Tài liệu Cơ xương - Tế bào bị lãng quên trong hoạt động điều hòa kali máu: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 5
CƠ XƯƠNG - TẾ BÀO BỊ LÃNG QUÊN
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÒA KALI MÁU
Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Lệ*
MỞ ĐẦU
Tăng hoặc giảm K+ máu là tình huống lâm
sàng thường xảy ra, có thể dẫn đến loạn nhịp
nghiêm trọng. Thuốc là nguyên nhân quan trọng
trong sự xuất hiện rối loạn K+ máu. Hạ K+ máu
xảy ra khi K+ máu < 3,5 mEq/l. Giảm Kali máu
gây cản trở dẫn truyền thần kinh (qua
acetylcholine) đưa tới liệt cơ, giảm phản xạ gân
xương, nhịp chậm, ngưng tim (rung thất hoặc vô
tâm thu). Ngược lại, tăng Kali máu xảy ra khi K+
máu > 5 mEq/l. Tăng K+ máu chủ yếu dẫn đến
các biểu hiện trên tim mạch như hồi hộp, khó
thở, rối loạn nhịp, nếu cao quá có thể đe dọa tính
mạng người bệnh. Tăng kali máu cũng có thể
gây ra các triệu chứng thần kinh cơ như dị cảm
đầu chi hoặc vùng quanh miệng(6). Các thay đổi
trên điện tâm đồ thường được ghi nhận trong
tăng K+ máu: sóng T cao nhọn, đối xứng; b...
3 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ xương - Tế bào bị lãng quên trong hoạt động điều hòa kali máu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 5
CƠ XƯƠNG - TẾ BÀO BỊ LÃNG QUÊN
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÒA KALI MÁU
Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Lệ*
MỞ ĐẦU
Tăng hoặc giảm K+ máu là tình huống lâm
sàng thường xảy ra, có thể dẫn đến loạn nhịp
nghiêm trọng. Thuốc là nguyên nhân quan trọng
trong sự xuất hiện rối loạn K+ máu. Hạ K+ máu
xảy ra khi K+ máu < 3,5 mEq/l. Giảm Kali máu
gây cản trở dẫn truyền thần kinh (qua
acetylcholine) đưa tới liệt cơ, giảm phản xạ gân
xương, nhịp chậm, ngưng tim (rung thất hoặc vô
tâm thu). Ngược lại, tăng Kali máu xảy ra khi K+
máu > 5 mEq/l. Tăng K+ máu chủ yếu dẫn đến
các biểu hiện trên tim mạch như hồi hộp, khó
thở, rối loạn nhịp, nếu cao quá có thể đe dọa tính
mạng người bệnh. Tăng kali máu cũng có thể
gây ra các triệu chứng thần kinh cơ như dị cảm
đầu chi hoặc vùng quanh miệng(6). Các thay đổi
trên điện tâm đồ thường được ghi nhận trong
tăng K+ máu: sóng T cao nhọn, đối xứng; bất
thường trong dẫn truyền nhĩ (sóng P giảm dần
rồi biến mất) và dẫn truyền nhĩ thất (block xoang
nhĩ và block nhĩ thất); bất thường trong dẫn
truyền thất với giãn rộng phức hợp QRS; nhịp
nhanh thất, rung thất, ngừng tim.
Hầu hết các tế bào trong cơ thể đều sở hữu
bơm Na+-K+-ATPase, giúp đẩy ion Na+ ra ngoài
và đưa ion K+ vào trong tế bào, chịu trách nhiệm
duy trì sự chênh lệch nồng độ K+ và điện thế ở 2
bên màng. Như vậy, K+ chủ yếu nằm trong khu
vực nội bào (chiếm hơn 90% lượng K+ của toàn
cơ thể, đa số được dự trữ ở cơ xương), chỉ có một
số ít ở khu vực ngoại bào. Tổng lượng K+ trong
cơ thể vào khoảng 30 mEq/l, trong đó số lượng
đưa vào qua khẩu phần ăn dao động từ 50-100
mEq/ngày, số lượng thải qua đường phân và mồ
hôi là 10 mEq/ngày, còn lại chủ yếu thải qua
thận. Do đó, thận giữ vai trò quan trọng trong sự
thăng bằng K+. Nồng độ K+ huyết tương được
kiểm soát rất chặt chẽ, giới hạn từ 3,5-5 mEq/l,
nhằm đảm bảo hoạt động điện của các tế bào,
nhất là ở các mô kích thích như thần kinh và cơ
tim. Cơ thể có nhiều yếu tố tham gia điều hòa ổn
định nồng độ K+ huyết tương, trong đó thận và
cơ xương là 2 cơ quan quan trọng nhất(7).
Thận là cơ quan chủ yếu chịu trách nhiệm
duy trì tổng lượng K+ trong cơ thể bằng cách cân
bằng giữa K+ nhập và xuất hàng ngày. Quá trình
bài xuất ion K+ thực hiện chủ yếu tại đoạn sau
ống lượn xa và ống góp dưới tác động của
hormon aldosterone. Tuy nhiên, sự điều chỉnh
nồng độ K+ tại thận diễn ra chậm, kéo dài trong
khoảng vài giờ, do đó K+ ngoại bào cần được
đệm nhanh chóng bởi sự vận chuyển K+ ra vào
các tế bào cơ xương(3). Quá trình tái phân bố ion
K+ giữa 2 khu vực nội bào và ngoại bào được gọi
nội cân bằng K+. Như vậy, cơ xương hoạt động
như một hồ chứa K+ dùng để đệm cho nồng độ
K+ huyết tương luôn ở trạng thái cân bằng, tạo
điều kiện cho các tế bào trong cơ thể hoạt động
ổn định. Trong điều kiện bình thường, yếu tố
quan trọng nhất để thiết lập nội cân bằng K+ là
các hormon insulin và catecholamine. Trong một
số rối loạn bệnh lý, sự thay đổi của áp suất thẩm
thấu máu và thăng bằng kiềm toan cũng làm
thay đổi nội cân bằng K+(1).
CÁC HORMON ĐIỀU CHỈNH NỘI CÂN
BẰNG K+ TRONG ĐIỀU KIỆN BÌNH THƯỜNG
Sau bữa ăn, sự bài tiết insulin từ tuyến tụy
không chỉ điều hòa nồng độ glucose huyết, mà
còn có vai trò vận chuyển ion K+ từ thức ăn vào
tế bào, chủ yếu là cơ xương, cho đến khi thận kịp
đào thải K+ và tái lập lại cân bằng nội môi.
Insulin có 3 mô đích chính trong cơ thể là: mô
gan, mô cơ xương, và mô mỡ. Chức năng của
* Bộ môn Sinh lý học, Đại Học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS. Lê Quốc Tuấn ĐT: 01696929792 Email: tuan_lqc@yahoo.com
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 6
insulin tại mô đích được thực hiện thông qua
việc đưa các kênh GLUT4 (glucose transporter
4), và các bơm Na+-K+-ATPase lên màng tế bào(2).
Điều này dẫn đến tăng hấp thu glucose và ion K+
từ dịch ngoại bào vào nội bào, làm giảm nồng độ
glucose và K+ huyết tương. Ở những bệnh nhân
có hội chứng chuyển hóa hoặc suy thận, sự hấp
thu glucose qua trung gian insulin bị suy giảm,
nhưng sự hấp thu K+ vào tế bào vẫn diễn ra bình
thường(5). Do vậy, trong điều trị tiêm truyền
insulin liều cao, cần lưu ý dự phòng hạ K+ máu,
có thể dẫn đến ảnh hưởng lên hoạt động dẫn
truyền tại tim, nhất là trên bệnh nhân hôn mê.
Các hormon catecholamine (adrenaline,
noradrenaline) từ tuyến tủy thượng thận cũng
tham gia điều chỉnh nội cân bằng K+, trong đó
nhóm thụ thể α-adrenergic có tác dụng làm suy
giảm, còn nhóm thụ thể β-adrenergic (β2) thì
thúc đẩy K+ nhập bào bằng cách kích hoạt bơm
Na+-K+-ATPase. Hiệu ứng này đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động thể thao. Ở điều kiện bình
thường, sự co cơ khi tập luyện sẽ kết hợp với
việc vận chuyển ion K+ theo hướng từ nội bào ra
dịch kẽ, có thể đạt đến mức 10-12 mM với các bài
vận động mạnh. Sự tích lũy K+ trong khu vực
ngoại bào là một yếu tố hạn chế tính kích thích
và lực co của cơ xương, dẫn đến sự mỏi cơ(4).
Ngoài ra, tăng K+ trong dịch kẽ còn làm giãn
mạch nhanh, gây tăng lưu lượng máu đến cơ. Do
đó, trong lúc này, sự giải phóng catecholamine
gây kích thích lên thụ thể β2 sẽ làm giảm tình
trạng tích tụ K+ ngoại bào, và giới hạn lưu lượng
máu đến cơ xương(8).
Như vậy, cả 2 lộ trình tín hiệu nội bào điều
hòa sự thu nhận ion K+ qua trung gian thụ thể
β2-adrenergic và insulin đều dẫn đến hấp thu K+
bằng cách kích thích hoạt động của các bơm Na+-
K+-ATPase trong cơ xương. Hormon
catecholamine kích thích lên thụ thể β2-
adrenergic dẫn đến tạo cAMP và hoạt hóa
protein kinase A(1). Hormon insulin gắn vào thụ
thể của nó, dẫn đến phosphoryl hóa các protein
IRS-1 (insulin receptor substrate 1), gây hoạt hóa
enzyme PI3-K (phosphatidylinositide 3-kinase),
tiếp theo là kích hoạt enzyme PDPK1 (3-
phosphoinositide dependent protein kinase-1).
Sau đó, đến lượt mình, PDPK1 hoạt hóa 2
enzyme khác nhau: con đường phụ thuộc Akt
chịu trách nhiệm đưa kênh GLUT4 lên màng tế
bào để hấp thu glucose; và con đường aPKC
(atypical protein kinase C) dẫn đến đưa bơm
Na+-K+-ATPase lên màng và hấp thu ion K+.
ÁP SUẤT THẨM THẤU VÀ pH MÁU
ĐIỀU CHỈNH NỘI CÂN BẰNG K+
TRONG ĐIỀU KIỆN BỆNH LÝ
Những thay đổi trong các rối loạn kiềm
toan và áp suất thẩm thấu máu cũng ảnh
hưởng đến nội cân bằng ion K+. Tăng đường
huyết qua mức, như trong biến chứng tăng áp
suất thẩm thấu ở bệnh nhân đái tháo đường,
dẫn đến kéo nước từ khu vực nội bào ra khu
vực ngoại bào, tạo điều kiện thuận lợi cho
dòng vận chuyển K+ ra ngoài theo dung môi.
Ngoài ra, sự co rút tế bào trong môi trường ưu
trương của dịch kẽ cũng góp phần làm tăng
nồng độ K+ nội bào, hình thành nên một
gradient thích hợp cho sự xuất bào của K+.
Về mặt sinh lý, toan chuyển hóa nội bào có
thể được phân thành 2 típ: toan chuyển hóa
muối (mineral acidosis) do sự xuất hiện dư
thừa của các anion vô cơ (là các acid mạnh,
sinh ra do sự oxy hóa protein và acid nucleic);
và toan chuyển hóa hữu cơ (organic acidosis)
do sự xuất hiện dư thừa của các anion hữu cơ
(thường sinh ra từ sự oxy hóa không hoàn
toàn glucose hoặc triglyceride, đặc trưng bởi
tình trạng suy giảm con đường chuyển hóa
năng lượng trong các tế bào). Cả 2 típ toan
chuyển hóa này đều dẫn đến giảm pH máu và
gây ảnh hưởng lên nội cân bằng K+ tại cơ
xương, tuy nhiên típ toan chuyển hóa muối
gây xáo trộn nhiều hơn. Hiệu quả chung của
toan hóa máu là gây mất K+ nội bào, có lẽ
không phải do hoạt động trao đổi trực tiếp
giữa ion H+ và ion K+ qua màng, mà đúng hơn
là do ảnh hưởng lên các kênh vận chuyển ion
bình thường của tế bào cơ xương(7).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 7
Khi cơ thể bị toan chuyển hóa, trong dịch
ngoại bào, nồng độ H+ tăng cao, còn nồng độ
HCO3- đang giảm thấp. Trong toan chuyển hóa
muối (gây ra bởi các anion vô cơ), sự giảm pH
ngoại bào sẽ làm giảm hoạt động của cả bơm
trao đổi Na+-H+ (NHE1: Na+-H exchanger 1) và
kênh đồng vận chuyển Na+-3HCO3- (NBCe1 và
NBCe2: natri-bicarbonate cotransporter 1, 2). Sự
giảm nồng độ Na+ nội bào sẽ kéo theo giảm hoạt
động của bơm Na+-K+-ATPase, dẫn đến rò rỉ K+
ra ngoại bào. Ngoài ra, sự giảm nồng độ HCO3-
trong dịch ngoại bào còn làm tăng hoạt động của
kênh trao đổi Cl--HCO3-, đưa ion Cl- vào khu vực
nội bào, điều này càng làm tăng cường hơn nữa
dòng K+ ra ngoài qua kênh đồng vận chuyển K+-
Cl-. Trong toan chuyển hóa hữu cơ (gây ra bởi
các anion hữu cơ), sự rò rỉ ion K+ ra ngoài ít hơn
rất nhiều. Trong trường hợp này, có một lượng
lớn anion hữu cơ và ion H+ đi vào tế bào cơ
xương thông qua kênh MCT (MCT1, MCT4:
monocarboxylate transporter 1, 4). Ngược lại với
toan chuyển hóa muối, sự tích lũy acid làm hạ
thấp pH nội bào, kích thích Na+ di chuyển vào tế
bào qua bơm Na+-H+ (NHE1) và kênh Na+-
3HCO3- (NBCe1, NBCe2). Sự tăng nồng độ Na+
nội bào sẽ kích thích bơm Na+-K+-ATPase hoạt
động, giảm thiểu sự rò rỉ K+ ra ngoại bào(7).
KẾT LUẬN
Tăng hoặc giảm K+ máu là tình huống lâm
sàng thường xảy ra, có thể dẫn đến loạn nhịp
nghiêm trọng. Thận là cơ quan chủ yếu chịu
trách nhiệm duy trì tổng lượng K+ trong cơ thể
bằng cách cân bằng giữa K+ nhập và xuất hàng
ngày. Tuy nhiên, sự điều chỉnh nồng độ K+ tại
thận diễn ra chậm, kéo dài trong khoảng vài giờ,
do đó K+ ngoại bào cần được đệm nhanh chóng
bởi sự vận chuyển K+ ra vào các tế bào cơ xương.
Như vậy, cơ xương hoạt động như một hồ chứa
K+ dùng để đệm cho nồng độ K+ huyết tương
luôn ở trạng thái cân bằng, tạo điều kiện cho các
tế bào trong cơ thể hoạt động ổn định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bundgaard H, Kjeldsen K (2002). Potassium depletion
increases potassium clearance capacity in skeletal muscles in
vivo during acute repletion. Am J Physiol Cell Physiol; 283:
C1163–C1170.
2. Ho K (2011). A critically swift response: Insulin-stimulated
potassium and glucose transport in skeletal muscle. Clin J Am
Soc Nephrol; 6: 1513–1516.
3. McDonough AA, Youn JH (2005). Role of muscle in
regulating extracellular [K+]. Semin Nephrol; 25: 335–342.
4. McKenna MJ, Bangsbo J, Renaud JM (2008). Muscle K+, Na+,
and Cl disturbances and Na+-K+ pump inactivation:
Implications for fatigue. J Appl Physiol; 104: 288–295.
5. Nguyen TQ, Maalouf NM, Sakhaee K, Moe OW (2011).
Comparison of insulin action on glucose versus potassium
uptake in humans. Clin J Am Soc Nephrol; 6: 1533–1539.
6. Palmer BF (2010). A physiologic-based approach to the
evaluation of a patient with hyperkalemia. Am J Kidney Dis;
56: 387–393.
7. Palmer BF (2015). Regulation of Potassium Homeostasis.
Clinical Journal of American Society of Nephrology; 10(6): 1050-
60.
8. Williams ME, Gervino EV, Rosa RM, Landsberg L, Young JB,
Silva P, Epstein FH (1985). Catecholamine modulation of
rapid potassium shifts during exercise. N Engl J Med; 312:
823–827.
Ngày nhận bài báo: 20/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_xuong_te_bao_bi_lang_quen_trong_hoat_dong_dieu_hoa_kali_m.pdf