĩnh 1991 Đảng ta nêu lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta có ý nghĩa rất sâu sắc. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng có các đặc trưng chủ yếu sau đây: Một là, nhân dân lao động làm chủ. Hai là, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Ba là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bốn là, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Năm là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Sáu là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 4. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Cương lĩnh 1991 đã nêu 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bẩy phương hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp phát triển của đất nước. Một là, “ xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân” Hai là, “ phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” Ba là, “ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”. Bốn là, “ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác- Lê nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá của con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mĩ ngày càng cao. Chống tư tương, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc kvà những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên của chủ nghĩa xã hội”. Cách mạng tư tưởng – văn hóa là một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang cơ chế mới. Phát triển kinh tế phải đi đôi với xây dựng nền văn hóa mới và con người mới đảm bảo sự phát triển bền vững. Năm là, “ thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Phương hướng này nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động mọi lực lượng cộng đồng dân tộc, mọi tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam. Mặt khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ tối đa sức mạnh bên ngoài để kết hợp có hiệu quả sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững; góp phần của nước ta vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân dân thế giới. Sáu là, “ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mang Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả ách mạng”. Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống nhất với nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một mặt, tập trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước; mặt khác, có đủ khả năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không phải coi nhệ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bởi vì, làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Bảy là, “ xây dựng đảng trong sạch vững mạnh, vững mạnh về chính trị, tư yưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Phương hướng này quán triệt sâu sắc luận điểm Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp cách mạng; đồng thời chỉ rõ cần thường xuyen nhận rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền mà V.I.Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, sự thoái hóa về tư tưởng đường lối chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do đó, Đảng phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lưch lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Theo các phương hướng cơ bản nói trên, mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kì quá độ là “…xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta lạ một quá trình lâu dài, phải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đượng đầu là thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng đường sau. Để thực hiện tốt các mục tiêu nói trên, trong cương lĩnh đã nêu lên những định hướng lớn về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phương hướng cơ bản xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự phát triển một số nội dung trong Cương lĩnh 1991 trong nghị quyết đại hội X Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học kinh nghiệm rút ra, Đại hội X đã bổ sung một số nội dung của Cương lĩnh năm 1991 như sau: a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng: Một là, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, vă minh”. Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đến đại hội IX đã bổ sung thêm từ “dân chủ”, thành “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X đã xác định đó là một đặc trưngcủa xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Hai là, “do nhân dân làm chủ”. Cương lĩnh 1991 viết: “ do nhân dân lao động làm chủ”. Đại hội X đã điều chỉnh là “ do nhân dân làm chủ”. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dan, vì nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, “ có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất phát triển hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản ( toàn dân, tập thể và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã hội có sự đan xen phức tạp và đang phát triển. Vì vậy, nói về quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh, bỏ đoạn nói về “ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Bốn là, “ có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc trưng này giống Cương lĩnh 1991. Năm là, “ con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện So với Cương lĩnh 1991, đại hội X có điều chỉnh cụm từ “ bóc lột”. Xét về bản chất và mục tiêu lâu dài trong xã hội ta không còn bóc lột. Nhưng trong quá trình phát triển, hiện tượng bóc lột tồn tại do trình độ sản xuất quy định, và trong thời kì quá độ, nó còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chữa cụm từ “ có điều kiện phát triển toàn diện các nhận” thành “phát triển toàn diện”. Sáu là, “ các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”. Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ “tương trợ” , phù hợp hơn với thực tế phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, miền, từng dân tộc. Bảy là, “ có Nhà nước pháp quyễn xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Cương lĩnh 1991 chưa nói tới xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lí xã hội bằng pháp luật. Tại hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1-1994) Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “ xây dựng Nhà nước pháp quyễn xã hội chủ nghĩa”. Các đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này. Tám là, “ có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Đặc trưng này giống với Cương lĩnh 1991. b) Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Cương lĩnh 1991 đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hôi X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung lại thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta. Một là, “ phát triển nền kinh tế thị trưỡng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh 1991 chúng ta chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nó phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nhận thức rõ hơn, đi tới khẳng định kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàng hóa, là quy luật phát triển chung của nhân loại, đến Đại hội IX chúng ta coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hinh kinh tế tổng quát trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hai là, “ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Công nghiệp là một quá trình phát triển tất yếu khách quan của các nước từ nến sản xuất nhỏ, kinh tế kém phát triển. Cương lĩnh 1991 nói công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Từ Đại hội VIII, Đảng ta nói công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Đại hội X bổ sung điều này so với Cương lĩnh 1991. Ba là, “ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội”. Quan điểm này nhắc lại nội dung Cương lĩnh 1991. Bốn là, “ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội x đã xác định: Đại đoàn kết tonà dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự ngiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng để đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ tất cả những người Việt Nam yêu nước ở cả trong và ngoài nước. Năm là, “ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây là nội dung được bổ sung so với Cương lĩnh 1991. Đại hội X đã chỉ rõ phải xây cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chũ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sáu là, “ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Đây là nhiệm vụ hết sức cơ bản và quan trọng, thường xuyên. Đại hội X nhấn mạnh hơn nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lỗi sống, tệ quan liêu, tham nũng, lãng phí, vì chúng đang là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Bảy là, “ bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Tám là, “ chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội X đã khẳng định: “qua tổng kết lí luận – thực tiến 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( năm 1991 ), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. ý nghĩa của những vấn đề bổ sung trong đại hôi X: Qua tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới, càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo có ý nghĩa to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, từ khi Cương lĩnh ra đời đến nay, tình hình thế giới và trong nước có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Nghị quyết Đại hội VIII, IX, X và Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương đã từng bước bổ sung, phát triển nhiều nội dung cơ bản của Cương lĩnh 1991…. Việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 là một yêu cầu khách quan , nhiệm vụ chính trị cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân, vì sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo con đườniaxax hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn và kiên định ddi theo con đường đó với tinh thần không ngừng tìm tòi, đổi mới. Để xác định một cách khoa học những nội dung bổ sung, phát triển Cương lĩnh, cần triển khai tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh, phân tích cân nhắc kĩ từng vấn đề. Tầm quan trọng của Đại hội Xđược nhận định là “ có ý nghĩa trọng đại động viên toàn đảng, toàn dân, toàn quân phát huy sức mạnh toàn dân tộc, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ hơn nữa, quyết tâm đến năm 2010 đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước cơ bản theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Thành công của Đại hội X đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, mở ra giai đoạn phát triển mạnh và đi vào chiều sâu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Góp phần củng cố và giữ vững môi trường hòa bình và tạo những điều kiện quốc tế ngày càng thuận lợi cho công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế và uy tín của nước ta ở khu vực và trên thế giới. Để góp phần thực hiện Cương lĩnh của Đảng, là một sinh viên trường đại học kinh tế quốc dân tôi cần: Tuyệt đối trung thành với mục đích lí tưởng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thỉ của đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Có mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân. Tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội ở nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức đảng. thường xuyên tự phê bình và phê bình mình. Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, phấn đấu, nỗ lực cao nhất. Góp phần tích cực đưa chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xóa đói , giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực. Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách tổ chức của đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng. Tích cực và mạnh dạn tham gia ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Tham gia ý kiến khi được hỏi về những người ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét. Tham gia đóng góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sach, vững mạnh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6205.DOC