Tài liệu Cuộc đấu tranh của công nhân Cảng Sài Gòn trong giai đoạn từ 1925 đến 1950: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016
12
Cuộc đấu tranh của công nhân Cảng Sài Gòn
trong giai đoạn từ 1925 đến 1950
Political struggles of workers in Saigon Port from 1925 to 1950
PGS.TS. Nguyễn Đức Hòa
Trường Đại họ n
Nguyen Duc Hoa, Assoc.Prof.,Ph.D.
Saigon University
Tóm tắt
Cảng Sài Gòn là một hệ thống cảng trên sông Sài Gòn, gồm Bason v thương ảng v nó đóng va tr
quan trọng trong hính sá h xâm lược và khai thác thuộ địa của thực dân Pháp từ 1860 đến 1954. Số
lượng công nhân bến cảng g a tăng nhanh hóng ùng với quá trình đô thị hóa Sài Gòn-Chợ Lớn và sự
phát triển của Cảng Sài Gòn. Cuộ bã ông Ba on v o năm 1925 thắng lợi là mố đánh dấu sự trưởng
thành vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam, ũng như ủa công nhân Cảng Sài Gòn. Các cuộ đấu
tranh của công nhân Cảng n đóng va tr quan trọng trong phong trào cách mạng ở Sài Gòn-Chợ
Lớn trong g a đoạn từ 1925 đến 1950.
Từ khóa: Cảng Sài Gòn, t , khai thác thu địa, công nhân,...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 589 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc đấu tranh của công nhân Cảng Sài Gòn trong giai đoạn từ 1925 đến 1950, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016
12
Cuộc đấu tranh của công nhân Cảng Sài Gòn
trong giai đoạn từ 1925 đến 1950
Political struggles of workers in Saigon Port from 1925 to 1950
PGS.TS. Nguyễn Đức Hòa
Trường Đại họ n
Nguyen Duc Hoa, Assoc.Prof.,Ph.D.
Saigon University
Tóm tắt
Cảng Sài Gòn là một hệ thống cảng trên sông Sài Gòn, gồm Bason v thương ảng v nó đóng va tr
quan trọng trong hính sá h xâm lược và khai thác thuộ địa của thực dân Pháp từ 1860 đến 1954. Số
lượng công nhân bến cảng g a tăng nhanh hóng ùng với quá trình đô thị hóa Sài Gòn-Chợ Lớn và sự
phát triển của Cảng Sài Gòn. Cuộ bã ông Ba on v o năm 1925 thắng lợi là mố đánh dấu sự trưởng
thành vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam, ũng như ủa công nhân Cảng Sài Gòn. Các cuộ đấu
tranh của công nhân Cảng n đóng va tr quan trọng trong phong trào cách mạng ở Sài Gòn-Chợ
Lớn trong g a đoạn từ 1925 đến 1950.
Từ khóa: Cảng Sài Gòn, t , khai thác thu địa, công nhân, giai cấp công nhân, cu c
đấu tranh, bãi công Ba Son.
Abstract
Saigon Port is a network of ports located on the bank of Saigon River, consisting of Bason shipyard and
ommer al ports. It played an mportant role n the Fren h’s nvas on and olon al e onom
exploitations of Vietnam from 1860 to 1954. The development of Saigon Port, accompanied with the
urbanization of Saigon-Cholon, rapidly expanded the number of port workers. The victorious Bason
Strike in 1925 marked an impressive growth of the working class in Vietnam. Later struggles of the
working class in Saigon Port contributed significantly to the revolutionary movements in Saigon-
Cholon from 1925 to 1950.
Keywords: Saigon Port, French domination, colonial exploitation, workers, working class, struggles,
Bason Strike.
1. Đặt vấn đề
Sài Gòn có vai trò rất quan trọng đối
với Nam Bộ do vị trí địa – chính trị, địa –
quân sự trọng yếu, ũng như địa – kinh tế
vô cùng thuận lợ , trong đó Cảng Sài Gòn
l đầu mối thương mại, và là cửa ngõ nối
á on đường hàng hải trên Biển Đông ra
với thế giới bên ngoài. Nằm ở giữa trung
tâm của thành phố, Cảng Sài Gòn từ lâu
giữ vai trò là trung tâm phục vụ kinh tế
thương mại giữa các khu vực và quốc tế.
Nghiên cứu cuộc đấu tranh của công nhân
Cảng Sài Gòn luôn là những vấn đề cần
thiết, vừa có tính lý luận, vừa mang ý nghĩa
13
khoa học và thực tiễn giúp chúng ta hiểu
biết sâu hơn về cuộ đấu tranh của độ ngũ
công nhân Sài Gòn trong lịch sử.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong
tr o đấu tranh của công nhân luôn giữ vai
trò quan trọng và giữ vị trí trung tâm trong
các cuộ đấu tranh xã hội ở cá đô thị vốn
luôn gắn với hoạt động ông thương
nghiệp và dịch vụ. Nghiên cứu về công
nhân Cảng Sài Gòn giúp chúng ta hiểu sâu
hơn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Sài Gòn-Chợ Lớn và giai cấp công
nhân Việt Nam nói chung trong cuộ đấu
tranh giành độc lập dân tộc.
2. Nội dung
2.1. Sự hình thành đội ngũ công nhân
Cảng Sài Gòn
Công nhân Việt Nam là lự lượng xã
hội mới quan trọng ra đời trong công cuộc
khai thác thuộ địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp. Trước chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, đội ngũ công nhân Việt Nam có
mới khoảng 10 vạn người, nhưng đến năm
1929 đã lên tớ 221.050 người [13, tr.234].
Phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân
lao động bị bần cùng hóa, phần còn lại từ
những người thợ thủ công, tiểu thương,
tiểu chủ bị phá sản bổ sung vào các nhà
máy, hầm mỏ, đồn đ ền.
Từ khi Nam kỳ bị thực dân Pháp
chiếm thành thuộ địa, kinh tế Nam kỳ, đặc
biệt là kinh tế thương mại phát triển rất
mau chóng. Nam kỳ đứng h ng đầu Đông
Dương về sản lượng hàng hóa xuất khẩu,
chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp.
Ng nh thương ngh ệp ở Nam Kỳ có sự
chuyển biến nhanh chóng nhất là ngoại
thương, thông qua Cảng Sài Gòn.
Do sự đầu tư ủa nh nước thực dân và
nhiều hãng vận tải Pháp, Cảng Sài Gòn
thành một cảng lớn, được chia làm hai
phần: quân cảng v thương cảng [1].
Quân cảng được hình thành từ khi
Pháp dời dân công giáo (theo linh mục
Lefèbre từ Đ Nẵng vào) từ Vàm Thị Nghè
về phía cầu Bông, để có chỗ xây dựng
xưởng sữa chữa tàu được gọi là Ba Son [6,
tr.258]. Quân cảng dài khoảng 600m, từ
nhà máy Ba Son tớ ông trường Mê Linh
ngày nay (hồ đó gọi là bến cảng Quai
Primauguet). Hải quân Pháp cho xây dựng
và mở rộng thủy xưởng xưa ủa Nguyễn
Ánh (khu vực Ba Son), và biến ông xưởng
hải quân này thành một ăn ứ để sửa chữa
v đóng mới tàu phục vụ cho công cuộc
xâm lược và khai thác thuộ địa.
Thương ảng Sài Gòn trải dài từ công
trường Mê L nh (R gault de enou lly) đến
đầu cầu Khánh Hội (Quai Francis Garnier).
Bến Nhà Rồng bên Khánh Hộ ũng thuộc
thương ảng v o như nối tiếp thương
cảng. Dù chỉ có chiều d hơn 600m, song
Thương ảng Sài Gòn có tớ 6 đại lộ châu
đầu vào bến; ó ha đường xe lửa và xe
đ ện, nhà ga ở gần kề và rất thuận tiện cho
mọi hoạt động phục vụ xuất nhập cảng
hàng hóa.
Theo tác giả Charles Lemire, Cảng Sài
Gòn bắt đầu hoạt động từ ngày 22-2-1860
để xuất nhập khẩu mọi loại hàng hóa [14,
tr.66]. Ngay trong năm 1860, 246 h ếc tàu
chở đ khoảng 54.000 tonneaux, giá trị
khoảng 5 triệu quan Pháp [6, tr.260]. Việc
mở rộng các hoạt động xuất khẩu lúa gạo
và nông sản của tư bản Pháp đã thu hút và
l m g a tăng đáng kể số lượng người lao
động trên bến cảng Sài Gòn.
Thương ảng Sài Gòn từ lúc được Hải
quân Pháp cho mở cửa trở lại (22-2-1860)
gắn liền vớ vùng đất Xóm Chiếu - Khánh
Hội thuộ a Định xưa (Quận 4 ngày
nay), dần dần quy tụ nhiều dân lao động
đến đây l m ăn, ư ngụ. Trong hai cuộc
khai thác thuộ địa của thực dân Pháp, quy
14
mô hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua
Cảng Sài Gòn ngày càng lớn, nên ngày
càng thu hút đông đảo lự lượng lao động
làm thuê, nhất là phu khuân vác hàng hóa
trên bến cảng. Họ l ngườ địa phương v
l dân ư khu vực khác tới bến cảng làm
việ để kiếm sống. Những ngườ lao động
này chính là lự lượng bổ sung vào độ ngũ
công nhân Cảng Sài Gòn ng y ng đông
đảo sau này.
Ở Sài Gòn, bên cạnh những công nhân
làm việc trong xí nghiệp công nghiệp hoặc
làm việc trong các nhà máy xay xát phục
vụ xuất cảng gạo, ông nhân ơ khí trong
quân cảng Ba on v.v hình th nh một
á h tương đối tập trung, còn số lượng lớn
ông nhân phân tán như ông nhân vận tải,
công nhân khuân vác ở các bến cảng Sài
n. Cũng phải kể tới những người thợ,
viên chức làm việc trong các công ty
thương mại lớn nhỏ l ên quan đến hoạt
động của Thương ảng Sài Gòn hoặc số
lượng không nhỏ công nhân làm việc trên
hàng vạn chiếc thuyền ở những con sông,
kênh rạch Nam Kỳ và hệ thống giang cảng
Chợ Lớn.
Cảng Sài Gòn càng phát triển thì càng
quy tụ đông đảo lự lượng ông nhân đến
Sài Gòn làm việc và sinh sống. Trong hai
cuộc khai thác thuộ địa của thực dân
Pháp, thành phần đ ều hành hoạt động của
Thương ảng Sài Gòn chủ yếu l người
Pháp, bảo đảm độc quyền ho tư bản Pháp
[17]. Sự thịnh vượng của đô thị Sài Gòn
vốn gắn liền với các hoạt động thương mại
của Cảng Sài Gòn, đã đem lại lợi nhuận
kế h xù ho tư bản Pháp, nhưng lại tạo ra
sự bần ùng hóa đông đảo các tầng lớp,
giai cấp lao động. Cuộc đấu tranh của công
nhân Cảng Sài Gòn ũng l một bộ phận
trong á phong tr o yêu nước của nhân
dân Sài Gòn – Chợ Lớn chống lại áp bức,
bóc lột và bất công xã hội.
Do khu vực cảng Sài Gòn tập trung
đông đảo ông nhân, ngườ lao động và là
thương khẩu lớn nhất Đông Dương đón t u
thuyền á nước khắp nơ trên thế giới cập
bến, nên các luồng tư tưởng mới của thời
đại, nhất là tư tưởng cách mạng bên ngoài
được truyền bá nhanh chóng, hấp dẫn
nhiều ngườ yêu nướ , trong đó ó người
thanh n ên yêu nước Nguyễn Tất Thành.
2.2. Sự kiện Nguyễn Tất Thành rời
bến cảng Sài Gòn đi ra nước ngoài tìm
đường cứu nước
Với sự hấp dẫn của tư tưởng Cách
mạng tư sản Pháp 1789, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Th nh đ sang Pháp
v á nước phương Tây để tìm xem những
gì ẩn dấu đằng sau những từ “tự do, bình
đẳng, bác ái” [21, tr.11]. Qua sự g úp đỡ
của cụ Nghè Trương a Mô, Nguyễn Tất
Th nh v o n v đến ư ngụ tại nhà
ông Lê Văn Đạt (là anh em họ với cụ Nghè
Trương a Mô) ở xóm cầu Rạch Bần (nay
l 185/1 đường Cô Bắc, Q1, Tp.HCM) [9,
tr.72]. au đó cụ Trương a Mô giới thiệu
anh Thành tớ ơ sở của Liên Thành phân
cu c tạ đường Paul Téstra, Chợ Lớn (nay
l đường Châu Văn L êm, Q5, Tp.HCM).
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên
l Văn Ba đã lên tàu Amiral Latouche
Tréville rời bến cảng Sài Gòn, sang Pháp
“xem họ l m như thế nào rồi trở về giúp
đồng b o húng ta” [8, p.21]. Văn Ba -
Nguyễn Tất Thành một mình dũng ảm
dấn thân vào cuộ h nh trình đầy chông
ga , để đ tìm on đường cứu nước cho dân
tộc Việt Nam.
Khi Nguyễn Tất Th nh đến Sài Gòn,
Thương ảng n đang được mở
rộng, phát triển. Thương ảng Sài Gòn có
5 cầu t u, trong đó ó ầu tàu vận tải
đường sông (thuộc hãng Messagerries
15
fluriales), cầu tàu Canton và cầu tàu lớn
thuộc hãng Năm Sao (Chargeurs Réunis)
nằm trên khu vực Quai Le Myre de Vilers
(nay là bến Bạ h Đằng, Q1). Cảng Nhà
Rồng thuộc Q4 ngày nay là của hãng
Messagerries Maritimes (hiện đang l bảo
tàng Hồ Chí Minh); cầu tàu của hãng Năm
Sao dành cho những con tàu viễn dương
của hãng nằm gần đầu đường Charner
(Nguyễn Huệ ngày nay).
Nguyễn Tất Thành lấy tên l Văn Ba
ra đ trên on t u Amiral Latouche Tréville,
là một trong 7 on t u thương mại của
hãng Năm ao huyên hở thường kỳ giữa
Pháp v Đông Dương từ năm 1901 [18,
tr.86]. Tàu Amiral Latouche Tréville (công
suất 2.800 mã lực) do xưởng đóng t u La
Lo re (vùng a nt Naza re) đóng, hạ thủy
vào 21-9-1903 v đăng ký tại cảng La
Havre năm 1904. Tàu Amiral Latouche
Tréville từ Hải Phòng cập bến cảng Sài
Gòn vào ngày 2-6-1911, có tải trọng 3.572
tấn, đ ều khiển là thuyền trưởng Maisen
với thủy thủ đo n gồm 69 người [7]. Ngày
3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với tên ăn
ước mới là Văn Ba xuống tàu làm phụ
bếp. Ngày 5-6-1911, tàu Amiral Latouche
Tréville nổ neo, theo lịch hành trình đến
cảng Singapore (8-6-1911), Colombo (14-
6-1911), Said, Ai Cập (30-6-1911) v đến
cảng Marseille (6-7-1911). Chiếc tàu
Amiral Latouche Tréville xuất bến vào
ngày 5-6-1911 chở theo người phụ bếp
Văn Ba (Nguyễn Tất Thành) bước vào
cuộc hành trình d đầy sóng gió, gian nan,
thử thách.
Sự kiện Nguyễn Tất Thành rời bến
cảng n ra đ tìm đường cứu nước có
ảnh hưởng quan trọng tới sự truyền bá chủ
nghĩa Má – Lênin và sự phát triển của
công nhân Cảng n, ũng phong trào
công nhân Việt Nam sau này.
2.3. Cuộc đấu tranh của công nhân
Cảng Sài Gòn trong phong trào cách mạng
của nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn
Chính sá h đầu tư, đẩy mạnh khai thác
thuộ địa của thự dân Pháp đã đưa lại
những kết quả khách quan ngoài ý muốn
của chúng. Nó tạo sự tập trung và sự phát
triển nhanh chóng cả về chất lượng và số
lượng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp ông nhân đã trưởng th nh, đủ
khả năng lãnh đạo các phong tr o đấu tranh
yêu nước. Ngay năm 1912, xuất hiện
phong tr o đấu tranh của công nhân Ba
Son kết hợp với bãi khóa của học sinh
trường Bách Nghệ n ó Tôn Đức
Thắng tham gia [13, tr.126].
Người công nhân bến cảng Sài Gòn bị
tư bản Pháp v tư sản mại bản bóc lột rất
nặng nề, cuộc sống lam lũ hẳng khác nô
lệ, nên họ sớm đứng lên đấu tranh dưới
nhiều hình thức chống lại bóc lột và áp bức
giai cấp. Sống v lao động tập trung trong
sản xuất công nghiệp đã rèn luyện cho
người công nhân Cảng Sài Gòn tinh thần
đo n kết, ý thức tổ chức và kỷ luật, giúp
kết thành một khối thống nhất. Giai cấp
ông nhân đã bướ đầu giác ngộ về vị trí
và vai trò của mình [15, tr.446] v đ ều đó
được thể hiện qua nhiều hình thứ đấu
tranh vì quyền lợi của giai cấp, hình thức
phổ biến nhất là bãi công.
Hình thứ đấu tranh của của công nhân
từ thấp lên cao, từ đấu tranh bỏ việc phá
giao kèo tiến lên đánh lại bọn a ký, đốc
công gian ác hoặc biểu tình tập thể v đưa
yêu sách chung lên giới chủ. Bãi công là
hình thứ đấu tranh hợp pháp của công
nhân vì quyền lợi dân sinh, dân chủ trong
g a đoạn này.
Năm 1919, ông nhân, thủy thủ tàu
á nơ đậu ở cảng Hả Ph ng đấu tranh đ
tăng lương. Trong uốn Bản án chế đ thực
16
dân Pháp, Nguyễn Ái Quố ó nó đến
thắng lợi của cuộc bãi công của công nhân,
thủy thủ tàu Sascno (Sharnhort) tại cảng
Hải Phòng (15/8/1919) và những ảnh
hưởng dây chuyền của nó tới cuộ đấu
tranh diễn ra tại cảng Sài Gòn. Nguyễn Ái
Quốc cho rằng phong tr o đấu tranh của
thủy thủ Pháp đã ó ảnh hưởng tích cực
đến phong tr o đấu tranh của giai cấp công
nhân Việt Nam [5]. Phản ánh cùng nội
dung như vậy, tờ báo Pháp L’O n on (ra
ngày 3-2-1920) cho biết từ sau vụ bãi công
của tàu Sharnhort, mỗi lần có tàu ra vào hai
bến cảng Đông Dương ( ảng Hải Phòng và
cảng n) đều có sự đấu tranh của
công nhân và thủy thủ.
Tháng 3-1920, hơn 200 thủy thủ Pháp
200 công nhân, thủy thủ trên các con tàu
Sharnhorst, Mannehein, Mèrès, Afèna,
Brasgayia, Meidenfels, Amiral ở cảng Sài
n bã ông đ tăng phụ cấp sinh hoạt.
Cuộ đấu tranh ó tá động, ảnh hưởng
không nhỏ tới sự tập hợp lự lượng đấu
tranh mang tính tổ chức của công nhân,
viên chức tại bến cảng n. Năm 1921,
một số công nhân Việt Nam làm việc trên
các hãng tàu Pháp gia nhập L ên đo n ông
nhân tàu biển ở Viễn Đông. Kh t u v o
bến cảng n, ông nhân đấu tranh đ
phụ cấp đắt đỏ; lúc có việ đưa b nh lính
Việt Nam sang Xyri, công nhân phản đối,
ủng hộ phong trào giải phóng Xyri, quyên
góp lương thực hỗ trợ cho cuộ đấu tranh
thắng lợi của thủy thủ Pháp. Đó l những
cuộ đấu tranh có ý thức, tổ chức và quy
mô ngày càng lớn [13, tr.280]. Phong trào
đấu tranh của công nhân, thủy thủ tại cảng
Hải Phòng và cảng Sài Gòn có phạm vi
rộng lớn, kéo dài liên tục trong thời gian từ
1919 đến 1921.
Từ năm 1920 đến 1927, cảng Sài Gòn
là một trong những cửa ngõ quan trọng để
Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng
khác chuyển sách báo, tài liệu cách mạng,
ũng như truyền bá chủ nghĩa Má - Lênin,
tư tưởng cách mạng vô sản tới công nhân
Cảng Sài Gòn, và các lự lượng yêu nước
ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Đến năm 1920, Tôn
Đức Thắng từ Pháp trở về xưởng Ba Son
thành lập Công hộ đỏ, một tổ chức chính
trị theo xu hướng vô sản đầu tiên của công
nhân Sài Gòn – Chợ Lớn. Theo thống kê
của thự dân Pháp đã ó 25 uộc bãi công
của công nhân Việt Nam trong g a đoạn từ
1920 đến 1925 [10, tr.306]. Một số cuộc
bãi công của công nhân Sài Gòn diễn ra
dưới ảnh hưởng của tổ chức Công hội do
Tôn Đức Thắng thành lập. Công hội nhanh
chóng phát triển ơ sở, thâm nhập vào công
nhân Cảng Sài Gòn và công nhân các nhà
máy, xí nghiệp trên địa bàn Khánh Hội.
Các cuộc bãi công của công nhân Sài
Gòn nổ ra giữa lúc tình hình trong nước và
thế giới diễn ra nhiều sự kiện sô động. Tác
động đến độ ngũ ông nhân ảng Sài Gòn
l phong tr o đấu tranh của tư sản dân tộc
chống độc quyền cảng Sài Gòn. Nhằm độc
chiếm thị trường Đông Dương, năm 1923,
Hộ đồng thuộ địa Nam Kì đã quyết định
trao quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn
cho một công ty Pháp. Giai cấp tư sản và
địa chủ lớn ở Nam Kì đã kịch liệt phản đối,
dùng báo chí hoặc các cuộc mít tinh công
kha đấu tranh để giành quyền kinh doanh
ở cảng Sài Gòn. Cuộ đấu tranh n y đã
được các tầng lớp nhân dân và công nhân
n đồng tình, ủng hộ v đã ó t ếng
vang tớ nước Pháp. Vì thế, chính quyền
thực dân ở Đông Dương buộc phải hoãn thi
h nh độc quyền cảng Sài Gòn cho công ty
Pháp trên.
Từ giữa 1925, phong tr o yêu nước và
dân chủ của các tầng lớp nhân dân trong
nướ ó xu hướng ngày càng lan rộng.
17
Phong tr o ông nhân ó bước phát triển
nhảy vọt, xuất hiện nhiều cuộ đấu tranh có
quy mô lớn, bướ đầu có tổ chứ lãnh đạo.
Tiêu biểu là cuộc bãi công của 1.000 công
nhân Ba on ( n) dưới sự lãnh đạo
của tổ chức Công hộ Đỏ do Tôn Đức
Thắng đứng đầu.
Vào tháng 8-1925, những chiến hạm
Pháp gồm Jules Ferry, Le Maine do chiếc
chiến hạm Jules Michelet chỉ huy vừa từ
Pháp đến Sài Gòn và phả đưa v o sửa gấp
ở Ba on để đ đ n áp phong tr o á h
mạng ở Quảng Châu, Trung Quố . Để thực
hiện mục tiêu chính trị là giam chân chiếc
soái hạm Jules Michelet, và những tàu
chiến khác của Hải quân Pháp, tỏ tình đo n
kết với nhân dân và phong trào cách mạng
Trung Quố , anh em ông nhân Ba on đã
đứng lên đấu tranh dưới hình thức bãi công
hợp pháp. Công nhân đ hủ Pháp thỏa
mãn các yêu sách kinh tế, đ húng thu
nhận lại những thợ bị sa thải và giữ nguyên
lệ nghỉ nửa giờ trướ kh lãnh lương (nghỉ
vào 17 giờ như trước thay vì làm việc tới
17 giờ 30).
Ngày 4-8-1925 toàn thể công nhân Ba
Son nhất loạt nghỉ việc. Công hội Sài Gòn
đã tổ chức quyên góp ủng hộ những người
bãi công. Cuối cùng chủ Pháp phả nhượng
bộ, chịu tăng lương 10% ho ông nhân v
trả lương ho những ngày công nhân nghỉ
việc tham gia bãi công. Ngày 12-8-1925
công nhân trở lại làm việc, nhưng họ vẫn
lãn ông để kéo dài thời gian sửa chữa tàu
Jules Michelet tới tận ngày 28-11-1925
mới xong [2]. Những người công nhân Ba
on đã tìm mọi cách ngăn trở, làm cho
những con tàu của Hải quân Pháp chậm trễ
trong việc chở b nh lính v vũ khí sang đ n
áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc bãi công
Ba Son được công nhân viên chức các nhà
máy, công sở toàn thành phố Sài Gòn
hưởng ứng và ủng hộ.
Cuộ đấu tranh của công nhân Ba Son
năm 1925 đã đánh dấu bước ngoặt của
phong trào công nhân Việt Nam, chuyển
dần lên trình độ tự giác. Cuộc bãi công có
tổ chứ , lãnh đạo thống nhất, liên kết với
phong tr o đấu tranh khác và yêu sá h dưới
hình thứ đ hỏi quyền lợi kinh tế, nhưng
mục tiêu chính trị mới là chủ yếu.
Cuộc bãi công Ba Son năm 1925 đánh
dấu một bước chuyển biến quan trọng
trong phong tr o đấu tranh của giai cấp
công nhân Sài Gòn: có kết hợp đấu tranh
kinh tế v đấu tranh chính trị. Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản đã nh ệt liệt biểu dương
tinh thần quốc tế vô sản của “ ông nhân Ba
on đã bã ông không hịu sửa chữa chiếc
t u Jules M helet m đế quốc Pháp dùng
để đ t n sát nhân dân Trung Quố ” [20,
tr.38]. Cuộc bãi công của công nhân Ba
Son 8-1925 là mố đánh dấu giai cấp công
nhân Việt Nam trưởng th nh v bước lên
vũ đ hính trị.
Vào tháng 7/1929, Đông Dương ng
sản Đảng đã ử á đồng chí Ngô Gia Tự
(tức Bách), Hoàng Quốc Việt (tức Hạ Bá
Cang), Lê Văn Lương, Nguyễn Trọng Nhã,
Võ Phong v o n để phát triển phong
trào Công hộ đỏ và phát triển đảng viên
của Đảng. Cảng Sài Gòn tập trung đông
ông nhân l nơ đượ Đông Dương Cộng
sản Đảng chọn để xây dựng và phát triển
đảng viên mới cho tổ chức của mình. Thủy
thủ Phan Đức là một trong những đảng
v ên đầu tiên của Đông Dương Cộng sản
Đảng ở Cảng Sài Gòn [19, tr.25].
An Nam C ng sản Đảng ở Nam Kỳ
(do đồng hí Châu Văn L êm l m Bí thư)
đã xây dựng được chi bộ ở các nhà máy có
nhiều ông nhân, trong đó ó h bộ ở
Cảng Sài Gòn, và một số nhà máy ở Khánh
Hộ như nh máy FACI. Đến cuố năm
18
1929, cả Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng đều có chi bộ ở
Cảng Sài Gòn. Cảng Sài Gòn và Khánh
Hội là một trong những nơ ó tổ chức
Công hộ đỏ và tổ chứ đảng hoạt động vào
loại sớm nhất ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
An Nam Cộng sản Đảng đã lập trạm
giao liên ở chợ Xóm Chiếu - Khánh Hội.
Đây l địa đ ểm khá thuận lợ để tiếp nhận
các tài liệu, sách báo cách mạng từ nước
ngoài chuyển về nước qua Cảng Sài Gòn.
Lý Tự Trọng -người được Nguyễn Ái
Quốc giáo dục, bồ dưỡng, đã trở thành
một đảng viên của An Nam Cộng sản
Đảng. Anh hính l người phụ trách trạm
giao liên Xóm Chiếu, một ơ sở có tầm
quan trọng đặc biệt đối với sự truyền bá tư
tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và
truyền bá chủ nghĩa Má - Lênin vào Nam
Kỳ. Sau Hội nghị hợp nhất các tổ chức
Cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (từ 6/1/1930 đến 7/2/1930), ở Sài
Gòn lúc này có khoảng 20 chi bộ với tổng
số Đảng viên khoảng 130 người. Chi bộ
Cảng n do đồng chí Hồ Ba làm Bí
thư, n Lý Tự Trọng l Đảng viên sinh
hoạt trong chi bộ này [19, tr.26-27].
Phong tr o đấu tranh công khai rộng lớn
đầu tiên của công nhân Cảng Sài Gòn và
công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn tham gia là
phong tr o Đông Dương Đại hội. V o năm
1936, Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp lên
nắm quyền, thi hành một số chính sách dân
chủ tiến bộ, chuẩn bị ho đo n sang Đông
Dương đ ều tra vi phạm dân chủ của chính
quyền thực dân Pháp ở thuộ địa. Những
tháng đầu năm 1937 đánh dấu một bước
phát triển mới phong trào đấu tranh của công
nhân bến cảng và công nhân Sài Gòn - Chợ
Lớn. Từ Cầu Quay, tớ đường Charner, cho
đến khu vực bên trong Nhà Rồng, công nhân
Cảng n đã h a mình trong uộc mít
tinh, biểu dương lự lượng của hàng vạn
nhân dân Sài Gòn nhân dịp Giuýtxtanh
Gôda (Justin Godard) phái viên của Chính
phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang Việt Nam
đ ều tra tình hình ở Đông Dương. Tổ chức
Đảng Cộng sản Đông Dương ở Cảng Sài
n đã phát động và tổ chức cho công nhân
và các tầng lớp nhân dân thu thập nguyện
vọng tự do, dân chủ thông qua các Ủy ban
àn đ ng gửi cho Mặt trận nhân dân Pháp-
hiện đang nắm quyền.
Công nhân Cảng Sài Gòn và nhân dân,
lao động Sài Gòn tham gia vào cuộ đón
viên Toàn quyền mới Brêviê (J.Brévié) với
quy mô còn to lớn hơn cuộ đón t ếp phái
viên Giuýtxtanh Gôda (hai tuần trướ đó).
Công nhân tham gia với những khẩu hiện
đấu tranh chính trị, đ dân s nh, dân hủ:
hoan nghênh Mặt trận nhân dân, đ tự do
dân chủ, tự do lập công hội, thi hành luật
lao động, bỏ thuế thân, tố cáo bọn thực dân
gian ác ở thuộ địa, đ ân xá hoàn toàn
cho các chính trị phạm
Trong g a đoạn từ 1930 đến 1937,
phong tr o đấu tranh đ tự do dân chủ của
lao động và các tầng lớp nhân dân Sài Gòn
diễn ra mạnh mẽ với các hình thức công
khai, hợp pháp như mít t nh, bã ông, bãi
khóa, biểu tình, đưa k ến nghị, bãi thị.
Công nhân Cảng n đã tham g a v o
các cuộc mít tinh lớn cùng với sự tham gia
đông đảo của công nhân, nông dân, tiểu
thương, t ểu chủ, trí thức, thanh niên, phụ
nữ Sài Gòn bằng các khẩu hiệu đ tự do
lập nghiệp đo n, lập h i Ái hữu, đ tr ệt để
thi hành luật lao động, tăng t ền lương,
giảm sưu thuế, chống chiến tranh đế quốc
và ủng hộ hoà bình.
Trong suốt hai tháng đầu năm 1940,
các chi bộ ở bến Cảng Khánh Hộ đã tổ
chứ được 5 cuộc bãi công của công nhân.
Đầu năm 1945, nổi lên phong trào đấu tranh
19
của công nhân Cảng Sài Gòn đ dân s nh,
dân chủ vớ á yêu sá h đ tăng lương v
cải thiện đ ều kiện làm việc trên bến cảng.
Cuộ đấu tranh của công nhân bến cảng đã
thu hút sự tham gia của 10.000 công nhân ở
khu vực Khánh Hội [4, tr.114].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương v V ệt M nh, phong tr o đấu
tranh cách mạng ở Sài Gòn ngày càng lôi
cuốn sự tham g a đông đảo của công nhân,
học sinh, sinh viên, giới trí thức và tầng lớp
tiểu tư sản. Các tổ chức Công nhân cứu
quốc đã phát tr ển tại khắp các xí nghiệp,
bến cảng. Bên cạnh các cuộ đấu tranh vì
quyền lợi dân sinh dân chủ, công nhân phá
hoại sản xuất của địch, chế tạo vũ khí ho
Việt Minh; lấy súng đạn của quân đội Nhật
Bản gửi lên chiến khu cách mạng; hoặc
tham gia in tài liệu, rải truyền đơn, phân
phát báo chí cách mạng. V o năm 1941,
khi máy bay Nhật dội bom vào Sài Gòn thì
500 công nhân Xóm Chiếu và cảng Sài
n đã xuống đường bãi công [22].
Để chuẩn bị lự lượng cho khở nghĩa
giành chính quyền ở Sài Gòn, Xứ ủy Nam
Kỳ có cách tập hợp quần chúng một cách
hợp pháp, nhanh chóng và độ đáo, lợi dụng
người ngay trong tổ chức Thanh niên
tiền phong do Nhật Bản lập ra (26-5-1945)
[11, tr.298]. Công nhân cảng Sài Gòn tích
cực tham gia trong tổ chức Tự vệ xung
phong và Thanh niên tiền phong và bao vây
các công sở, Bót Thương Khẩu, Bót số 6.
au kh g nh được chính quyền ở Khánh
Hội, hàng ngàn công nhân bến Cảng Sài
Gòn đã tham g a khở nghĩa ướp chính
quyền, góp phần vào thắng lợi của cách
mạng tháng Tám ở Sài Gòn vào 25-8-1945.
Khi quân Pháp gây hấn và quay trở lại
xâm lược Nam Bộ (9-1945), công nhân bến
cảng Sài Gòn sát cánh cùng với nhân dân
Sài Gòn - Chợ Lớn và toàn dân Nam Bộ đã
kịp thờ đứng lên chiến đấu, mở đầu cho
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, bảo vệ nền độc lập non trẻ của
Tổ quốc.
Từ 23-9-1945 ho đến cuố năm 1945,
cùng với nhân dân n đứng lên kháng
chiến, giữ vững lời thề độc lập “ ho Tổ
quốc quyết s nh”, công nhân Cảng Sài Gòn
đã tham gia chiến đấu kìm chân quân xâm
lược Pháp, góp phần làm thất bại kế hoạch
của chúng nhằm đánh nhanh, thắng nhanh,
đánh lan rộng ra các khu vực xung quanh
Sài Gòn. Các chiến sĩ lự lượng vũ trang ở
n đã đột nhập sân bay Tân ơn Nhất,
đốt kho tàng, phá nhà giam. Chiếc tàu Pháp
Aléc vừa cập bến cảng Nhà Rồng bị đốt
háy v o đêm 15-10-1945 [12, tr.35]. Công
nhân Cảng Sài Gòn gia nhập v o á đội
cảm tử quân chặn đánh quân Pháp trên địa
bàn quanh bến cảng (ở Bót số 6, Bót
Thương Khẩu và ở cầu Mácmahông).
Hưởng ứng L i kêu gọi toàn dân
kháng chiến của Đảng (12/12/1946), và L i
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ
tịch (19/12/1946), công nhân Sài Gòn và
công nhân Cảng n đã tích cực tham
gia phá hoại kinh tế và hậu cần của quân
viễn chinh Pháp. Trong những năm 1947 –
1948, công nhân Cảng n đã đốt cháy
60 bành vải, 250.000 tấn mủ cao su, tiêu
hủy 478 thùng rượu v.vvà phá hoại
nhiều vật tư hậu cần của quân đội Pháp ở
bến cảng.
Công nhân Cảng Sài Gòn đã tham gia
vào phong tr o đấu tranh chính trị và yêu
nước của công nhân và sinh viên, học sinh
Sài Gòn diễn ra từ cuố năm 1949 đầu năm
1950. Trong hai tháng 12/1949 và 1/1950 ở
n đã nổ ra 21 cuộ đấu tranh của
công nhân [16, tr.93]. Phong tr o đấu tranh
của Công nhân Cảng Sài Gòn là bộ phận
không tách rời các phong trào của công
20
nhân Sài Gòn-Chợ Lớn.
Công nhân Cảng Sài Gòn là một trong
những ngườ đầu tiên tham gia vào phong
tr o đấu tranh yêu nước của nhân dân Sài
Gòn-Chợ Lớn chống lại sự có mặt của can
thiệp Mỹ ở bến cảng Sài Gòn. Vào ngày
17-3-1950, Mỹ cho hai tàu chiến là
Anderson và Sticken đến Sài Gòn diễu võ,
dương oa , dự định thực hiện cuộc thao
diễn quân sự với hải quân Pháp. Khi hai
tàu chiến phóng lôi của Mỹ thả neo tại bến
cảng Sài Gòn, ngay lập tức lự lượng công
nhân Cảng Sài Gòn cùng hàng vạn nhân
dân Sài Gòn đã xuống đường, biểu dương
sức mạnh chống Mỹ. Lự lượng vũ trang
cách mạng bên bờ Thủ Th êm đã ảnh cáo
Mỹ bằng 20 quả súng cối nã trúng tàu Mỹ
đậu trên bến cảng n. Trước khí thế
đấu tranh của quần chúng cách mạng và
công nhân bến cảng Sài Gòn, ngày 19-3-
1950, hai tàu Mỹ không kèn không trống
cút khỏi bến cảng Sài Gòn [6, tr.371].
Như vậy, công nhân cảng và nhân dân
Sài Gòn là những ngườ đã đ đầu trong
cuộ đấu tranh chống can thiệp Mỹ và
ngày 19-3-1950 trở thành ngày toàn quốc
chống Mỹ của dân tộc Việt Nam!
Trang sử đấu tranh của công nhân bến
cảng Sài Gòn còn ghi dấu những cuộc biểu
tình của công nhân bến cảng Khánh Hội kỷ
niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5/1950 và
ngày sinh nhật Bác Hồ 19-5-1950.
3. Kết luận
Thự dân Pháp đã sớm cho mở cửa lại
Cảng Sài Gòn từ cuối thế kỷ XIX để phục
vụ cho mụ t êu xâm lượ , bình định Việt
Nam. Cảng Sài Gòn trở thành công cụ
quan trọng của nh nước thự dân v tư
bản Pháp trong quá trình xâm lược Sài Gòn
(1859-1860), tiến hành các cuộc khai thác
thuộ địa (1897-1929) và trở lại xâm lược
Việt Nam (1945-1954).
Sự phát triển của Cảng Sài Gòn dựa
trên biết bao mồ hô , nước mắt, công sức
của những ngườ lao động và công nhân
Cảng Sài Gòn. Cảng Sài Gòn càng phồn
thịnh bao nh êu, thì đời sống của người
công nhân Cảng Sài n ng ơ ực bấy
nhiêu. Sự bóc lột tố đa, b n rút cùng kiệt
sức lực ngườ lao động theo lối kinh tế vắt
sữa (economie de traite) của thực dân Pháp
ng l m tăng mâu thuẫn đối kháng và
cuộ đấu tranh gay gắt giữa chúng với các
tầng lớp xã hội, nhân dân lao động ở Sài
Gòn-Chợ Lớn nói chung và công nhân
Cảng Sài Gòn nói riêng.
Trong quá trình phát triển, Cảng Sài
n đã quy tụ độ ngũ ông nhân đông đảo
và họ sớm có tinh thần chống áp bức giai
cấp, tham g a v o á phong tr o đấu tranh
yêu nước và cách mạng chống lại giới chủ
tư bản và thực dân Pháp xâm lược. Tư bản
Pháp v tư sản mại bản là kẻ thù dân tộc và
đồng thời là kẻ thù của giai cấp công nhân
Sài Gòn-Chợ Lớn nói chung, công nhân
Cảng Sài Gòn nói riêng. Cuộ đấu tranh
của độ ngũ ông nhân Cảng Sài Gòn diễn
ra không chỉ vì quyền lợi giai cấp mà còn
vì các tầng lớp, giai cấp cần lao Sài Gòn-
Chợ Lớn dưới thời Pháp thuộc.
Sự kiện ngườ thanh n ên yêu nước
Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Sài Gòn,
ra đ tìm đường cứu nước (5-6-1911) trở
thành mốc son, mở ra g a đoạn đấu tranh
theo on đường cách mạng vô sản của giai
cấp công nhân Việt Nam, công nhân Sài
Gòn nói chung và công nhân Cảng Sài Gòn
nói riêng.
Phong tr o đấu tranh của những người
công nhân bến cảng Sài Gòn đã góp phần
tạo nên truyền thống đấu tranh cách mạng
hào hùng của giai cấp công nhân Sài Gòn-
Chợ Lớn, đóng góp vào thành công của sự
nghiệp đấu tranh g nh độc lập.
21
Nghiên cứu về phong tr o đấu tranh
của công nhân Cảng Sài Gòn góp phần
đánh g á đúng hơn vị trí của độ ngũ ông
nhân cảng trong kinh tế thương mại, ũng
như va tr to lớn của họ trong cuộ đấu
tranh yêu nướ v o g a đoạn lịch sử này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Annuaire des États Associétes 1952, Paris,
1953.
2. Ban Lịch sử Cận hiện đại Việt Nam thuộc
Viện sử học Việt Nam (1974), M t số vấn
đề giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Lao
động, Hà Nội.
3. Cảng Sài Gòn quá trình hình thành và phát
triển, Nxb Trẻ, Tp.HCM, 2008.
4. Đảng Bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Quận 4
(2000), Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh
mản đấ on ngư i và truyền thống, Nxb
Trẻ, Tp.HCM.
5. Trần Văn u (1958), Giai cấp công nhân
Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Trần Văn u (1987), Địa í văn óa
Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 1: Lịch sử,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
7. ouvernement énéral de L’Indo h ne
(1911), Navigation de Port de Commerce de
Saigon, Narives presents sur rade, le 3 Juin
1911, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
8. Charles Fourniau (1970), Ho Chi Minh,
notre camarade, Introduction historique,
Éditions Sociales, Paris.
9. Nguyễn Đắc Hiền (1990), Cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, Sở VHTT Đồng Tháp.
10. Ngô Văn H a, Dương K nh Quốc (1978),
Giai cấp công nhân Việt Nam những năm
rước khi thành lậ Đảng, Nxb Lao động,
Hà Nội.
11. Nguyễn Đứ H a (2010), “ áng tạo của Xứ
ủy Nam Kỳ trong chuẩn bị lự lượng và
chớp thờ ơ lãnh đạo khở nghĩa g nh
chính quyền ở Sài G n tháng Tám 1945”,
Cách mạng tháng Tám ở Nam B , Nxb
ĐH P TP.HCM, tr.298.
12. Nguyễn Đức Hòa (2016), Giáo trình Lịch sử
Việt Nam từ 1945 đến 1975, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
13. Đ nh Xuân Lâm, hủ biên, (2003), Đại
ương Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
14. Charles Lemire (1870), La Cochinchine
francais, Royaume de Cambodge, Paris.
15. Hồ Chí Minh (1980), Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 1, NXB Sự thật Hà Nội.
16. Trần Thục Nga và nhiều tác giả (1987), Lịch sử
Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Hồ sơ 333, bản số
2, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II.
18. Nguyễn Phan Quang (1998), Gó êm ư
liệu Sài Gòn-G a Định (1859-1945), Nxb
Trẻ, Tp.HCM.
19. Lê Văn ơn (2008), “Từ phong trào Công
hộ đỏ đến tổ chứ Đảng đầu tiên ở Cảng
n”, Cảng Sài Gòn quá trình hình
thành và phát triển, Nxb Trẻ, Tp.HCM.
20. “Tham luận của đại biểu Đông Dương tại
Đại hội lần thứ 2 Quốc tế Cộng sản”,
17/8/1928, Tạp chí Học tập, số (2), 1961.
21. Trần Dân Tiên (1969), Những mẩu chuyện
về đ i hoạ đ ng của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn
học, Hà Nội.
22. Tư l ệu Phòng truyền thống Cảng Sài Gòn,
2008.
Ngày nhận bài: 01/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăng: 20/11/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 174_3273_2215225.pdf