Tài liệu Cộng hưởng từ đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng đoạn giữa và dưới được phẫu thuật triệt căn: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 220
CỘNG HƯỞNG TỪ ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN UNG THƯ TRỰC TRÀNG
ĐOẠN GIỮA VÀ DƯỚI ĐƯỢC PHẪU THUẬT TRIỆT CĂN
Phạm Công Khánh*, Nguyễn Trung Tín**, Nguyễn Hoàng Bắc**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ung thư đại trực tràng là một trong những loại ung thư thường gặp của ung thư đường tiêu
hóa. Tái phát tại chỗ trong điều trị ung thư trực tràng liên quan chặt chẽ tình trạng xâm lấn của u vào cân mạc
treo trực tràng. Đánh giá giai đoạn bệnh trước mổ đóng vai trò quyết định trong việc chọn lựa phương pháp điều
trị thích hợp và tình trạng cân mạc treo cần được xác định rõ tại thời điểm chẩn đoán. Cộng hưởng từ (CHT) là
phương tiện hình ảnh có nhiều ưu điểm trong chẩn đoán giai đoạn cũng như tình trạng cân mạc treo trực tràng.
Mục tiêu: Xác định vai trò của chụp CHT trong đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng trước mổ và tiên
đoán xâm lấn cân mạc treo trực tràng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 1...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 167 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cộng hưởng từ đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng đoạn giữa và dưới được phẫu thuật triệt căn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 220
CỘNG HƯỞNG TỪ ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN UNG THƯ TRỰC TRÀNG
ĐOẠN GIỮA VÀ DƯỚI ĐƯỢC PHẪU THUẬT TRIỆT CĂN
Phạm Công Khánh*, Nguyễn Trung Tín**, Nguyễn Hoàng Bắc**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ung thư đại trực tràng là một trong những loại ung thư thường gặp của ung thư đường tiêu
hóa. Tái phát tại chỗ trong điều trị ung thư trực tràng liên quan chặt chẽ tình trạng xâm lấn của u vào cân mạc
treo trực tràng. Đánh giá giai đoạn bệnh trước mổ đóng vai trò quyết định trong việc chọn lựa phương pháp điều
trị thích hợp và tình trạng cân mạc treo cần được xác định rõ tại thời điểm chẩn đoán. Cộng hưởng từ (CHT) là
phương tiện hình ảnh có nhiều ưu điểm trong chẩn đoán giai đoạn cũng như tình trạng cân mạc treo trực tràng.
Mục tiêu: Xác định vai trò của chụp CHT trong đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng trước mổ và tiên
đoán xâm lấn cân mạc treo trực tràng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 106 bệnh nhân ung thư trực tràng đoạn giữa và dưới có chỉ định
phẫu thuật triệt căn được chụp CHT vùng chậu để đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng trước mổ tại Bệnh viện
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 06/2015 đến tháng 03/2018. Kết quả đánh giá giai đoạn
trước mổ bằng CHT được so sánh với những đặc điểm giải phẫu bệnh sau mổ.
Kết quả: Độ chính xác trung bình của CHT đánh giá mức độ xâm lấn của u trực tràng là 97,2%. Độ chính
xác trong đánh giá di căn hạch theo các giai đoạn trung bình là 87,4%. CHT tiên đoán xâm lấn cân mạc treo trực
tràng với độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác lần lượt là 96,2%, 98,8% và 98,1%.
Kết luận: CHT vùng chậu là phương tiện chẩn đoán hình ảnh có độ chính xác cao để đánh giá giai đoạn ung
thư trực tràng trước mổ và có thể tiên lượng tình trạng xâm lấn cân mạc treo.
Từ khóa: ung thư trực tràng, cộng hưởng từ
ABSTRACT
PREOPERATIVE STAGING OF MIDDLE AND LOWER RECTAL CANCER BY PELVIC MR IMAGING
Pham Cong Khanh, Nguyen Trung Tin, Nguyen Hoang Bac
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 220-225
Introduction: Colorectal cancer is one of the most common cancers of the gastrointestinal tract. Local
recurrence is related to circumferential resection margin. Preoperative staging has an important role in
management strategy of rectal cancer and evaluation of mesorectal fascia involvement is necessary before
treatment. MR imaging has become a preferred diagnostic tool for the preoperative assessment of local staging and
CRM in patients with rectal cancer.
Objectives: To access the role of pelvic MR imaging in preoperative staging of rectal carcinoma and
prediction of mesorectal fascia involvement.
Materials and methods: We evaluated 106 patients with middle and lower rectal cancer who have the
indication for low anterior resection or APR in University Medical Center at HCMC from 06/2015 to 03/2018.
We performed preoperative pelvic MRI for local staging. Staging was made by evaluating images obtained and
compared with postoperative histopathologic results.
* Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
** Khoa Hậu môn Trực tràng, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS BS. Phạm Công Khánh ĐT: 0908786798 Email: khanh.pc@umc.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 221
Results: The mean accuracy of pelvic MR imaging for defining the T stage of rectal cancer was 97,2%. The
accuracy rate to detecting lymph node metastases was 87,4%. The sensibility, specificity and accuracy of MR
imaging for prediction of MRF tumor invasion are 96.2%, 98.8%, and 98.1% respectively.
Conclusions: Pelvic MR imaging is a promising technique for accurate preoperative local staging of rectal
cancer and prediction of MRF involvement.
Keywords: rectal cancer, MR Imaging
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 4
trong các loại ung thư thường gặp và là nguyên
nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong do ung thư
tại Hoa Kỳ. Năm 2016, có khoảng 32.220 trường
hợp ung thư trực tràng mới mắc tại Hoa Kỳ và
khoảng 49.190 trường hợp sẽ tử vong vì ung thư
đại trực tràng. Tại Việt Nam, theo một nghiên
cứu tại TP.HCM, tần suất ung thư đại trực tràng
là 14,8/100.000 dân (nam giới) và 10/100.000 dân
(nữ giới). Ung thư trực tràng có tiên lượng xấu vì
nguy cơ tái phát tại chỗ cao, di căn hạch chậu
cũng như di căn xa. Tái phát tại chỗ của ung thư
trực tràng liên quan đến sự xâm lấn của khối u
vào mạc treo trực tràng và khoảng cách từ u đến
diện cắt vòng quanh (CRM – Circumferential
Resection Margin). Các phương pháp chẩn đoán
hình ảnh truyền thống như nội soi đại tràng và
khám trực tràng bằng tay không đánh giá được
mức độ xâm lấn của u (T) hay khả năng di căn
hạch (N) của ung thư trực tràng. Chẩn đoán
hình ảnh, đặc biệt là cộng hưởng từ (CHT) đóng
vai trò quan trọng trong chẩn đoán giai đoạn
trước mổ. Chẩn đoán hình ảnh có thể tiên lượng
nguy cơ tái phát tại chỗ và di căn xa, lập kế
hoạch điều trị, cũng như giúp chọn phương
pháp phẫu thuật thích hợp nhằm tối ưu hóa khả
năng bảo tồn cơ thắt trong điều trị ung thư trực
tràng. Hiện nay, các chuyên gia về ung thư trực
tràng đều cho rằng kỹ thuật cắt toàn bộ mạc treo
trực tràng là qui trình chuẩn trong phẫu thuật
điều trị ung thư trực tràng. Kỹ thuật này giúp
giảm tỉ lệ tái phát tại chỗ từ 30 – 40% xuống dưới
5%, đồng thời cải thiện tỉ lệ sống sau 5 năm so
với phẫu thuật kinh điển. Thêm vào đó, CRM
dương tính sẽ tăng nguy cơ tái phát tại chỗ sau
mổ. Những trường hợp CHT ghi nhận cân mạc
treo trực tràng (MRF – Mesorectal Fascia) có
nguy cơ bị xâm lấn sẽ được xạ trị trước mổ để
giảm nguy cơ tái phát tại chỗ sau mổ. Như vậy,
sử dụng kỹ thuật cắt toàn bộ mạc treo trực tràng
(TME – Total Mesorectal Excision), đánh giá xâm
lấn cân mạc treo và tình trạng diện cắt vòng
quanh sau mổ là những yếu tố tiên lượng quan
trọng trong điều trị ung thư trực tràng(1,4,9). Do
đó, chẩn đoán hình ảnh đánh giá giai đoạn trước
mổ ung thư trực tràng cần phân biệt ung thư
trực tràng nguy cơ cao cần xạ trị trước mổ với
những trường hợp nguy cơ thấp có thể phẫu
thuật ngay. Ngoài ra, tính toàn vẹn của cân mạc
treo sau mổ, di căn hạch và tình trạng diện cắt
dưới cũng là những yếu tố quan trọng để tiên
lượng tái phát tại chỗ. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm xác định độ chính xác, độ
nhạy, độ đặc hiệu, trị số tiên đoán dương tính và
âm tính của cộng hưởng từ trong chẩn đoán giai
đoạn ung thư trực tràng đoạn giữa và dưới được
phẫu thuật triệt để.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả những trường hợp ung thư trực tràng
đoạn giữa và dưới được chẩn đoán bằng nội soi
đại trực tràng sinh thiết, được chụp CHT vùng
chậu để đánh giá giai đoạn trước mổ và phẫu
thuật triệt căn. Phẫu thuật triệt căn bao gồm cắt
trước thấp, cắt gian cơ thắt hay cắt toàn bộ trực
tràng qua ngã bụng và tầng sinh môn có thực
hiện kỹ thuật cắt toàn bộ mạc treo trực tràng.
Chúng tôi không đưa vào nghiên cứu những
trường hợp có kết quả giải phẫu bệnh không
phải là ung thư biểu mô tuyến của trực tràng.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu tiền cứu. Chúng tôi tiến
hành so sánh kết quả đánh giá giai đoạn trước
mổ với kết quả giải phẫu bệnh sau mổ để xác
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 222
định độ chính xác của CHT trong chẩn đoán giai
đoạn ung thư trực tràng.
Kỹ thuật chụp CHT
Chúng tôi sử dụng máy CHT Magnetom
Avanto 3,0 Tesla của hãng Siemens với cuộn
thu liên hợp cho vùng chậu. Sau khi định vị,
chúng tôi thực hiện các lát cắt trên các mặt
phẳng đứng dọc, đứng ngang, và nằm ngang
qua vùng trực tràng, lấy trục của trực tràng
làm chuẩn. Thực hiện các chuỗi xung T2 –
weighted turbo spin echo, TR 3000 – 4000ms,
TE 120 – 130ms, FOV 25 – 28 x 25 – 28cm,
matrix 384 x 269 – 307, độ dày lát cắt # 3 –
5mm, khoảng cách giữa các lát cắt 1 – 1,5mm.
Phân tích hình ảnh
Tổn thương ung thư trực tràng được phân
loại theo hệ thống TNM 2010 (AJCC). Độ xâm
lấn của u trực tràng được xác định bằng mức
độ phá vỡ các lớp của thành trực tràng. Hạch
di căn quanh trực tràng, dọc theo động mạch
chậu trong, chậu ngoài, chậu chung và dọc
theo cơ chéo bụng được đánh giá trên T1w có
dạng hình tròn hoặc hình bầu dục và ghi nhận
khi có đường kính trên 5mm theo trục ngắn,
cấu trúc không đồng nhất, bờ không đều. Kết
quả đánh giá giai đoạn ung thư tràng trên
CHT được đọc bởi hai bác sĩ chẩn đoán hình
ảnh độc lập và tác giả.
Xử lí số liệu
Dữ liệu được thu thập và xử lí bằng phần
mềm SPSS 20.0.
KẾT QUẢ
Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM từ
06/2015 đến tháng 03/2018 có 106 bệnh nhân ung
thư trực tràng đoạn giữa và dưới được chụp
CHT để đánh giá giai đoạn trước mổ và được
phẫu thuật triệt căn.
Tuổi trung bình 59,8 ± 11,3, nhỏ nhất là 31
tuổi, lớn nhất là 88 tuổi.
Có 41 bệnh nhân nữ và 65 bệnh nhân nam, tỉ
lệ nữ:nam xấp xỉ 1:1,6.
Chúng tôi có 77 (72,6%) trường hợp cắt trước
thấp, 6 (5,7%) trường hợp cắt gian cơ thắt và 23
(21,7%) trường hợp cắt toàn bộ trực tràng qua
ngã bụng và tầng sinh môn.
Đánh giá sự xâm lấn tại chỗ của u nguyên phát
Bảng 1: So sánh mức độ xâm lấn trên CHT và giải
phẫu bệnh sau mổ
GIẢI PHẪU BỆNH
CHT
T1 T2 T3 T4a Tổng
T1 2 0 0 0 2
T2 0 11 2 0 13
T3 0 1 72 1 74
T4a 0 0 2 15 17
Tổng 2 12 76 16 106
Kết quả từ bảng 1 cho thấy có 100 (94,3%)
trường hợp tương đồng trong đánh giá mức độ
xâm lấn trên CHT và 6 (5,7%) trường hợp không
tương đồng giữa hình ảnh CHT và giải phẫu
bệnh sau mổ. Trong 6 trường hợp không tương
đồng, 3 trường hợp được đánh giá thấp hơn và 3
trường hợp đánh giá cao hơn mức độ xâm lấn
thực tế. Độ chính xác trung bình giữa 3 người
đọc của của CHT đánh giá mức độ xâm lấn là
94,7%. Các giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính
xác, trị số tiên đoán dương tính và âm tính của
CHT đánh giá mức độ xâm lấn từng giai đoạn
lần lượt là T1 (100%, 100%, 100%, 100%, 100%),
T2 (91,7%, 97,9%, 97,2%, 84,6%, 98,9%), T3
(94,7%, 94,3%, 97,3%, 87,5%), và T4a (93,8%,
97,8%, 97,2%, 88,2%, 98,9%).
Đánh giá di căn hạch bạch huyết
Bảng 2: Tương đồng di căn hạch trên CHT và giải
phẫu bệnh sau mổ
GIẢI PHẪU BỆNH
CHT
N0 N1 N2 Tổng
N0 62 2 0 64
N1 9 18 2 29
N2 0 7 6 13
Tổng 71 27 8 106
Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ ghi nhận 35
(33,02%) trường hợp ung thư trực tràng có di căn
hạch bạch huyết. Kết quả từ bảng 2 cho thấy 86
(81,1%) trường hợp có sự tương đồng giữa đánh
giá di căn hạch trên CHT và giải phẫu bệnh sau
mổ, 16 (15,1%) trường hợp CHT xác định được
số hạch di căn nhiều hơn và 4 (3,8%) trường hợp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 223
hạch di căn được phát hiện ít hơn thực tế. Các
giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, trị số
tiên đoán dương tính và âm tính của CHT đánh
giá mức độ xâm lấn từng giai đoạn lần lượt là
N0 (87,3%, 94,3%, 89,6%, 96,9%, 78,6%), N1
(66,7%, 86,1%, 81,1%, 62,1%, 88,3%), và N2 (75%,
92,9%, 91,5%, 46,2%, 97,8%).
Đánh giá xâm lấn diện cắt vòng quanh trên CHT
Bảng 3: Đánh giá xâm lấn diện cắt vòng quanh
GIẢI PHẪU BỆNH
CHT
CRM (+) CRM (-) Tổng
CRM (+) 25 1 26
CRM (-) 1 79 80
Tổng 26 80 106
Kết quả từ bảng 3 cho thấy 26 trường hợp
ung thư trực tràng có xâm lấn diện cắt vòng
quanh. 1 trường hợp CHT không phát hiện được
tình trạng xâm lấn. độ nhạy, độ đặc hiệu, độ
chính xác, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên
đoán âm của CHT đánh giá xâm lấn diện cắt
vòng quanh lần lượt là 96,2%, 98,8%, 98,1%,
96,2% và 98,8%.
BÀN LUẬN
Ngày nay, với nhiều tiến bộ vượt bậc của
phẫu thuật điều trị ung thư trực tràng thì phẫu
Miles (cắt toàn bộ trực tràng qua ngã tầng sinh
môn và ngã bụng, làm hậu môn nhân tạo vĩnh
viễn) không còn là điều trị chuẩn duy nhất, tỉ lệ
áp dụng phẫu thuât này ngày càng giảm. Nhiều
kỹ thuật mới được ứng dụng như phẫu thuật
nội soi, khâu nối máy, cắt trước thấp hay cắt gian
cơ thắt để bảo tồn cơ thắt hậu môn, và cắt u tại
chỗ. Để ứng dụng được những tiến bộ này và
lập kế hoạch điều trị trước mổ phù hợp thì vai
trò của đánh giá giai đoạn ung thư trước mổ rất
quan trọng và cần thiết. Đánh giá chính xác giai
trước mổ giúp xác định chọn lựa phẫu thuật triệt
để ngay từ đầu hay cần hoá và xạ trị trước mổ
để tăng tỉ lệ thành công của phẫu thuật, tăng tỉ lệ
bảo tồn cơ thắt cũng như kéo dài thời gian sống
thêm sau mổ và hạn chế tái phát(7,9).
Siêu âm nội soi lòng trực tràng, chụp cắt lớp
điện toán và chụp CHT vùng chậu là ba phương
pháp chẩn đoán hình ảnh thường được sử dụng
để đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng. Siêu
âm nội soi lòng trực tràng được xem như tiêu
chuẩn vàng để đánh giá những u ở bề mặt trực
tràng với độ chính xác từ 71 – 81%, độ nhạy và
độ đặc hiệu phát hiện hạch di căn 45 – 89% và 64
– 93%. Tuy nhiên, kỹ thuật này ít chính xác đối
với những u lớn hơn, có xâm lấn sâu hơn các lớp
của thành ruột. Đặc biệt, kỹ thuật này bị giới hạn
khi đánh giá mạc treo trực tràng, một yếu tố rất
quan trọng trong điều trị triệt căn ung thư trực
tràng hiện nay. Ngoài ra, phương tiện này còn
tuỳ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm khảo sát
của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh(1,2,3,8).
Chụp cắt lớp điện toán có thể khắc phục
những hạn chế của siêu âm nội soi lòng trực
tràng. Ngoài ra, thời gian khảo sát của chụp cắt
lớp điện toán nhanh hơn, có thể khảo sát sự xâm
lấn tại chỗ cũng như di căn xa của ung thư trực
tràng trong cùng một lần khảo sát. Tuy nhiên, kỹ
thuật này bị hạn chế khi đánh giá chính xác các
lớp của thành trực tràng và gây nhiễm xạ cho
bệnh nhân(3,10).
Chụp CHT vùng chậu, đặc biệt với cuộn thu
nội lòng trực tràng có thể cho hình ảnh rõ nét về
cấu trúc giải phẫu của những cơ quan ở vùng
chậu và cho phép đánh giá tốt giai đoạn của ung
thư trực tràng. Theo những báo cáo gần đây,
chụp CHT có độ chính xác từ 71 – 91% khi đánh
giá sự xâm lấn tại chỗ của ung thư trực tràng. Độ
nhạy và độ đặc hiệu phát hiện hạch di căn của
chụp CHT có cuộn thu nội lòng trực tràng là 81 –
83% và 66 – 74%(6,7).
Đánh giá sự xâm lấn tại chỗ của u nguyên phát
Theo nghiên cứu của chúng tôi, CHT có độ
chính xác cao trong chẩn đoán mức độ xâm lấn
của u (94,3% - 100% tùy từng giai đoạn). Kết quả
này cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu trên
thế giới về vai trò của CHT trong chẩn đoán giai
đoạn ung thư trực tràng (62 – 96%). Độ chính xác
của CHT với cuộn thu bề mặt có độ chính xác
gần tương đương với cuộn thu nội lòng trực
tràng nhưng bệnh nhân hài lòng hơn vì không
có cảm giác khó chịu của cuộn thu đặt vào lòng
trực tràng. Chúng tôi có 3 trường hợp u được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 224
đánh giá qua giai đoạn (1 u T2 và 2 u T3) và 3
trường hợp u được đánh giá thấp hơn giai đoạn
(2 u T3 và 1 u T4a). Chúng tôi xem xét lại hình
ảnh và nhận thấy những trường hợp đánh giá
quá giai đoạn là do hiện tượng viêm quanh u đã
gây nhầm lẫn với sự xâm lấn của u. Trường hợp
u T3 được đánh giá thấp hơn giai đoạn thực tế
có hình ảnh xâm lấn trên CHT rất mơ hồ và khó
kết luận u ở giai đoạn T3. Để chẩn đoán u ở giai
đoạn T3 cần có sự hiện diện của cường độ tín
hiệu thấp của u lan rộng vào vùng cường độ tín
hiệu cao của mô mỡ quanh trực tràng, những
hình ảnh này được khảo sát tốt nhất trên chuỗi
xung T1–weighted(6,10).
Trong hầu hết các nghiên cứu về CHT đánh
giá giai đoạn ung thư trực tràng, sự sai sót
thường xảy ra khi đánh giá u T2 và T3. Những
trường hợp được đánh giá quá giai đoạn thường
do phản ứng tạo xơ quanh u. Hiện tượng này dễ
gây nhầm lẫn khi phân biệt giữa xâm lấn kiểu
tua gai của u với xơ hóa quanh u đơn thuần. Vấn
đề này sẽ nghiêm trọng hơn khi sử dụng CHT
đánh giá mức độ xâm lấn của u đối với những
trường hợp u được xạ trị trước mổ. Sau xạ trị,
hiện tượng phù nề, viêm, xơ hóa và hoại tử sẽ
gây khó khăn khi đánh giá xấm lấn của u trên
hình ảnh học(5,6).
Đánh giá di căn hạch
Với các tiêu chuẩn hạch di căn bao gồm: hình
dạng (tròn), bờ (không đều, tua gai), tín hiệu
(không đồng nhất), chúng tôi ghi nhận CHT có
độ chính xác chẩn đoán di căn hạch các giai đoạn
lần lượt là 89,6% (N0), 81,1% (N1) và 91,5% (N2).
Độ chính xác trong nghiên cứu của chúng tôi
cũng tương đồng với các nghiên cứu khác về các
giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác. Đặc
biệt, chúng tôi không chỉ dựa đơn thuần vào tiêu
chuẩn kích thước hạch để xác định hạch di căn.
Tuy nhiên, chúng tôi có có 16 (15,1%) trường
hợp xác định số lượng hạch di căn nhiều hơn
thực tế và 4 (3,8%) trường hợp đánh giá di căn
hạch thấp hơn thực tế. Đây là những trường hợp
CHT hạch di căn được xác định trên CHT và bỏ
sót có kích thước < 5mm và 5 – 9mm. Khả năng
của CHT trong chẩn đoán hạch di căn còn nhiều
hạn chế, độ nhạy cũng như độ đặc hiệu không
cao và thay đổi nhiều qua các nghiên cứu khác
nhau. Theo các nghiên cứu, với tiêu chuẩn
đường kính hạch lớn hơn 5mm (đo theo trục
ngắn) được xem như hạch di căn thì độ nhạy của
CHT là 75 – 90,9%(3,7,9). Xác định hạch di căn
vẫn còn là một vấn đề khó đối với các nhà hình
ảnh học. Trên CHT độ phân giải cao, các nhà
hình ảnh học có thể phát hiện những hạch có
đường kính nhỏ 0,2 – 0,4cm. Tuy nhiên, khẳng
định những hạch này là di căn hay lành tính là
vấn đề khó. Nghiên cứu của chúng tôi có độ
chính xác khá cao trong chẩn đoán. Di căn hạch
là yếu tố tiên lượng quan trọng trong ung thư
trực tràng, giúp quyết định hóa trị sau mổ cũng
như tiên lượng thời gian sống thêm. Hiện nay
chưa có sự đồng thuận về tiêu chuẩn (kích
thước, hình thái, cường độ tín hiệu) để phân biệt
hạch di căn với hạch bình thường và hạch viêm.
Theo tiêu chuẩn hình thái học, khó phân biệt
hạch lớn do di căn hay phản ứng, và đối với
những hạch nhỏ, đôi khi là hạch di căn vi thể và
bị bỏ sót. Theo các nghiên cứu, một số tác giả ghi
nhận tất cả những hạch phát hiện được và các
nhà nghiên cứu khác chỉ kết luận hạch di căn khi
đường kính hạch lớn hơn các tiêu chuẩn kích
thước đề ra (3mm, 5mm hay 10mm). Như vậy,
chẩn đoán di căn hạch vẫn còn là vấn đề hạn chế
đối với CHT. Gần đây, một số nghiên cứu sử
dụng oxide sắt siêu cận từ cực nhỏ (Ultrasmall
superparamagnetic iron oxide – USPIO) đã ang
lại những kết quả hứa hẹn về khả năng của CHT
chẩn đoán di căn hạch(3,9).
Đánh giá xâm lấn cân mạc treo trực tràng
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy CHT
có độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, giá trị tiên
đoán dương và giá trị tiên đoán âm cao trong
chẩn đoán xâm lấn cân mạc treo trực tràng, lần
lượt là 96,2%, 98,8%, 98,1%, 96,2% và 98,8%. Kết
quả này cũng tương tự kết luận từ các nghiên
cứu về vai trò của CHT tiên đoán xâm lấn cân
mạc treo trực tràng. Xâm lấn cân mạc treo trực
tràng là yếu tố quan trọng để quyết định xạ trị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 225
trước phẫu thuật hay không? CHT là phương
pháp chẩn đoán hình ảnh học có khả năng cao
giúp chọn lọc những bệnh nhân cần hóa xạ trị
tân hỗ trợ. Hiện nay, xâm lấn cân mạc treo được
xem là yếu tố tiên lượng tái phát tại chỗ quan
trọng hơn mức độ xâm lấn xuyên thành của u.
Trên CHT, nhà hình ảnh học dễ dàng xác định
khoảng cách giữa u hay hạch di căn và cân mạc
treo trực tràng, nếu khoảng cách này ≥ 5 mm thì
cân mạc treo không bị xâm lấn, 2 – 5 mm được
xem như giáp biên và ≤ 1 mm là cân mạc treo bị
xâm lấn. Theo một nghiên cứu gần đây, những
trường hợp ung thư trực tràng có xâm lấn cân
mạc treo được xác định trước mổ sẽ phải xạ trị
bắt buộc trước phẫu thuật, điều này giúp giảm tỉ
lệ tái phát tại chỗ từ 8,2% xuống còn 2,4% trong 2
năm. Xâm lấn diện cắt vòng quanh liên quan
chặt chẽ với nguy cơ tái phát tại chỗ và tái phát
tại chỗ sẽ giảm nếu ung thư trực tràng xâm lấn
cân mạc treo được xạ trị trước phẫu thuật. Theo
Wibe, xâm lấn cân mạc treo cũng liên quan đến
di căn xa và tử vong. Như vậy, tiên đoán xâm
lấn cân mạc treo trực tràng có vai trò quan trọng
trong lập kế hoạch điều trị ung thư trực tràng,
góp phần giảm tỉ lệ tái phát tại chỗ và cải thiện tỉ
lệ sống còn sau 5 năm(3,6,9). CHT là phương tiện
hình ảnh được ưu tiên sử dụng trong chẩn đoán
giai đoạn ung thư trực tràng vì khả năng quan
sát rõ ranh giới ngoài của u và cân mạc treo trực
tràng. Do đó, nhà hình ảnh học cần xác định
chính xác tình trạng xâm lấn cân mạc treo tại
thời điểm ung thư trực tràng được chẩn đoán.
KẾT LUẬN
CHT vùng chậu với cuộn thu bề mặt là
phương tiện chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn
có độ chính xác cao trong đánh giá giai đoạn ung
thư trực tràng, đặc biệt là khả năng tiên đoán
tình trạng xâm lấn cân mạc treo trực tràng trước
phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bali C, et al (2004). Assessment of local stage in rectal cancer
using endorectal ultrasonography. Tech coloproctol, 8: 170-173.
2. Beets-Tan RG, Beets GL (2004). Rectal cancer: review with
emphasis on MR imaging. Radiology, 232: 773-783.
3. Bipat S, Afina SG (2004). Rectal cancer: local staging and
assessment of lymph node involvement with endoluminal
US, CT and MR imaging – A meta-analysis. Radiology, 232:
773-783.
4. Bissett IP, Charatha CF (2001). Identification of the fascia
propria by magnetic resonance imaging and its relevance to
preoperative assessment of rectal cancer. Dis colon rectum,
44(2): 259-265.
5. Botterill ID, Blunt DM (2001). Evaluation of the role of
preoperative magnetic resonance imaging in the management
of rectal cancer. Blackwell science Ltd, 3: 295-303.
6. Franco L, Laghi A (2006). Preoperative staging of rectal cancer
with MR imaging: Correlation with surgical and
histopathologic findings. Radiographics, 26: 701-714.
7. Giuseppe G, et al (2002). Preoperative staging of rectal cancer
using magnetic resonance imaging with external phase-
arrayed coils. Arch surg, 137: 447-451.
8. Kim NK, Myung JK (2000). Preoperative staging of rectal
cancer with MRI: accuracy and clinical usefulness. Annals of
surgical oncology, 7(10): 732-737.
9. MacFarlane JK, Ryall RD, Heald RJ (1993). Mesorectal excision
for rectal cancer. Lancet. 341:457-460.
Mathur P, Smith J (2003). Comparison of CT and MRI in the
preoperative staging of rectal adenocarcinoma and prediction of
circumferential resection margin involvement by MRI. Colorectal
disease. 5: 396-401.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cong_huong_tu_danh_gia_giai_doan_ung_thu_truc_trang_doan_giu.pdf