Tài liệu Công nghiệp hóa dầu: Xu thế trên thế giới và nhu cầu phát triển ở Việt Nam: 18
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
Soá 4 naêm 2019
Xu thế phát triển trên thế giới
Lịch sử phát triển hơn 150 năm
của ngành công nghiệp chế biến dầu
mỏ đã chứng tỏ, nếu chế biến sâu
để có nhiều sản phẩm hóa dầu thì lợi
nhuận luôn cao hơn là chỉ sản xuất
các sản phẩm nhiên liệu (tức là chỉ
lọc dầu). Trong thực tế, sự cần thiết
phải kết hợp lọc và hóa dầu trong một
nhà máy để tăng lợi nhuận là điều
hiển nhiên và xu thế chung là tăng
dần hướng sản xuất các sản phẩm
hóa dầu. Theo dự báo của Công ty
nghiên cứu thị trường IHS Markit
(Hoa Kỳ), cùng với sự tăng dân số,
từ nay đến năm 2040, nhu cầu các
sản phẩm hóa dầu sẽ tăng với tốc độ
khoảng 3%/năm [1]. Trong khi đó,
nhu cầu các sản phẩm xăng dầu sẽ
tăng rất ít và phụ thuộc vào sự tăng
trưởng của các nguồn năng lượng tái
tạo - các nguồn năng lượng này trong
thời gian tới có thể sẽ gia tăng nhanh
chóng. Theo dự báo đến năm 2050,
có đến 70% nhiên liệu hóa thạch sẽ
bị thay thế bởi các dạng năng ...
3 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nghiệp hóa dầu: Xu thế trên thế giới và nhu cầu phát triển ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
Soá 4 naêm 2019
Xu thế phát triển trên thế giới
Lịch sử phát triển hơn 150 năm
của ngành công nghiệp chế biến dầu
mỏ đã chứng tỏ, nếu chế biến sâu
để có nhiều sản phẩm hóa dầu thì lợi
nhuận luôn cao hơn là chỉ sản xuất
các sản phẩm nhiên liệu (tức là chỉ
lọc dầu). Trong thực tế, sự cần thiết
phải kết hợp lọc và hóa dầu trong một
nhà máy để tăng lợi nhuận là điều
hiển nhiên và xu thế chung là tăng
dần hướng sản xuất các sản phẩm
hóa dầu. Theo dự báo của Công ty
nghiên cứu thị trường IHS Markit
(Hoa Kỳ), cùng với sự tăng dân số,
từ nay đến năm 2040, nhu cầu các
sản phẩm hóa dầu sẽ tăng với tốc độ
khoảng 3%/năm [1]. Trong khi đó,
nhu cầu các sản phẩm xăng dầu sẽ
tăng rất ít và phụ thuộc vào sự tăng
trưởng của các nguồn năng lượng tái
tạo - các nguồn năng lượng này trong
thời gian tới có thể sẽ gia tăng nhanh
chóng. Theo dự báo đến năm 2050,
có đến 70% nhiên liệu hóa thạch sẽ
bị thay thế bởi các dạng năng lượng
tái tạo, trong đó nhiên liệu sinh học
sẽ chiếm tỷ lệ khá cao. Ngành công
nghiệp hóa dầu đóng vai trò rất quan
trọng trong cuộc sống, các vật phẩm
sử dụng hàng ngày đều có nguồn
gốc từ sản phẩm hóa dầu. Ngành
công nghiệp này có sứ mệnh kết nối
lĩnh vực khai thác dầu khí với các
ngành công nghiệp quan trọng của
nền kinh tế, từ dệt may, chất dẻo, cao
su đến dược phẩm, mỹ phẩm Trong
hơn 15 năm qua, ngành công nghiệp
hóa dầu đã liên tục tăng trưởng, nhu
cầu ethylene toàn cầu năm 2000 đạt
100 triệu tấn/năm, đến năm 2016 đã
tăng lên 150 triệu tấn/năm [2].
Cơ sở của nền công nghiệp hóa
dầu là các olefin nhẹ như ethylene,
propylene, butadiene và các
hydrocarbon thơm như: benzene,
toluene, xylene (gọi chung là BTX), từ
đó sản xuất ra hàng ngàn sản phẩm
công nghiệp và tiêu dùng. Trong dầu
mỏ hay khí thiên nhiên không có các
olefin, còn các hợp chất BTX thì có
trong dầu mỏ với hàm lượng thấp,
không đủ để tách ra và sử dụng ở
quy mô công nghiệp. Cả các olefin
và BTX đều phải được tạo ra thông
qua các quá trình chuyển hóa hóa
học khác nhau, từ các phân đoạn dầu
mỏ và khí thiên nhiên như methane,
ethane, propane, butane cũng như
các phân đoạn chứa các hydrocarbon
có nhiệt độ sôi cao. Đó là những quá
trình chuyển hóa hóa học ở nhiệt độ
cao hoặc ở nhiệt độ cao cùng với sự
có mặt của chất xúc tác.
Tính theo sản lượng trên thế giới
hàng năm (2015), các sản phẩm hóa
dầu chủ lực được xếp hạng như sau:
ethylene (143 triệu tấn) > propylene
(88 triệu tấn) > benzene (58 triệu
tấn) > p-xylene (38 triệu tấn); trong
khi sản lượng khí tổng hợp để sản
xuất amoniac (cho phân đạm urea)
và methanol là khoảng 270 triệu tấn.
Hiện nay, các nguyên liệu ban
đầu để sản xuất các hydrocarbon
này được phân bố như sau: methane
(thông qua chuyển hóa thành
methanol) 1%, ethane (nhiệt phân)
12%, khí dầu mỏ hóa lỏng LPG (nhiệt
phân) 9%, naphtha (carcking nhiệt)
44%, naphtha (reforming xúc tác)
29%, dầu nặng gasoil (cracking nhiệt)
5%. Giá thành sản xuất ethylene trực
tiếp từ ethane là rẻ nhất, tuy nhiên,
tỷ lệ sử dụng naphtha vẫn cao nhất
vì những nguyên nhân kinh tế và kỹ
thuật khác nhau như khả năng cung
cấp và vận chuyển nguyên liệu Vì
vậy, sự cạnh tranh về giá thành sản
xuất ethylene là yếu tố rất nhạy cảm
khi các công ty lựa chọn phương án
xây dựng nhà máy sản xuất ethylene
ở một địa điểm nhất định (hình 1).
Có thể nhận thấy, ở Trung Đông với
Công nghiệp hóa dầu:
xu thế trên thế giới và nhu cầu phát triển ở việt nam
Hồ Sĩ Thoảng1, Đặng Thanh Tùng2, Tạ Hiền Trang2
1hội Dầu khí Việt nam
2Viện Dầu khí Việt nam
Hiện nay, với sự gia tăng nhu cầu về các sản phẩm công nghiệp và tiêu dùng có nguồn gốc từ dầu
khí, việc đẩy mạnh triển khai các dự án hóa dầu tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết. Theo nghiên
cứu của Viện Dầu khí Việt Nam, mức tiêu thụ các sản phẩm hóa dầu của Việt Nam chỉ bằng 1/5 so
với thế giới (khoảng 10 triệu tấn vào năm 2035), trong đó polyethylene (PE), polypropylene (PP),
polyvinylchloride (PVC), polyethylene terephthalate (PET) là các sản phẩm có mức tiêu thụ lớn nhất.
Bài viết phân tích xu thế phát triển sản phẩm hóa dầu trên thế giới và đánh giá nhu cầu, cơ hội cũng
như các thách thức đối với sự phát triển lĩnh vực này ở Việt Nam.
19
Diễn đàn khoa học - công nghệ
Soá 4 naêm 2019
nguồn khí thiên nhiên dồi dào, việc
sản xuất ethylene thuận lợi nhất với
giá thành thấp nhất vì giá ethane ở
đây chỉ 0,75 USD/triệu Btu, trong
khi ở Mỹ là 4 USD/triệu Btu. Sự
bùng nổ của khí đá phiến gần đây
đã dẫn tới giá ethane giảm, một số
nhà máy sản xuất ethylene ở Mỹ đã
chuyển từ cracking naphtha sang
cracking ethane. Ở châu Âu và châu
Á, giá thành sản xuất ethylene còn
cao hơn nữa, vì phần lớn phải đi từ
naphtha với giá thành ethylene cao
hơn 2,5 lần ở Mỹ và 10 lần ở Trung
Đông. Mặc dù vậy, ở châu Á, do thiếu
ethane, naphtha vẫn là nguyên liệu
chính (80%) để sản xuất ethylene.
Những năm gần đây, do giá dầu giảm
xuống mức thấp, giá sản phẩm hóa
dầu không giảm với nhịp độ tương
xứng nên lợi nhuận của ngành hóa
dầu tăng cao.
Cũng theo IHS, tăng trưởng nhu
cầu sản phẩm hóa dầu được dự báo
lớn hơn rất nhiều so với tăng trưởng
nhu cầu các sản phẩm lọc dầu (hình
2). Cụ thể, tăng trưởng nhu cầu lọc
dầu sẽ <1%/năm do giảm tỷ lệ nhiên
liệu hóa thạch, xu hướng sử dụng xe
điện tăng cùng với xu hướng sử dụng
các loại năng lượng tái tạo. Trong
khi đó, tăng trưởng nhu cầu các sản
phẩm hóa dầu đạt khoảng 3%/năm
do dân số toàn cầu tăng từ mức 7,6 tỷ
người năm 2017 lên 9,2 tỷ người năm
2040; tiêu thụ tăng chủ yếu ở khu vực
châu Á, đặc biệt là Trung Quốc [1].
Trong bối cảnh đó, các công ty dầu
khí đã tăng cường đầu tư và phát triển
thị trường hóa dầu. Tuy nhiên, do giá
thành sản phẩm hóa dầu phụ thuộc
đến 70% giá nguyên liệu đầu vào,
mức độ rủi ro cao, buộc các doanh
nghiệp đầu tư vào các dự án lớn phải
tính toán cẩn thận chiến lược dài hạn.
Việc nguồn nguyên liệu hóa thạch
dần cạn kiệt không chỉ đòi hỏi phải
thay thế bằng các nguồn năng lượng
tái tạo mà việc tăng trưởng sản lượng
các sản phẩm hóa dầu phải được
xem xét với quan điểm hoàn thiện
công nghệ, giảm giá thành sản phẩm
và hạn chế tác động ô nhiễm môi
trường. Những đổi mới công nghệ
chế biến dầu khí hiện nay nhằm mục
tiêu tăng tỷ lệ các olefin nhẹ cũng
như BTX trong nhà máy lọc dầu để
phục vụ cho phát triển ngành hóa
dầu. Để tăng sản lượng propylene,
các nhà máy lọc - hóa dầu hiện nay
giảm tỷ lệ sản xuất các sản phẩm
lọc dầu (xăng và dầu diesel) để
tăng tỷ lệ propylene bằng việc thay
đổi chế độ cracking xúc tác (tăng
nhiệt độ, biến tính chất xúc tác).
Tương tự, công nghệ và xúc tác quá
trình sản xuất hydrocarbon thơm
(aromatisation) được hoàn thiện để
tăng hiệu suất các sản phẩm BTX.
Những công nghệ mới để cải thiện
cracking hơi naphtha (kết hợp phản
ứng nhiệt và phản ứng xúc tác) đồng
thời cho ethylene và propylene đang
được nhiều công ty chế biến dầu khí
nghiên cứu áp dụng.
Tái chế phế thải và các sản
phẩm polymer đang là vấn đề cấp
thiết đặt ra cho ngành công nghiệp
hóa dầu. Hiện nay, 80% sản phẩm
hóa dầu được sử dụng để sản xuất
nhựa và chỉ dùng được một lần. Do
đó, các giải pháp tiềm năng đang
được thử nghiệm và áp dụng nhằm
tái chế phế thải, phục hồi hàm lượng
hydrocacbon, song chưa có đủ động
lực cần thiết và sức hấp dẫn về quy
mô cũng như tính kinh tế. Bên cạnh
đó, một số doanh nghiệp hóa dầu
đang hướng tới việc chế tạo các sản
phẩm có khả năng phân hủy sinh học
cao để giảm thiểu ảnh hưởng đến
môi trường và thiên nhiên theo hướng
thân thiện với môi trường, hữu dụng
hình 1. nguyên liệu sản xuất chính và sản lượng hóa dầu phân bố theo các khu
vực trên thế giới [3].
ghi chú: các biểu đồ hình tròn có kích thước tương ứng với tổng số lượng [triệu tấn quy dầu
(mtoe) hoặc triệu tấn (mt)] trong mỗi trường hợp.
3
Hình 1. Nguyên liệu sản xuất chín và sản lượng hóa ân bố theo các khu vực
trên thế giới [3].
Ghi chú: các biểu đồ hình tròn có kích thước tương ứng với tổng số lượng [triệu tấn quy dầu (mtoe) hoặc
triệu tấn (mt)] trong mỗi trường hợp.
Cũng theo IHS, tăng trưởng nhu cầu sản phẩm hóa dầu được dự báo lớn hơn rất
nhiều so với tăng trưởng nhu cầu các sản phẩm lọc dầu (hình 2). Cụ thể, tăng trưởng nhu
cầu lọc dầu sẽ <1%/năm do giảm tỷ lệ nhiên liệu hóa thạch, xu hướng sử dụng xe điện
tăng cùng với xu hướng sử dụng các loại năng lượng tái tạo. Trong khi đó, tăng trưởng
nhu cầu các sản phẩm hóa dầu đạt khoảng 3%/năm do dân số toàn cầu tăng từ mức 7,6 tỷ
người năm 2017 lên 9,2 tỷ người năm 2040; tiêu thụ tăng chủ yếu ở khu vực châu Á, đặc
biệt là Trung Quốc [1]. Trong bối cảnh đó, các công ty dầu khí đã tăng cường đầu tư và
phát triển thị trường hóa dầu. Tuy nhiên, do giá thành sản phẩm hóa dầu phụ thuộc đến
70% giá nguyên liệu đầu vào, mức độ rủi ro cao, buộc các doanh nghiệp đầu tư vào các
dự án lớn phải tính toán cẩn thận chiến lược dài hạn.
Nguyên liệu
sản xuất
Sản phẩm hóa dầu
Sản phẩm hóa dầu Sản phẩm lọc dầu
hình 2. Dự báo % tăng trưởng các sản phẩm hóa dầu và các sản phẩm lọc dầu
tính từ năm 2010 [1]. 3
Hình 1. Nguyên liệu sản x ất chính và sản lượng hóa dầu phân bố theo các khu vực
trên thế giới [3].
Ghi chú: các biểu đồ hình tròn có kích thước tương ứng với tổng số lượng [triệu tấn quy dầu (mtoe) hoặc
triệu tấn (mt)] trong mỗi trường hợp.
Cũng theo IHS, tăng trưởng nhu cầu sản phẩm hóa dầu được dự báo lớn hơn rất
nhiều so với tăng trưởng nhu cầu các sản phẩm lọc dầu ( ình 2). Cụ thể, tăng trưởng nhu
cầu lọc dầu sẽ <1%/năm do giảm tỷ lệ nhiên liệu hóa thạc , xu hướng sử dụng xe điệ
tăng cùng với xu hướng sử dụng các loại năng lượng ái tạo. Tro g khi đó, tăng trưởng
nhu cầu các sản phẩm hóa dầu đạt khoảng 3%/năm do dân số oàn cầu tăng từ mứ 7,6 tỷ
người năm 2017 lên 9,2 tỷ người năm 2040; tiêu thụ tăng chủ yếu ở khu vực châu Á, đặc
biệt là Trung Quốc [1]. Trong bối cảnh đó, các công ty dầu khí đã tăng cường đầu tư và
phát triển thị trường hóa dầu. Tuy n iên, do giá thành sản phẩm hóa dầu phụ thuộc đế
70% giá nguyên liệu đầu vào, mức độ rủ ro cao, buộc các doanh nghiệp đầu tư vào các
dự án lớn phải tính toán cẩn thận chiến lược dài hạn.
Nguyên liệu
sản xuất
Sản phẩm hóa dầu
Sản phẩm hóa dầu Sản phẩm lọc dầu
20
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
Soá 4 naêm 2019
và thông minh.
Hướng sản xuất sản phẩm hóa
dầu thông qua methanol tuy chưa
có quy mô lớn, nhưng có triển vọng
khá hấp dẫn. Nhiều cải tiến quá trình
chuyển hóa methane thành khí tổng
hợp để sản xuất các olefin nhẹ đang
được nghiên cứu, một số công nghệ
đã được thương mại hóa ở quy mô
xấp xỉ 1 triệu tấn/năm. Mục tiêu của
các cải tiến quá trình sản xuất khí
tổng hợp từ khí methane là nâng cao
hiệu suất phản ứng, đồng thời giảm
phát thải khí carbonic ảnh hưởng đến
môi trường.
Trong tương lai, methanol sẽ
đóng vai trò hóa phẩm nền tảng để
sản xuất nhiên liệu tái tạo và các hóa
phẩm cơ bản của nền công nghiệp
hóa dầu, trước hết là các olefin nhẹ.
Ngoài quá trình sản xuất methanol từ
khí thiên nhiên và than, có không ít
quá trình chuyển hóa sinh khối thành
methanol (khí hóa, nhiệt phân) đã
đạt đến quy mô pilot hoặc bán công
nghiệp. Tính khả thi của các quy
trình công nghệ này còn phụ thuộc
vào giá dầu và giá khí thiên nhiên,
nhưng trong tương lai sẽ có cơ hội
cạnh tranh với các công nghệ truyền
thống. Hiện nay đã có triển vọng kết
hợp nhiều quá trình chuyển hóa trong
một tổ hợp công nghệ để chuyển hơi
nước và khí carbonic dưới tác dụng
trực tiếp của năng lượng mặt trời
thành khí tổng hợp rồi chuyển hóa
tiếp thành nhiên liệu và hóa phẩm
(quá trình sử dụng năng lượng mặt
trời để sản xuất nhiên liệu mặt trời).
Đây là cơ hội nhiên liệu mặt trời thay
thế nhiên liệu hóa thạch, làm nguồn
năng lượng chính và hóa chất hàng
hóa, đồng thời cung cấp phương tiện
để lưu trữ năng lượng từ nguồn năng
lượng mặt trời. Để cạnh tranh trên thị
trường, việc thu gom CO2 từ các nhà
máy điện hoặc các nguồn khác tại
địa phương và hiệu quả sản xuất H2
từ nước bằng điện phân hoặc bằng
phương pháp nhiệt hóa phải được
thiết lập đồng thời. Điều này đòi hỏi
nỗ lực nghiên cứu và phát triển phối
hợp trong một số lĩnh vực chính bao
gồm quang điện, điện phân và pin
nhiên liệu, chất xúc tác, thu CO2 hiệu
quả, lưu trữ, phân phối hydro và cuối
cùng là sản xuất nhiên liệu tổng hợp
từ nguyên liệu CO2 và H2.
Nhu cầu phát triển ở Việt Nam
Với sự gia tăng nhu cầu của các
sản phẩm công nghiệp và tiêu dùng
có nguồn gốc từ dầu khí, việc đẩy
mạnh triển khai các dự án hóa dầu
tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết.
Theo nghiên cứu của Viện Dầu khí
Việt Nam, với mức tiêu thụ trên đầu
người chỉ bằng 1/5 so với thế giới thì
nhu cầu các sản phẩm hóa dầu của
Việt Nam vào năm 2035 là khoảng
10 triệu tấn, trong đó PE, PP, PVC,
PET là các sản phẩm có mức tiêu thụ
lớn nhất [4].
Cho đến nay, thành tựu lớn nhất
của ngành hóa dầu Việt Nam là đã
xây dựng được 2 nhà máy đạm tại
Bà Rịa - Vũng Tàu và Cà Mau với
tổng công suất 1,6 triệu tấn/năm. Tuy
nhiên, đạm là ngành sản xuất hóa
dầu đặc biệt, chỉ sử dụng methane
là nguyên liệu có sẵn trong khí thiên
nhiên, cho nên nếu chỉ tính các quá
trình công nghiệp của ngành hóa dầu
đi từ các olefin nhẹ và BTX thì Việt
Nam mới có 1 dây chuyền sản xuất
PP tại Dung Quất (Quảng Ngãi) với
công suất 150 nghìn tấn/năm, bảo
đảm khoảng 30% nhu cầu trong
nước. Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi
Sơn sẽ sản xuất benzene, xylene và
propylene với tổng công suất khoảng
1,35 triệu tấn/năm; còn Tổ hợp hóa
dầu Long Sơn sẽ có công suất sản
xuất các olefin nhẹ khoảng 1,6 triệu
tấn/năm. Nhu cầu mở rộng và chuyển
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất theo
hướng tăng tỷ lệ các sản phẩm hóa
dầu là rất cấp thiết. Với điều kiện rất
thuận lợi trong việc tiếp cận khí thiên
nhiên từ mỏ Cá Voi Xanh (ngoài khơi
Trung Bộ) thì việc triển khai sản xuất
hóa dầu tại đây là khả thi.
Về tổng thể, cơ hội và dư địa cho
phát triển sản xuất hóa dầu tại Việt
Nam là rất có triển vọng. Trong bối
cảnh thị trường nhiên liệu mở như
hiện nay, việc xây dựng mới các tổ
hợp lọc hóa dầu cần cân nhắc thận
trọng, phải chế biến sâu, công nghệ
hiện đại, đặc biệt là phải tính đến xu
thế phát triển của ngành hóa dầu
thế giới như trình bày ở trên. Để phát
triển các lĩnh vực sản xuất dược liệu,
mỹ phẩm, chất tẩy rửa rất cần sự
hợp tác và cung cấp nguyên liệu ban
đầu từ công nghiệp hóa dầu.
Để triển khai các dự án lọc hóa
dầu theo hướng chế biến sâu hoặc
chỉ chuyên về hóa dầu, Nhà nước cần
có những chính sách phù hợp với khả
năng thực tế của các doanh nghiệp
và nhu cầu thị trường luôn biến động
trong khu vực và trên thế giới. Do
năng lực về công nghệ và tài chính
có hạn, Việt Nam rất cần hợp tác với
các đối tác nước ngoài để có được
công nghệ tiến bộ nhất có thể, cũng
như giảm bớt gánh nặng tài chính.
Riêng về nhân lực, Việt Nam có thể
tự tin vào khả năng tiếp nhận và vận
hành các quy trình công nghệ hiện
đại cùng các đối tác. Thực tế việc xây
dựng và vận hành 2 dự án Dung Quất
và Nghi Sơn đã cho thấy, Việt Nam
có thể tham gia nền công nghiệp chế
biến dầu với độ khó vào loại cao nhất
trong các ngành công nghiệp chế
biến. Đội ngũ chuyên gia, kỹ sư vận
hành Nhà máy Lọc dầu Dung Quất
đã khẳng định Việt Nam có thể học
hỏi và tiếp thu, vận hành công nghệ
lọc - hóa dầu vào loại phức tạp nhất ở
trình độ quốc tế ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] IHS (2018), Chemical & Energy
INSIGHTS.
[2] Eren Cetinkaya, Nathan Liu (2018),
Petrochemicals 2030: Reinventing the way
to win in a changing industry, McKinsey on
Chemicals.
[3] IEA (2018), The Future of
Petrochemicals: Towards more sustainable
plastics and fertilisers.
[4] Nguyễn Anh Đức (2018), “Tương lai
công nghiệp hóa dầu”, Tọa đàm Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam trong lộ trình phát triển
ngành công nghiệp hóa dầu Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cong_nghiep_hoa_dau_8498_2187288.pdf