Tài liệu Con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm đường luật - Hà Ngọc Hòa: 131
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012
CON NGƯỜI NHÀN DẬT, TỰ TẠI TRONG THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT
Hà Ngọc Hòa
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Tóm tắt. Trong thơ Nôm Đường luật, con người nhàn dật, tự tại xuất hiện khi lý
tưởng bổn phận của người trí thức bắt đầu chao đảo trước hiện thực đời sống. Khác
với con người hành đạo luôn chủ trương nhập thế, con người nhàn dật, tự tại lại
ước muốn quay về với quê hương, ruộng vườn, để thanh thản với cuộc sống “Cày
lấy ruộng mà ăn, đào lấy giếng mà uống”. Từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Khuyến,
con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm Đường luật đã có những biểu hiện khác
nhau, góp phần làm cho văn học trung đại Việt Nam trở nên sâu sắc và tinh tế trong
việc phân tích, mổ xẻ các trạng thái tâm hồn con người.
Thế kỷ XV, khi Nho giáo chiếm địa vị độc tôn trong thượng tầng kiến trúc
phong kiến, thì cũng chính là lúc thơ Nôm Đường luật khẳng định vị trí của mình
trong dòng chung của văn chương dân tộc. Tư tư...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 711 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm đường luật - Hà Ngọc Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
131
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012
CON NGƯỜI NHÀN DẬT, TỰ TẠI TRONG THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT
Hà Ngọc Hòa
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Tóm tắt. Trong thơ Nôm Đường luật, con người nhàn dật, tự tại xuất hiện khi lý
tưởng bổn phận của người trí thức bắt đầu chao đảo trước hiện thực đời sống. Khác
với con người hành đạo luôn chủ trương nhập thế, con người nhàn dật, tự tại lại
ước muốn quay về với quê hương, ruộng vườn, để thanh thản với cuộc sống “Cày
lấy ruộng mà ăn, đào lấy giếng mà uống”. Từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Khuyến,
con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm Đường luật đã có những biểu hiện khác
nhau, góp phần làm cho văn học trung đại Việt Nam trở nên sâu sắc và tinh tế trong
việc phân tích, mổ xẻ các trạng thái tâm hồn con người.
Thế kỷ XV, khi Nho giáo chiếm địa vị độc tôn trong thượng tầng kiến trúc
phong kiến, thì cũng chính là lúc thơ Nôm Đường luật khẳng định vị trí của mình
trong dòng chung của văn chương dân tộc. Tư tưởng đạo đức – chính trị của học
thuyết Nho giáo, được các nhà thơ khai thác trên nhiều bình diện, nhiều thể loại khác
nhau và trở thành âm hưởng chủ đạo cho văn học viết từ thế kỷ XV trở về sau. Cùng
với những thay đổi về tư tưởng, hình tượng nhân vật trong thơ Nôm Đường luật cũng
có nhiều xáo trộn và vận động không ngẫu nhiên, mà con người nhàn dật, tự tại là một
minh chứng điển hình.
Khác với con người hành đạo luôn háo hức nhập thế, để thực hiện lý tưởng “trí
quân, trạch dân”, con người nhàn dật, tự tại lại ước muốn xuất thế, quay lưng với cuộc
đời, sống yên phận “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực” (Tề thư - Đào giếng mà uống,
cày ruộng mà ăn), mặc cho thế sự xoay vần đổi thay:
Cày ăn đào uống yên đòi phận,
Sự thế chăng hay đã Hán Tần
(Nguyễn Trãi. Tự thán. Bài 32)
Để minh chứng cho sự vận động của con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm
Đường luật từ thế kỷ XV trở về sau, chúng tôi đã khảo sát và lập bảng thống kê: (1)
132
Con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm Đường luật
STT Tên tác phẩm
Tổng số
bài thơ
Số bài Tỷ lệ (%)
01 Quốc âm thi tập 254 101 39,76%
02 Hồng Đức quốc âm thi tập 328 0 0
03 Bạch Vân quốc ngữ thi tập 161 73 45,34%
04 Thơ Nguyễn Khuyến 80 16 20%
05 Thơ Tú Xương 117 0 0
Nhìn vào bảng thống kê, chúng ta thấy con người nhàn dật, tự tại chiếm tỷ lệ cao
trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Trãi (39,76%), Nguyễn Bỉnh Khiêm (45,34%)
và hầu như không xuất hiện trong Hồng Đức quốc âm thi tập của vua Lê Thánh Tông và
Hội Tao đàn. Điều này, không gây bất ngờ cho người đọc, vì “giàn đồng ca” thời đại ấy
không có chỗ cho những “nốt nhạc trầm”. Trên con đường “về đích”, thơ Nôm Đường
luật cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua tiếng cười “như mảnh vỡ thủy tinh” (Chế Lan
Viên) của ông Tú thành Nam, đã có sự kết hợp phức điệu giữa trào phúng và trữ tình
trong việc phơi bày “tấn trò đời” của xã hội Việt Nam buổi giao thời. Nhưng nền kinh
tế hàng hóa của đời sống thị dân “Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” (Tú Xương. Chữ
nho) không phải là “miền đất hứa” cho những nhà nho - nhà thơ lánh đục về trong giữa
cuộc đời nhiễu nhương, bụi bặm. Vì thế, con người nhàn dật, tự tại không xuất hiện
trong thơ Tú Xương, âu cũng là điều dễ hiểu.
Khi so sánh Nho giáo ở hai thời kỳ phát triển khác nhau của thế kỷ XV, qua hai
nhân vật tiêu biểu: Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có
những nhận xét thú vị “Nho giáo Nguyễn Trãi còn dung chứa nhiều yếu tố Phật giáo và
Lão Trang, đặc biệt là Trang. Điều này thật khác với Nho giáo, thời Lê Thánh Tông, khi
nó trở thành quốc giáo, và vừa lên ngôi độc tôn bèn đàn áp tín ngưỡng dân gian, kì thị
Phật giáo, Đạo giáo và loại chúng ra khỏi đời sống chính thức của cung đình. Bởi thế,
nhà nho quân tử thời Lê Thánh Tông tuy đạo cao đức trọng nhưng thật phiến diện một
chiều. Một chiều trong lối sống, lối cảm, lối nghĩ. Đó là con người không có con người
tự nhiên, con người không có con người cá nhân, con người không có lạc thú cá nhân,
con người chức năng. Điều này thật khác với nhà Nho mới Nguyễn Trãi - một con người
phong phú, đa diện, nhiều chiều kích, giàu tài năng. Tuy thời đại Nguyễn Trãi không
hẳn là thời đại có khả năng sinh ra những người khổng lồ như Hy Lạp cổ đại, phục
hưng Châu Âu hoặc nước Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhưng tôi vẫn thấy ông là
một người khổng lồ một cách đơn độc” (Loại hình các nhân vật trong lịch sử văn học
Việt Nam thế kỷ X- XIX). Những nhận xét trên, một lần nữa giúp chúng ta lý giải được
tại sao trong Nguyễn Trãi lại có nhiều con người đến như vậy và tại sao bên cạnh một
133
Nguyễn Trãi “Ơn quân thân cực nặng” vẫn có một Nguyễn Trãi luôn cô độc trên hành
trình đi tìm nhân nghĩa cho cuộc đời.
Nguyễn Trãi (1380-1442) lớn lên khi mà cục diện chính trị, lịch sử có nhiều thay
đổi. Nhà Trần suy vong. Nhà Hồ cướp ngôi. Nhà Minh mượn tiếng “Diệt Hồ phục
Trần” kéo quân sang xâm lược. Gia đình và bản thân cũng gặp nhiều biến cố. Năm
1407, nhà thơ bị cuốn vào cơn lốc lịch sử. Mười năm ở Đông Quan. Mười năm theo
minh chúa nằm gai nếm mật. Đất nước thái bình, nhà thơ lại bị vua Lê giam vào ngục vì
những lời xu nịnh, gièm pha của chốn quan trường “Miệng thế nhọn hơn chông mác
nhọn” (Bảo kính cảnh giới. Bài 9). Những biến động xảy ra dồn dập, khiến tâm hồn đa
cảm ấy nhận ra thực chất vấn đề “Ta dư cửu bị nho quan ngộ / Bản thị canh nhàn điếu
tịch nhân” (Nguyễn Trãi. Đề Từ Trọng phủ Canh ẩn đường) (Thân ta bị cái mũ nhà nho
đánh lừa đã lâu / Vốn ta là người cày (trong thanh) nhàn, câu (trong hiu) quạnh. Đề
Canh ẩn đường của Từ Trọng phủ). Lặp đi lặp lại trong Quốc âm thi tập và cả trong Ức
Trai thi tập là con người luôn khao khát - khao khát đến cháy bỏng thoát khỏi lợi danh
vây, thoát khỏi “cửa quyền nhiều hiểm hóc; đường lợi cực quanh co” (Nguyễn Trãi.
Ngôn chí. Bài 20), ước muốn “Đem công danh đổi lấy cần câu” (Nguyễn Trãi. Mạn
thuật. Bài 8), để quay trở về với quê nhà, sống thanh thản với chính mình:
Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú ông này
(Nguyễn Trãi. Mạn thuật. Bài 6)
Vẫn biết, trong tâm hồn luôn cuồn cuộn sóng ấy, bao giờ cũng trăn trở, dằn vặt
giữa lạc thú cá nhân và con người chức năng bổn phận, nhưng những ngày tháng -
những khoảnh khắc ngắn ngủi “Qui khứ lai từ”, đốn ngộ bằng triết lý Phật giáo, bằng tư
tưởng Lão - Trang, hiển hiện trong thơ là một Ức Trai khác, một Ức Trai thanh thản đến
kỳ lạ, một Ức Trai đắm mình trong thiên nhiên, bầu bạn cùng trăng gió và đúng nghĩa
“cày lấy ruộng mà ăn”:
- Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bẻ cây
(Nguyễn Trãi. Ngôn chí. Bài 11)
- Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
(Nguyễn Trãi. Ngôn chí. Bài 16)
Khi đã “mũ ni che tai” trước những nhiễu nhương của cuộc đời, thì thiên nhiên,
không gian bán sơn địa luôn là sự lựa chọn tối ưu của con người nhàn dật, tự tại. Từ
năm 1435 đến năm 1440, Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn - nơi mà tuổi thơ của ông đã trải
qua những ngày tháng êm đềm với ông ngoại - Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán để “Độc
134
thiện kỳ thân”. Có lẽ, “Quốc âm thi tập” được sáng tác nhiều trong thời gian này. Hiển
hiện trong thơ là một triết gia luôn đắm mình trong thiên nhiên, đón nhận bốn mùa xoay
chuyển, mọi vật đến rồi đi bằng cái tâm thanh tĩnh, biết vượt lên trên mọi hư ảo, phù
hoa thế sự. Vì thế, người đọc không hề ngạc nhiên khi những hình ảnh “chim kêu hoa
nở, chè mai đêm nguyệt, quét trúc, thưởng mai, kho thu phong nguyệt, thuyền chở yên
hà”... xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Trãi như những người bạn tri âm, tri kỷ của hồn
thơ ung dung, tự tại. Điều này cho thấy, chủ trương nhập thế của học thuyết Nho giáo
vẫn không ngăn nổi những phút xao lòng của người trí thức; khát vọng “Xênh xang áo
phượng sân rồng” vẫn không tránh khỏi ước muốn “an bần lạc đạo”, quay trở về cố
hương để dưỡng thân nhàn bằng cuộc sống “ăn cơm rau, uống nước suông, gối đầu lên
đá mà ngủ” của nền kinh tế tự cung tự cấp:
- Ao cạn vớt bèo cấy muống
Trì thanh phát cỏ ương sen
(Nguyễn Trãi. Thuật hứng. Bài 24)
- Ngày tháng kê khoai những sản hằng,
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng
(Nguyễn Trãi. Mạn thuật. Bài 1)
Khác với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) nhập thế khi chế độ
phong kiến bước dần vào con đường suy tàn. Chiến tranh giữa ba tập đoàn Mạc - Trịnh -
Nguyễn xẩy ra liên miên, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Ra làm quan với triều
đình nhà Mạc, không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm không thấy những khó khăn trước mắt,
nhưng ông vẫn tin vào sự phục hưng của chế độ, vào tài “phù nghiêng đỡ lệch” của
mình, để rồi cuối cùng phải ngậm ngùi “Giúp nước thương dân chưa thỏa lòng ta hồi
trước. Băn khoăn rất thẹn già không có tài” (Trung Tân quán ngụ hứng) treo mũ từ
quan, về lại làng Trung Am quê nhà, vui thú “Một mai, một cuốc, một cần câu”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài 73) đến trọn tuổi trời.
Cũng như các nhà thơ ẩn dật trong quá khứ, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thường nói
đến “nhàn”, “tiên”, “vô sự”, “lâng lâng”, “tự tại”: “Thân nhàn, phúc lại được về
nhàn” (Bài 11); “Tự tại ngày qua mấy kẻ bằng” (Bài 66); “Vô sự thì hơn nữa ngọc
vàng” (Bài 90); “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc/ Thuyền chở yên hà nặng với
then” (Bài 128) Nhưng, “nhàn” trong thơ ông vẫn đượm nỗi niềm ưu thời mẫn thế
của một con người luôn nặng lòng với bổn phận, với cuộc đời “Tấm lòng tiên ưu đến
già chưa thôi” (Tự thuật). Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vũ Khâm Lân cho rằng
“Tuy ở nhà bốn mươi tư năm mà lòng không ngày nào quên đời, ưu thời mến tục đều lộ
trong thơ” (2). Con người nhàn dật, tự tại trong Tuyết Giang phu tử vì thế vẫn chưa
thoát khỏi học thuyết Nho giáo, vẫn chưa ra ngoài quan niệm “hành-tàng”, “xuất-xử”,
“nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư” để hòa mình vào thế giới của Lão Trang. Đằng
135
sau cái thú thanh nhàn “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách/ Được thú, ta đà có thú ta” (Bài
31), đằng sau cuộc sống nhàn hạ của nền kinh tế tự cung tự cấp “Thu ăn măng trúc,
đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Bài 73) vẫn là:
- Quân thân thề hết lòng thờ một
Xuất xử cầu chưa đạo được hai
(Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài 12)
- Nghĩa cả luống quên tôi chúa cũ
Thề xưa nỡ phụ nước non xanh
(Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài 13)
Cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Khuyến (1835-1909) ra làm quan khi đất nước đang
từng ngày rơi vào tay giăc. Lý tưởng “Thượng trí quân, hạ trạch dân” (Trên thì giúp
vua, dưới thì chăm dân) ôm ấp một đời, giờ trở nên lạc lõng trước hiện thực đời sống.
Mười năm làm quan. Mười năm vào Nam ra Bắc, chứng kiến sự hèn yếu của vua quan
nhà Nguyễn, thấy được những nỗ lực trong tuyệt vọng của phong trào Cần Vương, để
rồi lẳng lặng lui về khi mới bước vào độ tuổi “tri thiên mệnh”. Dẫu biết rằng, lui về
trong cảnh nước mắt nhà tan chưa chắc bạn bè, con cháu đã khen, nhưng - lui về là bảo
toàn danh tiết khi “lương tri, lương năng chưa đến nỗi mất” (Đêm xuân thương con
thiêu thân).
Hai mươi lăm năm cuối đời, Nguyễn Khuyến sống trong cảnh nước mất nhà tan.
Xã hội phong kiến cổ truyền trở thành một xã hội thực dân nửa phong kiến đầy những
chuyện “chướng tai gai mắt” đang làm tha hóa nền đạo đức truyền thống của dân tộc
“Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu” (Nguyễn Khuyến. Hội Tây). Nền kinh tế tự túc, tự
nhiên cổ xưa bị biến mất và thay vào đấy là nền kinh tế hàng hóa, tạo nên sự cách biệt
giàu - nghèo, làm con người mất thuần phác. Hơn thế, nhà thơ lui về trong một tâm
trạng đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn về lý tưởng, về bổn phận tôi trung,... Tất cả những đặc
điểm ấy làm cho nhà thơ ít có cảm giác tận hưởng trọn vẹn thú vui nhàn tản thoát tục
của các nhà nho ẩn dật xưa “Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước / Ngán kẻ phương trời
chẳng dứt dây” (Nghe hát đêm khuya). Và dường như trong không gian nhỏ hẹp của
“Vườn Bùi chốn cũ” ấy, tâm trạng của con người ẩn dật cũng không mấy thanh thản:
- Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
(Nguyễn Khuyến. Thu vịnh)
- Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
(Nguyễn Khuyến. Thu ẩm)
136
- Ngần ấy năm nay vẫn ở nhà
Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta
(Nguyễn Khuyến. Cáo quan về ở nhà)
Đất đai, ruộng vườn của làng quê Yên Đổ đã hóa tâm hồn thơ Nguyễn Khuyến
bằng những cảm xúc chân thành. Ở đấy, có không gian lễ hội tràn ngập tiếng cười, có
cảnh sinh hoạt đầm ấm, chan hòa, có những tập tục văn hóa cổ truyền của một vùng quê
nghèo “chiêm khê mùa thối” được “lưu giữ” qua hàng loạt bài thơ như “Lên lão; Dựng
nhà tế đường; Chợ Đồng; Cảnh tết; Khai bút” Có điều, sau những tiếng ồn ào là
khoảng không thinh lặng của tâm hồn; sau những giây phút thăng hoa “Một năm một
tuổi, trời cho tớ/ Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng” (Nguyễn Khuyến. Khai bút) là nỗi
niềm “nhớ nước vẫn nằm mơ” của một hồn thơ đầy bế tắc và mâu thuẫn trước thực
trạng đất nước đương thời “Cờ đương dở cuộc không còn nước/ Bạc chửa thâu canh đã
chạy làng” (Nguyễn Khuyến. Tự trào). Chuyển sang những trải nghiệm mới, con người
nhàn dật, tự tại trong thơ Nguyễn Khuyến dần trở nên khác lạ so với truyền thống của
cha ông. Vì thế, các hình ảnh “chim kêu hoa nở, gánh yên hà, kho thu phong nguyệt”
hầu như không xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến, âu cũng là điều dễ hiểu. Trước sau
Nguyễn Khuyến vẫn là một nhà nho - một nhà nho ít thanh thản trong cuộc đời:
Người cũ xa xăm thương bóng chiếc
Bước xưa ngất ngưởng ngại chân giày
(Nguyễn Khuyến. Núi lão huyện ta)
Tóm lại, ước vọng ngoài vòng cương tỏa, lánh đục về trong của con người nhàn
dật, tự tại đã có những biểu hiện khác nhau giữa các nhà thơ, giữa các thời đại trong quá
trình phát triển của thơ Nôm Đường luật. Nhờ có hình tượng nhân vật này, mà văn học
trung đại Việt Nam có thêm những sắc thái mới về người trí thức nho sĩ và có thêm
những cảm nhận mới về sự lựa chọn tư tưởng Nho - Phật - Lão trong cuộc đời hành -
tàng, xuất - xử của các nhà nho - nhà thơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Xuân Diệu (giới thiệu), Thơ văn Nguyễn Khuyến (tái bản lần thứ hai), Nxb. Văn học,
Hà Nội, 1979.
2. Phạm Trọng Điểm, Bùi Văn Nguyên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb. Văn học, Hà
Nội, 1982.
3. Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập (in lần thứ hai), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1976.
4. Nguyễn Văn Huyền, Tú Xương- Tác phẩm giai thoại, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1987.
137
5. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983.
6. Đinh Gia Khánh (chủ biên), (tái bản lần thứ 3), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, (1998), 430.
LEISURE MAN IN THE POETRY OF NOM-DUONG LUAT
Ha Ngoc Hoa
College of Sciences, Hue University
Abstract. In the poetry of Nom-Duong luat, leisure man appeared when the
intellectual’s ideal and responsibility begins fluctuating in the reality of
life.Different from man doing the work of mandarins, leisure man wishes to return
to his hometown and rice field in order to enjoy life “Ploughing rice for eating,
digging well for drinking water”. From Nguyen Trai to Nguyen Khuyen, leisure
man in the poetry of Nom-Duong Luat has exposed different expressions and has
made the Middle Age Literature of Vietnam profound and subtle in the process of
analyzing, exploiting the soul states of human beings.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 141_2496_4507_2118019.pdf