Tài liệu Cơ sở lý luận về du lịch và du lịch mạo hiểm: 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH MẠO HIỂM
1.1 Lý luận về du lịch
1.1.1 Định nghĩa về Du lịch
Du lịch là một ngành “công nghiệp không khói” góp phần tăng thu nhập quốc gia và giải quyết
công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động. Ngày nay nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam đã ưu tiên phát triển ngành du lịch như một ngành mũi nhọn quốc gia mình. Vì vậy trước tiên
để có thể khai thác hiệu quả ngành này chúng ta cần phải hiểu được bản chất của nó.
Theo liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of Official Travel
Oragnization: IUOTO): du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với điạ điểm cư
trú thường xuyên cuả mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề
hay một việc kiếm tiền sinh sống...tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma _ Italia ( 21/8 –
5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động k...
50 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 3256 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Cơ sở lý luận về du lịch và du lịch mạo hiểm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH MẠO HIỂM
1.1 Lý luận về du lịch
1.1.1 Định nghĩa về Du lịch
Du lịch là một ngành “công nghiệp không khói” góp phần tăng thu nhập quốc gia và giải quyết
công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động. Ngày nay nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam đã ưu tiên phát triển ngành du lịch như một ngành mũi nhọn quốc gia mình. Vì vậy trước tiên
để có thể khai thác hiệu quả ngành này chúng ta cần phải hiểu được bản chất của nó.
Theo liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of Official Travel
Oragnization: IUOTO): du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với điạ điểm cư
trú thường xuyên cuả mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề
hay một việc kiếm tiền sinh sống...tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma _ Italia ( 21/8 –
5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú cuả cá nhân hay tập thể ở
bên ngoài nơi ở thường xuyên cuả họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú
không phải là nơi làm việc cuả họ.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì: họat động du lịch là tổng hoà hàng loạt quan hệ và hiện
tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể
du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện
Theo nhà kinh tế học người Áo Josep Stander nhìn từ góc độ du khách thì: khách du lịch là loại
khách đi theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn sinh họat cao cấp mà không theo
đuổi mục đích kinh tế.
Theo quan niệm đầy đủ về góc độ kinh tế và kinh doanh của du lịch, Khoa Du lịch và khách sạn
(Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội) đã đưa ra định nghĩa trên cơ sở tổng hợp những lý luận và
thực tiễn của hoạt động du lịch trên thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây: “Du lịch là một
trong những ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi
hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống,
tham quan, giải trí, tìm hiểu và nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại
những lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp”.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10, thuật ngữ “du lịch” được hiểu như sau: “Du lịch
là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định".
Nhìn từ góc độ thay đổi về không gian cuả du khách: du lịch là một trong những hình thức di
2
chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác mà
không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc, theo góc độ này ta thấy đây là khái niệm nhằm tránh
được sự di cư tự tự do do từ vùng này sang vùng khác.
Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu
tham quan giải trí nghĩ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên
cứu khoa học và các nhu cầu khác
Như vậy, chúng ta thấy được du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, bao gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Nó vừa mang đặc điểm của ngành kinh tế,
vừa có đặc điểm của ngành văn hóa – xã hội.
1.1.2 Phân loại du lịch:
Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà du lịch mạo hiểm được phân thành các nhóm khác nhau. Và
thông thường người ta chia thành các nhóm tiêu chí như sau:
Phần loại theo tài nguyên.
Phân loại theo nhu cầu làm nảy sinh du lịch.
Phân loại theo lãnh thổ hoạt động.
Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch.
Phân loại theo phương tiện giao thông.
Phân loại theo loại hình lưu trú.
Phân loại theo lứa tuổi du khách.
Phân loại theo hình thức tổ chức.
Xin xem chi tiết ở phần Phụ Lục
1.1.3 Khái niệm về sản phẩm dịch vụ du lịch
1.1.3.1 Khái niệm:
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ và hàng hóa cung cấp cho du khách nhằm đáp ứng những nhu cầu
và mong muốn của khách du lịch nó được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự
nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một
vùng hay một quốc gia nào đó. Do vậy cần nắm vững được thị hiếu, tâm lý, thói quen, tập quán của
khách để đáp ứng một cách thích ứng nhất bằng cách đa dạng hoá các sản phẩm du lịch bởi sản
phẩm du lịch là một yếu tố cạnh tranh giữa các vùng miền.
3
1.1.3.2 Các yếu tố hợp thành sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch bao gồm yếu tố vô hình và yếu tố hữu hình. Yếu tố hữu hình là hàng hóa, yếu tố
vô hình là dịch vụ.
Xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch thì chúng ta có thể
tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau:
Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống.
Dịch vụ tham quan, giải trí.
Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm.
Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
1.1.4 Đặc điểm của sản phẩm du lịch.
Sản phẩm du lịch là một dịch vụ đặc biệt, là những sản phẩm dịch vụ mà bản thân chúng không hề
bị tiêu hủy. Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng vật thể. Thành
phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm 80-90% về mặt giá trị), hàng hóa chiếm
tỉ trọng nhỏ. Sản phẩm du lịch khác với sản phẩm vật chất cụ thể ở chỗ dịch vụ không thể được cầm,
nắm, nghe hay nhìn thấy trước khi mua. Khách hàng chỉ nhận được sản phẩm du lịch ngay khi nó
được cung cấp và vì thế , cần có những dấu hiệu hay bằng vật chứng vật chất về chất lượng dịch vụ
như con người , thông tin, địa điểm, thiết bị, biểu tượng giá cả.... Chính vì vô hình mà sản phẩm du
lịch nói riêng và sản phẩm dịch vụ nói chung được cho là rất mong manh, người cung cấp cũng như
người tiếp nhận không thể lưu giữ lại, không thể đem tiêu thụ hay bán ra ngoài trong một thời gian
sau đó. Tính mong manh góp phần làm cho chất lượng dịch vụ khó kiểm soát . Doanh nghiệp không
thể dựa vào lần kiểm tra cuối cùng nhằm đánh giá chất lượng dịch vụ mình cung cấp. Do vậy, việc
đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn. Mặt khác, quá trình cung cấp dịch vụ xảy ra liên
tục, tức là quá trình cung cấp và tiếp nhận dịch vụ tiến hành đồng thời, cùng một lúc với sự hiện
diện của khách hàng trong suốt thời gian sản xuất . Do đó, chất lượng dịch vụ sẽ rất khó đoán trước
mà dựa theo phán đoán chủ quan cao, phần lớn không phụ thuộc vào người kinh doanh mà phụ
thuộc vào khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa
mức độ kì vọng và mức độ cảm nhận của khách về chất lượng sản phẩm du lịch.
Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với các yếu tố tài nguyên du lịch. Do vậy, sản phẩm
du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách
du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình
thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch.
Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà
kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch cũng mang tính dị chủng
và không ổn định. Nguyên nhân là chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào người thực hiện, thời gian, địa
4
điểm cung cấp. Đây là một đặc điểm quan trọng mà nhà cung ứng cần lưu ý nếu muốn nâng cao chất
lượng dịch vụ của mình.
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng sản phẩm du lịch trùng nhau về thời gian và không gian, và dĩ
nhiên, chúng ta không thể tích lũy , dự trữ dịch vụ cũng như không thể kiểm nghiệm trước. Ví dụ:
một phòng của khách sạn, một chỗ ngồi trên máy bay không bán được thì không thể cất giữ vào
kho. Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất về tiêu dùng là rất khó khăn. Việc thu hút khách du
lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các nhà kinh doanh du
lịch.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn mà có thể chỉ tập trung vào những
thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm
của thể loại du lịch cuối tuần), trong năm (đối với sản phẩm của một số loại hình như: du lịch nghỉ
biển, du lịch nghỉ núi…)
Vì vậy, trên thực tế, hoạt động kinh doanh du lịch thường mang tính mùa vụ. Sự dao động về thời
gian trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh
du lịch luôn là vấn đề trăn trở cả về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận.
1.2 Lý luận về Du lịch mạo hiểm
1.2.1 Khái niệm về loại hình du lịch mạo hiểm.
Định nghĩa từ mạo hiểm: Theo từ điển điện tử baamboo mạo hiểm là
sự sự liều lĩnh làm một việc biết là nguy hiểm, có thể mang lại hậu quả rất tai hại có thể ảnh hưởng
đến tài sản thậm chí là tính mạng nhưng vẫn làm. Theo nhóm nghiên cứu, “Mạo hiểm” có nghĩa là
sự thử thách, sự tiềm ẩn khả năng rủi ro trong một hành động.
Xét về bản chất, du lịch mạo hiểm là sự kết hợp giữa các hoạt động khám phá thiên nhiên, tìm
hiểu văn hoá và lịch sử kết hợp với các hoạt động thể thao như leo núi, chèo thuyền băng
rừng…Cho nên muốn phát triển loại hình du lịch mạo hiểm trước hết phải dựa trên cơ sở của loại
hình du lịch sinh thái-văn hoá . Vì vậy việc vận động từ các loại hình du lịch sinh thái-văn hoá lên
loại hình du lịch mạo hiểm là một vận động tất yếu của quá trình đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
Qua quá trình nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu nhóm thuyết trình đưa ra khái niệm của mình về
loại hình du lịch như sau:
Loại hình du lịch mạo hiểm: là loại hình phát triển ở những vùng có điều kiện tự nhiên thích hợp
(có nhiều thác ghềnh, vách núi, biển…) và có cơ sở vật chất tương đối phát triển. Nó dựa trên nhu
cầu tự thể hiện mình, tự rèn luyện mình, tự khám phá bản thân của du khách thông qua các chương
trình do nhà khai thác đặt ra hay tự du khách yêu cầu. Loại hình này cần sự hỗ trợ rất nhiều của các
5
trang thiết bị hỗ trợ và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp để đảm bảo an toàn về tình mạng cho du
khách, do vậy loại hình này cần nhiều vốn về cơ sở vật chất cũng như đào tạo về nguồn lực trong
công tác hướng dẫn. Bên cạnh đó du lịch mạo hiểm là loại hình kết hợp với các hoạt động bảo vệ
môi trường sinh thái đồng thời nâng cao đời sống kinh tế của dân cư trong vùng.
Phân tích quan điểm của nhóm
Loại hình du lịch mạo hiểm mang lại cảm giác mạnh và sảng khoái, giải tỏa được tính hiếu kỳ,
mang lại niềm vui và sức sống mới cho du khách theo, bên cạnh đó du lịch mạo hiểm còn là một
hình thức để giúp con người suy nghĩ logic, học hỏi nhiều kinh nghiệm và ứng phó trước các tình
trạng khó khăn nhưng nó phải đồng thời đảm bảo tính mạng và tài sản của khách du lịch.
Không phải nhất thiết tất cả các chuyến mạo hiểm đều dựa vào thiên nhiên, trong một vài trường
hợp du lịch mạo hiểm có thể tổ chức được ở trong các thành phố lớn theo ý đồ của nhà tổ chức đó là
sự kết hợp giữa các yếu tố giải trí và mạo hiểm ở công viên, cầu vượt.. trong thành phố hoặc là
những trò chơi mang tính xếp hạng giữa các đội chơi kết hợp với các yếu tố mạo hiểm
Du lịch mạo hiểm là loại hình du lịch sinh thái kết hợp với các hoạt đông thể thao nó góp phần làm
đa dạng sản phẩm du lịch địa phương và từ đó tạo nên được sức hấp dẫn để thu hút du khách nước
ngoài lẫn du khách trong nước. Du lịch mạo hiểm cũng góp phần khai thác tốt các tài nguyên du lịch
của địa phương và góp phần tăng mức sống của người dân địa phương cũng như quảng bá du lịch ở
thành phố đó.
Du lịch mạo hiểm là loại hình tác động trực tiếp đến môi trường sinh thái vì vậy công tác đảm bảo
vệ sinh môi trường sinh thái là hết sức cần thiết để vừa đảm bảo khai thác du lịch có hiệu quả vừa
không làm ô nhiểm môi trường sinh thái gây tác động xâu đến hệ động thực vật, nguồn nước, không
khí trong vùng.
1.2.2 Cơ sở để xem là du lịch mạo hiểm.
Để đánh giá cơ sở để xem là du lịch mạo hiểm nhóm xin đánh gia trên ba yếu tố đó là sân chơi, luật
chơi và người tổ chức.
Sân chơi: Phải có địa điểm tổ chức thuận lợi và thích hợp cho việc xây dựng các hoạt động du lịch
mạo hiểm như phải có các cánh rừng, thác nước, sông hổ…nhưng các địa điểm này đã được khảo
sát và đảm bảo về thời tiết cũng như địa hình.
Luật chơi:các nghị định của nhà nước ban hành về luật du lịch. Có các tiêu chí tối thiểu để đánh giá
tiêu chuẩn an toàn của nhà tổ chức.
Người tổ chức: các nhà cung ứng dịch vụ với các cơ sở vật chất đảm bảo tiêu chuẩn. Có các thiết bị
bảo hộ an toàn cho du khách đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nhằm đảm bảo an toàn tính mạng cho
du khách tham gia. cần có những thông tin để du khách tham gia có thể lựa chọn được những tour
6
phù hợp cho du khách
1.2.3 Đặc điểm của loại hình du lịch mạo hiểm.
Loại hình du lịch mạo hiển là một trò chơi cảm giác mạnh có thể hoặc không kết hợp di chuyển từ
vùng này sang vùng khác theo lịch trình đòi hỏi phải có sự khảo sát kỹ lưỡng lịch trình các chyến đi
và khu chọn làm địa điểm đễ thực hiện chuyến đi cho tour, bởi trên nguyên tắc địa điểm được chọn
phải mang đầy đủ tính chất của một địa điểm phục vụ cho du lịch mạo hiểm như tạo được sự thử
thách cho du khách, phải gần gũi với thiên nhiên, gắn liền với văn hoá và phong tục của địa phương.
Du lịch mạo hiểm rất an toàn khi có sự hỗ trợ của các trang thiết bị hiện đại. Và tùy theo mức độ của
trò chơi mà việc trang bị các thiết bị là khác nhau.
Đội ngũ nhân viên trong các tour phải là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, không
những giỏi về nghiệp vụ mà còn phải có kiến thức về những vùng đoàn sẽ đi qua. Thông thường các
hướng dẫn viên trong tour mạo hiểm là các huấn luyện viên.
Tóm lại đặc điểm của du lịch mạo hiểm là một loại hình sử dụng nhiều không chỉ về tài chính
mà còn về nguồn nhân lực
1.2.4 Phân loại du lịch mạo hiểm
Hiện nay có rất nhiều sản phẩm du lich mạo hiểm nên có một số cách nhiều cách phân loại như:
Dựa vào tính chất và đặc điểm của du lịch mạo hiểm có thể phân du lịch mạo hiểm thành ba loại
+ Du lịch mạo hiểm trên cạn: bao gồm các môn leo vách núi, leo núi, đi bộ băng rừng..
+ Du lịch mạo hiểm dưới nước: Chèo thuyền vượt thác, lướt ván, khám phá đại dương, đua
cano….
+ Du lịch mạo hiểm trên không: Các môn Bungy Jump, nhảy dù, bay tàu lượn…
Dựa vào mục đích chuyến đi có ba loại:
+ Du lịch “phượt”, du lịch “bụi với mục đích khám phá thiên nhiên, trải nghiệm bản thân và chinh
phục những thử thách trong thiên nhiên
+ Team building xây dựng tinh thần tập thể trong các công ty, tổchức… hình thành cách làm việc
có phân tích logic… theo đúng mục đích của nhà tổ chức team building.
+ Khám phá nghiên cứu của các nhà khoa học: Nghiên cứu, khảo sát, phân tích tìm hiểu các loại
động, thực vật, các hiện tượng tự nhiên.
Dựa vào mức độ mạo hiểm có thể chia làm ba loại:
+ Loại hình có mức độ mạo hiểm thấp: như đạp xe đạp , chèo thuyền, đi bộ băng rừng
+ Loại hình có mức độ mạo hiểm trung bình: leo vách núi, chèo thuyền vươt thác..
7
+ Loại hình có mức độ mạo hiểm cao: đây là các hoạt động mang tính chất rủi ro cao, hay địa điểm
tổ chức là những nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (xem phục lục 10 địa điểm du lịch mạo hiểm
nhất trên thế giới).
1.2.5 Các sản phẩm-dịch vụ dành cho loại hình du lịch mạo hiểm:
Cũng như các loại hình khác, du lịch mạo hiểm cần có các sản phẩm và dịch vụ đặc biệt dành riêng
cho nó, qua nghiên cứu nhóm xin đưa ra các sản phẩm-dịch vụ như sau
Các sản phẩm dành cho du lịch mạo hiểm là
các trang thiết bị đảm bảo an toàn cho du lịch
mạo hiểm: như mũ bảo hiểm, áo phao cứu
sinh, túi ngủ, túi khô mái chèo, quần áo
chuyên dụng cho các loại hình du lịch dưới
nước. Các hoạt động trên cạn như leo núi, băng rừng, leo vách… Thuyền Kayak cho 1 người
núi cần có dây leo, móc khoá, lều bạt, mũ bảo hiểm các dụng cụ bảo vệ đầu gối, khuỷ tay, máy bộ
đàm… các hoạt động trên không như nhảy dù, tàu lượn cần mũ bảo hiểm, các dụng cụ bảo vệ đầu
gối và khuỷ tay, dù nhảy…tuỳ theo các hoạt động mà các thiết bị giống nhau được thiết kế khác
nhau ví dụ như nón bảo hiểm của leo núi khác với nón bảo hiểm các hoạt động dưới nước. Bất kỳ
loại hình nào của du lịch mạo hiểm cũng đều trang bị hộp y tế và thiết bị thông tin liên lạc đơn giản
nhất là bộ đàm. Bên cạnh đó là các trang thiết bị dùng để di
chuyển: như xe đạp địa hình, xe môtô phân khối lớn như minskhơ,
xe cào cào Ở bộ môn dưới nước có thuyền kayak, bè cao su cho
hai người, sáu người, tàu lượn…
Dịch vụ cơ sở lưu trú cho loại hình du lịch mạo hiểm cũng rất
phong phú khi tham gia này ngoài thiên nhiên ngoài các cơ sở lưu trú là các Thuyền Kayak cho
2 người
khách sạn đạt tiêu chuẩn thì tuỳ theo nội dung, và địa điểm có các dịch vụ lưu trú như nhà dân, nhà
tổ chim, cắm trại ngoài trời để phù hợp với các hình thức lưu trú của du khách.
Các dịch vụ bổ trợ đi kèm trong các tour mạo hiễm như khuâng vác, dẫn đường dành cho các loại
hình như đi bộ trong rừng, chèo thuyền dọc các con sông, leo núi bên cạnh đó dịch vụ nấu ăn luôn đi
kèm với các môn thể thao này ngoài ra dịch vụ cứu hộ phải luôn luôn đi kèm trong bất kỳ loại hình
nào của du lịch mạo hiểm. Ngoài ra còn có các dịch vụ bán và cho thuê trang thiết bị hỗ trợ cho du
lịch mạo hiểm.
Ngoài ra còn các dịch vụ giúp du khách di chuyển đến các địa điểm tổ chức các tour du lịch mạo
hiểm như dịch vụ cáp treo để chơi trò leo núi, cần trục để chơi trò bungy jump, xe khách đưa đón du
khách, trong những trường hợp các phương tiện xe khách không thể tiếp cận được điểm tổ chức thì
8
các dịch vụ như thuê xe gắn máy, đi xe bò, xe ngựa…Các dịch vụ này giúp tạo công ăn việc làm cho
các nguồn lao động tại chỗ và cải thiện cuộc sống của các dân cư sống ven các địa điểm tổ chức.
1.2.6 Đặc điểm của đối tượng khách tham gia du lịch mạo hiểm
Loại hình du lịch mạo hiểm thông thường không dành cho tất cả mọi người như các loại hình
khác, khách tham gia du lịch mạo hiểm đa phần là giới trẻ tuổi từ 18-35, có sức khoẻ tốt, ham mê
thể thao muốn trải nghiệm bản thân và thử thách thông qua các chuyến đi, bên cạnh đó còn tìm hiểu
văn hoá, con người, địa lý các vùng miền đi qua và hoà mình vào thiên nhiên qua các tour mạo
hiểm.
Khách du lịch tham gia loại hình du lịch mạo hiểm là những người tham gia dài ngày và có khả
năng chi trả cao. Vậy những người tham gia du lịch mạo hiểm là những người có quỹ thời gian nhàn
rổi lớn và ngân sách đi du lịch lớn.
Các đối tượng tham gia du lịch mạo hiểm phần lớn là các khách người Châu Âu (đặc biệt là người
Pháp), Mỹ, và một số nước phát triển ở Châu Á. Bởi vì về phong tục và văn hoá người Châu Âu
muốn khám phá và mạo hiểm. Nhưng với xu hướng hội nhập hoá toàn cầu hiện nay thì khoảng cách
ấy đang bị xích lại. Nhìn chung giới trẻ hiện nay đều có cái nhìn rất lạc quan về loại hình du lịch
mới này
Đặc biệt hiện nay các công ty đang áp dụng team building một hình thức của du lịch mạo hiểm cho
các nhân viên trong công ty nhằm mục đích xây dựng tính đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của các nhân
viên thông qua các tour mạo hiểm với loại hình này sẽ giúp xoá bỏ những khoảng cách trong xã hội
và giúp các thành viên trong một tổ chức có cơ hội hoàn thiện bản thân và tinh thần làm việc nhóm.
Đây là loại hình du lịch được tổ chức theo đội hoặc nhóm để tham gia các trò chơi và để hoàn thành
được các trò chơi này thì tinh thần đồng đội và khả năng chỉ huy của trưởng nhóm hết sức quan
trọng.
Trong xã hội hiện nay khi áp lực công việc cũng như nhịp sống ngày càng tăng cao thì hiện tượng
strees càng trở nên phổ biến và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm căng thẳng là thư
giãn và cùng đồng nghiệp tham gia những trò chơi tập thể. Chính vì vậy, Teambuilding phát triển
mạnh ở các nước phát triển và đang bắt đầu được các đơn vị kinh doanh du lịch ở Việt Nam quan
tâm
1.2.7 Khuynh hướng du lịch mạo hiểm trong tương lai.
Với xu hướng quốc tế hoá khoảng cách giữa các quốc gia đang bó hẹp lại, cũng như cuộc cách
mạng của khoa học kỹ thuật sẽ làm cho trong tương lai du lịch mạo hiển sẽ thu hút một số lượng lớn
9
du khách đặc biệt là giới trẻ tham gia loại hình này. Bên cạnh đó cuộc sống của con người ngày
càng trở nên áp lực do vậy ngày càng nhiều người tìm đến du lịch mạo hiểm hơn để tìm lại cân bằng
trong cuộc sống. Với phong cách của một loại hình đòi hỏi nhiều yếu tố về thể chất lẫn tinh thần của
người tham gia do vậy nên du lịch mạo hiểm là một cách cho giới trẻ thề hiện phong cách của họ
qua chuyến đi.
Quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, dân số thế giới tăng nhanh làm cho nhiều đô thị mọc lên,
khiến cho các địa điểm tổ chức ngày càng thu hẹp dần bắt buộc các nhà khai thác phải tìm những
địa điểm mới cho việc tổ chức các tour du lịch mạo hiểm như ở Nam Cực, sa mạc thậm chí là ở
ngoài không gian
Tương lai các nhà khai thác sẽ đưa vào những tour du lịch mới hơn nữa bởi những khoảng cách địa
lý, những vùng miền đã được khám phá, nhu cầu của du khách ngày càng đòi hỏi phải đáp ứng thoả
mản tính hiếu kỳ của du khách Do đó trong tương lai sẽ phát triễn các môn du lịch ra bên ngoài
khoảng không vũ trụ với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật con người sẽ có những chuyến du lịch ra
ngoài vũ trụ, lên mặt trăng hay hành tình nào đó. Hiện nay loại hình team building là một dạng rất
được ưu chuộng và phát triễn đến các nước đang phát triễn, ở Việt Nam team building được các
doanh nghiệp sử dụng như một công cụ để liên kết với các cộng đồng trong công ty và thông qua
teambuilding là những bài học kinh nghiệm mà những người lảnh đạo muốn truyền cho nhân viên
của mình.
Với các tour đặt biệt như vậy, cộng với yếu tố nhàn rỗi của ngừơi dân ngày càng tăng khiến cho thời
lượng của các tour mạo hiểm ngày càng được kéo dãn ra. Một tour du lịch mạo hiểm gồm 3 môn
phối hợp phải tốn ít nhất là 1 tuần, các tour của khách nước ngoài phải tốn hơn một tháng và đặc
biệt là các tour di chuyển ra ngoài khoảng không vu trụ.
1.3 Kinh nghiệm tổ chức và khai thác du lịch mạo hiểm một số nước trên thế giới:
Trên cơ sở thực tiễn, nhóm đã thấy được một số nét tương đồng về điều kiện địa lý, tự nhiên… của
tỉnh Đăk Lăk với tỉnh Chiang Mai của Thái Lan, mặc khác Thái Lan là một cường quốc về du lịch
trong khu vực Đông Nam Á, người Thái Lan làm du lịch rất giỏi và sáng tạo các sản phẩm du lịch
mạo hiểm của họ đa dạng và phong phú, đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp do vậy những tour
mạo hiểm của họ là một kinh nghiệm rất có ích để cho chúng ta có thể học hỏi cách tổ chức của họ.
Vì có giới hạn trong đề tài nên nhóm chỉ dẫn dắt được các sản phẩm chính của Thái Lan, một số
quốc gia khác nhóm đưa vào phần phụ lục.
Chiang Mai Thái Lan
Vượt thác: Bắt đầu từ làng Sob Kai du khách có thể chơi trò vượt thác (white water rafting) trên
các thuyền phao lớn chứa được sáu người. Trước khi vào cuộc, du khách sẽ hướng dẫn tập dượt cho
cả đoàn những động tác chèo và phổ biến ba nguyên tắc để chơi: an toàn, an toàn và tuyệt đối an
10
toàn.
Sau khi thành thục, các du khách bắt đầu vượt chặng thác đầu tiên. Sau đó chặng thứ hai là chặng
mà thử thách tăng lên bội phần (chặng nguy hiểm nhất với một đoạn thác đổ, thuyền có thể bị lật và
nhấn chìm). Nếu chẳng may bị rớt xuống nước du khách sẽ được các nhân viên cứu hộ đưa lên lại
thuyền sau 1 giờ dưới nuớc, và kết thúc chuyến phiêu lưu trên dòng thác tại làng Muang Kut sau ba
chặng đường gian nan.
Ở Muang Kut có sẵn một đống thân tre dài ngoằng nằm ngổn ngang trên mặt đất. Với phương châm:
"Hãy tưởng tượng các bạn là một nhóm quân buộc phải vượt qua dòng sông Meakok này mà không
có tàu thuyền gì cả; chỉ có tre, dây thừng và những thùng phuy này thôi. Hãy tự cứu lấy mình!". Du
khách sẽ được hướng dẫn viên chỉ dẫn cách để ghép những thân tre thành một cái bè "cứu mạng".
Mất hơn một giờ, chiếc bè thô sơ nhưng chắc chắn sẽ đưa du khách về lại khu nghỉ mát thơ mộng
Maekok River Village.
Cycling: chặn kế tiếp là chinh phục đoạn đường rừng dốc dài 16km ở độ cao 1.300m bằng xe đạp.
Chỉ mất hai tiếng đạp xe cả đoàn đã có thể thư giãn ngâm mình ở suối nước nóng Fang Hot Springs
nổi tiếng, nên thơ.
Elephant ride: Nếu so với Việt Nam mà cụ thể là ở Đăk Lăk đàn voi của tỉnh từng đã có một lực
lượng hùng hậu, nhưng do không khai thác đúng cách lại không có chính sách bảo tồn và gìn giữ,
đàn voi Đăk Lăk đã giảm đi rất nhiều về số lượng. Trong khi đó tại Thái Lan họ đã làm rất tốt, ngoài
đưa voi làm phương tiện vận chuyển du khách họ còn dùng voi là một hình ảnh của du lịch thông
qua việc cho du khách chiêm ngưỡng những đàn voi sống tự nhiên hoang dã nhưng được chăm sóc
chu đáo chứ không cột xích như đàn voi Đăk Lăk . Ở Thái Lan người ta cưỡi voi khám phá rừng
nhiệt đới tại thung lũng cũng là khu bảo tồn voi Mae Taeng (Chiang Mai): những chú voi lội trên
những khúc sông cạn, đưa du khách ngang qua những khu chăm sóc voi ngoài trời, ngắm nhìn
những chú voi con vui đùa, nghịch nước với mẹ..
Trò chơi gồm 12 chặng đường gian khổ: những con đường nhỏ quanh co ôm lấy sườn núi, một
bên là vực sâu, một bên là rừng và cuối cùng là đường độc đạo hướng thẳng lên đỉnh núi. Chặng 1-
5: làm quen với môtô. Chặng 6-10: một thách thức thực thụ: vượt đường lầy lội, chinh phục đỉnh
cao. Chặng 11-12: về đích khi trời chập choạng tối trên đường đèo quanh co.
Bungy jump : Du khách sẽ bắt gặp "hung thần" của chuyến là một cần cẩu cao 50m đưa họ lên đến
"đỉnh thế giới". Chân du khách được "băng bó" và đính chặt vào một dây cao su chuyên dụng.
Người điều khiển sẽ bày cho bạn cách nhảy, phải cắm đầu xuống trước và... rơi tự do. Đây là một
cảm giác giống như đứng ở ban công một tòa nhà 12-13 tầng và nhảy xuống! Đó là trò bungy jump,
trò mạo hiểm quen thuộc thường thấy trong spot quảng cáo "Một cảm giác rất Yomost!".
Ở Chiang Mai chỉ có một điểm duy nhất để chơi bungy jump, nơi có rất nhiều ngôi sao nổi tiếng của
Thái Lan và các nước đến chinh phục "hung thần". Trò chơi này đòi hỏi sự an toàn rất cao, và các
thiết bị hỗ trợ hiện đại vào cuộc. Mỗi người có một tấm bằng chứng nhận "cú nhảy thành công vào
11
ngày xx xx 20xx".
Bay dù lượn là tiết mục trong ngày thứ sáu của lịch trình. Sau các hiệu lệnh, chiếc dù lượn từ từ
tăng tốc trên đường băng rồi chợt vút lên cao. Nhà cửa, cây cối, đường sá nhỏ dần. Tay cầm cần
điều khiển độ cao, chân điều khiển hướng dù lượn, "phi công" báo cáo: "Độ cao 800 feet, sức gió
35mph, thời gian bay 15 phút, lộ trình bay vòng quanh ngoại ô Chiang Mai, qua đỉnh núi cao nhất
khu vực, qua hồ nước lớn và trở về sân bay. Báo cáo hết.
Leo vách núi du khách được trang bị những chiếc giày leo núi chuyên dụng, dây an toàn, nón bảo
hộ, bột làm khô tay, du khách từng bước, từng bước leo đến đỉnh cao nhất. Những thử thách đầu
tiên có vẻ dễ dàng nhưng càng lên cao càng khó. Có những vách đá không hề có chỗ bám và cách
duy nhất để chinh phục nó là phải miết 10 đầu ngón tay vào những khoảng lõm của đá để giữ, hai
chân luôn tìm chỗ để tì và tạo sức bật. Những giọt mồ hôi bắt đầu túa ra cho đến khi ướt đẫm áo.
Đến đỉnh rồi lại phải trở xuống nữa. Tay bám lấy dây an toàn, tư thế ngồi ngả người ra sau, bật
thẳng chân ra để tìm bãi đáp.Tất cả đều nằm trong sự giám sát của các huấn luyện viên và các thiết
bị hỗ trợ hiện đại.
Điều kiện thiên nhiên của Đăk Lăk cũng cho phép chúng ta tổ chức được những tour thú vị, thậm
chí hơn tour mạo hiểm ở Chiang Mai nữa. Và trong tương lai nếu thu hút được vốn đầu tư vào loại
hình du lịch mạo hiểm và sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền thì du lịch mạo hiểm Đăk
Lăk sẽ trở thành một thương hiệu của khu vực Tây Nguyên
12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ KHAI THÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH MẠO
HIỂM Ở ĐĂK LĂK HIỆN NAY.
2.1 Tiềm năng du lịch Đăk Lăk.
2.1.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Tài nguyên rừng:
Diện tích đất có rừng của Đăk Lăk là 608.886,2 ha, trong đó rừng tự nhiên là 594.488,9 ha, rừng
trồng là 14.397,3 ha. Độ che phủ rừng đạt 46,62% (năm 2004). Đăk Lăk có 4 rừng đặc dụng là:
Vườn quốc gia Chư Yang Sin huyện Krông Bông, Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar huyện Lắk và
Rừng lịch sử văn hóa môi trường Hồ Lắk huyện Lắk, Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô huyện Ea Kar
mỗi khu có diện tích từ 20 đến 60 nghìn ha, và những thảm thảm rừng đa sinh thái với hơn 3 nghìn
loài cây, 93 loài thú, 197 loài chim trong đó nhiều loại động vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ
Việt Nam và thế giới.
Tài nguyên mặt nước:
Mặc dù là một tỉnh vùng cao nhưng mật độ bao phủ mặt nước của tỉnh là 47.000 ha mặt nước, với
một hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh khá dày và phong phú, phân bố tương đối đồng đều. Do địa
hình dốc nên khả năng trữ nước kém, những khe suối nhỏ hầu như không có nước trong mùa khô.
Đáng chú ý là sông Sêrêpôk với 2 nhánh sông chính là sông Krông Ana và Krông Nô, sông Krông
H’năng và sông Đồng Nai. Bên cạnh hệ thống sông suối khá phong phú, trên địa bàn tỉnh hiện nay
còn có rất nhiều hồ, có đến trên 500 hồ nước tự nhiên và nhân tạo lớn là một tỉnh nắm giữ kỉ lục
Việt Nam về tỉnh có nhiều hồ nhất bao gồm các hồ tự nhiên và hồ nhân tạo như hồ Lắk, Ea Kao,
Buôn Triết, Ea sô, … nhất đây là một tiềm năng không nhỏ về phát triển chăn nuôi thủy sản và phát
triển du lịch.
2.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn.
Dân tộc Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống và lao động, nhưng ở Đăk Lăk đã có hơn 44
dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh tạo nên nét đặc trưng riêng cho nền văn hóa lâu đời của Đăk Lăk.
Người Êđê và người Mnông là hai dân tộc đại diện cho vùng đất Tây Nguyên với một bề dày lịch sử
và văn hóa. Bên cạnh đó Đắk Lắk còn có kho tàng sử thi phong phú nhất Việt Nam với 292 pho, đã
sưu tầm 77 pho (gồm 12 sử thi Êđê và 65 sử thi M’nông). Nổi tiếng nhất là Bài ca chàng Đam San
(Klei khan Y Đam San) của dân tộc Êđê. Đắk Lắk là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không
gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi
vật thể nhân loại. Chỉ một đội cồng chiêng nổi tiếng của người Đắk Lắk, vỏn vẹn chỉ có 8 nam và 3
13
nữ mà họ đã đem tài năng và vốn văn hóa của mình đi biểu diễn khắp nơi trong cả nước và còn sang
Thụy Điển dự lễ hội Womek. Đắk Lắk còn có chiếc ghế Kpan (được làm gỗ nguyên khối) dài nhất
Việt Nam. Ghế Kpan là tài sản quý của những gia đình giàu có và uy thế người Êđê. Chiếc Kpan lớn
nhất dài 11,46m, dày 8cm, bề mặt 68cm, cao 48cm hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Văn hóa
dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Nói đến Tây Nguyên không thể không nói tới lễ hội voi ở nơi đây bởi tỉnh là
nơi có đàn voi nhà đông nhất với 54 con , lễ hội này được coi là lễ hội voi lớn nhất Việt Nam, với 30
chú voi thiện chiến dự thi nhiều môn như đá banh, đua voi, xiếc.... Bên cạnh đó các Lễ hội Cồng
chiêng, Lễ hội cà phê đã được nhà nước công nhận và tổ chức đều đặn hàng năm như một giá trị
truyền thống. Đáng chú ý khi đến thăm Đắk Lắk là những ngôi nhà dài truyền thống theo huyền
thoại có thể "dài như tiếng chiêng ngân" hoặc các bến nước của các buôn làng đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ, một nét văn hoá rất đặc trưng của vùng đất này và ấn tượng với du khách bằng
những sản phẩm gia dụng như bàn, ghế và cả thuyền độc mộc đẻo từ những cây rừng lớn nguyên
vẹn...
Là một mảnh đất có bề dày về văn hóa và lịch sử nên Đăk Lăk có rất nhiều di tích có giá trị, có rất
nhiều di tích đã và đang được kiểm kê, công nhận và xếp hạng. Ngoài những di tích khảo cổ như
khu mộ táng Ea Knuếk (Krông Păc), mộ Chăm Hòa Sơn (Krông Bông), tháp Yang Prong (Ea
Súp)...trong tình còn có hàng chục di tích lịch sử và văn hóa, như: Nhà đày Buôn Ma Thuột.,Đình
Lạc Giao, Buôn Dliêya (Krông Năng), buôn căn cứ trong chống Pháp và chống Mỹ, Buôn Cháy (Cư
Mgar), buôn căn cứ trong chống Mỹ , Hang đá Đăk Tuôr (Krông Bông) trụ sở của Tỉnh ủy trong
vùng căn cứ thời kỳ chống Mỹ, Hang đá Khuê Ngọc Điền (Krông Bông) , Đèo Phượng Hoàng
(MĐrăk), Hang Ba tầng (Lăk) Chùa Khải Đoan (TP.Buôn Ma Thuột) , Mộ Khun Ju Nốp (Buôn
Đôn)
2.1.3 Tiềm năng khai thác du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk.
Là một tỉnh trung tâm Tây Nguyên, Đắk Lắk có hệ thống giao thông đường bộ, đường hàng không
tương đối hoàn chỉnh, tạo cho tỉnh một vị trí thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội và thực sự có tiềm năng phát triển du lịch.
Cảnh quan của Đắk Lắk có vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng, phong phú, thơ mộng và hùng vĩ với cấu tạo
địa hình thể hiện sự hòa hợp của những dòng sông xen lẫn núi đồi ao hồ, ghềnh thác và những khu
vực rừng nguyên sinh tạo nên những thác nước đẹp nổi tiếng, đầy thử thách quanh năm mịt mờ
sương khói như thác Thủy Tiên, Bảy Nhánh,… nhiều hồ lớn với diện tích hàng trăm héc ta như hồ
Lắk, Ea Đờn,… đặc biệt là hồ Ea Súp thượng với diện tích 1440 ha phù hợp cho việc tổ chức các
hoạt động du lịch mạo hiểm
Đắk Lắk còn nổi tiếng với nhiều khu vườn nguyên sinh, khu bảo tồn thiên nhiên đã được quy hoạch
như Vườn Quốc gia YokDon, Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô,…với
14
nhiều loài động thực vật như voi rừng, lợn rừng, hưu nai và đặc biệt là voi.
Thu hút và gây ấn tượng mạnh mẽ cho khách du lịch đến Đắk Lắk không chỉ là những cảnh quan
thiên nhiên kỳ thú mà còn bởi Đắk Lắk có một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, phong phú, đậm
đà bản sắc dân tộc, đầy huyền thoại với những bản trường ca Đam San, Xinh Nhã,…những sản
phẩm làng nghề truyền thống: dệt thổ cẩm, đan lát điêu khắc, những lễ hội và phong tục độc đáo, âm
thanh vang vọng của các loại cồng chiêng, đàn đá, các nhạc cụ làm từ chất liệu của núi rừng, những
lời ca, điệu múa của cộng đồng 44 dân tộc anh em, thể hiện tâm hồn cao nguyên đầy trữ tình và
cháy bỏng khát vọng yêu cuộc sống.
2.2. Thực trạng du lịch của tỉnh Đăk Lăk trong những năm qua.
2.2.1 Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở lưu trú:
Hệ thống cơ sở vật chất trong ngành du lịch cả nước nói chung và của tỉnh Đăk Lăk nói riêng trong
thời gian qua đã có một số tiến triển đáng kể, nhưng vẫn chưa sánh kịp so với các nước trong khu
vực và thế giới. Tổng cơ sở lưu trú cả nước đạt gần 9.000 cơ sở với 180.051 buồng. Trong đó 4.283
cơ sở lưu trú xếp hạng chuẩn từ 1 sao đến 5 sao chiếm 49.94%. Thực tế các khách sạn đạt tiêu chuẩn
quốc tế đặc biệt là khách sạn 5 sao còn quá ít và chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nên dễ gây ra
tình trạng “cháy phòng” dẫn đến việc tăng giá cao và ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ.
Bảng 1 : Số liệu các cơ sở lưu trú tại Đăk Lăk
Tiêu
chuẩn
Chưa
xếp loại
1 sao 2 sao 3 sao 4 sao 5 sao
Số lượng 68 7 6 2 2 (đang
xây)
0
Nguồn từ sở du lịch Đăk Lăk
Tại Đăk Lăk hiện nay cơ sở lưu trú chất lượng cao vẫn còn hạn chế toàn tỉnh chỉ có 2 khách sạn đạt
tiêu chuẩn 3 sao 6 khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 sao, 7 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 sao và hơn 68 khách
sạn và nhà nghỉ chưa xếp hạng với tổng số phòng là 1748 phòng, 3298 giường. Và hiện tại 2 khách
sạn 4 sao đang trong giai đoạn thi công thuộc sở hữu của tổng công ty cao su Đăk Lăk và công ty
trách nhiệm hữu hạn Hoàng Nguyên sẽ được đưa vào hoạt động trong tương lai để góp phần tăng
khả năng tiếp đón các đoàn du khách trong và ngoài nước đến với Đăk Lăk. Nhưng hầu hết các cơ
15
sở hiện tại thiếu tính thiết kế trong bài trí, trang trí, ít dịch vụ vui chơi, giải trí trong khách sạn mà đa
phần là kết hợp giữa nhà hàng và khách sạn. Trình độ quản lý và tác phong phục vụ còn yếu đã ảnh
hưởng trực tiếp đến hình ảnh của các cơ sở lưu trú. Trong khi đó các khách quốc tế yêu cầu rất cao
về cơ sở lưu trú thì đây cũng là một hạn chế rất lớn cho du lịch tỉnh Đăk Lăk.
Giao thông vận tải
Hiện nay toàn tỉnh Đăk Lăk có hơn 397,5km đường quốc lộ, trong đó:
- Quốc lộ 14: 126 km, từ ranh giới tỉnh Gia Lai đến ranh giới tỉnh Đăk Nông
- Quốc lộ 26: 119 km, từ ranh giới tỉnh Khánh Hòa đến TP Buôn Ma Thuột
- Quốc lộ 27: 84 km, từ TP Buôn Ma Thuột đến ranh giới tỉnh Lâm Đồng
- Quốc lộ 14C: 68,5 km, từ ranh giới tỉnh Gia Lai đến ranh giới tỉnh Đăk Nông.
Và ngoài ra còn có 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, gần 70 % trong số đó đến cuối tháng 2 năm
2006 đã được rải nhựa. Đường giao thông nội tỉnh được đầu tư mở mới và nâng cấp thuận lợi có thể
thông thương đến biên giới Campuchia mặt khác các tuyến đường đến các khu du lịch đã được nhựa
hóa gần như là đến chân cổng các khu du lịch. Thêm vào đó cùng với việc Chính phủ đầu tư tuyến
đường Hồ Chí Minh, hàng loạt các công trình đầu tư nhằm khai thác lợi thế của tuyến giao thông
này. Điển hình là việc đầu tư xây dựng cửa khẩu quốc tế Bờ Y (Kon Tum) và các trục giao thông sẽ
hình thành nhánh của con dường xuyên Á bắt đầu từ Côn Minh (Trung Quốc) - Myanmar - Lào -
Thái Lan qua cửa khẩu Bờ Y tạo mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các tỉnh Đông Bắc Thái Lan,
Nam Lào với các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ.Với một vị trí thuận lợi
như vậy, trong tương lai Đắk Lắk sẽ là một trung tâm giao lưu hàng hoá giữa các vùng và tạo điều
kiện cho các ngành du lịch, dịch vụ phát triển trong những năm tới đây.
Đây cũng là điều kiện khá lý tưởng để thu hút khách du lịch các nước theo tuyến đường bộ này vào
Tây Nguyên - Đắk Lắk cũng như khuyến khích du khách Đắk Lắk đi du lịch nước ngoài. Thế nhưng
đường xá của tỉnh không được đảm bảo về chất lượng, trên các đoạn đường tỉnh lộ, những “ổ gà”
hay “ổ khủng long” nằm chiếm ngay trên đường (ảnh minh hoạ) gây ảnh hưởng xấu đến giao thông
và dễ xảy ra tai nạn, ngoài ra các đoạn đường vào điểm du lịch như thác Krông Kmar, khu du lịch
sinh thái-văn hoá Buôn Đôn …bị “lở loét” phần nào đã ảnh hưởng đến thời gian di chuyển, và tính
an toàn cho du khách. Các lái xe chạy trên các quốc lộ 14, 26, 27 ( là các quốc lộ có bề ngang hẹp)
thường phóng nhanh, vượt ẩu để tranh dành khách đã tạo nên ấn tượng xấu trong lòng khách du lịch.
Đường hàng không
Hàng ngày có các chuyến bay từ Buôn Ma Thuột đi Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và
ngược lại bằng máy bay cỡ trung A320.
Cụm cảng Hàng không Buôn Ma Thuột đang tiếp tục được đầu tư xây dựng hệ thống sân bãi và cơ
sở vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu giao thông trong tương lai.
16
Xe buýt
Hiện nay có tuyến xe buýt dến tất cả các điểm thuộc thành phố Buôn Ma Thuột và từ thành phố
Buôn Ma Thuột đi đến trung tâm hầu hết các huyện trong tỉnh góp phần đáng kể vào việc đáp ứng
nhu cầu đi lại và hạn chế tai nạn giao thông. Nhưng một thực trạng hiện hữu là các tuyến xe buýt
đều không đi đến điểm tham quan du lịch, mà cách khu du lịch một đoạn đường khá xa từ 5km-7km
như khu du lịch Draysap, hồ Lăk, thác Krông Kmar.. chỉ có khu du lịch cầu treo Buôn Đôn có tuyến
xe buýt từ thành phố Buôn Ma Thuột- Khu du lịch Buôn Đôn nên lượng khách ở đây rất đông vào
những ngày cuối tuần. Vì lý do đó mà xe buýt vẫn chưa là phương tiện thông dụng cho các khách du
lịch bản địa lựa chọn khi đi du lịch trong tỉnh.
2.2.2 Thực trạng về hoạt động:
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới khiến không chỉ Việt nam mà cả ngành du lịch toàn cầu hứng
chịu những ảnh hưởng mạnh mẽ. Mức tăng trưởng của du lịch thế giới đã giảm 2% trong năm 2008
và Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) cũng dự báo “con gà đẻ trứng vàng” sẽ dừng lại ở con số 0
trong năm 2009. Trong năm 2008 ngành du lịch Việt Nam đã tiếp đón khoảng 4,25 triệu lượt khách
du lịch quốc tế, tăng khoảng 2% so với năm 2007. Tuy nhiên mức tăng trưởng này tương đối chậm
hơn mức 16% đạt được trong năm 2007 do suy thoái kinh tế toàn cầu. Riêng tại Đăk Lăk nhóm nhận
thấy rằng hiện nay tình trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động không nhỏ đến du lịch của
Tỉnh Đăk Lăk. Mặc dù vậy tỉnh vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định.Trong năm
2008, Đắk Lắk có nhiều sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch lớn tổ chức như Lễ hội cà phê Buôn Ma
Thuột lần thứ 2, Trại sáng tác âm nhạc và múa, Giải bóng đá thiếu niên toàn quốc… đã thu hút được
một lượng khách lớn đến với Đắk Lắk. Nhóm nghiên cứu xin minh hoạ bằng biểu đồ sau đây:
Biểu đồ 2.1: Lượt khách nội địa và quốc tế đến Đăk Lăk từ năm 2005- Quý I 2009
17
0
50000
100000
150000
200000
250000
2005 2006 2007 2008 Quý I
2009
Lượt khách nội địa
Lượt khách quốc tế
(Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Đăk Lăk)
Qua biểu đồ cho ta thấy rằng lượng khách quốc tế trong những năm qua ở tỉnh có dấu hiệu đang
tăng lên, nhưng mức tăng trưởng không ổn định, tốc độ tăng trung bình đạt 15,94% (năm 2005-
2008) riêng năm 2007 lượt khách quốc tế đã giảm 3.128% so với năm 2006 . Nhưng dấu hiệu đáng
mừng ở đây là năm 2008 lượng khách quốc tế đến tỉnh Đăk Lăk lại tăng 14% so với năm 2007 mặc
dù năm 2008 là năm mà ngành du lịch quốc tế và trong nước gặp nhiều khó khăn. Lượt khách nội
địa năm 2007 tăng đáng kể 17,5% so với năm 2006 và có dấu hiệu chùn lại tăng 2,7% trong năm
2008. Trên đà đó trong quý I năm 2009 ngành du lịch của tỉnh tiếp tục duy trì tốc độ tăng
trưởng.Tổng số khách đón tiếp đạt 56.000 lượt khách đạt 18.67% kế hoạch năm 2009 tăng 2.26% so
với cùng kỳ năm 2008, trong đó khách quốc tế xấp xỉ 5.000 lượt khách, đạt 20% kế hoạch năm 2009
giảm 37.23% so với cùng kỳ năm 2008. Thực tế cho thấy rằng tác động của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu dịch cúm gia cầm H5N1và mới đây là dịch cúm lợn H1N1 đã hạn chế lượng khách quốc tế
đến du lịch ở tỉnh, trong khi đó lượng khách du lịch nội địa tăng nhanh là do các đoàn khách trong
nước đến khảo sát, công tác và dự hội nghị, khách đến với mục đích du lịch thật sự còn ở mức thấp.
Nhìn chung du lịch của tỉnh Đăk Lăk hiện nay chỉ thu hút chủ yếu được lượng khách nội địa và một
lượng nhỏ khách nước ngoài. Xét cho cùng bởi vì các sản phẩm du lịch ở Đăk Lăk chủ yếu là các
sản phẩm du lịch văn hoá-lịch sử và du lịch sinh thái, những sản phẩm này tuy phù hợp với khách
quốc tế bởi theo thị hiếu, khách quốc tế rất thích tìm hiểu những nền văn hoá mới, các phong tục tập
quán của đồng bào dân tộc thiểu số ở Đăk Lăk, các khung cảnh thiên nhiên hoang sơ nhưng do các
sản phẩm du lịch còn “thô” và chưa có nét đặc sắc nên chưa có thể thu hút được du khách quốc tế
trong khi đó loại hình này ít phù hợp với khách trong nước. Đây cũng là lúc mà các cơ quan chức
18
năng hay các doanh nghiệp hoạt động du lịch ở tỉnh cần phải thay đổi các sản phẩm du lịch sao cho
phù hợp với khách nội địa thu hút được lượng khách nội địa đầy tiềm năng này.
(Nguồn: từ Tổng cục thống kê (GOS) ngày 31-08-2005)
Trong cơ cấu chi tiêu của du khách, khoảng chi phí cho phương tiện đi lại chiếm 1/3 (năm 2005 là
32%) trong tổng số các khoản chi tiêu; tiếp đến là chi cho cơ sở lưu trú để nghỉ ngời chiếm gần một
phần tư (năm 2005 là 21,8%), thứ ba là chi cho ăn uống và chi mua sắm hàng hoá, quà tặng, quà
lưu niệm mỗi khoản chiếm khoảng 15%.Các khoản chi tham quan, chi cho nhu cầu văn hoá, thể
thao, vui chơi, giải trí; chi cho y tế, săm sóc sức khoẻ đều chiếm rất nhỏ trong tổng các khoản chi.
Về mức chi tiêu bình quân một ngày-khách khoảng từ 300 đến dưới 400 nghìn đồng ( theo điều tra
của Tổng cục Thống kê (GSO) công bố số liệu ngày 31-08-2005). Như vậy ta có thể thấy được
ngành du lịch của tỉnh chỉ hút đựơc lượng khách có mức thu nhập trung bình trở xuống, lượng
khách có mức chi tiêu cao còn rất hạn chế chủ yếu tập trung vào lượng khách nước ngoài và một
phần khách nội địa sang trọng, rất nhiều lý do được đưa ra như cơ sở phục vụ du lịch chưa đáp ứng
được nhu cầu của loại khách này, các sản phẩm du lịch nghèo nàn, trùng lắp, chưa có những sản
phẩm du lịch sang trọng. Theo nhóm nghiên cứu thì du lịch tỉnh Đăk Lăk vẫn chưa tận dụng hết thế
mạnh của mình để thu hút mạnh mẽ lượng khách có mức chi tiêu trung bình, cũng như khách có
mức chi tiêu cao. Thiết nghĩ để phát triển du lịch bền vững cần phải tạo được nhiều công ăn việc
làm cho các đồng bào dân tộc tại chỗ và các cư dân sinh sống ven các khu du lịch cũng như phải
đảm bảo sinh thái môi trường, trong khi đó những khách có mức chi tiêu cao và những khách hạng
sang lại góp phần tạo nên đảm bảo điều đó. Vì vậy với chủ trương phát triển du lịch bền vững thì
ngành du lịch tỉnh Đăk Lăk cần phải chú trọng thu hút nhiều hơn thị trường du khách đầy tiềm năng
này.
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu chi tiêu của
khách du lịch khi đến Đăk Lăk
32%
46%
21.80%
Đi lại
Lưu trú
Ăn uống, mua hàng
hoá
19
2.2.3 Thực trạng khai thác du lịch ở Đăk Lăk:
Đắk Lắk là một trong những tỉnh giàu tiềm năng về du lịch của Việt Nam với nhiều di tích, thắng
cảnh và truyền thống văn hóa đa dạng. Đặc biệt, Đắk Lắk có Bản Đôn là một địa danh đã được đưa
vào bản đồ du lịch thế giới vì truyền thống săn bắt, thuần dưỡng voi rừng và ở Đăk Lăk có nhiều
thắng cảnh đẹp và hoang sơ đang được đưa vào khai thác như khu dịch lịch sinh thái buôn đôn, khu
du lịch Lăk, thác KrôngKmar, thác Draysap, thác Gia Long, vườn quốc gia Yokdon, Chư Yang
Sing…bên cạnh đó còn có những khu du lịch văn hoá lịch sử như Bảo tàng dân tộc Đăk Lăk, hang
đá Đaktour, tháp chăm Yang Prong…Đặc biệt trong những năm gần đây ngành du lịch của tỉnh đã
đạt được một số thành tựu đáng khích lệ như tổ chức được nhiều sự kiện lớn, doanh thu tăng đều
qua các năm (xem biểu đồ doanh thu)
Qua biểu đồ doanh thu ta thấy doanh thu của ngành du lịch tỉnh tăng đều qua các năm, tốc độ tăng
doanh thu ước đạt 19% từ năm 2005 đến 2008, tiêng quý I năm 2009 của tỉnh ước đạt 40 tỷ đồng,
đạt 24,24% kế hoạch năm 2009 và tăng 11,09% so với cùng kỳ năm 2008 đó là một kết quả rất khả
quan cho ngành du lịch tỉnh nhà.
Biểu đồ 2.3: Doanh thu của ngành du lịch
tỉnh Đăk Lăk qua các năm
40
152
125
102
90.7
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Tỷ Đồng 90.7 102 125 152 40
2005 2006 2007 2008 Quý I 2009
(Nguồn: sở vă n hoá-thể thao- du lịch Đăk Lăk)
20
Biều đồ 2.4 Tỉ trọng cơ cấu ngành ở
Đăk Lăk
66.50%
12.40%
21.10%
Nông - Lâm nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Tuy nhiên do xuất phát chủ yếu từ ngành nông nghiệp là chính tỷ trọng nông-lâm nghiệp chiếm
66.5%, tỷ trọng ngành công nghiệp là 12,4% và tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 21.1% nên ta thấy
đóng góp của ngành du lịch vào tổng thu nhâp của tỉnh là còn chưa cao. Thật sự ngành du lịch của
tỉnh có xuất phát điểm thấp chỉ mới bắt đầu đi vào hoạt động thực sự vào năm 1994, các hoạt động
du lịch còn tính chất còn bộc phát, nhiều khu du lịch sinh thái chủ yếu dựa vào các khu sinh thái có
sẵn, việc xây dựng và đầu tư chỉ mang tính chất sơ xài, thiếu đồng bộ.
(Nguồn: sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Đăk Lăk)
Các doanh nghiệp hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh chủ yếu là xây dựng cổng để thu tiền vé chứ
ít chú trọng việc phát triển cơ sở hạ tầng du lịch cũng như thay đổi nội dung chương trình hoạt động
dẫn đến tình trạng các tài nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách lãng phí và kém hiệu quả. Một
số khu du lịch như Lăk, Buôn Đuôn.. bước đầu đã có đầu tư vào khu resort nhưng không đúng qui
cách làm mất đi cảnh quan vốn có của thiên nhiên, nhóm lấy ví dụ điển hình là ở khu du lịch Lăk
resort khi đến khu du lịch này đập vào mắt du khách đầu tiên là hệ thống nhà vệ sinh và chắc qua
một quản đường dài du khách sẽ cảm thấy cách bố trí rất “hiểu ý” du khách nhưng khi bước vào nhà
WC các du khách thường quay ra ngay lập tức vì không thể chịu được sự mất vệ sinh và hôi thối .
Hay mới đây nhất nhóm nghiên cứu xin trích dẫn một đoạn trong bài “du lịch đuổi khách ở Bản
Đôn” của tác giả Công Thành trên website “Nước
không có mà tắm, nhà sàn thì hôi hám, chăn đệm toàn rận, đã vậy còn bị lừa nữa! Bản Đôn ơi…Đến
một lần rồi thôi!”. Các cơ lưu trú còn èo ọp, không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của du
khách, thái độ của nhân viên còn hời hợt với du khách và bảng dịch vụ (xem phụ lục) thì giá ở “trên
trời” đó là những kết luận của du khách khi đến với Bản Đôn. Du khách đến du lịch ở tỉnh Đăk Lăk
không chỉ riêng gì Bản Đôn mà hầu như các khu du lịch khác ở Đăk Lăk đều được “đối xử” như
vậy, giống như vừa bị lừa, vừa bị móc túi mà không nhận đuợc gì sau chuyến đi.
21
Qua khảo sát của nhóm nghiên cứu 45% du khách cho rằng còn rất nhiều rác ở các điểm du lịch,
mặc dù các bảng “cấm xả rác” xuất hiện nhiều nhưng rác vẫn tồn tại, điều đáng nói ở đây là không
có một nhân viên vệ sinh nào của các khu du lịch đến gom và xử lý rác mà chỉ có một số người dân
địa phương thu nhặt những vỏ lon, vỏ chai...Rác thải đã làm ảnh hưởng đến nguồn nước và môi
trường xung quanh gây nên tác động xấu cho ngành du lịch của tỉnh ảnh hưởng đến việc phát triển
du lịch. Với chủ trương của tỉnh là phát triển du lịch bền vững nhưng với thực trạng hiện nay các
khu du lịch đang bị khai thác một cách quá lãng phí, và tình trạng ô nhiểm chẳng mấy chốc các tài
nguyên du lịch ở Đăk Lăk sẽ có nguy cơ ô nhiểm nặng.
Bên cạnh đó các sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu và trùng lặp chưa có sự đầu tư nghiên cứu
đổi mới trong sản phẩm, các tour du lịch sinh thái chủ yếu là cưởi voi, thăm khu buôn làng, thăm
khu sinh thái mà hầu như mức độ trùng lặp giữa các địa phương là rất cao.. thậm chí hai khu du lịch
nằm sát gần nhau chỉ cách nhau khoảng 7 km đó là khu du lịch cầu treo ở Buôn Đôn (Tổng công ty
du lịch Biệt Điện quản lý) và khu du lịch sinh thái Buôn Đôn (Tổng công ty cao su Đăk Lăk quản
lý) các sản phẩm du lịch như cưởi voi, đi thuyền độc mộc, xem biểu diễn cồng chiên, đi bộ trong
rừng….là hoàn toàn giống nhau một mặt các sản phẩm du lịch còn theo lối mòn nặng về tham quan
mà chưa tạo ra được sự khác biệt do vậy khách du lịch chỉ cần đến khu du lịch Cầu Treo Buôn Đôn
là họ có thể cảm nhận được hết các sản phẩm ở khu du lịch Sinh Thái- Văn Hóa Bản Đôn mà không
cần đến đó, gây nên tình trạng dư thừa ở khu du lịch Bản Đôn. Điều này không những không làm
nổi bật lên nét đặc trưng cho từng khu du lịch ở Đăk Lăk mà còn làm cho khách cảm thấy nhàm
chán và có cảm giác chỉ cần đi du lịch ở một điêm ở Đăk Lăk là có thể hình dung được cả vùng hay
chỉ đến Đăk Lăk một lần rồi thôi.
Vì khí hậu của Đăk Lăk được phân chia làm hai mùa rõ rệt nên ngành du lịch cũng chịu nhiều tác
động của yếu tố mùa vụ, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung khai thác vào mùa cao điểm du lịch
của tỉnh, thông thường mùa cao điểm thường tập trung vào những ngày lễ lớn và những ngày cuối
tuần trong mùa nắng, ngược lại vào mùa mưa (mùa thấp điểm) các tháng lại trong năm cả ngành du
lịch của tỉnh rơi vào tình trạng ngủ đông. Đây không chỉ là một thực trạng của du lịch Đăk Lăk mà
của toàn ngành du lịch Việt Nam, xuất phát từ hầu hết các sản phẩm du lịch của tỉnh chỉ phù hợp
cho mùa nắng, nhưng trong mùa mưa thì các sản phẩm này lại không phát huy được ưu điểm của nó
điều này dẫn đến tình trạng lãng phí trong việc khai thác nguồn lực du lịch. Thêm một thực tế nữa
xuất phát từ độ dài các ngày nghĩ lể ở nước ta ngắn và vào thời điểm này lượng cầu tăng đột biến
dẫn đến việc các du khách chỉ tập trung về Đăk Lăk đông trong các ngày lễ ảnh hưởng đến chất
lượng phục vụ, giá cả sản phẩm du lịch bị đôn lên gây thiệt hại cho du khách tham gia du lịch trong
tỉnh.
22
Gần đây một số sản phẩm mới được một vài doanh nghiệp tung ra nhưng ngay lập tức bị sao chép
dễ gây cản trở sự sáng tạo của số doanh nghiệp chịu khó tìm tòi và đổi mới khiến các doanh nghiệp
này cảm thấy nản và dễ buông xuôi. Các doanh nghiệp không chỉ riêng trong ngành du lịch mà tất
cả các ngành nghề khác đều mong chờ với sự ra đời và thích ứng của luật sở hữu trí tuệ sẽ bảo vệ
những con người lao động sáng tạo không ngừng tìm tòi nhằm phát minh ra nhiều sản phẩm và dịch
vụ góp ích cho xã hội và đất nước.
2.2.4 Thực trạng quảng cáo- xúc tiến:
Xúc tiến thương mại là một trong những nhân tố quan trọng nhằm góp phần đưa được hình ảnh du
lịch Việt Nam cũng như du lịch của tỉnh Đăk Lăk ra bạn bè quốc tế và giúp cho ngành du lịch ngày
càng vững mạnh và phát triễn bền vững. Tuần lễ du lịch quốc gia không chỉ là dịp quảng bá lịch sử,
văn hóa, con người ở địa phương mà còn góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và
nâng cao thu nhập cho người dân. Trong những năm gần đây và đặc biệt là đầu năm 2009 ngành du
lịch Việt Nam đã diễn ra nhiều sự kiện, hoạt động lễ hội, liên hoan hội chợ được tổ chức trong và
ngoài nước với quy mô lớn nhằm quản bá các cảnh đẹp Việt Nam cũng như tiềm năng và các thế
mạnh của du lịch Việt Nam. Giữa tháng 2 năm 2009 một chương trình giới thiệu Du lịch Việt Nam
tại TP.Melbourne, Úc với chủ đề “Ấn tượng Việt Nam – Impressive Vietnam” nhằm giới thiệu hình
ảnh du lịch Việt Nam và thu hút các nhà đầu tư, hợp tác và đẩy mạnh hơn nữa hơn nữa công tác du
lịch của hai bên. Ngoài ra còn có các sự kiện như quản bá du lịch Việt Nam trên kênh truyền hình
CNN và trên taxi tại Anh, tham gia hội chợ du lịch hằng năm lớn nhất thế giới tại Beclin, Đức..
Trong nước có các hoạt động như Carnavan Hạ Long năm 2009, hội chợ du lịch hằng năm ở Thành
Phố Hồ Chí Minh, tổ chức năm du lịch đều đặn ở các vùng miền khác nhau trong cảc nước …Riêng
với du lịch Đăk Lăk, vào tháng 11/2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được
UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu – di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đã làm tăng
thêm giá trị của nền văn hóa nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk. Trong những năm qua tỉnh đã tổ chức nhiều
hoạt động du lịch thu hút du khách như Festival cồng chiêng năm 2007, lễ hội cà phê lần I… đã thu
hút được nhiều du khách trong và ngoài nước đến với Đăk Lăk, ngoài ra tỉnh cũng đã phát hành bộ
đĩa CD-Rom về bản đồ hành chính – thương mại – du lịch Đắk Lắk , bên cạnh đó tỉnh đã phối hợp
với Đài truyền hình Việt Nam, Truyền hình TP.HCM quay nhiều bộ phim quảng bá cho du lịch Đắk
Lắk như: “Sắc xuân Đắk Lắk”, “Đắk Lắk, Cao nguyên điểm hẹn”, “Bên dòng Sêrêpôk”, “Tây
Nguyên mùa dã quỳ”…Đặc biệt vào giữa tháng 12-2009 tỉnh sẽ tổ chức tuần lễ du lịch với chủ đề
“Huyền thoại voi Tây Nguyên” nhằm tôn vinh những giá trị văn hoá, các thành tựu, tiềm năng du
lịch to lớn của tỉnh cũng như góp phần quảng bá và xây dựng thương hiệu cho du lịch Đăk Lăk.
Năm 2008 tỉnh đã hỗ trợ 500 triệu đồng cho công tác xúc tiến quản bá du lịch như dựng panô tấm
lớn để quảng cáo du lịch Việt Nam, tập hợp và tổ chức vận động thành lập hợp tác xã voi ở Buôn
23
Đôn; xây dựng bộ phim giới thiệu về nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng của người Buôn Đôn,
tham gia các hội chợ quảng bá du lịch do Tổng cục Du lịch tổ chức trong và ngoài nước nhằm tuyên
truyền quảng bá và kêu gọi đầu tư, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của hoạt động du lịch tỉnh nhà.
Sự ra đời của hiệp hội du lịch tỉnh Đăk Lăk đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc xây dựng một
thương hiệu cho du lịch Đăk Lăk, là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các thành phần kinh
tế hoạt động trong lĩnh vực du lịch và những lĩnh vực khác có liên quan ở Đắk Lắk. Đây là nơi để
các hội viên hợp tác, hỗ trợ nhau trong hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng
sản phẩm du lịch, ổn định giá dịch vụ, đẩy mạnh việc quảng bá thương hiệu ra thị trường trong nước
và quốc tế.
Thế nhưng công tác xúc tiến hiện nay còn mang tính chất phong trào, chưa mang lại hiệu quả cao,
và còn nhiều bất cập một phần là do chi phí dành cho việc xúc tiến còn hạn chế mặt khác các cá
nhân và tổ chức chưa có nhiều động lực mạnh mẽ bởi lợi ích của việc xúc tiến chưa gắn liền với lợi
ích cá nhân. Đăk Lăk có nhiều cảnh đẹp và văn hoá đa dạng nhưng hầu như ít người biết đến, thậm
chí nhiều ngừơi còn nghĩ rằng Buôn Ma Thuột và Đăk Lăk là hai tỉnh khác nhau. Nguyên nhân do
công tác quảng bá còn quá yếu và thiếu thông tin cho khách hàng tìm kiếm trong quyết định đi du
lịch của mình. Chúng ta khó có thể tìm kiếm những thông tin mới về ngành du lịch của tỉnh, bên
cạnh đó trung tâm xúc tiến và đầu tư là một cơ quan xây dựng hình ảnh thương hiệu của du lịch tỉnh
nhưng cũng rất hạn chế trong việc cung cấp thông tin quảng bá du lịch của tỉnh nhà, ngoài ra các tổ
chức cá nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở Đăk Lăk vẫn chưa chú trọng hiều đến việc xây
dựng thương hiệu cho chính mình. Các banel, áp phích ít được chú ý về mặt hình thức lẫn nội dung,
ít được tu bổ và làm mới nên dẫn đến hiện trạng xuống cấp và mất đi hình ảnh về du lịch của tỉnh
Đăk Lăk trong mắt du khách
2.2.5 Thực trạng về công tác quản lý của cơ quan nhà nước:
Nếu một cá nhân nào đến với du lịch Đăk Lăk sẽ không khó để họ nhân ra rằng công tác quản lý
của tỉnh còn lỏng lẻo, chưa thật sự hỗ trợ và liên kết với nhau trong việc quản lý các điểm du lịch
dẫn đến tình trạng nhếch nhác của một số khu du lịch như rác thải, tình trạng khai thác bừa bãi ảnh
hưởng đến cảnh quan và môi trường xung quanh khu du lịch, ngòai ra các cơ quan chức năng vẫn
chưa có những phương án đảm bảo an toàn cho du khách khi đến tham quan các khu du lịch, các du
khách đến đây tham quan là chủ yếu nhưng vấn đề an toàn chưa được coi trọng mà chủ yếu là xây
các cổng thu tiền vé, dẫn đến nhiều trường hợp đau lòng xảy ra, nhiều du khách thiệt mạng khi đi
chơi thác, voi quật chết và làm bị thương du khách xảy ra hàng năm nhưng không có công tác đảm
bảo an toàn cho du khách khiến thực trạng nhức nhối này diễn ra hàng năm, ngoài ra các sản phẩm
lưu niệm kém chất lượng, hàng giả, nhái mác rất nhiều như nhẫn đuôi voi, rượu Amakon, rượu
24
cần.... Nhưng các cơ quan chức năng vẫn chưa vào cuộc thật sự để chấm dứt tình trạng này dẫn đến
sự thiệt hại cho khách du lịch, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh du lịch tỉnh nhà.
Mặc khác các cơ quan chức năng vẫn chưa phối hợp đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tạo ra nhiều sản phẩm du lịch thú vị và độc đáo. Nhóm lấy ví dụ như để tổ chức một tour băng rừng
các doanh nghiệp phải rất vất vả mới xin được giấy phép vào các khu rừng quốc gia hay những khu
vực cấm hay việc xử lý các vi phạm giao thông vẫn chưa linh hoạt cho du khách, khi khách du lịch
vi phạm luật giao thông thì chưa giải quyết linh hoạt để du khách có thể tiếp tục chuyến du lịch theo
đúng lịch trì... Là một trong những ngành được ưu tiên phát triển nhất tỉnh nhưng sự thiếu quan tâm
và chỉ đạo nghệch ngoặc khiến cho du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, các chính sách hỗ trợ
đầu tư còn nhiều bất cập và thủ tục hành chính rề rà đã ngán ngẩm các nhà đầu tư. Công tác xây
dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho du lịch còn quá kiếm khuyết. một số nơi hệ thống đường
xá vào khu du lịch đã xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa thấy cơ quan chức năng nào lên tiếng.
Để đánh giá thực trạng của công tác quản lý nhà nước nhóm nghiên cứu đánh giá trên ba khía cạnh:
nguồn nhân lực, cách thức quản lý và công cụ quản lý
Nguồn nhân lực: Một thực tế nửa là nguồn nhân lực đang làm trong các cơ quan ngành du lịch còn
rất yếu và thiếu, họ chưa đưa ra được một chính sách cụ thể để phát triển du lịch mà chủ yếu còn
trông chờ nhiều vào các điều kiện thiên nhiên ưu đãi, do đó chưa chú trọng vào việc thu hút vốn đầu
tư mà chủ yếu là trông chờ ăn sẵn. Thực trạng này đã phần nào nêu rõ lý do tại sao Đăk Lăk xin
không đăng cai năm du lịch 2009, lảnh đạo của tỉnh đưa ra lý do rằng trong tình hình kinh tế hiện
nay, tỉnh không thể chi một khoản kinh phí lớn để tổ chức sự kiện. Mặt khác, với điều kiện cơ sở hạ
tầng hiện tại, Đắc Lắc sẽ khó phục vụ tốt một lượng lớn khách đến trong những lễ hội chính của
năm du lịch. Nhưng theo nhóm nghiên cứu đó chưa phải là một lý do thuyết phục, có thể là do cơ sở
hạ tầng chưa đáp ứng cho công tác tổ chức, hay kinh phí cho công tác tổ chức là lớn nhưng lý do
chính là do một mặt vì sản phẩm du lịch của tỉnh còn nghèo nàn, chưa độc đáo và chưa có khả năng
thu hút du khách mặt khác đội ngũ làm công tác trong ngành du lịch còn quá mỏng và thiếu kinh
nghiệm. Nếu như vấn đề nhân lực được giải quyết, với một đội ngũ những người làm công tác tổ
chức tốt và chuyên nghiệp có thể sẽ giúp cho địa điểm tổ chức năm du lịch 2009 sẽ diển ra ở Đăk
Lăk, và qua đó giúp cho ngành du lịch của tỉnh học hỏi nhiều kinh nghiệm hơn trong công tác tổ
chức những sự kiện lớn. Điều này đồng nghĩa với việc Đăk Lăk đã mất đi một cơ hội lớn để xây
dựng và giới hình ảnh của mình rộng rãi ra bên ngoài hơn nữa. Tuy nhiên nhóm cũng đã tiếp xúc và
làm việc với một số thành viên trẻ tuổi rất hoạt bát, năng động và sáng tạo trong đội ngũ lảnh đạo
đầy nhiệt huyết, với đội ngũ này trong tương lai sẽ mở ra một viển cảnh tươi sáng cho ngành du lịch
ở Đăk Lăk. Theo nhóm thuyết trình muốn du lịch tỉnh Đăk Lăk thoát khỏi thực trạng hiện nay thì bài
toán cần giải quyết trước tiên là bài toán nhân lực.
25
Cách thức quản lý: Qua quan sát nhóm thực tế thấy rằng cách thức hoạt động của các cơ quan chức
năng là đề ra chỉ tiêu hoạt động để các doanh nghiệp cùng phấn đấu đạt chỉ tiêu nhưng thiếu các
công cụ hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp khiến nhiều năm qua các doanh nghiệp rơi vào tình
trạng khó khăn và chủ yếu tự lực là chính. Xuất phát từ nền kinh tế chính của tỉnh phụ thuộc vào
nông nghiệp nhiều đời nay và tỉnh còn nằm trong số những tỉnh nghèo nhất nước nên vì vậy mà việc
quản lý còn nhiều bất cập và thiếu sót do vậy để bắt kịp thời đại một khi Việt Nam đã vào WTO thì
việc quản lý du lịch ở Đak Lăk cần phải không ngừng học hỏi để bắt kịp với xu hướng thời đại hiện
nayVới một tiềm năng dồi dào về du lịch cũng như khuynh hướng hiện nay nhóm nghiên cứu nghĩ
rằng rồi đây du lịch Đăk Lăk sẽ phát triển dựa trên nền móng của sự đầu tư có qui mô và quy hoạch
rõ ràng và cụ thể, muốn làm được điều ấy thiết nghĩ các cơ quan chức năng phải không ngừng phát
huy hơn nữa vai trò của mình để đưa du lịch Đăk Lăk trở thành một trong mười điểm đến của Việt
Nam.
Công cụ quản lý: Đánh giá về công cụ quản lý du lịch tại Đăk Lăk, hiện nay tỉnh đã có các cổng
thông tin trên Internet để khách hàng có thể tìm kiếm thông tin du lịch nhưng như đã nói các thông
tin này còn chưa được cập nhật nhiều, thông tin chưa xác với thực tế và lượng thông tin còn rất ít.
công cụ thu thập số liệu thống kê của tỉnh rất nhanh và đều đặn, hàng tháng các cơ quan đều công
bố số liệu và tiến độ chỉ tiêu đạt được giúp cho tỉnh dễ dàng kiểm soát được tình thình thực tế của
ngành du lịch. Về công cụ pháp lý, sự ra đời của luật du lịch đã giúp cho các địa phương trong tỉnh
dễ dàng kiểm soát hoạt động du lịch cũng như những chính sách bổ sung của tỉnh cho phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương. Nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập gây khó khăn cho các doanh
nghiệp đang hoạt động tại tỉnh cũng như các doanh nghiệp bên ngoài muốn đầu tư vào Đăk Lăk.
2.2.6 Thực trạng về đào tạo nhân lực trong nghành du lịch ở Đăk Lăk:
Du lịch là một nghành kinh tế đòi hỏi những người làm du lịch không những phải có kiến thức về
lịch sử, văn hóa, ngoại ngữ…mà con phải biết giao tiếp rộng và nhiều kỹ năng mềm khác trong giao
tiếp và ứng xử. Trong những năm qua ngành du lịch của tỉnh Đăk Lăk đã đạt được nhiều bước phát
triển, doanh thu của ngành tăng đều qua các năm, thu hút được một lượng đông đảo khách du lịch
đến với Đăk Lăk cũng như các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch. Đạt được thành quả như vậy là nhờ
có sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước cũng như các cấp lảnh đạo địa phương đến việc thu hút vốn
đầu tư và đặc biệt là công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch, bên cạnh đó tổ chức các
lớp học bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên ngành du lịch..
Theo điều tra nguồn nhân lực Đăk Lăk năm 2003 của sở Thương Mại và du lịch Đăk Lăk thì có 834
người làm trong ngành du lịch và tỷ lệ được đào tạo chiếm hơn 48% trong đó 189 người được đào
tạo chuyên nghành về du lịch chiếm 22,66% còn lại được đào tạo từ các ngành khác như kinh tế, tin
26
học, ngoại ngữ…như vậy là đội ngũ du lịch Đăk Lăk còn hơn 62% chưa được đạo tạo đúng nghĩa,
điều này cho thấy một thực trạng của du nhân lực Đăk Lăk hiện nay là vừa thiếu và vừa yếu. Ngoài
ra chỉ có xấp xỉ khoảng 30% nhân viên biệt nói ngoại ngữ chủ yếu là Anh và một ít tiếng Pháp.
Thực tế cho thấy hiện nay nhân lực trong nghành du lịch của tỉnh không những chưa đảm bảo về số
lượng cũng như chất lượng, đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ du khách.
Bên cạnh đó ở toàn tỉnh chưa có một trường dạy du lịch, thậm chí là một trường trung cấp Khi nhóm
đến khu du lịch sinh thái-văn hoá Bản Đôn tại phòng hướng dẫn tiếp nhóm là một nam hướng dẫn
viên trong tình trạng “say ngà ngà” và luôn miệng huyên thuyên về chất lượng cũng như giá cả của
dịch vụ, nhưng như vậy vẫn còn tôn trọng khách hàng, ở phòng hướng dẫn của khu du lịch Lăk
resort thậm chí cô nhân viên không thèm ngước mắt nhìn chúng tôi khi chúng tôi hỏi về dịch vụ của
khu du lịch cô ta chỉ tay về phía bảng hướng dẫn và tiếp tục công việc bàn giấy của mình. Với cách
cư xử và thái đô phục vụ của những người làm công tác hướng dẫn du lịch của tỉnh khiến cho du
khách cảm thấy ngao ngán, có lẽ ngoài việc mở các trường và cơ sở đào tạo du lịch tỉnh nên mở các
lớp kỹ năng ứng xủ với khách hàng để nâng cao chất lượng đội ngũ hướng dẫn viên ở đây.
Sản phẩm du lịch nghèo nàn, đội ngũ những người làm du lịch yếu kém đã làm lu mờ một hình ảnh
du lịch Đăk Lăk giàu tiềm năng, nhiều du khách đến Đăk Lăk một lần mà chỉ mang về hình ảnh xấu
khiến cho du khách chỉ đến một lần và không quay trở lại đó là thực trạng không chỉ của riêng Đăk
Lăk mà của cả nước Việt Nam.
Nhưng nhìn về phía người sử dụng lao động, họ cũng chưa thật sự quan tâm chăm lo phát triển và
đào tạo nguồn nhân lực và tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân có khả năng phát huy năng lực của họ
mà chủ yếu tính đến lợi nhuận nhiều hơn. Mặt khác tình trạng đào tạo ở các trường không phù hợp
với thực tế yêu cầu tuyển dụng của các nhà tuyển dụng sự khác biệt này cũng là một rào cản lớn
khiến cho đại bộ phận sinh viên sau khi ra trường đều phải được đào tạo lại từ phía nhà tuyển dụng.
2.2.7 Thực trạng về tài chính và đầu tư:
Đến với Đăk Lăk là đến với mảnh đất đầy tiềm năng và cơ hội đầu tư với nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú, đa dạng, nguồn lao động trẻ dồi dào, năng động. Hơn thế, đây còn là một thị
trường có sức tiêu thụ hàng hóa hàng đầu ở khu vực Tây Nguyên. Tuy có nhiều lợi thế, nhiều tiềm
năng và cảnh đẹp như vậy nhưng Đăk Lăk vẫn nằm trong danh sách các tỉnh nghèo. Đặc biệt là
trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như mỗi năm, thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài của cả nước lên tới vài chục tỉ USD thì khu vực Tây Nguyên đạt 680 triệu USD, Đăk
Lăk chỉ chiếm 44 triệu USD, đứng thứ 33 trong xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh PCI năm 2008
của cả nước (xem phụ lục 1.3).
27
Có rất nhiều nguyên nhân lý giải việc thu hút đầu tư vào Đăk Lăk thấp. Trước hết, tuy thuận lợi về
giao thông cả đường bộ lẫn đường hàng không nhưng những con đường quốc lộ ở Tây Nguyên đang
là trở lực lớn đối với việc thu hút đầu tư. Đó là địa hình đồi dốc, quanh co và làn đường nhỏ hẹp
cộng thêm hệ thống cầu, cống nhiều nhưng yếu. Thứ hai, nguồn nhân lực được đào tạo bài bản thích
ứng với thời kỳ hội nhập vẫn còn yếu. Thứ ba, các chương trình xúc tiến thương mại – đầu tư chỉ
mới chú trọng kêu gọi đầu tư trong nước mà chưa chú trọng đến hoạt động xúc tiến đầu tư nước
ngoài. Sự phối hợp các chương trình xúc tiến đầu tư giữa các tỉnh còn rời rạc chưa hiệu quả... vì vậy
cho nên khả năng thu hút tài chính và vốn đầu tư không chỉ ở các ngành khác mà ngay cả vốn đầu tư
cho ngành du lịch còn hạn chế. Các dự án đầu tư với quy mô lớn còn quá xa vời, chưa có một cá
nhân hay tổ chức nào táo bạo thực hiện. Ngay cả khi Tổ chức Du Lịch Thế Giới đánh giá để để hồ
Lăk trở thành khu du lịch xứng đáng với tiềm năng vốn có ước tính khoảng 6-10 triệu USD tiền vốn
đầu tư, và khả năng hoàn vốn chỉ trong vòng 10-15 năm. Nhưng nguồn vốn này địa phương và tỉnh
đang trông chờ vào các nguồn vốn từ bên ngoài và ban đầu chỉ xây dựng một số hạn mục trong dự
án.
Những năm gần đây, với tiềm năng du lịch to lớn của mình du lịch Đăk Lăk trở nên khởi sắc khi
nhiều nhà đầu tư bắt đầu có những dự án đầu tư của mình mặc dù qui mô ban đầu chưa lớn. Điển
hình là công ty cao su Đăk Lăk đã đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái-văn hoá buôn đôn trên diện
tích tự nhiên 1.336ha, trong đó có 200ha hồ nước, còn lại là rừng tự nhiên với tổng kinh phí hơn 51
tỷ đồng. Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2010, tỉnh sẽ triển khai 20 dự án du lịch với tổng số vốn
679 tỉ đồng được huy động từ nhiều thành phần doanh nghiệp. Dự án Khu du lịch Suối Xanh (TP
Buôn Ma Thuột) của Tổng công ty cao su Việt Nam có quy mô lớn với 200 tỉ đồng, tiếp đến là khu
du lịch hồ Ea Kao của Ban quản lý dự án TP Buôn Ma Thuột: 120 tỉ đồng; khu du lịch sinh thái văn
hóa Buôn Đôn (huyện Buôn Đôn) của Công ty cao su Đắk Lắk: 51 tỉ đồng, khu du lịch thác Gia
Long (huyện Krông Ana) của Công ty du lịch - thương mại Đam San: 40 tỉ đồng, khu trang trại
nông nghiệp - du lịch sinh thái Krông Á (huyện M’Drắk) của Công ty cà phê Trung Nguyên: 30 tỉ
đồng... Ngoài ra tỉnh còn đầu tư 135 tỉ đồng dành cho các công trình xây dựng khách sạn, điểm vui
chơi giải trí và văn hóa nghệ thuật..., tỉnh còn chủ trương khuyến khích phát triển thêm các làng
nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, mộc, mỹ nghệ, điêu khắc tạc tượng nhà mồ ..., đặc biệt là nghề
dệt thổ cẩm nhằm khôi phục lại nền văn hóa, bản sắc dân tộc của đồng bào và cung cấp sản phẩm
thủ công mỹ nghệ chất lượng cho ngành du lịch để bán cho du khách làm quà lưu niệm. Hiện nay
các dự án đầu tư vào các khu du lịch sinh thái là chủ yếu, ngoài ra các dự án đầu tư vào các công
trình lưu trú cũng đang thu hút khá nhiều giới đầu tư quan tâm tiêu biểu là hai hệ thống khách sạn 4
sao của tổng công ty cao su Đăk Lăk và công ty TNHH Hoàng Nguyên.
28
Với xu hướng đầu tư vào du lịch hiện nay của tỉnh Đăk Lăk, chắc chắn rằng trong tương lai du lịch
Đăk Lăk sẽ trở nên khởi sắc, và có những chuyển biến nhảy vọt. Nhưng thiết nghĩ mọi yếu tố đều có
tác động hai mặt vì vậy một khi hàng loạt dự án đầu tư như vậy sẽ gây ra các tác động tiêu cực về
môi trường sinh thái và mất đi cảnh quan tự nhiên, do vậy thiết mong các cơ quan chức năng phải
cân nhắc kỹ khi thẩm định dự án, và tiến hành kiểm tra giám sát thường xuyên khi tiến hành tránh
tình trạng ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và mất đi vẻ đẹp văn hoá riêng biệt của Đăk Lăk.
2.2.8 Thực trạng các doanh nghiệp khai thác và hoạt động du lịch ở Đăk Lăk:
Hiện tại ở Đăk Lăk có 44 doanh nghiệp lớn nhỏ kinh doanh lữ hành đây là một con số khá khiêm
tốn so với tiềm năng du lịch của tỉnh, các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào việc khai
thác các tài nguyên có sẵn như các thác nước, hồ, các khu rừng quốc gia.
Tuy ban đầu đã đạt được một số hiệu quả nhưng hầu hết lợi nhuận đã rơi vào các công ty lữ hành
lớn vì phần đông du khách đều bị các công ty lữ hành khác bán khách lại cho các doanh nghiệp địa
phương. Nhìn vào chương trình của các tour du lịch của các công ty lớn như Viet Travel, Ben Thanh
Tourist, hay các công ty nhỏ như Viet Travel, Cầu Vồng.. đều có các chương trình tham quan du
lịch ở Đăk Lăk , nhưng thật sự chỉ có một số ít một công ty mở chi nhánh văn phòng tại Đăk Lăk.
Trong khi đó việc đầu tư vào các điểm du lịch không đồng đều, doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào
xây dựng các khu lưu trú mà ít chú trọng đến việc xây dựng tuyến, điểm. Mặc khác các khu du lịch
tại địa phương hoạt động theo kiểu “mỳ ăn liền” chỉ chú trọng bán vé thu tiền chứ ít chú trọng đến
công tác đầu tư cũng như P&R. Ngoài ra các khu du lịch của Đăk Lăk là nơi gửi khách của các công
ty bên ngoài tỉnh vì vậy việc khuyến khích các công ty trong tỉnh mở các chi nhánh ở các tỉnh khác
nhằm thu hút du khách đến với Đăk Lăk và thu được doanh thu cao hơn. Thực tế chưa có một công
ty du lịch bên ngoài nào đầu tư vào các khu du lịch ở Đăk Lăk mà chủ yếu là các doanh nghiệp ở địa
phương tự làm.
Trong thời buổi kinh tế khó khăn và cạnh tranh gay gắt cũng như trước làn sóng hội nhập hiện nay
các doanh nghiệp của tỉnh cần phải thay đổi và có tầm nhìn dài hạn hơn để đưa ra các sản phẩm
mới, không ngừng xây dựng thương hiệu của mình nhằm thu hút hơn nữa nhiều lượng khách đến
với du lịch tinh nhà. Trong điều kiện các doanh nghiệp của tỉnh chưa đủ mạnh thì các cơ quan chức
năng giữ vai trò quan trọng trong việc xúc tiến, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập và nâng cao
hình ảnh của du lịch Đắk Lắk trên thị trường. Mặt khác du lịch là ngành kinh tế có tính liên ngành,
liên vùng và xã hội hóa cao, nhưng sự chỉ đạo phối hợp liên ngành còn chưa đồng bộ, chặt chẽ, chưa
tạo thành một dây chuyền liên hoàn hỗ trợ cho hoạt động du lịch, nên có khó khăn trong điều hành
và phối hợp hoạt động.
29
Chỉ có thể thay đổi tư duy đào tạo, mới có thể xây dựng lực lượng lao động du lịch bền vững. Song,
sự tăng trưởng này vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu về số lượng lao động của ngành. Nhưng đáng nói
hơn vẫn là tình trạng báo động về chất lượng phục vụ của nhân lực ngành du lịch trình độ ngoại ngữ
hạn chế, kỹ năng thiếu khiến chúng ta không khai thác hết nguồn lợi du lịch từ khách nước ngoài
2.3 Thực trạng của loại hình du lịch mạo hiểm ở tỉnh Đăk Lăk.
Du lịch mạo hiểm bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam từ cuối những năm 90, nhưng phải đến tận bây
giờ, du lịch mạo hiểm vẫn chưa tìm được chỗ đứng riêng cho mình, vẫn ở dạng các tour du lịch sinh
thái, hoặc những chuyến du lịch "về nguồn" mang tính chất tự phát.
Vài năm trở lại đây, du lịch mạo hiểm đã có những nét khởi sắc mới. Năm 2002, Việt Nam được
chọn là nơi diễn ra cuộc thi du lịch mạo hiểm mang tên Raid Gauloise với sự tham gia của hơn 600
vận động viên quốc tế khởi đầu từ Lào Cai kết thúc tại Hạ Long trong vòng nửa tháng. Tiếp theo là
cuộc chinh phục thung lũng Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) bằng xe đạp địa hình mang tên Action Asian,
chủ nhà cuộc thi leo núi Phan-xi-păng vào cuối năm 2003 nhân kỷ niệm 100 năm du lịch Sa-pa.
Cuối năm 2004, Công ty Dịch vụ Lữ hành Saigontourist hợp tác với Công ty Saffron Road Tours
(Australia) tổ chức chuyến du lịch dã ngoại bằng mô-tô (từ 175 đến 750 phân khối) xuyên Việt đầu
tiên mang tên "Saffron Road Vietnam Tour 2004" cho 19 khách Úc, Mỹ, Irland được coi là dấu ấn
lớn đối với một loại hình du lịch mạo hiểm mới có khả năng phát triển mạnh trong tương lai.
Từ thành công ban đầu đó, các doanh nghiệp lữ hành của Việt Nam đã lao vào cuộc. Không chỉ
những doanh nghiệp lớn như Hanoitourism hay Saigontourist, Fiditour, Vietravel mà cả những
doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn như Tre Xanh hay Hồng Bàng, Lĩnh Nam cũng bắt đầu xây dựng
các chương trình cho mình để tung ra thị trường. Hiện nay, Saigontourist đang khai thác một số địa
danh như hang Dơi ở Phan Thiết, các vách núi ở suối Vĩnh Hảo hay Côn Ðảo, vách núi hòn Phụ Tử
ở Hà Tiên, vực tử thần ở Ða-tan-la Ðà Lạt, rừng Phin-hát ở vùng núi Voi, động Quan Âm ở Ngũ
Hành Sơn sâu hơn 50m... tổ chức thành các hình thức leo lên vách núi (rock climbing), leo xuống
vách núi (abseiling) hay vượt thác (canyoning), chèo xuồng (kayaking)...
Đây là những tour du lịch hết sức thú vị, với những cảm giác mới lạ và đầy tính thách thức và có thể
thu hút được một số lượng du khách lớn. Đặc biệt là tại những địa điểm xung quanh các khu du lịch
đã nổi tiếng. Việc kết hợp những tour du lịch truyền thống tới các danh lam thắng cảnh, với một tour
du lịch mạo hiểm tại một nơi gần các địa danh đó, sẽ tạo nên một bước đột phá, tạo cho du khách
một chuyến du lịch không thể nào quên.
Trong qui hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, Viện Nghiên cứu và Phát triển
Du lịch xác định: du lịch mạo hiểm là lĩnh vực đặc thù, cần được chú trọng. Khách du lịch mạo
30
hiểm thường có khả năng chi trả cao, đi du lịch dài ngày, vì vậy, nhiều nước có chiến dịch quảng bá
loại hình này để thu hút khách. Các loại hình du lịch mạo hiểm được du khách ưa chuộng là đi bộ,
leo núi, đua ô tô, mô tô, xe đạp, lặn biển, bè mảng, đua thuyền, lướt ván nhảy dù…
Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nguyên sơ cùng với bản sắc văn hóa bản địa của vùng đất Tây
Nguyên, Đăk Lăk sẽ là địa chỉ tuyệt vời để tổ chức các tour du lịch mạo hiểm. Năm 2006, du lịch
mạo hiểm ở Đăk Lăk lần đầu xuất hiện với hình thức vượt thác cao bằng thuyền (Kayaking) của bốn
thanh niên người Canada, Mỹ, và Australia. Họ đã dùng thuyền nhỏ lao từ trên ngọn thác cao hơn
15m xuống chân thác. Đây là điều chưa ai dám thực hiện ở ngọn thác này, bởi trên dòng chảy dữ dội
của thác có nhiều tảng đá ngầm rất nguy hiểm. Mặc dù đây chỉ là cuộc khảo sát địa hình nhưng
chính sự kiện này đã làm điểm nhấn hé mở cho du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk.
Với sức hút mạnh mẽ của làn sóng du lich mạo hiểm tại Việt Nam, một số doanh nghiệp kinh doanh
du lịch như Viettravel, Hồng bàng , Fiditour, Lửa việt … đã mạnh dạng tổ chức các tour du lịch
mạo hiểm tại Đăk Lăk với các lịch trình tour khá đa dạng và phong phú như leo núi , đi bộ xuyên
rừng (trekking), chèo thuyền...
Ngoài ra, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang tiến hành khai thác các tour du lịch mạo hiểm
nhưng vẫn còn ở mức hạn chế về nội dung lẫn cách thức tổ chức. Qua phân tích thực trạng của
ngành du lịch Đăk Lăk trên nhiều khía cạnh và qua kết quả thu thập được thông qua khảo sát thực tế
tại Đăk Lăk nhóm nghiên phân tích thực trạng du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk trên nhiều khía cạnh.
Đăk Lăk là một tỉnh mạnh về du lịch sinh thái và văn hoá trong khi đó du lịch mạo hiểm lại là một
loại hình mới nên sức hút của nó đối với du khách con rất thấp, qua kết quả thu thập đươc của nhóm
thì có 50% đối tượng khảo sát không biết ở Daklak có loại hình du lịch mạo hiểm. Một phẩn công
tác quảng bá về loại hình này chưa được phổ biến và du khách mặt khác các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh củng chưa chú trọng tập trung khai thác loại hình du lịch này vì đây là loại hình đòi hỏi chi
phí cho công tác khảo sát và tổ chức rất cao, các trang thiết bị đắt đỏ và phải nhập chủ yếu từ nước
ngoài. Các sản phẩm du lịch mạo hiểm ở tỉnh tuy còn rất đơn giản thiếu sót nhiều trong khâu tổ
chức, các sản phẩm du lịch mạo hiểm đơn giản chỉ là chèo thuyền, đi bộ xuyên rừng, cưỡi voi băng
rừng nhưng có dấu ấn rất riêng biệt và đậm nét hoang sơ. Nếu làm tốt hơn thì các tour mạo hiểm của
Đăk Lăk sẽ thu hút được một lượng khách rất lớn đến loại hình này.
Qua khảo sát các thông tin du khách biết đến loại hình du lịch mạo hiểm thông qua internet, và
người thân là 58.3%. Các thông tin trên Internet chủ yếu là các bài đăng trên các diễn đàn, blog của
những người đã tham gia thuật lại nhưng như chúng ta cũng biết, giữa biết thông tin qua internet,
báo chí và qua người thân thì hình thức quảng cáo thông qua người thân là hiệu quả nhất và mức độ
tin cậy cũng nhiều nhất. Vì vậy, các doanh nghiệp và chính quyền cần chú trọng quan tâm nhiều
31
hơn và có nhưng chính sách, phương pháp xây dựng hình ảnh du lịch mạo hiểm của Daklak đến với
du khách .
Biểu đồ 2.5 Mức độ nhận biêt thông tin
58.3%
50.0%
13.9%
22.2%
58.3%
38.9%
19.4%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Int
ern
et
Bá
o c
hí
Br
oc
hu
re
Ba
nn
er,
po
ste
r
Tiv
i
(Nguồn : khảo sát thực tế)
Hiện nay, Daklak có nhiều loại hình du lịch rất phổ biến và lôi cuốn nhiều du khách như du lịch
sinh thái , du lịch mạo hiểm , du lịch nghĩ dưỡng , du lịch tham thân nhân…… Chúng ta sẽ tìm hiểu
xem tình hình kinh doanh các loai hình du lịch này tại Daklak qua biểu đồ sau đây.
Biểu đồ 2.6 Mức độ tham gia các loại hình du lịch
58.3% 52.8%
33.3%
63.9%
16.7%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Du lịch sinh
thái
Du lịch mạo
hiểm
Du lịch nghĩ
dưỡng
Du lich thăm
thân nhân
Khác
ca
(Nguồn : khảo sát thực tế)
32
Nhìn vào biểu đồ trên cho ta thấy du lịch thăm thân nhân đang chiếm lĩnh trên thị trường du lịch
Daklak (63.9%) . Du lịch mạo hiểm chỉ đứng thứ ba (52.8%), đây là một khuynh hướng cho thấy
các du lịch mạo hiểm đang là một loại hình mới đang được nhiều du khách ưa chuộng và thu hút
nhiều du khách, do vậy trong tương lai loại hình du lịch mạo hiểm của tỉnh Đăk Lăk cần được quảng
bá rộng rãi hơn, bởi trước đây nhắc đến du lịch mạo hiểm là người ta nhắc ngay đến Nha Trang , Đà
Lạt, Hạ Long, Lai Châu….nhưng giờ đây Đăk Lăk cũng là một lựa chọn cho những ai thích phiêu
lưu, mạo hiểm. Tuy vậy nhưng do hạn chế về công tác tổ chức nên các tour mạo hiểm ở Đăk Lăk
còn yếu, bước đầu chưa thể cạnh tranh với các tỉnh đã có bề dày về kinh nghiệm và chuyên nghiệp
trong công tác tổ chức như trên. Đăk Lăk cần phải tận dụng và khai thác hết khả năng của mình thì
mới có thể cạnh tranh và phát triển du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng để khẳng định
được ưu thế của mình đối với các khu vực lân cận.
Hiện nay các môn du lịch mạo hiểm đang được đưa vào khai thác ở Đăk Lăk như băng rừng, vượt
thác, leo núi được các du khách rất ưa chuộng . Thế nhưng các du khách tham gia vào các môn trên
theo các tour “bụi”, tự phát chứ không tham gia theo tour của bất kỳ nhà khai thác nào Với thế
mạnh về điều kiện tự nhiên du lịch mạo hiểm Đăk Lăk cần đa dạng thêm các hoạt động du lịch mạo
hiểm để thu hút lượng khách này.
Các hướng dẫn viên du lịch trong tour mạo hiểm được các nhà khai thác sử dụng là các người dân
bản địa (52.6%) đây là nguồn lực lao động hiệu quả nhất tại đại phương vì người dân bản địa hiểu
rõ về địa lý, các phong tục, tập quán của các dân tộc bản địa. Vấn đề bảo hiểm cũng đang là một
vấn đề đặt ra cho loại hình này bởi như mức bảo hiểm thông thường chỉ là 1500đ/ngày/người/vụ
trong khi đó mức bồi hoàn là 10tr /vụ, khách nước ngoài là 1.5USD ngày/người/vụ/ mức bồi hoà là
10.000USD khi xảy ra rủi ro dẫn đến tử vong, trong khi đó du lịch mạo hiểm lại là một loại hình
tiềm ẩn nhiều rủi ro nhưng khách trong nước ít quan tâm đến bảo hiểm và nhà tổ chức cũng bỏ qua
chuyện này chỉ kèm theo bảo hiểm khi khách có yêu cầu vì sợ giá tour cao. Và hiện tại chưa có một
mức bảo hiểm nào dành riêng cho loại hình này dẫn đến tâm lý lo sợ làm hạn chế lượng khách tham
gia loại hình này.
Vấn đề cấp thiết nhất để phát triển loại hình du lịch mạo hiểm không phải xúc tiến, quảng bá loại
hình du lịch mạo hiểm của tỉnh và xây dựng và nâng cấp các hệ thống phương tiện vận chuyển mà
điều cấp thiết hiện tại là đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp. thiết kế nội dung phong
phú, quản lý tốt môi trường và bảo vệ sinh thái , tăng cường các trang thiết bị hỗ trợ, xây dựng các
bậc bảo hiểm cho từng môn cụ thể, khai thác tiềm năng mà tự nhiên đã ban cho, và xây dựng bản
quyền cho các chương trình của tour.
33
2.4 Đánh giá theo ma trận SWOT: S-W-O-T
* Chiến lược S-O: theo đuổi các cơ hội phù hợp nhất với những điểm mạnh của doanh nghiệp
* Chiến lược W-O: vượt qua những điểm yếu để theo đuổi cơ hội
* Chiến lược S-T: xác định rõ cách mà doanh nghiệp có thể sử dụng các lợi thế của mình để
giảm thiệt hại đối với những thách thức bên ngoài
* Chiến lược W-T: thiết lập một kế hoạch phòng thủ để ngăn ngừa điểm yếu của doanh nghiệp
khỏi những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài.
Phân tích ma trận SWOT của của loại hình du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk:
Cơ hội :
O1: Đăk Lăk có một nền văn hoá đa dạng và phong phú.
O2: Điều kiện tự nhiên của Đăk Lăk thuận lợi cho việc tổ chức các tour du lịch mạo hiểm.
O3: Du lịch mạo hiểm đang là một loại hình ưa chuộng của giới trẻ hiện nay, và được nhiều du
khách nước ngoài tham gia
O4: Tận dụng quan cảnh thiên nhiên sẵn có .
O5: Việt Nam đã gia nhập vào sân chơi lớn của thế giới WTO.
O6: Du khách trọng và ngoài nước ngày càng biết đến du lịch của Đăk Lăk nhiều hơn.
O7: Du lịch là một trong những ngành được ưu tiên phát triển hàng đầu của tỉnh Đăk Lăk và có
nhiều sự quan tâm của nhà nước.
O8: Sự ra đời của luật du lịch, cũng như sự ra đời của trung tâm xúc tiến thương mại và du lịch và
hiệp hội du lịch tỉnh Đăk Lăk.
O9 Việt Nam là điểm đến an toàn và thân thiện xếp thứ 33 trên 140 nước
Thách thức :
T1: Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dịch cúm H5N1, H1N1 ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn ngành
du lịch thế giới và Việt Nam
T2: Du lịch mạo hiểm của Đăk Lăk còn trong giai đoạn sơ khai và chưa được chú trọng phát triển.
T3: Du lịch mạo hiểm ở Việt Nam chưa có sự quản lý bằng văn bản của nhà nước.
T4: Môi trường sinh thái của Đăk Lăk đang bị đe doạ nghiêm trọng vì các nạn chặt phá rừng và săn
bắn bừa bãi.
T5: Du lịch mạo hiểm mang tính rủi ro cao nhưng vấn đề bảo hiểm chưa được quan tâm..
T6: Giá cả các trang thiết bị hỗ trợ du lịch mạo hiểm rất cao và thường nhập từ nước ngoài.
T7: Khí hậu Đăk Lăk phân chia làm hai mùa rõ rệt, nên chỉ hoạt động được một mùa.
T8:Các đối thủ cạnh tranh trong loại hình du lịch mạo hiểm của các tỉnh giáp với Đăk Lăk rất mạnh
như: Nha Trang, Lâm Đồng.
Điểm mạnh:
S1: Các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh Đăk Lăk bắt đầu tìm hiểu và khai thác loại hình du lịch
mới này.
S2: Công tác quảng bá và tiếp thị luôn được chú trọng và đầu tư.
S3: Các cơ sở lưu trú hiện đại và đạt chuẩn đang được đưa vào phục vụ..
34
S4: Các cơ quan chức năng quan tâm và có nhiều ưu ái cho ngành du lịch tỉnh nhà
S5: Loại hình du lịch văn hoá và sinh thái là thế mạnh vốn có từ lâu của du lịch Đak Lăk.
S6: Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiến hành liên kết với các công ty công ty trong và ngoài
tỉnh.
Điểm yếu:
W1: Việc tổ chức các tour mạo hiểm còn theo phong trào chưa có tính chuyên nghiệp.
W2: Nguồn nhân lực hoạt động trong loại hình du lịch mạo hiểm còn yếu và hạn chế.
W3: Nguồn hỗ trợ cho ngân sách hoạt động du lịch của tỉnh còn hạn hẹp
W4: Liên kết giữa các cơ quan chức năng trong việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển du lịch còn lỏng
lẻo.
W5: Chất lượng giao thông đường bộ còn tồn đọng nhiều bất cập.
W6: Năng lực đào tạo , quản lý đội ngũ hướng dẫn viên còn hạn chế.
35
Những cơ hội (O) Những thách thức (T)
Môi trường
bên ngoài
Môi trường
bên trong
O1: Nền văn hóa đa dạng và
phong phú.
O2: Điều kiện tự nhiên thuận
lợi để xây dựng tour mạo
hiểm.
O3: Du lịch mạo hiểm được
giới trẻ và khách nước ngoài
ưa chuộng.
O4: Tận dụng quan cảnh thiên
nhiên sẵn có .
O5: Đã gia nhập WTO.
O6: Nhiều du khách quan tâm.
O7: Nhận được nhiều quan
tâm của nhà nước.
O8: Luật du lịch được ban
hành và hiệp hội du lịch
Daklak ra đời.
O9:Tình hình an ninh , chính
trị ở Việt Nam ổn định.
T1: Khủng hoảng kinh tế,
dịch cúm H5N1, H1N1.
T2: Du lịch mạo hiểm còn
sơ khai và chưa được chú
trọng phát triển.
T3: Chưa có sự quản lý
chặt chẻ bằng văn bản của
cơ quan chức năng.
T4: Nạn chặt phá rừng và
săn bắn bừa bãi xảy ra.
T5: Bào hiểm du lịch mạo
hiểm chưa được chú
trọng.
T6: Giá cả thiết bị hỗ trợ
du lịch mạo hiểm rất cao,
thường nhập từ nước
ngoài.
T7: Khí hậu phân chia hai
mùa rõ rệt nên chỉ hoạt
động tập trung trong một
mùa.
T8: Đối mặt với các đối
thủ cạnh tranh mạnh như
lâm Đồng , Nha Trang… .
Điểm mạnh (S) Các chiến lược S-O :
(Sử dụng điểm mạnh để tận
dụng cơ hội )
Các chiến lược S-T :
(Sử dụng điểm mạnh để
trành các đe dọa, thách
thức)
S1: Các doanh nghiệp bắt
đầu chú trọng tìm hiểu và
khai thác loại hình du lịch
mạo hiểm.
S2: Công tác quảng bá,
tiếp thị được chú trọng
đầu tư.
S3: Cơ sở lưu trú hiện đại
S1,S3,S4,S5,S6,O1,O2,O3,O4,
O5,O6,O7,O8 ,O9 :
Củng cố và đa dạng hóa sản
phẩm du lịch mạo hiểm ở
Daklak.
S2,S6,O1,O2,O4 :
Nâng cao hiệu quả
S1,S3,T1,T4 :
Đảm bảo vệ sinh , môi
trường.
S3,S4,S6,T3,T5,T6,T7:
Đảm bảo an toàn cho
du khách .
36
và đạt chuẩn đang được
đưa vào phục vụ.
S4: Được sự quan tâm ưu
ái của các cơ quan chức
năng.
S5: Du lịch văn hóa và du
lịch sinh thái là thế mạnh
của Daklak.
S6: Có sự liên kết tour
giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài tỉnh.
marketing cho loại hình du
lịch mạo hiểm.
.
Điểm yếu (W) Các chiến lược W-O :
(Khắc phục điểm yếu và tận
dụng cơ hội )
Các chiến lược W-T :
(Biết điểm yếu để né tránh
các đe dọa )
W1: Tổ chức tour còn
theo phong trào, chưa có
tính chuyên nghiệp.
W2: Nguồn nhân lực còn
hạn chế.
W3: Nguồn hỗ trợ ngân
sách cho hoạt động du
lịch của tỉnh còn nhiều
hạn hẹp.
W4: Liên kết giữa các cơ
quan chức năng trong việc
hỗ trợ và phát triển du lịch
còn yếu.
W5: Hệ thống giao thông
chưa được chú trọng đầu
tư nhiều.
W6: Năng lực đào tạo,
quản lý còn hạn chế.
W1,W2,W6,O1,O5
Xây dựng và đào tạo nguồn
nhân lực mang tính chuyên
nghiệp.
W3,W4,W5,O2,O4,O5,O6,O7
Nâng cao chất lượng cơ sở
hạ tầng, hệ thống giao thông.
W3,W4,W5,T2,T3,T5, T6
Phòng ngừa rủi ro cho
loại hình du lịch mạo
hiểm.
37
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Cơ sở đưa ra giải pháp
3.1.1 Lý thuyết phát triển du lịch bền vững:
Khái niệm: Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà
vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai (theo hội đồng du
lich và lữ hành quốc tế WTTC-1996)
Những nguyên tắc của du lịch bền vững.
1. Sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên ,xã hội và văn
hoá.Việc sử dụng bền vững tài nguyên nền tản cơ bản nhất của việc phát triển du lịch lâu dai.
2.Giảm tiêu thụ quá mức và xả thải,nhằm giảm chi phí khôi phục các suy thoái môi trường,đồng
thời cũng góp phần năng cao chất lượng du lịch
3.Duy trì tính đa dạng:duy trì và phát triển tính đa dạng của tự nhiên, xã hội và văn hoá là rất quan
trọng đối với du lịch bền vững tạo ra sức bật cho nghành du lịch.
4.Lồng ghép du lịch vào trong quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia.
5.Hỗ trợ nên kinh tế địa phương ..Dụ lịch phải hỗ trợ các hoạt động kinh tế địa phương, phải tính
toán chi phí môi trường vừa để bảo vệ nền kinh tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường .
6.Thu hút sự tham gia cộng đồng của địa phương .Điều này ko chỉ mang lại lợi ích cho cộng đồng,
cho môi trường mà còn tăng cường đáp ứng nhu cầu,thị hiêú của du khách.
7.Sự tư vấn của các nhóm quyền lợi và công chúng .Tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng
địa phương các tổ chức và cơ quan là đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung
đột có thể nảy sinh.
8.Đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch ,nhằm thực thi những sáng kiến và giải pháp du lịch bền vững
nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch .
9.Maketing du lịch một cách có trách nhiệm .Phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và
có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến moi trường tự nhiên xã hội và văn hoá
khu du lịch,qua đó góp phần thoả mãn nhu cầu của du khách.
10.Triển khai các nghiên cứu nhằm hỗ trợ giải giải quyết các vân đề ,mang lại lợi ích cho khu du
lịch, cho nhà khinh doanh du lịch và du khách.
3.1.2 Khuynh hướng nhu cầu du lịch mạo hiểm hiện nay:
Hiện nay, sự chuyển hóa các khuynh hướng nhu cầu du lịch rất đa dạng và nhanh chóng. Đặc biệt là
xu hướng chuyển hóa từ du lịch thụ hưởng sang du lịch chủ động với tính tích cực vận động, tính
trách nhiệm đối với môi trường và nhu cầu được trải nghiệm của du khách. Theo lý thuyết thang bậc
nhu cầu của Maslow, ông đã sắp xếp nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc đó là nhu cầu về cơ
38
bản, nhu cầu về an toàn, nhu cầu về xã hội, nhu cầu được quý trọng và nhu cầu được thể hiện mình.
Một khi các cấp bậc nhu cầu bên dưới đã được thoả mản đảm bảo thì họ có xu hướng tiến đến
thang đo cuối cùng là tư thể hiện bản thân để sử dụng hết khả năng và năng lực của bản thân của
họ, du lịch mạo hiểm cũng là một cách giúp con người ta trải nghiệm chính bản thân, họ muốn chinh
phục những thử thách mà thiên nhiên thách thức những ngọn núi cao, những dòng sông đầy ghềnh
thác…tất cả rùi sẽ bị chinh phục bởi nhu cầu ngày càng cao của con người vì vậy cho nên du lịch
mạo hiểm đang là một loại hình được nhiều giới trẻ trong và ngoài nước ưa chuộng các tour truyền
thống như sinh thái, văn hoá đang được có xu hướng chuyển dần qua các tour mạo hiểm. Nhiều
người xem rằng du lịch mạo hiểm là cách để chiến thắng được bản thân và chế ngự nổi sợ hãi trong
công việc cũng như trong cuộc sồng, du lịch mạo hiểm giúp người ta có phân tích các vấn đề một
cách logic, giúp truyền đạt những thông điệp của tổ chức vào các cá nhân, hay một tập thể để thay
đổi quan niệm của họ. Chính vì những lẽ đó mà hiện nay du lịch mạo hiểm là một sản phẩm du lịch
được nhiều nơi trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam đưa vào khai thác và phát triển.
3.1.3 Điều kiện thuận lợi về tự nhiên của Đăk Lăk:
Hầu hết các hoạt động du lịch mạo hiểm phải gắn liền với thiên nhiên, do vậy điều kiện tự nhiên là
điều kiện tiên quyết để tổ chức các tour du lịch mạo hiểm. Như đã phân tích ở phần trên Đăk Lăk
là một tỉnh có hệ thống sông ngoài khá dày với nhiều con sông lớn như Serêpôk với nhiều thác
ghềnh hùng vĩ, sông Krông Ana êm đềm thơ, mộng với cuộc sống sinh hoạt của người dân ven hai
bờ…, có nhiều hồ nhân tạo và hồ tự nhiên với diện tích rộng, các cánh rừng nguyên sinh còn hoang
sơ và có đỉnh ChưYangSin là một đỉnh núi cao nhất ở Đăk Lăk đang thách thức những người yêu du
lịch mạo hiểm đến để chinh phục, ngoài ra còn nhiều địa điểm chưa được khám phá. Với điều kiện
tự nhiên thuận lợi, có nhiều ưu đãi của thiên nhiên Đăk Lăk cần tận dụng thế mạnh của mình để
khai thác loại hình này trong hiện tại cũng như trong tương lai.
3.2 Giải pháp phát triển du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk
Chiến lược S-O:
3.2.1 Chuổi giải pháp về củng cố và đa dạng hoá sản phẩm du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk:
Sản phẩm du lịch Đăk Lăk còn nghèo nàn về nội dung cũng như nặng về lối mòn tham quan nên xây
dựng những sản phẩm du lịch mạo hiểm góp phần làm đa dạng sản phẩm du lịch Đăk Lăk. Trong
thời buổi kinh tế thế giới suy giảm nghiêm trọng, ngoài việc giảm giá các tour thì đổi mới sản phẩm
du lịch cũng là cách để góp phần duy trì hoạt động ngành du lich.
Trước tiên cần dựa vào điều kiện thực tế là du lịch mạo hiểm ở Đăk Lăk còn sơ khai, các nhà khai
thác chưa trang bị nhiều về kiến thức tổ chức, cũng như các trang thiết bị đặc biệt cho những môn
thể thao có tính rủi ro cao do vậy trong hiện tại chúng ta cần xây dựng những tour mạo hiểm dựa
39
trên mức độ nguy hiểm rủi ro thấp, dựa vào các điều kiện tự nhiên đặc thù của tỉnh để tổ chức, như
băng rừng, chèo thuyền trên hồ, vượt sông…rồi sau khi đã có cơ sở vững chắc sẽ đẩy mạnh những
môn mới với sự trang bị của nhiều trang thiết bị hiện đại như lướt ván, leo núi, dù lượn...
Dựa vào thế mạnh của du lịch Đăk Lăk là du lịch sinh thái-văn hoá vì vậy việc lồng ghép các
chương trình trong tour mạo hiểm với tham quan tìm hiểu văn hoá, các hoạt động vui chơi, giải trí
giúp chương trình trở nên phong phú. Ngoài ra sau những chuyến đi dài thì việc nghĩ ngơi và hồi
sức là thiết yếu vì vậy ta có thể kết hợp các sản phẩm lại với nhau trong một chương trình nhằm liên
kết các chuổi sản phẩm du lịch hiện tại góp phần đa dạng hoá sản phẩm du lịch và phát triển loại
hình du lịch mạo hiểm của tỉnh
1. Du lịch mạo hiểm- Du lịch sinh thái: Tạo ra các sản phẩm cho du khách tự trải nghiệm nhưng
không gò bó và tuân thủ các nguyên tắc của nhà điều hành. Các tour được tổ chức tại các cánh rừng,
sông, suối với việc kết hợp du lịch sinh thái dã ngoại với các hoạt động mạo hiểm như băng rừng ở
các khu rừng Nam Ka Yok Don, rừng quốc gia Chư Jang Sin…tuỳ theo mức độ của dòng sông mà
du khách có thể vượt sông tại các dòng sông như Krông Ana, sông Hinh , SêrêPôk… bằng bè, leo
xuống thác hoặc leo vách núi trong những chuyến đi sinh thái tại các khu du lịch đặc biệt là tại
những địa điểm xung quanh các khu du lịch đã nổi tiếng. Việc kết hợp những tour du lịch truyền
thống tới các khu du lịch của tỉnh, với một tour du lịch mạo hiểm tại một nơi gần đó, sẽ tạo nên một
bước đột phá, tạo cho du khách một chuyến du lịch không thể nào quên.
Kết hợp hoạt động du lịch mạo hiểm với các hoạt động của du lịch sinh thái nhằm tạo điều kiện cho
các du khách có cơ hội trải mình hoà nhập với thiên nhiên thông qua đó việc tuyên truyền giáo dục
cho các du khách về bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái nhằm phát triển du lịch bền vững theo
chủ trương của tỉnh. Nhóm nghiên cứu đề xuất các chương trình như băng rừng Chư Yang Sing,
Yok Đôn, Nam Ka..nhằm khám phá nét hoang dã các khu rừng nguyên sinh, tạo điều kiện cho các
nhà nghiên cứu khoa học có thể tìm ra những loại động thực vật mới. Hay vượt sông Sêrêpôk dòng
sông chảy ngược duy nhất ở Việt Nam bằng các phương tiện thô sơ như bè tre, thuyền độc mộc, bè
kết từ thân cây chuối, leo núi, khám phá hang động… Nhưng các hoạt động này có nhược điểm là
chỉ diễn ra vào mùa khô khi mà điều kiện thời tiết thích hợp. Do vậy nhóm đề xuất một sự kết hợp
sản phẩm thứ hai.
2. Du lịch mạo hiểm- Du lịch văn hoá và lễ hội.
Kết hợp các hoạt động du lịch mạo hiểm trong các lễ hội lớn của các dân tộc Tây Nguyên như lể hội
đâm trâu, lễ hội cầu mùa… để tổ chức các chương trình đang xen nhằm tạo cho du khách vừa tìm
hiểu được phong tục văn hoá của dân bản địa vừa trải mình qua các hoạt động mạo hiểm.
Vào mùa mưa khi mà các hoạt động du lịch đi vào trạng thái “ngủ đông” thì lợi thế về văn hoá là
một lợi thế cho du lịch Đăk Lăk nhằm giới thiệu nền văn hoá đặc sắc với hơn 44 dân tộc và nhiều
phong tục lễ hội. Việc tái hiện lại các hoạt động văn hóa kết hợp các trò chơi team building vào việc
giới thiệu văn hoá các dân tộc để tìm hiểu phong tục tập quán của người Êđê, Mnông vào mùa
40
mưa…Du khách sẽ có những hiều biết về các hoạt động của người đồng bào trong mùa mưa, tham
gia những buổi văn hoá cồng chiên, uống rượu cần, nướng cơm lam.. sau những chuyến đi vào rừng,
lên rẩy, chèo thuyền khám phá sinh hoạt của người dân trên các hồ vào mùa nước lớn, kết hợp
những hoạt động thể thao giúp cho du lịch tỉnh Đăk Lăk hoạt động liên tục trong mùa thông qua
việc kết hợp du lịch mạo hiểm- du lịch văn hoá và lễ hội
3 .Du lịch mạo hiểm- Nghĩ dưỡng và Spa
Sau một chuyến đi dài chắc hẵn du khách sẽ mất đi rất nhiều sức lực việc phục hồi lại sức khoẻ và
nghĩ ngơi thư giản sau một cuộc hành trình là điều cần thiết, trước mắt các trung tâm nghĩ dưỡng
hiện tại nằm ở trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột cần phải trở nên chuyên nghiệp và kết hợp chặt
chẽ với các công ty tổ chức du lịch mạo hiểm tạo nên sự liên kết và hỗ trợ giữa các ngành có liên
quan với nhau. Thông qua các chương trình du khách được hướng dẫn các loại thảo dược dùng
trong Spa và không đâu xa những loại thảo dược ấy chính là những bó thuốc, những hương liệu du
khách thu được sau khi trải qua chuyến đi ở trong các cánh rừng…Việc kết hợp giữa hai hoạt động
nghĩ dưỡng-và tự tìm thấy các loại thuốc dùng trong nghĩ dưỡng sẽ giúp thu hút được một lượng lớn
khách.
4. Team building: Đây là loại hình mà các công ty hay các tổ chức dành cho nhân viên của công ty
mình nhằm hướng tới mục tiêu chung của. Do vậy các nhà tổ chức cần liên hệ với các công ty trên
trong và ngoài địa bàn tỉnh nhằm xây dựng những hoạt động phù hợp với yêu cầu mục đích của
người yêu cầu đề ra để đảm bảo sau chương trình ý đồ của của tổ chức sẽ được truyền tải tới các nhâ
n viên của họ sau chuyến đi. Do vậy việc khảo sát và tổ chức là hai yếu tố quan trọng mà các nhà tổ
chức cần nắm được nhằm tạo ta những hoạt động du lịch mạo hiểm kết hợp với vui chơi, giải trí.
Kết thúc mỗi chương trình nhà tổ chức cần có những tấm huy hiệu và bằng chứng nhận du khách đã
chinh phục được thử thách trải qua môn thể thao mà đã tham gia. Có các loại huy hiệu và chứng
nhận như leo, núi đi bộ, đạp xe, vượt thuyền…
3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả Marketing cho loại hình du lịch mạo hiểm:
Du lịch mạo hiểm là một loại hình mới và còn nhiều khó khăn trong công tác quảng bá và thu hút
khách của tỉnh, các tour du lịch mạo hiểm về Đăk Lăk chủ yếu thông qua việc kết nối với các tour ở
TPHCM và một số tỉnh khác lân cận như Nha Trang (motor bike, leo núi, băng rừ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf