Tài liệu Công bằng xã hội với chính sách bảo trợ xã hội trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế: Xã hội học số 1 - 2007 25
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI TRONG
MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Nguyễn Hải Hữu
1. Quan niệm về công bằng xã hội trong chính sách Bảo trợ xã hội
Quan niệm về công bằng xã hội trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách Bảo
trợ xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thế nào cho phù hợp và
được đông đảo người dân chấp nhận đang là một vấn đề được nhiều người quan tâm. Để đưa
ra được một quan niệm hợp lý, trước hết cần thống nhất khái niệm về Bảo trợ xã hội. Hiện
nay có khá nhiều quan niệm về Bảo trợ xã hội do các tổ chức Quốc tế như Ngân hàng thế giới
(WB); Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Cơ quan phát triển quốc tế Anh Quốc (DFID); Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO). Hầu hết các tổ chức này đều đưa ra khái niệm Bảo trợ xã hội
với nội hàm rất rộng tương tự như nội hàm về an sinh xã hội. Trong bối cảnh hiện nay ở nước
ta, Bảo trợ xã hội ở t...
8 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 939 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công bằng xã hội với chính sách bảo trợ xã hội trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 1 - 2007 25
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI TRONG
MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Nguyễn Hải Hữu
1. Quan niệm về công bằng xã hội trong chính sách Bảo trợ xã hội
Quan niệm về công bằng xã hội trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách Bảo
trợ xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thế nào cho phù hợp và
được đông đảo người dân chấp nhận đang là một vấn đề được nhiều người quan tâm. Để đưa
ra được một quan niệm hợp lý, trước hết cần thống nhất khái niệm về Bảo trợ xã hội. Hiện
nay có khá nhiều quan niệm về Bảo trợ xã hội do các tổ chức Quốc tế như Ngân hàng thế giới
(WB); Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Cơ quan phát triển quốc tế Anh Quốc (DFID); Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO). Hầu hết các tổ chức này đều đưa ra khái niệm Bảo trợ xã hội
với nội hàm rất rộng tương tự như nội hàm về an sinh xã hội. Trong bối cảnh hiện nay ở nước
ta, Bảo trợ xã hội ở thường được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Bảo trợ xã hội theo nghĩa
rộng nó có khái niệm, nội hàm và vai trò giống như an sinh xã hội; còn Bảo trợ xã hội theo
nghĩa hẹp (truyền thống) là hệ thống cơ chế, chính sách và các giải pháp của Nhà nước và
cộng đồng xã hội nhằm trợ giúp và bảo vệ những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong cuộc sống
(còn gọi chung là đối tượng xã hội) ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
Bảo trợ xã hội theo nghĩa hẹp này không có đầy đủ chức năng phòng ngừa, hạn chế và
khắc phục rủi ro cho tất cả các thành viên trong xã hội. Độ bao phủ của nó chỉ giới hạn trong
phạm vi các đối tượng xã hội chứ không phải hướng tới tất cả các thành viên trong xã hội và
hoạt động của nó mang nặng tính bị động đối phó với rủi ro hơn là chủ động phòng ngừa và
hạn chế rủi ro. Dựa vào cách phân chia Bảo trợ xã hội theo nghĩa rộng và hẹp nêu trên, trong
phạm vi nghiên cứu của chủ đề này, chúng tôi giới hạn Bảo trợ xã hội theo nghĩa hẹp và sử
dụng khái niệm sau: “Bảo trợ xã hội là hệ thống các chính sách, chế độ, hoạt động của chính
quyền nhà nước các cấp và hoạt động của cộng đồng xã hội dưới các hình thức và biện pháp
khác nhau, nhằm mục tiêu giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc hẫng hụt trong cuộc
sống có điều kiện tồn tại và có cơ hội hòa nhập cuộc sống chung của cộng đồng, góp phần
đảm bảo ổn định và công bằng xã hội”1
- Đối tượng của chính sách Bảo trợ xã hội: Theo khái niệm nêu trên đối tượng của
chính sách Bảo trợ xã hội là những người yếu thế gặp nhiều thiệt thòi khó khăn trong cuộc
sống như: Người già cô đơn, người từ 90 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập; Trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt; Người tàn tật không còn khả năng lao động; Những người gặp rủi ro bởi
thiên thiên tai bão lũ, lụt, hạn hán. Từ năm 2007 có thể bổ sung thêm một số đối tượng như :
Người từ 85 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập; Phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi
...Tóm lại họ là nhóm người yếu thế trong cuộc sống và cần sự trợ giúp của cộng đồng xã hội
và Nhà nước.
- Quan điểm về xây dựng và thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội
Chính sách bảo trợ xã hội cho các đối tượng yếu thế chủ yếu mang tính chất trợ giúp
một phần để cùng các gia đình khắc phục rủi ro, bảo đảm mức sống tối thiểu cho các đối
1 Thuật ngữ Lao động Thương binh Xã hội. Nxb Lao động Xã hội. 1999. Trang 54.
Công bằng xã hội với chính sách Bảo trợ xã hội...
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
26
tượng Bảo trợ xã hội hay nói cách khác là bảo đảm an toàn cuộc sống cho họ, không để họ rơi
vào tình trạng bần cùng hóa. Trợ giúp xã hội được thực hiện bằng hai hình thức là trợ giúp
hàng tháng (thường xuyên) và trợ giúp đột xuất; có thể trợ cấp bằng tiền, bằng hiện vật hoặc
hình thức hỗ trợ khác, tuỳ theo tính chất rủi ro và nhu cầu trợ giúp của từng nhóm đối tượng.
Chế độ trợ giúp, trợ cấp xã hội cho các đối tượng Bảo trợ xã hội phải dựa vào mức độ
khó khăn, nhu cầu trợ giúp, độ tuổi của từng nhóm đối tượng; Thực hiện theo nguyên tắc
hướng vào nhu cầu và mức độ khó khăn; Người khó khăn nhiều mức trợ cấp, trợ giúp cao
người khó khăn ít hơn, không áp dụng cơ chế bình quân, bào đảm sự công bằng trong chính
sách Bảo trợ xã hội
- Quan niệm về công bằng xã hội trong xây dựng và thực hiện chính sách Bảo trợ xã
hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Vấn đề công bằng trong chính sách Bảo trợ xã hội trước hết thể hiện quan niệm của
một giai cấp, của đông đảo quần chúng nhân dân về sự công bằng nội tại trong hệ thống chính
sách Bảo trợ xã hội và sự công bằng giữa chính sách Bảo trợ xã hội với các chính sách an sinh
xã hội và sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Từ cách đặt vấn đề như trên, quan
niệm về công bằng trong việc thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội phải đáp ứng được các yêu
cầu sau:
(i) Hướng tới và bao phủ tất cả các đối tượng Bảo trợ xã hội; Tất cả đối tượng khó
khăn gặp nhiều thiệt thòi trong cuộc sống đều được trợ giúp phù hợp với nhu cầu và điều kiện
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
(ii) Đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tượng Bảo trợ xã hội; không để bất cứ
đối tượng bảo trợ xã hội nào rơi vào tình cảnh bần cùng hóa
(iii) Bảo đảm sự hợp lý trong các chế độ trợ cấp, trợ giúp giữa các nhóm đối tượng;
người khó khăn nhiều, nhu cầu trợ giúp cao hơn được trợ giúp nhiều hơn, không áp dụng cơ
chế bình quân chủ nghĩa.
(iv) Tạo cơ hội và năng lực cho các đối tượng hòa nhập cuộc sống cộng đồng; Việc trợ
giúp xã hội phải lấy mục tiêu hàng đầu là tạo cho đối tượng Bảo trợ xã hội những cơ hội và
năng lực cần thiết để tự họ vươn lên hòa nhập cuộc sống cộng đồng
(v) Bảo đảm sự hài hòa giữa chính sách Bảo trợ xã hội với các chính sách Bảo hiểm xã
hội, chính sách đối với người có công và chính sách tiền lương. Điểm mấu chốt của sự hài hòa
này là sự hài hòa của các mức chuẩn.
(vi) Bảo đảm sự hài hòa giữa chính sách Bảo trợ xã hội với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội và chất lượng cuộc sống của dân cư; để duy trì mối quan hệ tương đối bình đẳng hoặc
bất bình đẳng ở mức vừa giữa các nhóm dân cư, đó là sự bất bình đẳng chấp nhận được.
2. Nội dung công bằng trong chính sách bảo trợ xã hội
Công bằng trong chính sách Bảo trợ xã hội được xem xét trên hai phương diện đó là
công bằng tương đối và công bằng tuyệt đối.
(i) Công bằng tương đối: Sự công bằng tương đối thể hiện trên góc độ chủ yếu sau
đây:
- Trước hết phải chấp nhận công bằng tương đối tức là có sự chênh lệch về thu nhập,
mức sống và tài sản ( bao gồm cả bất động sản tiền vốn) giữa đối tượng bảo trợ xã hội và
người nghèo với các nhóm dân cư khác, vì những người có tri thức, có tài sản, có tiền vốn họ
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh họ có quyền được nhận phần thu nhập lớn hơn người không
Nguyễn Hải Hữu
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
27
có tài sản, tiền vốn; điều này hoàn toàn phù hợp với sự đa dạng hóa về cơ chế phân phối thu
nhập đó là phân phối theo theo lao động, trí thức, tài sản và tiền vốn. tức là vẫn khuyến khích
người dân làm giàu và chấp nhận có một bộ phận dân cư nghèo tương đối trong đó có nhóm
đối tượng bảo trợ xã hội.
- Thứ hai sự công bằng tương đối còn thể hiện ở sự khác biệt về chế độ trợ cấp, trợ
giúp giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế, thậm chí giữa các tỉnh có
điều kiện kinh tế - xã hội phát triển khác nhau. Trong những năm qua ở nước ta Chính phủ chỉ
quy định mức trợ cấp xã hội tối thiểu, còn mức trợ cấp, trợ giúp cụ thể Chính phủ giao cho
Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố quyết định cho phù hợp với điều kiện thực tế
của từng địa phương.
- Thứ ba, sự công bằng tương đối còn thể hiện ở sự hài hòa giữa chính sách Bảo trợ
xã hội với các chính sách Bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người có công và chính sách
tiền lương. Điểm mấu chốt để xem xét sự hài hòa này chính là xem xét mối tương quan giữa
các "mức chuẩn" chính sách người có công, mức chuẩn trợ cấp xã hội, mức chuẩn Bảo hiểm
xã hội. Về nguyên tắc không có sự cào bằng 3 mức chuẩn này song cũng không có sự cách
biệt quá lớn. Các đối tượng có sự đóng góp, cống hiến khác nhau sẽ được hưởng lợi khác
nhau, nhưng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự chênh lệch
giữa các mức chuẩn này cũng phải có giới hạn hợp lý. Giới hạn này có mối quan hệ chặt chẽ
với khoảng cách chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa nhóm giàu và nhóm nghèo; làm
sao để giới hạn này nằm trong khoảng tương đối bình đẳng hoặc bất bình đằng vừa, không
nên để giới hạn khoảng cách chênh lệch này trong khoảng bất bình lớn
(ii) Công bằng tuyệt đối: Chính sách trợ giúp xã hội là hệ thống thể chế, cơ chế, giải
pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội hướng vào đối tượng bảo trợ xã hội những người
không gặp may mắn trong cuộc sống và thường không có khả năng tự bảo đảm về mặt kinh tế
cho cuộc sống cá nhân của họ. Sự công bằng tuyệt đối trong việc xây dựng và thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội thể hiện trên 3 góc độ:
- Thứ nhất là công bằng trong xây dựng và thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thể
hiện ở việc từng bước hướng tới bao phủ toàn bộ các đối tượng bảo trợ xã hội, tức là các đối
tượng thật sự khó khăn, có nhu cầu trợ giúp; không để "lọt lưới" đối tượng bảo trợ xã hội,
nhưng cũng không để "rò rỉ" vào hệ thống này các đối tượng chưa thật sự khó khăn, còn khả
năng tự lực về kinh tế. Để từng bước hướng tới bao phủ toàn bộ các đối tượng bảo trợ xã hội,
cần có tiêu chí, cơ chế xác định các đối tượng Bảo trợ xã hội hợp lý; mặt khác cũng phải
thường xuyên rà soát, xem xét việc xuất hiện các đối tượng Bảo trợ xã hội mới do quá trình
phát triển kinh tế- xã hội nẩy sinh. Vì rằng kinh tế thị trường càng phát triển thì phân hóa giàu
nghèo càng có xu hướng gia tăng và trong bối cảnh hội nhập toàn cầu cũng làm nảy sinh
nhiều vẫn đề xã hội bức xúc trong đó có các đối tượng bảo trợ xã hội mới.
- Thứ hai là thể hiện ở việc phải bảo đảm mức sống tối thiểu của đối tượng bảo trợ xã
hội thông qua chính sách trợ cấp xã hội và chính sách trợ giúp về y tế, giáo dục... Trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận tình trạng "người ăn
không hết kẻ lần không ra" tức là không có thành viên xã hội nào dù họ là ai phải lâm vào tình
trạng bần cùng hóa. Nhà nước và cộng đồng xã hội có trách nhiệm chia sẻ khó khăn và giúp
đỡ các đối tượng Bảo trợ xã hội. Việc xác định mức sống tối thiểu đỏi hỏi phải xuất phát từ
nhu cầu chi tiêu tối thiểu của dân cư nói chung và chế độ trợ cấp xã hội phải xuất phát từ nhu
cầu thiết yếu của từng nhóm đối tượng Bảo trợ xã hội để họ duy trì cuộc sống, đó là mức bảo
đảm những nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người, bảo đảm quyền được sống của con người,
dưới mức đó họ sẽ lâm vào tình trạng bần cùng hóa và không được coi là con người .
Công bằng xã hội với chính sách Bảo trợ xã hội...
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
28
Mức sống tối thiểu là căn cứ quan trọng nhất để thiết kế chế độ trợ cấp và trợ giúp xã
hội do vậy phải được tính toán một cách khoa học và phải thường xuyên được điều chỉnh cho
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống trung bình của dân cư. Thông thường
mức sống tối thiểu dao động trong khoảng 1/2 đến 1/3 mức sống trung bình của dân cư, tùy
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Kinh tế tăng trưởng khoảng 1% thì
chỉ số giá cả tăng khoảng 0,4- 0,7%. Còn giá cả tiêu dùng tăng 1% thì mức sống tối thiểu tăng
khoảng 0,71%2.
- Thứ ba là công bằng xã hội của hệ thống chính sách Bảo trợ xã hội thể hiện trong
việc giúp đỡ và tạo cơ hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội còn năng lực nhất định các cơ hội
hòa nhập cuộc sống cộng đồng thông qua các chính sách dạy nghề, tạo việc làm, chỉnh hình
phục hồi chức năng, tức là tạo cho họ năng lực, từng bước xoá bỏ các rào cản về mặt nhận
thức xã hội, tiếp cận dịch vụ xã hội, tiếp cận giao thông, và công nghệ thông tin bình đẳng
như những người bình thường khác.
2 Theo tính toán của Ngân hàng thế giới qua số liệu khảo sát ở 36 quốc gia.
Nguyễn Hải Hữu
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
29
3. Các chỉ số đánh giá:
Việc đánh giá mức độ công bằng trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách Bảo
trợ xã hội phải được phải được tiếp cận từ góc độ quyền con người và quyền được bảo vệ của
các thành viên trong xã hội và mối quan hệ với phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia
trong từng thời kỳ cụ thể. Từ cách lập luận trên có thể xây dựng và đánh giá công bằng xã hội
của hệ thống chính sách Bảo trợ xã hội thông qua 3 nhóm chỉ số cơ bản sau:
- Chỉ số bao phủ: Chỉ số bao phủ nhằm đo lường bao nhiêu phần trăm đối tượng bảo
trợ xã hội được tham gia hệ thống chính sách trợ giúp xã hội . Mục tiêu của hệ thống trợ giúp
xã hội là hướng tới bao phủ toàn bộ đối tưởng Bảo trợ xã hội. công thức tính như sau:
Trong đó: C tgxh là chỉ số bao phủ của hệ thống trợ giúp xã hội
C tgxh = P tgxh : P btxh
P tcxh số người được trợ cấp xã hội, trợ giúp
P là tổng đối tượng bảo trợ xã hội
Để đánh giá chỉ số này một cách khách quan, trung thực đòi hỏi phải quản lý thật chắc
các đối tượng Bảo trợ xã hội tại cộng đồng thông qua việc xác định đúng số đối tượng có nhu
cầu trợ giúp, đó là những nhu cầu thực sự, phù hợp với tiêu chí xác định chứ không phải chỉ là
sự mong muốn, và nắm chắc số đối tượng được trợ cấp xã hội và trợ giúp hàng năm, trong đó
số được trợ cấp xã hội có ý nghĩa quan trọng nhất.
- Chỉ số tác động: Chỉ số tác động nhằm đo lường mức độ tác động đến cuộc sống của
những người tham gia hệ thống trợ giúp xã hội, xét về mặt lý thuyết chỉ số này dao động từ 0
đến bội số K nào đó, nhưng trên thực tiễn ở nước ta hiện nay nó luôn luôn nhỏ hơn 1. Chỉ số
này cũng được tính bằng cách so sánh tiền trợ cấp bình quân cho các đối tượng bảo trợ xã hội
và trợ giúp khác ngoài trợ cấp như chi phí bảo hiểm y tế, giáo dục... với mức chi tiêu bình
quân của dân cư trong một tháng. Chỉ số này có ý nghĩa quan trọng trong việc tính toán chế
độ trợ cấp nhằm bảo vệ các đối tượng bảo trợ xã hội có được mức sống ngang bằng với mức
sống tối thiểu của cộng đồng dân cư , giảm thiểu bất bình đẳng xã hội. Việc đặt ra mục tiêu
giảm bất bình đẳng xã hội, bảo đảm mức sống của các đối tượng bảo trợ xã hội tuỳ thuộc vào
sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. Chỉ số này còn có ý nghĩa làm
cơ sở cho việc điều chỉnh mức chuẩn và các mức trợ cấp xã hội cho phù hợp với từng nhóm
đối tượng bảo trợ xã hội. Công thức tính như sau:
Ip y = TCjy : MS y
Trong đó: Ipj y là chỉ số tác động năm thứ y
TCj y là mức trợ cấp, trợ giúp trung bình năm thứ y
MS y là mức sống trung bình dân cư năm thứ y.
- Chỉ số tài chính: Chỉ số tài chính được coi là một trong những chỉ số quan trọng để
đánh giá về công bằng xã hội trong thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội; chỉ số này đo lường
nguồn tài chính mà chính phủ dành cho các đối tượng bảo trợ xã hội chiếm bao nhiêu phần
trăm so với GDP hoặc Ngân sách của Chính phủ. Đối với một số nước tính toán được chỉ số
này thì riêng Ngân sách dành đối tượng xã hội chiếm khoảng 4- 5% chi tiêu của Chính phủ
hoặc 1-2% GDP. Đối với nước ta con số này quá nhỏ và khó tính toán, vì cơ chế phân bổ tài
Công bằng xã hội với chính sách Bảo trợ xã hội...
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
30
chính của nước ta chia theo ngành, vũng lãnh thổ và tính chung cho lĩnh vực Bảo đảm xã hội,
chưa tính riêng cho lĩnh vực Bảo trợ xã hội. Công thức này được tính như sau:
Trong đó: TLtc là tỷ lệ phần trăm tài chính chi cho Bảo trợ xã hội
TC btxh
T L tc = ------------------------
GDP hoặc NS cp
TC btxh là tài chính dành cho chính sách Bảo trợ xã hội
GDP là tổng thu nhập quốc dân
NS cp Ngân sách của Chính phủ hàng năm.
ững vấn
c bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa công
bằng x
ội cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng đã được điều
chỉnh 3
a chính sách trợ giúp xã hội trong thời gian qua cũng bộc lộ một
số vấn
bảo trợ xã hội tương đối thấp, thể hiện: Thứ nhất
là tiêu
i đến chất lượng cuộc sống của
các đối
4. Nh đề bức xúc đặt ra hiện nay
Những vấn đề bức xúc nhất đặt ra trong việ
ã hội và tăng trưởng kinh tế trong chính sách Bảo trợ xã hội là độ bao phủ đối tượng
Bảo trợ xã hội còn thấp; mức độ tác động đến chất lượng cuộc sống của đối tượng Bảo trợ xã
hội còn hạn chế; cơ chế tài chính để thực hiện các chính sách Bảo trợ xã hội chưa đáp ứng
yêu cầu thực tế. Ngân sách dành cho trợ giúp các đối tượng xã hội còn quá ít ỏi so với Ngân
sách nhà nước. Điều này có thể thấy rõ qua việc Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội trong
thời gian qua. Trong vòng 6 năm, từ 2000 đến 2005 số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội
đã tăng từ 175.355 người lên 416.000 người. Về tỷ lệ so với đối tượng thuộc diện được hưởng
tăng từ 36,35% năm 2000 lên trên 50% năm 2005. Trong bối cảnh khó khăn ngân sách mà số
lượng đối tượng xã hội được hưởng chính sách tăng trên 2 lần là sự cố gắng hết sức của Chỉnh
phủ và các địa phương.
Mức trợ cấp xã h
lần trong giai đoạn 1994-2005: từ số tiền tương đương 12 kg gạo/tháng lên 45 nghìn
đồng và lên 65 nghìn đồng
Tuy vậy, hạn chế củ
đề hạn chế chưa bảo đảm công bằng xã hội trong phạm vi chung cả nước và từng vùng
miền thể hiện trên các điểm chính sau đây:
- Thứ nhất là độ bao phủ đối tượng
chí xác định đối tượng thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội quá chặt, chính sách quy
định những người được trợ giúp là những đối tượng xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
tiêu chí đặc biệt khó khăn ở đây vô hình dung đã loại bỏ những đối tượng có hoàn cảnh khó
khăn nhưng ở dưới ngưỡng đặc biệt. Thứ hai là có nhiều đối tượng có hoàn cảnh khó khăn
nhưng chính sách Bảo trợ xã hội chưa với tới được vì nhiều lý do khác nhau song chủ yếu vẫn
là lý do thiếu nguồn ngân sách để thực hiện, ví dụ người già không có lương hưu, không có
nguồn thu nhập phải sống phụ thuộc gia đình, con cháu; phụ nữ đơn thân nuôi con; những
người có thu nhập thấp không bảo đảm mức sống tối thiểu...
- Mức độ tác động của các chính sách trợ giúp xã hộ
tượng Bảo trợ xã hội còn rất hạn chế: Mức độ tác động của các chính sách, chương
trình trợ giúp xã hội tới cuộc sống của các đối tượng Bảo trợ xã hội nhìn chung rất thấp, vì
mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng xã hội sống tại cộng đồng chỉ bằng 18% so
với tiền lương tối thiểu và cũng bằng khoảng 17% mức sống trung bình của cộng đồng dân
cư, nếu so với mức sống tối thiểu (chuẩn nghèo nông thôn được coi là mức sống tối thiểu)
trong giai đoạn hiện nay thì cũng chỉ bằng 32%. Hầu hết đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội
Nguyễn Hải Hữu
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
31
lại là những đối tượng sống trong các gia đình nghèo và với một mức trợ cấp xã hội như vậy
thì khó có thể bảo đảm cuộc sống ở mức tối thiểu nếu như không có sự cung cấp tài chính của
gia đình, cộng đồng và xã hội. Với quan điểm xã hội hóa công tác trợ giúp xã hội là cần thiết
và việc Nhà nước trợ giúp chỉ là một phần còn phần khác là gia đình, cộng đồng, xã hội song
cũng phải tính đến bảo đảm an toàn cuộc sống cho các đối tượng và gia đình của họ ở mức tối
thiểu. Các mức trợ giúp khác cũng tương tự, rất thấp không phù hợp với giá cả thị trường,
ngoại trừ chính sách trợ giúp khám chữa bệnh có mệnh giá mua thẻ bảo hiểm y tế ngang bằng
với các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc.
- Ngoài ra cơ chế tài chính để thực hiện chính sách trợ cấp xã hội và trợ giúp chưa
đảm bả
kiện ph
iển chính sách Bảo trợ xã
hội trên
ệc mở rộng diện bao phủ, hướng tới bao phủ tất cả các đối tượng Bảo trợ xã hội
được c
lượng cuộc sống của các đối tượng bảo
trợ xã h
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng
o nguồn chi, đặc biệt là các địa phương nghèo, còn nhiều khó khăn về kinh tế. Theo
báo cáo của các địa phương, một số tỉnh thành phố đạt chỉ số bao phủ ở mức 80 - 90%, trong
khi đó một số tỉnh thành phố chỉ đạt mức 30- 40%; mặt khác một số địa phương, chủ yếu là
cấp huyện chưa đảm bảo chế độ trợ cấp xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội ở mức tối thiểu do
Nhà nước quy định. Nguyên nhân chính là cấp tỉnh và huyện thiếu nguồn tài chính để thực
hiện các chính sách Bảo trợ xã hội. Vì rằng theo cơ chế phân cấp quản lý tài chính hiện hành,
cấp tỉnh và huyện là cấp chịu trách nhiệm chính trong việc cân đối tài chính cho việc thực
hiện chính sách trợ cấp xã hội và thực hiện chính sách trợ giúp. Mặt khác theo quy định của
Luật Ngân sách hiện hành nguồn kinh phí để thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội được cân
đối chung trong mục Bảo đảm xã hội, không tách thành một mục riêng, mà các địa phương thì
quá nhiều nhu cầu chi, dẫn đến tình trạng thiếu nguồn để chi cho chính sách Bảo trợ xã hội .
5. Xu thế thực hiện công bằng xã hội trong chính sách Bảo trợ xã hội trong điều
át triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Xu thế chung thực hiện công bằng xã hội trong việc phát tr
phạm vi toàn thế giới là phát triển theo từng bước hướng tới bao phủ tất cả đối tượng
bảo trợ xã hội; nâng cao mức độ tác động đến chất lượng cuộc sống của các đối tượng bảo trợ
xã hội; bảo đảm tính công khai minh bạch về phân bổ tài chính; tăng cường phân cấp cho cơ
sở và tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình phát triển các chính sách Bảo trợ
xã hội.
Vi
hú trọng trên cả 2 khía cạnh rà soát tiêu chí xác định đối tượng hiện có theo hướng
thông thóang hơn, bổ sung đối tượng bảo trợ xã hội mới do quá trình phát triển kinh tế thị
trường nẩy sinh như đối tượng là người thu nhập thấp.
Từng bước nâng cao mức độ tác động đến chất
ội cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Xu hướng
chung chỉ ra rằng kinh tế càng phát triển, chất lượng cuộc sống càng nâng cao, do vậy mức
sống tối thiểu cũng phải từng bước điều chỉnh nâng cao, dẫn đến mức chuẩn trợ cấp xã hội và
các chế độ trợ cấp xã hội cho từng nhóm đối tượng cũng từng bước điều chỉnh nâng cao cho
phù hợp với mức sống trung bình của cộng đồng dân cư và mức độ tăng trưởng kinh tế trong
từng thời kỳ. Mặt khác xu thế chung cũng chỉ ra rằng cần có cơ chế tài chính, công khai, minh
bạch hơn trong việc thực hiện các chính sách Bảo trợ xã hội, sự minh bạch này thể hiện bằng
việc phân bổ tài chính cho việc thực hiện các chính sách Bảo trợ xã hội có thể đo đếm được,
giám sát được, thông thường chỉ số tài chính.
Đối với nước ta đang trong quá trình
xã hội chủ nghĩa thì mối quan hệ giữa công bằng xã hội với tăng trưởng kinh tế trong
việc xây dựng và thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng. Để giải
Công bằng xã hội với chính sách Bảo trợ xã hội...
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
32
quyết hài hòa mối quan hệ này nước ta cần định hướng theo xu hướng chung của thế giới về
phát triển chính chính sách Bảo trợ xã hội . Tuy nhiên trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta việc
hướng tới bao phủ tất cả các đối tượng Bảo trợ xã hội và nâng cao dần mức độ tác động đến
chất lượng cuộc sống của các đối tượng phải được thực hiện theo nguyên tắc tiếp cận từng
bước, và có lộ trình trong một số năm nhất định.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so1_2007_nguyenhaihuu_8896.pdf