Tài liệu Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những yêu cầu đặt ra trong đào tạo ở các trường Cao đẳng hiện nay - Nguyễn Văn Liên: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19
15
Email: vanliennguyenvn@gmail.com
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA
TRONG ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG HIỆN NAY
Nguyễn Văn Liên - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Ngày nhận bài: 10/01/2019; ngày sửa chữa: 18/01/2019; ngày duyệt đặng: 24/01/2019.
Abstract: The Industrial Revolution 4.0 is the one, that based on digital technology and integrates
all smart technologies in the field of physics and biology, the center is the development of artificial
intelligence (AI), Internet of things (IoT), big data, nanotechnology,... to optimize production
processes and methods. Achievements of the Fourth Industrial Revolution have created crucial
foundations for improving quality of education and training in general, and of training in the
colleges in particular. At the same time, this set new requirements for training in educational
institutions.
Keywords: Fourth Industrial Revolution, trainin...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những yêu cầu đặt ra trong đào tạo ở các trường Cao đẳng hiện nay - Nguyễn Văn Liên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19
15
Email: vanliennguyenvn@gmail.com
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA
TRONG ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG HIỆN NAY
Nguyễn Văn Liên - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Ngày nhận bài: 10/01/2019; ngày sửa chữa: 18/01/2019; ngày duyệt đặng: 24/01/2019.
Abstract: The Industrial Revolution 4.0 is the one, that based on digital technology and integrates
all smart technologies in the field of physics and biology, the center is the development of artificial
intelligence (AI), Internet of things (IoT), big data, nanotechnology,... to optimize production
processes and methods. Achievements of the Fourth Industrial Revolution have created crucial
foundations for improving quality of education and training in general, and of training in the
colleges in particular. At the same time, this set new requirements for training in educational
institutions.
Keywords: Fourth Industrial Revolution, training, colleges.
1. Mở đầu
Các trường cao đẳng (TCĐ) ở nước ta là những cơ sở
đào tạo giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong đào tạo
“nguồn nhân lực (NNL) có kiến thức, kĩ năng và trách
nhiệm nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo
đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kĩ thuật công nghệ của thị
trường lao động trong nước và quốc tế” [1]. Đặc biệt,
trong bối cảnh hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo,
đòi hỏi các nhà trường cần phải nhận thức đúng đắn về
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) và những
yêu cầu đặt ra trong đào tạo, từ đó làm cơ sở để có những
hành động, bước đi phù hợp nhằm đào tạo được NNL
đáp ứng tốt với yêu cầu của thực tiễn; phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu đào tạo và đặc điểm, điều kiện cụ thể của
từng nhà trường [2].
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu về
nguồn nhân lực trước thách thức trong thời kì mới
Có thể thấy, trong lịch sử, thế giới đã trải qua ba cuộc
CMCN với những bước phát triển nhảy vọt về khoa học,
công nghệ và làm thay đổi toàn diện về mọi mặt đời sống
con người cũng như sự phát triển của nhân loại. Hiện nay,
thế giới đang bước vào cuộc CMCN lần thứ Tư. Theo
Gartner, CMCN 4.0 xuất phát từ khái niệm “Industrie
4.0” trong một báo cáo của Chính phủ Đức năm 2013.
Industrie 4.0 kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất
thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ thuật số giữa công
nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.
Đề cập về vấn đề này, tác giả Klaus Schwab - Chủ tịch
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, trong Diễn đàn Kinh tế Thế
giới (WEF) lần thứ 46 với chủ đề “Cuộc cách mạng
Công nghiệp lần thứ 4” được tổ chức ngày 20/01/2016
tại thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ cho rằng cuộc
CMCN 4.0 là một thuật ngữ bao gồm một loạt các công
nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo.
Cuộc CMCN này được định nghĩa là một cụm thuật ngữ
cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi
giá trị đi cùng với các hệ thống vật lí trong không gian
ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch
vụ (IoS).
Trong lịch sử loài người, cho đến hiện nay đã trải qua
4 cuộc CMCN khác nhau. Nếu như cuộc CMCN đầu tiên
trên thế giới được bắt đầu ở nước Anh vào cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX với khâu đột phá là sử dụng năng
lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc
CMCN lần 2 được khởi xướng từ cuối thế kỉ XIX, kéo
dài đến đầu thế kỉ XX diễn ra nhờ ứng dụng điện năng
để sản xuất hàng loạt. Bên cạnh đó, những nguồn năng
lượng mới hết sức phong phú và vô tận như năng lượng
nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng
lượng thủy triều cũng được tìm ra để thay thế cho
nguồn năng lượng cũ. Cuộc CMCN lần 3 diễn ra vào
những năm 1970 với đặc trưng sử dụng điện tử và công
nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất thì bây giờ,
cuộc CMCN 4.0 đang nảy nở từ cuộc CMCN lần 3, nó
kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới
giữa vật lí, kĩ thuật số và sinh học. Bản chất của cuộc
cách mạng này là dựa trên nền tảng công nghệ số và sự
tích hợp các công nghệ thông minh trên lĩnh vực vật lí,
sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo
(AI), vạn vật kết nối (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), công
nghệ nano Cụ thể như: Trên lĩnh vực công nghệ sinh
học, cuộc CMCN 4.0 tập trung vào nghiên cứu để tạo ra
những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y
dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng
lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Trong lĩnh vực Vật lí,
cuộc cách mạng này đã nghiên cứu, chế tạo ra những
robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới
(graphene, skyrmions) và công nghệ nano đã và đang
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19
16
tạo điều kiện cho sản xuất thông minh được thực hiện
rộng rãi [3], [4].
Cuộc CMCN 4.0 có tốc độ đột phá chưa từng có trong
lịch sử, nó tạo ra những khả năng hoàn toàn mới, làm thay
đổi hầu hết các ngành công nghiệp ở mọi quốc gia, tác
động sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Khi so sánh
với các cuộc CMCN trước đây thì cuộc CMCN 4.0 đang
tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ
tuyến tính. Hơn nữa, nó đang làm biến đổi hầu hết ngành
Công nghiệp ở mọi quốc gia. Chiều rộng và chiều sâu của
những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ
hệ thống sản xuất, quản lí và quản trị. Đặc trưng cơ bản
của CMCN này là sự hợp nhất giữa các lĩnh vực công
nghệ, kĩ thuật số, sinh học để giải quyết những vấn đề KT
-XH, sự kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực, các hệ thống
kết nối Internet. CMCN 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ phương
thức sản xuất và phương pháp quản trị “các nhà máy thông
minh”, “công sở và thành phố thông minh” được kết nối
Internet, liên kết với nhau thành một hệ thống thay vì các
dây chuyền sản xuất và phương pháp quản trị hành chính
trước đây. Nhờ khả năng kết nối bằng máy tính, các thiết
bị di động tiếp cận với các cơ sở dữ liệu lớn từ nhiều
nguồn, những tính năng xử lí thông tin được nhân lên nhờ
những đột phá về công nghệ bằng trí tuệ nhân tạo, người
máy, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ điện
toán đám mây, công nghệ sinh học, công nghệ lượng tử,
công nghệ vật liệu mới, CMCN 4.0 sẽ mở ra kỉ nguyên
mới của sự lựa chọn các phương án đầu tư kinh doanh, tối
ưu hóa sử dụng các nguồn lực, thúc đẩy năng suất lao động
và hiệu quả, tạo bước đột phá về tốc độ phát triển, phạm vi
mức độ tác động làm biến đổi cơ bản hệ thống sản xuất và
quản trị xã hội cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Đồng thời, cuộc
CMCN 4.0 cũng đặt ra những yêu cầu mới về kiến thức kĩ
năng và tâm thế của NNL trong xã hội. Những kiến thức
và kĩ năng có thể chia thành 3 nhóm, cụ thể như sau:
Một là, kiến thức và kĩ năng liên quan đến nhận thức,
tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kĩ năng thích nghi, kĩ
năng sáng tạo.
Hai là, các kĩ năng về thể chất: kĩ năng ngôn ngữ, kĩ
năng số, kĩ năng kết nối.
Ba là, các kĩ năng về xã hội: giao tiếp, ứng xử, tạo lập
quan hệ, làm việc theo nhóm. Việc áp dụng tổng hòa
những kiến thức, kĩ năng và tâm thế để đổi mới sáng tạo
quan trọng hơn nhiều so với những kiến thức, kĩ năng
chuyên biệt trước đây [5].
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực to lớn
trên, cuộc CMCN 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc
biệt sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu lao động và thị
trường lao động. Các hệ thống tự động hóa sẽ thay thế
dần lao động thủ công trong toàn bộ nền kinh tế, sự
chuyển dịch từ nhân công sang máy móc sẽ gia tăng sự
chênh lệch giữa lợi nhuận trên vốn và lợi nhuận với sức
lao động. Điều này sẽ tác động đến thu nhập của lao động
giản đơn và gia tăng thất nghiệp. Tỉ trọng lao động chất
lượng cao gia tăng, làm phát sinh một thị trường việc làm
ngày càng tách biệt thành các phân đoạn: thị trường kĩ
năng cao, thị trường kĩ năng thấp và sẽ dẫn đến gia tăng
sự phân hóa, hoặc tạo ra nhu cầu việc làm hoàn toàn mới
so với trước đây mà cần có sự chủ động chuẩn bị và chính
sách điều tiết thích hợp.
2.2. Những yêu cầu đặt ra của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đến đào tạo ở các trường cao đẳng
Những vấn đề trên cho thấy, đối với các TCĐ ở nước
ta hiện nay, cuộc CMCN 4.0 đã tác động đan xen, đa
chiều và tạo ra nhiều thuận lợi mới trong đào tạo ở các
nhà trường, nhất là trong ứng dụng những thành tựu mà
cuộc cách mạng đem lại vào trong đào tạo. Tuy nhiên,
bên cạnh đó nó cũng tác động và đặt các trường đứng
trước những thách thức mới trong đào tạo. Điều này được
thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau:
2.2.1. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra rào
cản, làm cho các trường cao đẳng khó dự đoán được hết
các kĩ năng mà thị trường lao động ở trong nước và quốc
tế đang cần
Thực tiễn cho thấy, cuộc CMCN 4.0 là cuộc cách
mạng liên quan đến công nghệ và kĩ thuật số. Do đó, vấn
đề này được diễn ra rất nhanh và có xu hướng đổi mới
liên tục trong khoảng thời gian ngắn. Điều này kéo theo
kĩ năng NNL của thị trường lao động luôn luôn phải thay
đổi để thích ứng với yêu cầu này. Nghĩa là, các TCĐ phải
đem lại cho người học cả tư duy những kiến thức, kĩ năng
mới, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức... Trong
khi đó, quá trình đào tạo ở các TCĐ nước ta hiện nay vẫn
chủ yếu theo cách thức đào tạo truyền thống và những
cách thức này không thể đáp ứng được với yêu cầu của
NNL trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0. Theo đó, các nhà
trường phải đối mặt với những thay đổi mạnh mẽ cả về
tư duy, cơ cấu kiến thức, kĩ năng và phương pháp. Đây
được coi là thách thức lớn, nhất là trong bối cảnh nền
giáo dục đại học nước ta đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế
cả về yếu tố nền móng và xu hướng phát triển.
Để khắc phục được những rào cản này, trước hết các
TCĐ phải đổi mới về tư duy trong đào tạo dựa trên những
triết lí giáo dục của Đảng, đó là đào tạo phải gắn với thực
tiễn, đáp ứng đúng nhu cầu của thực tiễn và NNL đang đòi
hỏi. Trong đào tạo phải đi trước, đón đầu những ngành,
nghề và các kĩ năng của NNL mà thị trường lao động đang
cần, từ đó tiến tới thay đổi triệt để chương trình, nội dung
đào tạo trước đây bằng chương trình, nội dung đào tạo mới
đảm bảo tính linh hoạt, chú trọng vào những kĩ năng thực
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19
17
hành nghề nghiệp, khả năng sáng tạo và biết ứng dụng
những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 vào trong công việc.
Bên cạnh đó, các nhà trường cần phải nắm bắt được những
tác động của cuộc CMCN 4.0 đến đời sống KT-XH... ở
trong nước, quốc tế, trên cơ sở đó dự đoán chính xác xu
hướng phát triển của thực tiễn, yêu cầu của các ngành,
nghề trong tương lai, từ đó chủ động thay đổi, thậm chí
loại trừ các ngành, nghề đào tạo mang tính “lỗi thời, lạc
hậu”, không còn phù hợp với thực tiễn và tiến tới mở rộng
các ngành, nghề đào tạo mới, đảm bảo tương thích với thời
đại, đáp ứng nhu cầu của cơ cấu các ngành, nghề và nhu
cầu của NNL đang và sẽ cần.
2.2.2. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra cho
các trường cao đẳng phải đối mặt với những yêu cầu,
thách thức về cải cách và cạnh tranh mới trong đào tạo
Có thể thấy, cuộc CMCN 4.0 đã làm giảm đáng kể
ranh giới và khoảng cách về tri thức, khả năng sáng tạo
giữa giáo dục đại học với thực tiễn làm việc của con
người. Trong khi đó, ở nước ta ngày càng xuất hiện nhiều
doanh nghiệp có quy mô, có tiềm lực công nghệ, NNL
và tài chính rất lớn. Những doanh nghiệp này đã nắm bắt
được nhu cầu NNL mà mình đang cần; lợi thế ở tuyến
đầu trong cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm
phục vụ cuộc sống; họ được trải nghiệm quý giá những
yếu tố cần thiết mà các TCĐ, thậm chí các trường đại học
lớn, có uy tín trong nước không có... từ đó bằng những
kinh nghiệm, điều kiện, khả năng của mình họ trực tiếp
đào tạo và trực tiếp sử dụng NNL mà họ đào tạo ra hoặc
cung cấp NNL cho các doanh nghiệp có nhu cầu NNL
tương đồng. Bên cạnh đó, từ thực tiễn cho thấy, sự kết
nối giữa các TCĐ với thị trường lao động, doanh nghiệp
trong đào tạo còn nhiều hạn chế; cơ cấu các ngành đào
tạo về cơ bản tự phát, chưa có định hướng rõ nét; tập
trung theo xu hướng học để bảo đảm cuộc sống hiện tại
mà chưa chú ý đúng mức đến tiềm năng, kì vọng cá nhân,
xu hướng phát triển của thời đại và yêu cầu của đất
nước... Những điều này đặt ra cho các TCĐ nước ta trong
bối cảnh cuộc CMCN 4.0 phải đối mặt với sự cạnh tranh
mới với các cơ sở giáo dục đại học khác.
Để đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và đứng vững
trước sự cạnh tranh này, đòi hỏi các trường phải thường
xuyên cải cách, đổi mới toàn diện. Trong đó, cần tập
trung đổi mới công tác quản lí đào tạo theo hướng tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình
quản lí, coi trọng quản lí chất lượng. Bên cạnh đó, các
trường cần phải coi trọng phát triển NNL, nhất là phát
triển đội ngũ giảng viên. Đảm bảo cho đội ngũ giảng viên
luôn có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, được chuẩn
hóa về trình độ đào tạo và có kiến thức, kĩ năng sử dụng
thành thạo ngoại ngữ, tin học để ứng dụng vào trong
nghiên cứu, giảng dạy và hợp tác quốc tế...
2.2.3. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhu
cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao
cho các trường cao đẳng
Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 hiện nay, những
công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng
Internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano,
công nghệ sinh học... đã khẳng định rõ nét mối quan hệ
giữa các công nghệ; vai trò và sự tác động của các công
nghệ đó tới đời sống xã hội. Trong khi đó, các TCĐ là
những cơ sở giáo dục trực tiếp đào tạo NNL thực hành,
sử dụng các công nghệ đó. Điều này làm cho các TCĐ bị
tác động mạnh mẽ và toàn diện; danh mục các lĩnh vực
ngành, nghề và mục tiêu đào tạo từng ngành nghề sẽ phải
điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh
vực rất mỏng manh.
Trong khi đó, trước bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đã làm
cho sự liên kết giữa các lĩnh vực lí - sinh; cơ - điện tử - sinh
ngày càng chặt chẽ. Điều này kéo theo hàng loạt nghề cũ
sẽ mất đi, thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những
ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự
tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao
động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh
mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp, trung bình và
nhóm lao động có trình độ cao. Trong đó đòi hỏi nhóm lao
động có trình độ cao ngày càng được trọng dụng, còn
nhóm lao động có trình độ trung bình, thấp từng bước bị
đe dọa và thải loại. Từ những vấn đề trên đã tạo ra cho các
TCĐ có nhu cầu đào tạo NNL có chất lượng ngày càng
cao hơn so với trước đây. Bên cạnh mục tiêu đào tạo con
người về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, các trường
phải hướng tới mục tiêu đào tạo con người được trang bị
những kiến thức hiện đại phù hợp với thực tiễn, kĩ năng
sáng tạo mới phục vụ cho nền kinh tế trước bối cảnh cuộc
CMCN 4.0. Nghĩa là phải đào tạo con người có năng lực
sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và
kĩ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỉ luật lao động,
tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả
năng thích ứng với những biến động của thị trường lao
động trong nước và quốc tế.
2.2.4. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra yêu
cầu các trường cao đẳng thay đổi mọi yếu tố của quá
trình đào tạo
Sự tác động của cuộc CMCN 4.0 đã đặt ra yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng NNL. Để đáp ứng được điều
đó, các TCĐ từng bước phải thay đổi mọi yếu tố của quá
trình đào tạo, nhất là trong đổi mới công tác tuyển sinh đào
tạo, thực hiện đào tạo và đảm bảo “đầu ra” cho sinh viên.
Để giải quyết được vấn đề này, trong công tác tuyển
sinh đào tạo đòi hỏi các trường cần phải chú trọng nâng
cao chất lượng “đầu vào”; thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19
18
các quy trình trong tuyển sinh; tuyệt đối không vì chạy
theo số lượng đơn thuần mà bỏ qua chất lượng. Trong
thực hiện đào tạo, phải xác định việc đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo là vấn đề mang tính
cốt lõi. Chương trình, nội dung đào tạo phải linh hoạt,
phù hợp với từng ngành, nghề, từng lĩnh vực, trình độ
đào tạo và có sự tích hợp cao; phản ánh rõ nét những vấn
đề mà thực tiễn đang cần, đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề
nghiệp được đào tạo và có sự liên thông giữa các nghề.
Các phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo truyền thống
trước đây cần được đổi mới triệt để bằng những phương
pháp, hình thức đào tạo mới theo hướng ứng dụng triệt
để thành tựu công nghệ thông tin, cụ thể như: Xây dựng
thư viện điện tử để giảng viên, sinh viên có thể truy cập
nghiên cứu tài liệu ở mọi lúc mọi nơi; mở rộng các hình
thức đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần
giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học
qua mạng; giảng viên ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong thực hành giảng dạy để sinh viên dễ dàng tiếp thu
kiến thức, phát huy tính tích cực trong học tập... Bên cạnh
đó, các trường cần phải thực hiện tăng cường đầu tư các
trang thiết bị, phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại; thực
hiện xây dựng hệ thống đào tạo trực tuyến; xây dựng
phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa, hệ
thống thiết bị ảo mô phỏng...
Trong đảm bảo “đầu ra” cho sinh viên sau khi tốt
nghiệp, các trường phải đổi mới tư duy theo hướng tạo
điều kiện tối đa cho sinh viên có việc làm sau khi tốt
nghiệp. Đây được coi là vấn đề khó khăn, phức tạp trong
bối cảnh cơ chế, chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng
bộ, chưa thực sự phát triển; điều kiện và năng lực của các
TCĐ còn chưa đáp ứng được yêu cầu... Tuy nhiên, để
thực hiện có hiệu quả vấn đề này, các trường cần phải
xây dựng mối quan hệ, liên kết chặt chẽ và có cơ chế
chính sách rõ ràng trong hợp tác tuyển dụng NNL với các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh phù hợp với
các ngành, nghề mà mình đào tạo trên từng địa bàn, từ
đó tạo điều kiện thuật lợi nhất cho sinh viên sau khi tốt
nghiệp làm việc ở các cơ sở này. Mặt khác, trong bối
cảnh tính tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay
ngày càng được tăng cường và mở rộng đòi hỏi các
trường phải nhạy bén, linh hoạt, biết tận dụng mọi nguồn
lực chất lượng cao mà mình hiện có như hệ thống cơ sở
vật chất, NNL chất lượng cao để tiến hành nghiên cứu
khoa học, sản xuất, chế tạo các sản phẩm phù hợp với
năng lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở
đó định hướng và tạo điều kiện cho sinh viên sau khi tốt
nghiệp trực tiếp được làm việc ngay ở nhà trường.
2.2.5. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra yêu
cầu cần phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách
trong đào tạo ở các trường cao đẳng
Cuộc CMCN 4.0 đã tác động mạnh mẽ và làm thay
đổi toàn diện hệ thống giáo dục. Điều này đặt ra yêu cầu
Nhà nước, các cơ quan quản lí giáo dục cần phải đổi mới,
hoàn thiện cơ chế, chính sách giáo dục nói chung, đào tạo
ở các TCĐ nói riêng. Thực hiện vấn đề này một mặt giúp
cho các trường có cơ sở hành lang pháp lí phù hợp để
phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả
hoạt động đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo NNL
mà cuộc CMCN 4.0 đặt ra; phù hợp với xu thế toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Mặt khác, nó
góp phần nâng cao năng lực, uy tín của nền giáo dục
nước nhà.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, nhiều cơ chế, chính sách
trong đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học nói chung, ở
các TCĐ nói riêng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cụ
thể như: thiếu tính đồng bộ, chồng chéo, không còn phù
hợp với thực tiễn và đặc điểm của các nhà trường; chưa
huy động hết được các nguồn lực nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo... Thậm chí, trước xu hướng biến động
mau lẹ của thực tiễn đào tạo trong bối cảnh cuộc cách
mạng, nhưng các cơ quan quản lí giáo dục chậm ban
hành hoặc chưa ban hành các cơ chế, chính sách nhằm
điều khiển, quản lí các hoạt động đào tạo... Điều này
khẳng định việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách
trong đào tạo ở các TCĐ đang là yêu cầu cấp thiết hiện
nay [6], [7], [8].
Để khắc phục những rào cản, vướng mắc này, trong thời
gian tới các cơ chế, chính sách trong đào tạo ở các TCĐ cần
phải được đổi mới, hoàn thiện theo hướng tiếp tục bổ sung
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cơ
chế, chính sách quy định về tự chủ đại học, quyền và trách
nhiệm của các TCĐ khi thực hiện tự chủ, chính sách đầu tư
phát triển các nhà trường. Sớm hoàn thiện và ban hành văn
bản quy định cơ chế tự chủ của các TCĐ, trong đó nghiên
cứu đề xuất đồng bộ các giải pháp tự chủ về đào tạo, nghiên
cứu khoa học, tự chủ về tổ chức, bộ máy nhân sự, tự chủ về
tài chính để thúc đẩy phát triển các nhà trường. Thực hiện
nghiên cứu xây dựng và ban hành kịp thời hệ thống định
mức kinh tế kĩ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng đối
với các TCĐ làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế tính giá
dịch vụ đào tạo. Từ đó, xây dựng và ban hành cơ chế đặt
hàng của Nhà nước đối với các cơ sở đào tạo theo năng lực,
chất lượng đào tạo của đơn vị mà không có sự phân biệt loại
hình trường. Bên cạnh đó, cần tập trung đổi mới cơ chế,
chính sách trong đầu tư ngân sách nhà nước đối với các
TCĐ theo hướng giảm dần chi ngân sách cho bộ máy và
hoạt động thường xuyên của các trường, tiến tới các trường
tự bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên. Xây dựng cơ
chế cho phép cơ sở đào tạo được tự chủ quyết định mức thu
học phí tương xứng với chất lượng dịch vụ đào tạo cung cấp
và xã hội thừa nhận. Ngoài ra, cho phép các đơn vị tự chủ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19
19
được huy động các nguồn lực từ xã hội thông qua vay tín
dụng trong nước và nước ngoài, để bổ sung nguồn vốn cho
phát triển GD-ĐT, xây dựng cơ sở vật chất...
3. Kết luận
Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định, cuộc
CMCN 4.0 ra đời là xu hướng tất yếu của thời đại. Nó
đặt ra cho các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta nói chung,
các TCĐ nói riêng phải vận động không ngừng. Theo
đó, các nhà trường muốn nâng cao được chất lượng đào
tạo nhằm đáp ứng thiết thực với nhu cầu của NNL mà thị
trường lao động đang cần trong bối cảnh này thì cần phải
tranh thủ mọi tiềm năng vốn có của mình; biết khai thác
tối ưu những giá trị mà cuộc cách mạng đem lại, nhất là
những thành tựu về lĩnh vực công nghệ thông tin, số hóa
vào trong đào tạo; từng bước đưa những kiến thức, yêu
cầu mà xu hướng của cuộc cách mạng đang hiện hữu để
đưa vào trong chương trình, nội dung đào tạo... thì mới
đảm bảo cho các nhà trường tồn tại và ngày càng phát
triển, đáp ứng tốt với nhu cầu của thực tiễn đặt ra.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[3] Nguyễn Hồng Minh (2017). Cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống
giáo dục nghề nghiệp. Tạp chí Lao động và Xã hội,
số tháng 2/2017.
[4] Nguyễn Viết Thảo (2017). Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Tạp chí Lí luận chính trị, số 5/2017.
[5] Phan Chí Thành (2018). Cách mạng công nghiệp
4.0 - Xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến. Tạp
chí Giáo dục, số 421, tr 43-46; 19.
[6] Thủ tướng Chính phủ (2012). Chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020 (Ban hành kèm theo Quyết định
số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012).
[7] Phạm Ngọc Trang (2018). Cách mạng công nghiệp
4.0 - Thực tiễn và thách thức đặt ra đối với các
trường đại học và đội ngũ giảng viên trẻ. Tạp chí
Giáo dục, số đặc biệt, kì 2 tháng 5, tr 90-93.
[8] Nguyễn Thị Thanh Tùng - Ngô Văn Tuần (2018).
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Tạp chí Giáo dục, số 426, tr 1-4.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ...
(Tiếp theo trang 14)
3. Kết luận
Thực tế cho thấy, không có biện pháp nào là “vạn
năng” mà thông thường, để giải quyết một nhiệm vụ, một
vấn đề cụ thể, phải vận dụng, phối hợp nhiều biện pháp.
Trong các biện pháp nêu trên, biện pháp 1 có ý nghĩa
định hướng, đóng vai trò nền tảng cho việc thực hiện các
biện pháp khác vì chỉ có nhận thức đúng thì mới có hành
động đúng; biện pháp 2 có tính hạt nhân, đóng vai trò
then chốt, quyết định đến chất lượng HĐDH; các biện
pháp 3, 4, 5 có vai trò quan trọng, tạo điều kiện, hỗ trợ
HĐDH, để các nhà quản lí phát huy sức mạnh tổng hợp
trong quản lí HĐDH theo định hướng PTNL HS trong
bối cảnh hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018
của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
[3] Ban Chấp hành Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh (2015).
Nghị quyết đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh lần thứ X nhiệm kì 2015 -2020.
[4] Trần Trung Dũng (2016). Quản lí hoạt động dạy học
ở trường trung học phổ thông theo định hướng phát
triển năng lực học sinh. Luận án tiến sĩ Khoa học
Giáo dục, Trường Đại học Vinh.
[5] Đỗ Thị Thanh Thuỷ (chủ biên) - Nguyễn Thành
Vinh - Hà Thế Truyền - Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
(2017). Quản lí hoạt động dạy học trong trường phổ
thông. NXB Giáo dục Việt Nam.
[6] Hoàng Anh Tuấn (2017). Quản lí hoạt động dạy học
của các trường trung học cơ sở huyện Vĩnh Thạnh,
thành phố Cần Thơ. Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số
76 (137) - tháng 7/2017, tr 113-115.
[7] Phạm Thị Mai Loan (2016). Một số giải pháp nâng
cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trung học cơ
sở tại thành phố Hải Phòng theo tiếp cận phát triển
năng lực người học. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt
tháng 5, tr 168-172; 167.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 04nguyen_van_lien_2341_2148304.pdf