Cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước

Tài liệu Cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước: CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC TỒN TẠI CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA : Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế - xã hội phải là cơ cấu nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều ...

doc47 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC TỒN TẠI CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA : Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế - xã hội phải là cơ cấu nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau tạo thành cơ cấu kinh tế. Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ những lĩmh vực then chốt, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế và góp phần khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường. Kinh tế nhà nước bao gồm các DNNN, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiễm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế. Trong đó DNNN là một bộ phận quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng xuất chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần nói chung và kinh tế nhà nước nói riêng và mặc nhiên tồn tại DNNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là tất yếu khách quan. Thực tiển ở Việt Nam qua những năm đổi mới đã chứng minh, nhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần vào quyết định việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua. Điều đó cũng nói lên được tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân . a. Khái niệm chung về doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là cơ sở kinh tế do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, là đặc điểm để phân biệt DNNN với doanh nghiệp tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm để phân biệt DNNN với các tổ chức cơ quan khác của Chính phủ.Tuy nhiên, sự xác định giới hạn của DNNN ở mỗi nước trên thế giới khác nhau. Riêng ở Việt Nam nói về DNNN có thể khái quát ra những đặc trưng cơ bản sau đây: Nhà Nước có một tỷ lệ vốn nhất định trong doanh nghiệp nhờ đó có thể gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều tổ chức theo chế độ công ty là một pháp nhân, nguồn thu chủ yếu từ hoạt động kinh doanh, và phải thực hiện song song các mục tiêu sinh lời lẫn mục tiêu xã hội. Ở Việt Nam, DNNN đã có một quá trình hình thành và phát triển trên 50 năm và trải qua nhiều thời kỳ đổi mới, ở mỗi thời kỳ nhận thức về DNNN cũng rất khác nhau. Điều này được thể hiện rõ qua hai thời kỳ: thời kỳ trước đổi mới ( trước Đại hội lần thứ VI ) và từ năm 1986 cho đến nay. Trước thời kỳ đổi mới doanh nghiệp được nhìn nhận như cơ quan chính phủ hơn là tổ chức kinh doanh. Mục tiêu của DNNN là thực hiện những chỉ tiêu hiện vật chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. Từ những năm đổi mới (từ Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986 đến nay) nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì quan niệm DNNN cũng có sự thay đổi. Trước hết thể hiện qua định nghĩa DNNN trong điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định 50/ HĐBT ngày 23/8/1998 qui định: “Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh là một đơn vị sản xuất hàng hoá có kế hoạch đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho xã hội, có tư cách pháp nhân và hạch toán kinh tế độc lập“. Trong quy chế thành lập - giải thể DNNN ban hành kèm theo Nghị định 388/HĐBT, ngày 20/11/1991 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng quy định “DNNN là một tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu DNNN là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp Luật và bình đẳng trước pháp Luật “. Gần đây, tại điều 1 một doanh nghiệp Nhà nước sửa đổi năm 2003 quy định : “ DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần ,vốn góp chi phối (trên 50% cổ phần ), được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước ,công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn .Hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hịên các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn nhà nước quản lý. DNNN có tên gọi, có dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam ”. Ngày nay trong điều kiện sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, đan xen, trong xu thế hội nhập quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc nhận rõ DNNN là một yêu cầu hết sức cần thiết để có cơ chế quản lý thích hợp. Tuỳ theo góc độ xem xét mà DNNN được phân chia thành các loại khác nhau, để định ra thể chế quản lý phù hợp của DNNN, hiện nay được phân chia thành hai loại sau: + Loại thứ nhất: DNNN hoạt động kinh doanh, là doanh nghiệp có chức năng hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp này được nhà nước giao quyền và sử dụng vốn có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, các doanh nghiệp này thưc hiện hạch toán kinh doanh tự chủ trong kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của mình, chịu sự điều chỉnh của pháp luật như các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác . + Loại thứ hai: DNNN hoạt động công ích, là doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung cấp dịch vụ công cộng theo chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Ngoài ra, loại hình DNNN này còn tổ chức hoạt động kinh doanh bổ sung nhưng không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính sách là hoạt động công ích do nhà nước giao. Đồng thời cũng phải chấp hành và chịu sự điêù chỉnh của pháp Luật như các doanh nghiệp khác, với loại hình doanh nghiệp này nhà nước ưu tiên đầu tư vốn, miễn thuế (mức thuế thu nhập doanh nghiệp). b.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế quốc dân: Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta thấy vai trò của DNNN được nhấn mạnh ở khía cạnh kinh tế chính trị, vì mục tiêu xây dựng quan hệ sở hữu toàn dân trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân hơn là khía cạnh kinh tế vì mục tiêu tăng trưởng. Hiện nay trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hưóng XHCN. Hệ thống kinh tế nhà nước bao gồm đất đai và tài nguyên, hệ thống kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà nước, ngân hàng nhà nước, hệ thống dự trữ quốc gia, các DNNN và một phần vốn của DNNN góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Như vậy DNNN là một bộ phận kinh tế nhà nước, hệ thống kinh tế nhà nước có nghĩa rộng như trên mới có vai trò chủ đạo, chi phối và định hướng của nền kinh tế. Hệ thống này được lãnh đạo trực tiếp bởi đại diện sở hữu và phát huy sức mạnh đựơc nhân lên bởi quyền lực chính trị của nhà nước do pháp luật quy định hoàn toàn có khả năng và cần thiết thực hiện vai trò chủ đạo định hướng nói trên . Trong hệ thống kinh tế nhà nước, các DNNN là một hệ phân hợp thành hết sức quan trọng, vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trên các mặt sau: Một là: DNNN đóng vai trò là một công cụ kinh tế, một lực lượng vật chất trong tay nhà nước để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nhìn lại chặn đường hình thành và phát triển DNNN của các nền kinh tế trên thế giới cho thấy: sự tồn tại của DNNN tùy thuộc vào sự quy định của chiến lược và chính sách phát triển, cách thức lựa chọn giải pháp, công cụ mỗi nước .Như vậy, vai trò DNNN tăng hay giảm tùy thuộc vào chính sách,chiến lược phát triển trong những giai đoạn nhất định và còn tùy thuộc vào sự lựa chọn phương thức trực tiếp hay gián tiếp để điều tiết thúc đẩy nền kinh tế . Với nền kinh tế chậm phát triển cũng có ý nghĩa mức độ ,tập trung sản xuất rất thấp, hệ thống kinh doanh nhỏ, phân tán, ít vốn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu .Muốn bước khỏi trình trạng trên và hộI nhập vào trào lưu phát triển hiện đại cần phải lựa chọn chiến lược và những giảI pháp cho sự tăng trưởng mang tính chất tăng tốc và lâu bền . Để thực hiện chiến lược trên nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp để phát triển DNNN. Ở đây việc lựa chọn này không phảI mang tính chủ quan, mà có sự quy định của bản thân nền kinh tế và bản thân của chế độ chính trị, vì DNNN có những ưu thế tuyệt đối ở thời kỳ quá độ của sự phát triển, các ưu thế của DNNN thể hiện ở chỗ có khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới tiên tiến, và có cơ hội hội nhập với nền kinh tế thế giới, những ưu thế này khiến cho DNNN trở thành một yếu tố quyết định cho chiến lược phát triển rút ngắn, tăng tốc. Vì vậy DNNN giữ vai trò then chốt là ‘’bánh lái’’ của nền kinh tế. DNNN là cầu nối, định hướng công nghệ và xu hướng phát triển cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Trong giai đoạn hiện nay vị trí, vai trò chủ đạo của DNNN chỉ là tương đối với vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế mà thôi, không có sự tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế khác thì chẳng có vai trò chủ đạo của DNNN phải thể hiện qua sự phân công và phối hợp một cách hợp lý giữa chức năng của khu vực DNNN vớI chức năng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Có thể nói rằng DNNN trong việc đầu tư vào những ngành quyết định cho sự phát triển dài hạn và hiệu quả sử dụng của nền kinh tế làm cho nó có vai trò. Đặc biệt là vai trò giá đỡ của nền kinh tế. Đây là vai trò lâu bền của khu vực DNNN ngay cả khi doanh nghiệp tư nhân đã trưởng thành. Khi DNNN thu hẹp lại thì vao trò trong việc cung cấp hàng hoá dịch vụ công cộng, khắc phục khuyết tật thị trường và vai trò làm giá đỡ cho nền kinh tế vẫn được duy trì. Hai là: Vai trò chủ đạo của DNNN phải được thể hiện không ngừng nâng cao hiệu quả và khả năng điều tiết trong nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận là mục tiêu cơ bản, thậm chí là mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp tư nhận, do đó không có lợi nhuận thì đối với họ kinh doanh là mục tiêu vô nghĩa và đượng nhiên họ không đầu tư. Còn DNNN lại khác, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất và thậm chí cũng không phải là mục tiêu chủ yếu. Tuy nhiên nó đóng vai trò động lực để xem xét đến lợi ích chính trị, xã hội, kinh tế của đất nước. Vì thế, hiệu quả của DNNN có thể là hiệu quả tổng hợp kinh tế, chính trị và hiệu quả xã hội. Do đó, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích phải đặt mục đích lợi nhuận xuống hàng thứ yếu. Tuy nhiên, nếu xét trên tổng thể toàn bộ khu vực DNNN đều không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp thì tất yếu phải dựa vào sự hỗ trợ của Nhà nước hay tiền thuế của doanh nghiệp tư nhận đóng để tồn tại. Điều này sẽ làm cho DNNN mất sức cạnh tranh thiếu sức sống, trở thành gánh nặng cho cả Nhà nước và xã hội, vì thế vai trò chủ đạo của nó khó có thể thực hiện được một cách có hiệu quả. Ba là: Vai trò của DNNN có tính quy định lịch sử cụ thể, nên vai trò chủ đạo của DNNN phải thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Sở dĩ trong thời kỳ quá độ, DNNN đóng vai trò chủ đạo, vì sự phát triển của nó tạo đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ cho bước chuyển nền kinh tế chậm phát triển sang phát triển được rút ngắn. Đồng thời nó cũng là công cụ phân bổ hữu hiệu các nguồn lực trong nền kinh tế, khi mà các quan hệ vĩ mô của nền kinh tế thị trường chưa phát triển. Ở thời kỳ này vai trò DNNN gắn với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Với nền kinh tế phát triển Nhà nước tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển và tham gia vào các khu vực kinh tế mà trước đây chỉ do DNNN đảm nhận. Như vậy trong tương lại khu vực DNNN có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đốI với nền kinh tế thị DNNN vẫn phải giữ một tỷ trọng nhất định, đủ mạnh để chi phối, định hướng các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH, vai trò định hướng của DNNN trong việc mở đường ở các ngành mũi nhọn cũng phải thay đổi linh hoạt theo các giai đoạn phát triển, đồng thời tăng cường các công cụ quản lý gián tiếp để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bốn là: DNNN có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hộI theo định hướng XHCN do Đảng và Nhà nước đề ra. Trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN và thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng và Nhà nước ta đề ra, thì DNNN là một bộ phận kinh tế nền tảng và là công cụ trực tiếp chi phối cho các thành phần kinh tế khác thực hiện chính sách theo hướng XHCN. Trong quan hệ với công tác an ninh quốc phòng, các DNNN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường quốc phòng ở các vùng chiến lược. Trong việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, thì các DNNN có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những hàng hoá, dịch vụ cho các hoạt động quốc phòng mà trong điều kiện tư nhân không được phép làm như: sản xuất vũ khí, thuốc nổ, bưu chính viễn thông. Năm là: DNNN có vai trò quan trọng trong việc khắc phục những khuyết tật do cơ chế thị trường tạo ra, đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là lĩnh vực kinh doanh lãi ít, nhiều rủi ro, thu hồi vốn chậm, nhưng sự tồn tại phát triển của chúng quyết định đến sự phát triển chung của nền sản xuất xã hội, sản xuất đồ dùng cho người tàn tật, các hoạt động nghiên cứu cơ bản… Như vậy, trong khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mà coi nhẹ DNNN hoặc tư nhân hoá tất cả các tư liệu sản xuất là sai lầm. Song, duy trì DNNN tràn lan, hoạt động không hiệu quả, hạn chế sự phát triển kinh tế, làm lãng phí tài sản của Nhà nước thì thực chất là hạ thấp vai trò của DNNN. Vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế theo định hướng XHCN phục vụ cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nó khác với vai trò, qui mô, bản chất của DNNN ở các nước tư bản chủ nghĩa. II/ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VÀ ĐẢNG TA VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI CHUNG VÀ DNNN NÓI RIÊNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƠI: 1. Một số quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta về kinh tế Nhà nước nói chung, DNNN nói riêng. Một số quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xét về phương diện kinh tế xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn có vai trò to lớn đối với đời sống kinh tế xã hội, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong đó các DNNN, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ những vị trí then chốt; phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật trong chính sách kinh tế mới, Lênin có nói rằng “Cần củng cố lại DNNN…”, Lênin đã chỉ ra hình thức phân phối theo lao động trong DNNN là tiền lương. Trong kế hoạch xây dựng CNXH của V.I.Lênin có các nội dung sau: Một là, Nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Hai là, quốc hứu hóa XHCN nhằm thủ tiêu sở hữu tư nhân của giai cấp bóc lột về tư liệu sản xuất chủ yếu, chuyển nó thành sở hữu toàn dân. Ba là, hợp tác hóa để chuyển những người lao động cá thể thành người lao động tập thể. Mặc khác, theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản Nhà nước là hình thức kinh tế cao hơn so với “Sản xuất nhỏ’’. Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cần thiết để phát triển lực lượng sản xuất, nó như những ‘’Cầu nối’’, ‘’Trạm trung gian’’ cần thiết để đưa đất nước từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Một số quan điểm của Đảng ta. Vận dụng tư tưởng của Lênin về sự tồn tại tất yếu của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đảng ta đã xác định ở nước ta hiện nay còn tồn tạI nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là một bộ phận cấu thành cơ bản, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và giữ chức năng là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước ta. Các DNNN, một bộ phận quan trọng nhất của kinh tế Nhà nước, giữ những vị trí then chốt phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Nắm giữ các ngành, các lĩnh vực kinh tế liên quan đến an ninh quốc phòng, chính sách xã hội và các ngành mũi nhọn, trọng yếu nhất của nền kinh tế. Sự có mặt của các DNNN trong các ngành, các lĩnh vực quan trọng có tác dụng điều chỉnh sự cân bằng của nền kinh tế, duy trì ổn định chính trị - xã hội. Khu vực DNNN phải giữ vai trò đòn bẩy, giá đỡ trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần DNNN là công cụ Nhà nước huy động tập trung vốn vào những lĩnh vực mang tính chiến lược của nền kinh tế thực hiện việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận công nghệ hiện đại, tiếp cận nghệ thuật quản lý tiên tiến trên thế giới, tạo cơ sở kinh tế cho các ngành kinh tế khác phát triển. Khu vực DNNN phải đi đầu trong quá trình công nghệp hoá, hiện đại hoá theo hướng mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của DNNN phải thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào từng giai đoạn mà Nhà nước trao cho sứ mệnh phải gánh vác. Một số quan điểm về DNNN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Quảng Ngãi: Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước. Tiếp tục sắp xếp lại DNNN theo loại hình DNNN làm nhiệm vụ kinh doanh và DNNN làm nhiệm vụ công ích. tiếp tục hoàn thiện tổ chức, quản lý DNNN như: sắp xếp, sáp nhập, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp. Tổ chức các doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ vào những ngành cần thiết cho sự phát triển có hiệu quả và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân như: kết cấu hạ tầng, tài chính, ngân hàng, an ninh quốc phòng và những DNNN trong một số ngành sản xuất dịch vụ cần thiết trong nền kinh tế. Thông qua đó mà Nhà nước có thể điều tiết, hỗ trợ các DNNN và các thành phần kinh tế khác. Tiếp tục đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tổ chức và quản lý doanh nghiệp theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là cơ sở và điều kiện để DNNN duy trì vai trò chủ đạo của mình. Trong điều kiện ngày nay sự quản lý của Nhà nước XHCN nhằm sửa chữa ”những thất bại của thị trường’’, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN (bàn tay vô hình của Nhà nước). Vai trò quản lý của nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. 2. Một số kinh nghiệp của một số nơi. a. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Ở Malaixia (1) : Malaixia là một nước đang phát triển. Vào năm 1957, sau khi giành được độc lập, Malaixia đã có 23 DNNN trong các ngành dịch vụ công cộng, giao thông, thông tin liên lạc, nông nghiệp và tài chính. Vào cuối những năm 60, Chính phủ Malaixia ban hành ‘’Chính sách kinh tế mới’’. Nội dung của chính sách này là tăng cường sự can thiệp của Chính phủ vào phát triển kinh tế, với chính sách kinh tế mới Malaixia đã phát triển mạnh khu vực DNNN trong ngành thương mại và công nghiệp. Mục tiêu mở rộng DNNN trong những năm 60 chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1966-1970) chi tiêu của Chính phủ dành cho DNNN là 1,4 tỷ đô la, chiếm 32% toàn bộ chi tiêu công cộng. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1971-1975) con số này là 3,9 và 40%. Xu hướng mở rộng phát triển DNNN tiếp tục duy trì, trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1976-1980) chi tiêu cho DNNN là 12 tỷ đô la và chiếm 48% chi tiêu công cộng. Các DNNN được thành lập nhiều trong ngành công nghiệp nặng; trong kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1981 – 1985) con số này tăng lên là 30 tỷ và 50%. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1986 – 1990) các DNNN được nhà nước kế hoạch hóa và quản lý chi tiêu gọi là các DNNN phi tài chính. Các DNNN phi tài chính với cổ phần của Nhà nước chiếm hơn 50% và doanh thu hơn 5 tỷ được liệt vào hoạt động của khu vực công cộng. Vào năm 1986, các DNNN phi tài chính đóng góp 24% GDP, trong đó tất cả các DNNN đóng góp 30%. Nếu không tính nông nghiệp, DNNN đóng góp 40% GDP. Ở Malaixia DNNN có 3 loại, được phân theo cách phân loại của Liên Hiệp Quốc, tức là: 1) Doanh nghiệp hành chính sự nghiệp; 2) Doanh nghiệp công cộng; 3) Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các DNNN ở Malaixia, đặc biệt là của DNNN phi tài chính và DNNN hoạt động vì mục đích xã hội rất kém, tỷ lệ các DNNN hoạt động thua lỗ cao, trong ngành dịch vụ và ngành công nghiệp, DNNN hoạt động không có hiệu quả bằng các ngành khác. Đến năm 1988, tình hình họat động của các DNNN cũng không thay đổi. Trong tổng số 770 DNNN được điều tra về lãi và lỗ, chỉ có 387 doanh nghiệp hoạt động có lãi với tổng lợi nhuận là 4,868 tỷ đôla và 383 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ 5.610 đôla. Phần lớn doanh nghiệp bị thua lỗ là doanh nghiệp có quy mô lớn và ở trong công nghiệp nặng. Nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN ở Malaixia là yếu kém trong quản lý, kiểm soát và kế hoạch của Chính phủ, những mục tiêu trái ngựơc nhau của các DNNN, thiếu sự linh hoạt trong môi trường kinh tế. Malaixia đang tiến hành cải cách trong công tác kế hoạch hoá, bỏ những cản trở về nguồn nhân lực, giảm can thiệp Chính phủ, cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh. Gần đây hệ thống khuyến kích theo cơ chế thị trường được áp dụng trong việc lập chính sách cho các DNNN. *Ở Trung Quốc (2): Giống như các nước XHCN khác, tỷ trọng của khu vực DNNN trong nền kinh tế quốc dân ở Trung Quốc rất cao. DNNN giữ vị trí chủ đạo, hoạt động của DNNN theo cơ chế tập trung quan liêu tỏ ra rất kém hiệu quả. Trung Quốc đã tiến hành cảI cách khu vực DNNN vào cuối những năm 70. Từ năm 1978 đến nay, cuộc cải cách các DNNN ở Trung Quốc có thể chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1978 đến 1984) là giai đoạn Trung Quốc tập trung vào thay đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nội dung chính của cải cách trong giai đoạn này là trao quyền tự do cho các DNNN. Cải cách này đã biến doanh nghiệp từ một tổ chức hành chính của Chính phủ thành một đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên việc mở rộng quyền tự chủ của các DNNN không mang lại kết quả gì về mặt thu nhập tài chính cho Nhà nước, thu nhập tài chính của Nhà nước trong vòng 4 năm gần như không tăng. Giai đoạn thứ hai (từ năm 1984 đến 1991) là giai đoạn cải cách toàn diện DNNN. Nội dung chính của cải cách trong giai đoạn này là giao quyền tự chủ về tài chính cho DNNN. Năm 1986, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chế độ khoán doanh nghiệp. đến năm 1988 những doanh nghiệp nhận thầu chiếm 78% tổng số doanh nghiệp trong nước và chiếm 96% số doanh nghiệp ở Bắc Kinh, Việc thực hiện chế độ khoán có tác dụng kích thích tính tích cực sản xuất kinh doanh trong các DNNN, làm cho sản xuất tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên sau một thời gian cải cách, thuế nộp cho Nhà nước không tăng nếu tính cả yếu tố lạm phát. Một điểm quan trọng của việc thực hiện chế độ khoán là doanh nghiệp xem nhẹ đầu tư phát triển dài hạn, DNNN luôn có xu hướng dùng lợi nhuận cho tiêu dùng trong thời gian hiện tại. Chế độ khoán đã bộc lộ những hạn chế cần được điều chỉnh. Giai đoạn thứ ba từ năm 1992 đến nay là giai đoạn xây dựng cơ chế kinh tế thị trường, xây dựng quy chế xí nghiệp hiện đại phù hợp với nhu cầu của cơ chế kinh tế thị trường XHCN, tạo môi trường cho DNNN trở thành một tổ chức pháp nhân độc lập và một đối tượng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Trong giai đoạn này Trung Quốc đã tiến hành cổ phần hoá hàng lọat các DNNN. Đến cuối năm 1993, số DNNN tiến hành cổ phần hóa là 3.800. Sau gần 20 năm cải tổ, DNNN ở Trung Quốc giảm đáng kể về số lượng và tỷ trọng trong GDP. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của DNNN vẫn là một vấn đề đáng lo ngại. Năm, 1994, Trung quốc có tới 45,9% DNNN làm ăn thua lỗ với tổng số tiền lỗ là 34,4 tỷ nhân dân tệ (NDT). Việc cải cách các DNNN ở Trung Quốc vẫn còn là vấn đề đang nổi cộm, Những vẫn đề đặt ra đối với việc cải tổ khu vực DNNN cũng là những vấn đề cần phải nghiên cứu và giải quyết ở Việt Nam. b. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước: * Ở ĐăkLăk (3): DNNN tỉnh ĐăkLăk những năm vừa qua đã có những biến đổi đáng kể, tính đến nay có 111 DNNN thuộc tỉnh quản lý. Tình hình hoạt động thích ứng được với cơ chế thị trường, tuy nhiên vẫn còn một số hoạt động kém hiệu quả, bị thua lỗ trong sản xuất kinh doanh, nhìn chung chưa có tính ổn định. Qua đó cho thấy: cơ chế bao cấp đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, trong khi đó bộ máy chỉ đạo của các doanh nghiệp cồng kềnh, chi phí quản lý quá lớn, cơ cấu chủng loại sản phẩm còn nghèo nàn, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là cà phê, cao su, gỗ… Để DNNN giữ được vị trí chủ đạo thực sự, Nhà nước cần phải củng cố để có được sự phát triển đúng hướng, phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Tỉnh trong những năm tới. Việc triển khai sắp xếp doanh nghiệp theo chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã thực hiện được công tác quy hoạch tổng thể, sắp xếp lại doanh nghiệp theo ngành kinh tế kỹ thuật gắn với lãnh thổ phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và sự kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng Nhà nước về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp rất đa dạng. Do vậy đã làm cho quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá được mở rộng, đồng thời doanh nghiệp được tự chủ và chịu trách nhiệm về kinh tế hoặc sản xuất kinh doanh của mình, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, cung ứng các dịch vụ về kinh tế kỹ thuật, thu mua sản phẩm, góp phần tạo ra bước phát triển ổn định cho nền kinh tế của tỉnh. Sau khi thực hiện phương án sắp xếp DNNN của tỉnh hiện nay toàn tỉnh gồm có 122 doanh nghiệp. Như vậy có thể nói sự tồn tại của DNNN là một tất yếu khách quan, DNNN được sử dụng như một công cụ điều tiết của Chính phủ, vừa làm chức năng chính trị và xã hội, vừa đảm bảo cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã hội phát triển công bằng và ổn định. DNNN góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước. Chương II THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI I. THỰC TRẠNG CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG CẢ NƯỚC. Hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương và giải pháp tích cực nhằm sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hệ thống DNNN. Đến nay đã giải thể 3.450 doanh nghiệp (chiếm trên 50% tổng số doanh nghiệp) chủ yếu là doanh nghiệp địa phương quá nhỏ bé, làm ăn thua lỗ triền miên, sáp nhập 3.100 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp Trung ương thành những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn; đã tổ chức lại các Liên Hiệp xí nghiệp thành tổng Công ty 91 và 77 Công ty 90. Xây dựng thí điểm một số tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước trên cơ sở các tổng Công ty 91, cổ phần hoá 1.012 DNNN và đa dạng hoá sở hữu (giao, bán, khoán, cho thuê) 65 DNNN. Nhờ sẵp xếp lại đã nâng được một bước trình độ tập trung hoá và chuyên môn hoá doanh nghiệp. Số vốn bình quân mỗi DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng lên tớI 22,4 tỷ đồng. Số doanh nghiệp vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm từ 50% xuống còn 26%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20% DNNN đã tập trung hơn vào những ngành, những lình vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. tỷ trọng sản phẩm do các DNNN tạo ra trong GDP tăng từ 35,6% năm 1991 lên 40,7% năm 1999. Cùng thời kỳ này, tỷ lệ nộp ngân sách tăng từ 14,7% lên 27,9%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước tăng từ 6,8% lên 12,31%. Năm 2000 các DNNN tạo ra 40,2% GDP, trên 50% giá trị xuất khẩu đóng góp 39,25% tổng nôp ngân sách Nhà nước. Các tổng Công ty Nhà nước có tới 1.392 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 24% tổng số DNNN, nắm giữ 66% về vốn, 61% về lao động trong toàn khối DNNN. Trong đó, riêng 17 tổng Công ty 91 có 532 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập bằng 9% số DNNN, chiếm 56% tổng số vốn. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, so vớI yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống DNNN còn nhiều yếu kém và bất cập. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé dàn trải trên hầu hết các ngành, nghề và địa phương phân tán về vốn, trong khi vốn Nhà nước rất hạn chế. Tính đến nay, trong số 5.655 DNNN, kể cả hàng trăm DNNN mới đã thành lập trong những năm gần đây, số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%, số doanh nghiệp vốn trên 10 tỷ đồng chiếm 20,89%, ở các địa phương hơn 30% số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng. Tình trạng phổ biến là các doanh nghiệp thiếu vốn nghiêm trọng. Trình độ kỹ thuật, công nghệ các doanh nghiệp còn lạc hậu. Ngoài một số ít doanh nghiệp được trang bị kỹ thuật hiện đại hoặc trung bình, đại bộ phận doanh nghiệp máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất còn lạc hậu so với thế giới từ 10 – 20 năm, các ngành như ngành cơ khí tới 30 năm, thậm chí có 38% số này ở dạng thanh lý. Do tình trạng máy móc như vậy nên chưa tạo được nhiều sản phẩm mũi nhọn cho quốc gia, khả năng cạnh tranh thấp. Một số mặt hàng trong nước như sắt, thép, phân bón, xi măng, … có mức giá cáo hơn mặt hàng cùng loại nhập khẩu từ 20-40%, cá biệt mặt hàng đường thô cao hơn tới 70-80%. Chỉ khoảng 15% sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu. Tình hình này đang là một thử thách rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá mạnh về kinh tế. Một tình trạng khá phổ biến là số lao động dôi dư trong các doanh nghiệp khá lớn, ước tính tổng số lao động không có việc làm ở các DNNN tới khoảng 10 vạn người có tên trong danh sách nhưng đang nghĩ chờ việc hoặc tự bỏ, tự tìm việc ở nơi khác. Công nợ tại các doanh nghiệp quá lớn, theo số liệu kiểm kê năm 2000, tổng số nợ phải trả của DNNN tới 194.841 tỷ đồng, bằng 15,23% tổng số vốn nhà nước trong các DNNN, trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là: 2.748 tỷ đồng. Mặc dù ngân sách nhà nước luôn thiếu hụt, song nhà nước đã phải dành ra một khoảng vốn lớn hổ trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức như đầu tư trực tiếp, cấp bổ sung vốn lưu động, bù lổ, miễn trả thuế, xoá nợ, khoanh nợ, giảm nợ giảm thuế khấu hao, cho vây vốn tín dụng ưu đãi …trong 10 năm lại đây tới gần 127.000 tỷ đồng. Thực hiện chủ trương đa dạng sở hữu một số DNNN không cần thiết 100% vốn nhà nước còn chậm. Đến nay cả nước mới chỉ cổ phần hoá được 1.012 doanh nghiệp, giao, bán, khoán hoăc cho thuê còn khá nhiều. II. THỰC TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI . Tổng quan về tình hình kinh kế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi Vị trí địa lý: Quảng Ngãi là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của miền trung (Thừa Thiên Huế - Đà Nẳng - Quảng Nam-Quảng Ngãi) .Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 5.135,2 km2 dân số trung bình năm 2003 là 1245,8 nghìn ngườI, chiếm 1,76% diện tích và 1,6% dân số của cả nước. Về hành chính, Quảng Ngãi hiện tại có một thị xã, 6 huyện miền núi, 6 huyện đồng bằng ven biển, 1 huyện đảo ( Lý Sơn). Quảng Ngãi có đường bờ biển dài 129 km, ngoài khơi có đảo Lý Sơn và một số đảo nhỏ khác, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Bình Định, phía tây giáp tỉnh Kontum và Gia Lai, phía đông giáp biển . Ở trung độ đất nước, Quảng Ngãi nằm giữa hai thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc, Quy Nhơn ở phía Nam, Quảng Ngãi có đường quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất chạy qua tỉnh; quốc lộ 24A nối Quảng Ngãi với Kontum và Hạ Lào, đây là một tuyến giao thông quan trong đối với Kontum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa Duyên Hải và Tây Nguyên. Trong tương lai sân bay Chu Lai được xây dựng sẽ là điều kiện thuận lợi cho Quảng Ngãi giao lưu hàng hoá, phát triển kinh tế xã hội gắn với an ninh quốc phòng. Phía bắc tỉnh, tại huyện Bình Sơn đã và đang hình thành khu kinh tế tổng hợp Dung Quất, trong khu này có cảng nước sâu Dung Quất khu công nghiệp lọc hoá dầu và các khu công nghiệp khác, khu đô thị mới Vạn Tưòng, đây sẽ là khu kinh tế lớn của đất nước ở Miền Trung. Khí hậu: Năm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú nhiệt độ trung bình năm trên 250c. Bình quân 4 năm có một cơn bão hoặc ấp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Ngãi, thường gây nên lũ lụt. Tổng lượng bức xạ trong năm lớn tới 1400-1500Kcal/năm; số giờ nắng khoãng 2000giờ/năm. Khí hậu Quảng Ngãi với lượng bức xạ lớn thuận lợi về phơi sấy, sử dụng năng lượng mặt trời trong công nghiệp chế biến Nông Lâm Sản làm muối sản xuất điện năng. Tuy nhiên do địa hình dốc, mưa tập trung theo mùa vào tháng 9,10,11 và 12 hàng năm nên thường xuyên bị lũ lụt làm ảnh hưởng sản xuất, thiệt hại về người và vật chất cho nhân dân trong vùng. Khái quát về kinh tế -xã hội: Trải qua một thập kỷ, từ một tỉnh nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, chúng ta đã cố gắn phát triển một cách toàn diện, cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế và xã hội được tăng cường đời sống nhân dân từng bước được cải thiện số hộ đói nghèo giảm đáng kể. Nền kinh tế từng bước được ổn định và phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng khá so với mức bình quân chung cả nước. Đặc biệt từ năm 2002 trở lại đây tốc độ phát triển kinh tế tăng ở “ 2 con số “. (Năm 2002: 10,6 %; năm 2003 : 10,3%; ước thực hiện năm 2004 : 11- 11,5 % ). Năm 2003 tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 420.000 triệu đồng. GDP bình quân đầu người tăng năm 2002 là 2,628 triệu đồng (192 USD), năm 2003 là 3,562 triệu đồng (230 USD), ước thực hiện 2004 khoảng 3,838 triệu đồng (246 USD) thể hiện bằng bản như sau: Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 Ước 2004 -Tốc độ phát triển kinh tế ( GDP ) % 10,6 10,3 11 – 11,5 -GDP bình quân đầu người Tr.đồng 2,628 3,562 3,838 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi ) Cùng với sự tăng trưởng là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng giảm tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp –xây dựng và dịch vụ, cụ thể: Đơn vị tính: % Chỉ tiêu 2001 2002 2003 -Tổng sản phẩmGDP: 100 100 100 +Nông-Lâm-Ngư nghiệp 38,80 38,66 36,70 +Công nghiệp-xây dựng 22,20 23,43 24,60 +Dịch vụ 39,00 37,91 38,70 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi ) Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, tỷ trọng nông-Lâm-Ngư nghiệp còn cao, tỷ trọng công nghiệp –xây dựng còn ở mức thấp. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngày càng được hoàn thiện, hằng năm tạo việc làm và thêm việc làm mới cho khoảng 29-30 ngàn lao động, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo 23,7% (miền núi 50,1%) năm 2001 xuống còn 14,8% (miền núi 41%) năm 2003, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Mặc dù tốc độ tăng trương kinh tế của tỉnh hằng năm tăng cao hơn so với tốc độ tăng trương kinh tế của cả nước và một số tỉnh trong vùng Duyên Hải Trung Trung Bộ cũng như vung kinh tế trọng điểm miền Trung nhưng do điểm xuất phát của nền kinh tế tỉnh còn thấp nên GDP bình quân đầu người qua các năm xấp xỉ một số tỉnh điều kiện tương tự như: Quảng Nam, Quảng Trị, Phú Yên và chỉ bằng 47,2% so với bình quân cả nước. Bên cạnh đó, việc triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 chậm tiến độ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng tưởng của khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ làm cho cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch chậm. Năm 2003 tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 420.000 triệu đồng. Thực trạng DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi : Hầu hết các DNNN thuộc tỉnh Quảng Ngãi đã hình thành từ thời quản l ý tập trung bao cấp, phát triển tràn lan thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ bé, thiết bị lạc hậu. Qua các đợi sắp xếp theo Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT từ 155 DNNN thuộc tỉnh quản lí đến năm 1996 còn 63 doanh nghiệp, trong đó có 61 DNNN được đăng ký lại theo Nghị định 388/HĐBT và các DNNN sau khi sắp xếp đã có bước tăng trưởng khá về doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách …Đến năm 1998 tỉnh chỉ còn 43 doanh nghiệp. Cuối năm 2003, sau khi thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg của Thủ Tướng Chính phủ, số lượng DNNN của tỉnh đã giảm từ 43 doanh nghiệp xuống còng 34 doanh nghiệp ( năm 2003) nhưng thực chất chỉ còn 32 doanh nghiệp hoạt động (2 doanh nghiệp ngưng hoạt động đang làm thủ tục giải thể), 16 DNNN trung ưong và 60 chi nhánh DNNN Trung ương trên địa bàn Tỉnh. DNNN được thành lập để cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, chiếm giữ tỷ phần lớn trong các ngành mũi nhọn, trọng yếu nhất của nền kinh tế, giữ vị trí then chốt. Có tác dụng điều chỉnh sự cân bằng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, DNNN cũng được thành lập để thực hiện những mục tiêu xã hội như tạo công ăn việc làm, khắc phục sự mất cân bằng về phát triển kinh tế vùng, đồng thời có mối quan hệ thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Điều đó sẽ được chứng minh bằng các chỉ tiêu kinh tế -xã hội cụ thể của tỉnh như sau: Chỉ tiêu 2001 2002 2003 I.Tổng sản phẩm GDP Trong đó : Kinh tế nhà nước + Trung ương quản lý + Địa phương quản lý Kinh tế tập thể Kinh tế cá thể, tiêu chủ Tư bản tư nhân Tư bản hổn hợp Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 3.390.887 850.211 515.156 335.055 419.354 2.005.942 44.661 63.408 2.039 3.953.948 1.000.034 613.603 386.431 460.881 2.346.941 79.599 37.700 2.180 4.404.862 1.340.012 803.850 536.162 500.235 2.439.620 82.075 40.305 2.615 II.Tổng thu ngân sách nhà nước Trong đó : Thu từ kinh tế quốc doanh + Trung ương + Địa phương 200.000 67.920 15.260 220.000 71.984 17.079 420.000 93.881 19.689 (Nguồn: Cục thống kê tỉnh Quảng Ngãi) Qua danh mục trên cho ta thấy tổng sản phẩm kinh tế quốc dân luôn tăng lên qua các năm, trong 6 thành phần kinh tế thì riêng kinh tế quốc doanh chiếm 30,4% trong tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Bên cạnh đó hằng năm tỉ lệ đóng góp trong ngân sách nhà nước của kinh tế quốc doanh cũng tăng lên. Điều đó sẽ cho ta thấy được một loạt các vấn đề xã hội được điều chỉnh theo hướng tích cực như: Lao động được giải quyết, việc làm tăng (hằng năm tạo việc làm và thêm việc làm mới cho khoảng 29 - 30 ngàn lao động) đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 23,7% xuống còn 14,8% năm 2003. Cụ thể hơn, đươc thể hiện qua tình hình hoạt đông của DNNN trên địa bàn Tỉnh như sau : a. Hình thức tổ chức và tình hình hoạt động của DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. + Về phát triển công nghiệp của DNNN: DNNN hoạt động mạnh trong lãnh vực công nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm công nghiệp của tỉnh. Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp (giá trị so sánh 1994) đạt 1.164.000 triệu đồng thì công nghiệp quốc doanh đạt 775.000 triệu đồng (tăng 22,45% so với năm 2002). Trong đó công nghiệp quốc doanh Trung ương đạt 731.500 triệu đồng (tăng 23,31% so với năm 2002) công nghiệp quốc doanh địa phương đạt 43.500 triệu đồng tăng (tăng 9,57% so với năm 2002) sản phẩm công nghiệp dần tăng cao về số lượng, chủng loại chất lượng, tiêu biểu: - Năng lực chế biến hải sản đạt 5.000 tấn /năm. - Công suất chế biến mía đường đạt 4000 tấn/ngày. Nhu cầu nguyên liêu mía từ 750.000 tấn – 800.000 tấn/năm và mở rộng đầu tư các tỉnh Gia Lai, Kontum công suất 2.500 tấn/ngày. - Số lượng thiết bị sản xuất hàng may mặc xuất khẩu từ 4 chuyền lên 16 chuyền. - Sản lượng điện hằng năm từ 65 triệu KWh lên mức 200 tri ệu KWh. - Về chế biến lâm sản: sản lượng gổ khai thác năm 2002 đạt 57.943 m3 chủ yếu là gổ rừng trồng. Quảng Ngãi đang nghiên cứu quy hoạch phát triển nhiều loại cây công nghiệp như: cao su, ca cao, chè …đặc biệt rừng Trà Bồng thích hợp cho việc phát triển cây quế công nghiệp, chế biến các mặc hàng từ cây quế, còn nhiều tiềm năng mời gọi đầu tư. Đây là một điều kiện và đông lực để phát triển hoạt đông trong lãnh vực này. Bảng 1: Danh mục các sản phẩm chủ yếu của công nghiệp quốc doanh. Các sản phẩm chủ yếu Đơn vị tính 2001 2002 2003 Xi măng Tấn 12.200 45.000 50.000 Đá xây dựng các loại 1000m3 327 400 500 Đường RS Tấn 37.867 40.000 47.000 Điện thương phẩm 1000kwh 160.000 180.000 210.000 Bánh kẹo các loại Tấn 2.864 3.500 3.800 Nước khoáng 1000lít 19.921 24.000 23.500 Bia 1000lít 14.158 18.000 20.000 Thuỷ sản đông lạnh xuất khẩu Tấn 2.681 36.000 3.600 Tinh bột mỳ Tấn 15.000 22.000 25.000 Gạch các loại 1000v 145.737 170.000 200.000 Nước máy 1000m3 3.990 8.000 9.000 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi ) - Nhiều công trình nhà máy đựoc đầu tư mới, đầu tư bổ sung, góp phần tạo nhiều giá trị và sản phảm như: nhà máy nước khoáng, nhà máy khí công nghiệp, nhà máy gạch Bình Nguyên (Cty An Ngãi), xương nuớc quả đóng hộp (vilex), nhà máy bia, nhà máy bánh kẹo, nhà máy sữa, nhà máy tinh bột mỳ. Đến nay tính đã hình thành và phát triển 3 khu công nghiệp: khu công nghiệp Tịnh Phong, khu công nghiệp Quảng Phú, khu công nghiệp Dung Quất. Là điều kiên thuận lợi, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân, củng cố đời sống cho nhân dân tỉnh, thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau là động lực phát triển kinh tế xã hội của tỉnh: - Đối với khu công nghiệp Tịnh Phong: hiện đã có 11 dự án được cấp giấy phép, tổng vốn đầu tư 96 tỷ đồng, diện tích chiếm đất 18 ha. - Đối với khu công nghiệp Quảng Phú: hiện có 25 dự án đang hoạt động tổng vốn đầu tư 827 tỷ đồng, tổng diện tích chiếm đất là 40 ha. - Đặc biệt khu công nghiệp Dung Quất là trung tâm lọc hoá dầu cảng biển nước sâu, nơi thu hút nhiều nhà đầu tư, triển khai nhiều dự án có quy mô lớn mang tầm cở quốc gia và khu vực, với diện tích 10.300 ha. Thực sự lợi thế cho sự vươn lên phát triển kinh tế của Quảng Ngãi và là động lực thúc đẩy sự phát triển của miền Trung nhằm từng bước rút ngắn sự cách biệt về phát triển so với hai đầu đất nước. Hiện nay Dung Quất đang thực sự hình thành quy mô 1 khu kinh tế, với nhiều dự án đầu tư quan trọng, nhất là nhà máy lọc dầu số 1 (Công suất 6,5 triệu tấn/năm).Đến cuối năm 2003 tổng số dự án được cấp giấp phép đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất là 33 dự án, tổng vốn đầu tư là 28.000 tỷ đồng. Hiện nay có 10 dự án đi vào hoạt động sản xuất, 10 dự án đang xây dựng, còn lại đang triển khai các thủ tục đền bù và chuẩn bị thi công, giải quyết trên 2.000 lao động. Đến nay các công trình hạ tầng ngoài hàng rào Nhà máy lọc dầu số 1 và khu công nghiệp đã cơ bản hoàn thành và đang tiếp tục đầu tư, chuẩn bị đầu tư, phục vụ ngay cho quá trình Xây dựng, vận hành các nhà máy trong khu công nghiệp ( vớI 60,96 km giao thông ), bến cản chuyên dùng cho tàu 10.000 tấn, xây dựng nhà máy nước 15000 m3/ngày đêm; cấp điện, bưu điện Dung Quất với tổng đài điện tử 512 số) hiện đã có 2 trạm biến áp 110 và 220 KV tại Dung Quất và Dốc sỏi theo tổng sơ đồ 5 trình Chính phủ phê duyệt, thì từ nay đến hết 2005 tại Dung Quất sẽ có trạm BA 500 KV và đường dây cao thế 500 KV Playcu – Dung Quất (là giai đoạn hai của dự án mạch 500 KV thứ hai đất nước - giai đoạn một đường đây 500 KV Plâycu – Phú Lâm sắp hoàn thành ). Tóm lại khu công nghiệp quốc doanh có 1 đóng góp tích cực về mặt xã hội là đã giải quyết được 5.398 lao động, đã làm giảm bớt nổi lo của Đảng và nhà nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Song, thực trạng phát triển công nghiệp của kinh tế quốc doanh còn chậm, chưa vững chắc. Trong giai đoạn này giá trị sản xuất của ngành còn phụ thuộc nhiều vào giá trị sản xuất cuả công ty đường nhưng hiện nay sản phẩm đường đang gặp khó khăn trên thị trường, do đó chất lượng và giá cả còn hạn chế trong cạnh tranh đối với các sản phẩm cùng loại và các sản phẩm thay thế. Nguồn nguyên liệu mía hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 60% công suất chế biến. Bên cạnh đó việc triển khai dự án nhà máy lọc dầu số 1 chậm so với kế hoạch đề ra nhất là gói thầu 5a và gói thầu số 1 là gói thầu chính của nhà máy. Hiện nay đã chậm khoảng 5-6 tháng và nếu không có giải pháp tích cực thì khả năng cuối 2005 nhà máy mới hoàn thành. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ phát triển của cả khu công nghiệp Dung Quất và nền kinh tế của tỉnh. + Về đầu tư phát triển xây dựng: Trong những năm vừa qua DNNN đã hoàn thành nhiều công trình cho tỉnh góp phần làm hiện đại hơn cơ sở hạ tầng cho tỉnh nhà. Bảng 2: Danh mục dầu tư cơ bản của DNNN 2001 2002 2003 -Vốn nhà nước đầu tư vào xây dựng Trong đó: - Vốn ngân sách nhà nước +Trung ương + Địa phuong - Vốn tín dụng - Vốn tự có của DNNN 946.526 347.992 160.651 187.271 185.429 413.175 1.255.415 423.400 126.415 296.985 172.015 660.800 1.523.689 493.012 142.023 350.989 159.201 871.476 Vốn nhà nước đầu tư vào xây dựng tăng lên qua các năm, trong đó là do vốn ngân sách nhà nước và vốn tự có của DNNN tăng; vốn tín dụng giảm. Điều đó chứng tỏ năng lực cuả DNNN tăng lên. Đến nay đã có 177/179 xã có đường ôtô đến trung tâm xã, đã có 100% tuyến đường trung tâm huyện đến các xã đồng bằng được nhựa hoá, đua vào sử dụng 10.885 km đường giao thông; trong đó cứng hoá, nhựa hoá 808,5 km, bê tông hoá hơn 200 km, hàng trăm cầu cống được xây dựng. Nâng cấp và làm mới đưa vào sử dụng 38 công trình thuỷ lợi (tổng công suất tưới hơn 2070ha); nâng cấp trên 50 km tuyến kênh chính và kênh cấp 2 thuộc công trình thuỷ lợi Thạch Nham; kiên cố hoá 137 km tuyến kênh mương nội đồng; đưa trung tâm y tế Đức Phổ sử dụng với 150 giường bệnh, xây dựng trên 1000 phòng học ở các địa phương. Về điện đã nâng cấp, cảI tạo, mở rộng và xây dựng mới, nhiều trại biến áp 35 KV ở hầu hết các huyện trong tỉnh, xây dựng trạm điện diezel tại Lý Sơn và củng cố các nguồn diezel dự phòng tại chỗ. Mạng lưới điện nông thôn phát triển, cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt ở 131 xã, phường, đạt tỷ lệ 73,2% so vớI tổng số xã, phường toàn tỉnh, mức tiêu thụ địên bình quân đạt 127 KWh/người/ năm. Hiện tỉnh đang tiến hành xây dựng các dự án trọng điểm như: dự án đường Trà Bồng –Trà Phong; Cầu cộng hoà; dự án bảo tàng tổng hợp, dự án bệnh viện đa khoa mới . Tuy nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước vốn tự có của DNNN có tăng hằng năm nhưng chưa đủ mạnh tác động thúc đẩy nhanhj chuyển dịch cơ cấu kinh tế .cón nhiều mặt hạn chế trong công tác quản lý lãnh đạo như: xét đơn ký -duyệt phải qua nhiều cửa, nhiều khâu, trang thiết bị máy móc lạc hậu, đa phần là được “ hậu sử dụng “ của các nước phat triển thanh lý lại. thường là chậm hơn từ 3 đến 4 lần thế hệ, còn gặp khó khăn trong việc giải toả mặt bằng (như người dân không chịu tách rời nhau do truyền thống thương yêu, đùm bọc của ngườidân Quảng Ngãi …). + Về phát triển Thương mại -dịch Vụ của DNNN: DNNN hoạt động Thương mại khá, đảm bảo nhu cầu cung ứng hàng hoá trong tỉnh. Năm 2003 giá trị sản xuất thương mại, du lịch và khách sạn nhà hàng đạt 142.620 triệu đồng, trong đó Trung ương đạt 52.083 triệu đồng, địa phương đạt 90.537 triệu đồng. Hoạt động vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hộI của tỉnh. Tổng mức bán lẻ hàng hoá năm 2003 đạt 462.960 triệu đồng (năm 2001: 298.219 triệu đồng; năm 2002: 386.515 triệu đồng). Trong đó Trung ương đạt 161.967 triệu đồng, địa phương đạt 300.993 triệu đồng. Doanh thu du lịch tăng từ 16.950 triệu đồng lên 19.692 triệu đồng năm 2003. Song, tuy thương mại quốc doanh hoạt động có phần tăng trưởng hơn các năm trước nhưng còn yếu, chưa chi phối được các thành phần kinh tế khác, chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ toàn tỉnh. Hoạt động du lịch còn đơn điệu, chưa khai thác hết tiềm năng, nhất là du lịch sinh thái, văn hoá. Về bưu chính viễn thông đã thể hiện được vai trò chủ đạo, phát triển mạnh theo hướng hiện đạI hoá. Đã xây dựng được công trình tổng đài điện tử kỹ thuật, hệ thống truyền dẫn cáp xuyên việt, hệ thống vi ba số và vi ba nộI tỉnh, Bưu điện Dung Quất…đáp ứng nhu cầu thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp và nhân dân. Đến nay, có 91,1% xã, phường sử dụng máy điện thoạI, bình quân đạt 2,05 máy/100dân Các dịch vụ ngân hàng củng đã thể hiện được vai trò chủ đạo của mình, thúc đẩy được các thành phần kinh tế khác phát triển .Năm 2003 các dịch vụ ngân hàng đã đáp ứng được 86% nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, tăng 28 % so vớI năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 11.119 ngàn USD,năm 2003 tăng lên 16.006 ngàn USD, kim ngạch nhập khẩu giảm từ 9.033 ngàn USD năm 2002 xuống còn 6500 ngàn USD năm 2003 Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Bạch Đàn, đá xây dựng, đường RS … hoạt động xuất khẩu có sự chuyển biến khá tích cực trong giai đoạn này,lần đầu tiên sau nhiều năm tỉnh đã đạt được kim ngạch xuất khẩu “ 2 con số “. Tuy vậy giá trị vẫn còn nhỏ bé.Thiết bị công nghệ lạc hậu chưa đủ sức để đầu tư các công nghệ hiện đại, chưa mạnh dạng tìm kiếm thị trường. Bên cạnh đó sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước cho các doanh nghiệp còn quá ít trong công tác xuất nhập khẩu , tìm kiếm thị trưòng … + Về Nông-Ngư-Lâm nghiệp: Năm 2003 giá trị sản xuất nông nghiệp của DNNN đạt 15.246 triệu đồng. Sản lượng mía cây giảm qua các năm do tình hình giá cả thị trường giảm nên nông dân chuyển sang canh tác loại khác làm ảnh hưởng đến năng xuất và chất lượng hoạt động chế biến thực phẩm sau đường của công ty đường Quảng Ngãi .Nguồn nguyên liệu mía hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 60% công suất chế biến cho 2 nhà máy trong tỉnh. Cây cao su, cây quế, dâu tằm được tập trung phát triển nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao. Đến năm 2003 diện tích cao su khoảng 1400 ha, quế gần 4200 ha, sản lượng vỏ quế khai thác hằng năm từ 100 đến 200 tấn, giá trị sản xuất /ha canh tác năm 2003 đạt khoảng 163 triệu đồng ,tăng 26% so với năm 2000. Thực hiện các chương tình dự án về lâm nghiệp, trong năm qua đã trồng và chăm sóc 15,3 nghìn ha rừng tập trung, quản lý, bảo vệ chăm sóc 49,8 nghìn ha, khoanh nuôi tái sinh 31,75 nghìn ha rừng; nâng độ che phủ rừng từ 27,6% năm 2000 lên 34,9% năm 2003.Sản lượng khai thác gỗ hằng năm có xu hướng giảm, năm 2003 đạt 57.000m3 (năm 2000 đạt 63.4000m3). Do chủ trương hạn chế khai thác rừng tự nhiên nên từ năm 2000 đến nay sản lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên có chiều hướng giảm dần, từ 14.190 m3 năm 2000 xuống còn 7.000m3 năm 2003. sản lượng khai thác gỗ rừng nguyên liệu ( chủ yếu là gỗ bạch đàn) giữ ở mức ổn định, ở khoảng 50.000m3. Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2003 đạt 80.121 tấn .diện tích nuôi tôm năm 2000 là 804 tấn,năm 2003 tăng lên 895 tấn. Thuỷ sản đông lạnh năm 2000 là 1612 tấn, năm 2003 tăng lên 2980 tấn. Trong giai đoạn này đã hình thành được mô hình nuôi tôm trên cát ,tuy vậy sản lượng nuôi trồng hằng năm tăng chậm ,tình trạng tự phát trong nuôi trồng thuỷ sản còn phổ biến ,dịch bệnh tôm chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu ,kịp thời Hiện nay đã và đang triển khai xây dựng các công trình phục vụ cho ngành thuỷ sản như: công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Quảng Ngãi ( trước đây là xí nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Quảng Ngãi ), Cảng cá Sa huỳnh đang chuẩn bị triển khai xây dựng vùng neo đậu tàu thuyền và khu dịch vụ hậu cần đảo Lý Sơn …. + Về hoạt động bảo vệ môi trường: Năm 2003 công ty môi trường Quảng Ngãi đã kiểm định và sửa chữa 16.406 lượt phương tiện đo lường , 1026 sản phẩm được đăng ký quản lý chất lượng, kiểm dịch 3.272 mẫu sản phẩm các loại, thanh tra, kiểm tra tiêu chuẩn đo lường chất lượng 1.932 lượt cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện 267 cơ sở vi phạm, thanh tra môi trường 496 lượt cơ sở sản xuất kinh doanh, xử lý 47 trường hợp. Tuy nhiên việc xử lý chất thải ở thị xã Quảng Ngãi đặc biệt là chất thải sinh hoạt, chất thải ở các nhà máy chế biến nông sản vẫn chưa giải quyết tốt làm ảnh hưởng đến vệ sinh sinh hoạt, sức khỏe của người dân. * Tổng hợp kết quả hoạt động của DNNN thuộc tỉnh quản lý: DNNN thuộc tỉnh Quảng Ngãi quản lý đến nay có số lượng là 34 doanh nghiệp (trong đó có 2 doanh nghiệp ngưng hoạt động là: công ty dịch vụ thương mại Cẩm Thành, công ty 19/5 ). BẢNG 3: DANH MỤC DNNN HIỆN CÓ NĂM 2003 TRÊN ĐỊA BÀN QUẢNG NGÃI. Số TT Danh mục Địa chỉ Vốn NN (tr. đồng) Số LĐ (Người) 1 Cty Điện ảnh Băng hình 63 Phan Đình Phùng, TX Quảng Ngãi 3464 74 2 Lâm trường Ba Tơ Ba Tơ, Quảng Ngãi 2155 39 3 Cty sách thiết bị Quảng Ngãi 939 Quang Trung, TX Quảng Ngãi 1853 55 4 Cty nông thực phẩm Quảng Ngãi 48 Phan Xuân Hoà, TX Quảng Ngãi 10302 286 5 Cty khách sạn du lịch Cẩm Thành 118 Lê Trung Đình, TX Quảng Ngãi 1258 28 6 Cty vận tải biển Quảng Ngãi 176 Lê Trung Đình, TX Quảng Ngãi 1389 83 7 Cty môi trường Quảng Ngãi khốI 8 F.Trần phú, TX Quảng Ngãi 3077 155 8 Cty phát triển CSHT Quảng Ngãi Thôn 3 ,quảng Phú, TX Quảng Ngãi 12922 812 9 Cty cơ khí và xây lắp Quảng Ngãi số 6 Nguyễn Thuỵ, TX Quảng Ngãi 2456 155 10 Cty vậ tư ytế Quảng Ngãi 970 Quang Trung, TX Quảng Ngãi 2095 24 11 Cty dược Quảng Ngãi 974 Quang Trung, TX Quảng Ngãi 3562 112 12 Cty khai thác công trình thuỷ lợI Quảng Ngãi 978 quang Trung, TX Quảng Ngãi 315498 275 13 Cty vật tư kỷ thụât nông lâm nghiệp Quảng Ngãi 94 Nguyễn chánh, TX Quảng Ngãi 6822 89 14 Cty tư vấn xây dựng và đầu tư Quảng Ngãi 112 Phan Đình Phùng, TX Quảng Ngãi 646 107 15 Xí nghiệp vận tải ôtô Quảng Ngãi Phường Quảng phú, TX Quảng Ngãi 3423 38 16 Cty TNXP xây dựng NTvà MN Quảng Ngãi 133 Trương Quang Trọng,TX Quảng Ngãi 1788 105 17 Cty xổ số kiến thiết Quảng Ngãi 74Phan Đình Phùng, TX Quảng Ngãi 3399 25 18 Cty cấp thoát nước Quảng Ngãi 17 Phan chu Trinh, TX Quảng Ngãi 13644 84 19 Cty phát hành sách và VHTH Quảng Ngãi 391 quang Trung,TX Quảng Ngãi 567 26 20 Cty công trình Quảng Ngãi 982Quang Trung,TX Quảng Ngãi 5210 153 21 Cty thương mại tổng hợp Quảng Ngãi 451Quang Trung,TX Quảng Ngãi 2300 81 22 Cty du lịch Quảng Ngãi 321Quang Trung,TX Quảng Ngãi 6959 181 23 Cty Nông lân sản xuất khẩu Quảng Ngãi 108Quang Trung,TX Quảng Ngãi 3421 75 24 Cty quản lý và xây dựng giao thông Quảng Ngãi 494Quang Trung,TX Quảng Ngãi 3789 138 25 Xí nghiệp in Quảng Ngãi 431 Quang Trung,TX Quảng Ngãi 1596 54 26 Cty chế biến thuỷ sản Quảng Ngãi 268 Trần Hưng Đạo, TX Qngãi 4353 209 27 Xí nghiệp bến xe khách Quảng Ngãi 26 Lê Thánh Tôn,TX Quảng Ngãi 1558 44 28 Lâm trường Trà Tân Trà Tân Trà bồng Quảng Ngãi 1329 42 29 Cty thương mại quảng Ngãi 504 Quang Trung,TX Quảng Ngãi 5305 76 30 Cty thương mại tổng hợp Sơn Tịnh Thị trấn Sơn Tinh ,Sơn Tịnh ,Quảng Ngãi 953 9 31 Lâm trường Trà Bồng Trà Bồng ,Quảng Ngãi 486 15 32 Nông trường 24/3 Đức Phổ -QuảngNgãi 112 59 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư) Trong đó, số lượng DNNN hoạt động công ích 5 doanh nghiệp; DNNN hoạt động kinh doanh 27 doanh nghiệp. Tổng vốn nhà nước đầu tư là 438.552 triệu đồng (nếu trừ giá trị công trình thuỷ lợiThạch Nham là vốn DNNN thực chất chỉ là 125 tỷ đồng) danh thu năm 2001 là 591.196 triêu đồng, đến năm 2003 tăng lên 1.329.949 triêu đồng, lợi nhuận trước thuế năm 2001 là 9.975 triệu đồng, năm 2003 tăng lên 11.716 triệu đồng. Tổng mức nộp ngân sách cũng tăng lên, năm 2001 là 44.617 triệu đồng đến năm 2003 là 53.461 triệu đồng. Tuy nhiên còn mặt hạn chế là số doanh nghiệp làm ăn thua lổ còn cao (6 doanh nghiệp trong 32 doanh nghiệp đang hoạt động ) mức lổ năm 2003 là 1.555 triệu đồng, lổ cộng dồn là 9.163 triệu đồng, nợ khó đòi cũng tăng lên, năm 2001 là 5.100 triệu đồng, năm 2003 là 6.694 triệu đồng. Kim ngạch xuất khẩu tăng lên, năm 2002 đạt 2.664 ngàn USD, năm 2003 tăng lên 5.444 ngàn USD chiếm 42% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Bên cạnh đó thiết bị công nghệ của DNNN còn lạc hậu, thuộc thế hệ 60-70. Những năm gần đây, một số DNNN tỉnh đã có đầu tư đổI mới công nghệ (như: công ty môi trường Quảng Ngãi, công ty vật tư y tế, công ty cấp nước Quảng Ngãi …) nhưng không đồng bộ còn mang tính chấp vá. Tỷ lệ đổi mới hàng năm khoảng 16%. Chính vì vậy phần lớn các đơn vị hoạt động kém hiệu quả, DNNN gần như lãi hàng năm không đáng kể, khả năng trả nợ đầu tư khó, nhiều doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ quyết định giải thể hoặc bán doanh nghiệp. Bảng 4: Danh mục tổng hợp kết quả hoạt động của DNNN Tỉnh Quảng Ngãi . Thông số ĐVT 2001 2002 2003 I. Tổng số doanh nghiệp DN 32 32 32 1-Số DN công ích DN 5 5 5 2-Số DN sản xuất kinh doanh DN 27 27 27 3-Số DN có lãi DN 25 27 26 4-Số DN lổ DN 7 5 6 II.Vốn kinh doanh Triệu đồng 407.746 423.693 438.552 1- Vốn ngân sách nhà nước triệu đồng 373.476 377.929 383.166 2-vốn tự bổ sung triệu đồng 24.521 25.557 26.626 3-Vốn huy động các nguồn khác triệu đồng 9.749 20.207 28.760 III.Tổng số lao động Người 2.678 2.099 3.708 Trong đó : Lao động chờ sắp xếp việc làm Người 82 86 85 IV. Kết quả kinh doanh Triệu đồng - Doanh thu triệu đồng 591.196 659.536 1239.949 - Lãi trước thuế triệu đồng 9.975 9.189 11716 - Lỗ triệu đồng 2.925 1.185 1.555 - Lỗ cộng dồn triệu đồng 8.580 8.950 9163 V.Tổng mức nộp ngân sách Triệu đồng 44.617 49.643 53.461 VI. Tổng nợ phải thu Triệu đồng 132.605 82.723 138.312 Trong đo nợ khó đòi triệu đồng 5.700 7.562 6.694 VII. Tổng nợ phả trả Triệu đồng 242.394 183.692 274.749 Trong đó : Vốn vay triệu đồng 2.853 2.903 3.154 ( Nguồn: Uỷ ban nhân dân Tỉnh Quảng Ngãi) + với DNNN hoạt động công ích: Đến năm 2003 số lượng DNNN hoạt động công ích trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là 5 DN: Cty Thanh niên xung phong xây dựng nông thôn và miền núi tỉnh Quảng Ngãi, Cty khai thác CTTL Quảng Ngãi, ty môi trường tỉnh Quảng Ngãi, Cty quản lý va xây dựng giao thông Quảng Ngãi, Cty phát hành sách và VHTH Quảng Ngãi. Hiện nay tổng vốn nhà nước của DNNN hoạt động công ích là: 331.469 triệu đồng ( trong đó có vốn của Công trình Thạch Nham ) .Danh thu năm 2003 đạt 49.739 triệu đồng ,chiếm 3.7% trong năm 2003 đạt 1348 triệu đồng chiếm 10,6% trong tổng số lợi nhuận của DNNN mức nạp ngân sách năm 2003 đạt 1.027 triệu đồng. Nhìn chung trong năm qua DNNN hoạt động công ích đã giải quyết việc làm tỉnh Quảng Ngãi gần 100 lao động của tỉnh, góp phần làm giảm nạn thất nghiệp của tỉnh nhà. Bảng 5 : Danh mục tổng hợp tình hình hoạt động của DNNN hoạt động công ích. Thông số Đơn vị tính 2002 2003 Tổng số doanh nghiệp Tổng vốn kinh doanh Trong đó : +Vốn ngân sách +Vốn tự bổ sung +Vốn huy động từ các nguồn khác. Tổng số lao động Kết quả kinh doanh + Doanh thu + lãi trước thuế Tổng mức nạp ngân sách Tổng nợ phải thu Tổng nợ phải trả DN Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Người Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng 5 325.670 318.738 641 6.288 699 36.979 764 713 38.169 35.492 5 331.469 320.975 957 9534 741 49.739 1.248 1.027 28698 36.959 (Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư) + Với DNNN hoạt động kinh doanh: Hiện nay, số lượng DNNN hoạt động kinh doanh do tỉnh quản lý là 27DN ( 29 DN nhưng 2 DN ngừng hoạt động, đang làm thủ tục giải thể là: Cty Thương mại Cẩm Thành, Cty 19/5). Tổng nguồn vốn nhà nước của DNNN hoạt động kinh doanh là: 107.083 triệu đồng. Doanh thu năm 2003 đạt 1.280.210 triệu đồng, chiếm 96,3 % trong tổng doanh thu của DNNN thuộc tỉnh quản lý, lãi trước thuế năm 2003 đạt 10498 triệu đồng, chiếm 89,4 % trong tổng lợi nhuận trước thuế của DNNN mức nộp ngân sách năm 2003 đạt 52434 triệu đồng . Nhìn chung tình hình hoạt động của DNNN hoạt động kinh doanh trong năm vừa qua có bước tăng tưởng khá ( lãi trước thuế năm 2002 chỉ đạt 8425 triệu đồng ) . Bên cạnh đó năm vừa qua đã giải quyết cho gần 1.500 lao động của tỉnh góp phần làm giảm phần thất nghiệp của tỉnh nhà. Bảng 6: Danh mục tình hình hoạt động kinh doanh của DNNN hoạt động kinh doanh. TT Thông số Đơn vị tính 2002 2003 I. II. III IV V VI VII Tổng số DN Tổng số vốn kinh doanh Trong đó : +Vốn ngân sách +Vốn tự bổ sung +Vốn huy động các nguồn khác Tổng số lao động Trong đó: ao động chờ sắp xếp việc làm Kết quả kinh doanh doanh thu lãi trước thuế Tổng mức nộp ngân sách Tổng nợ phải thu Tổng nợ phả trả DN Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Người Người triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng triệu đồng 27 98.023 59.191 24.916 13.919 1400 86 662.557 8.425 48.930 54.554 148.200 27 10.7083 62.191 25.669 19.226 2967 85 1.280.210 10.498 52.434 109.614 237.790 ( Nguồn: sở kết hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Ngãi) b.Thực trạng, nội dung sắp xếp. Đổi mới DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg ngày 21/4/1998 của thủ tướng chính phủ về đổi mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN, tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành sắp xếp lại DNNN thuộc tỉnh quản lý kết quả như sau: *Doanh nghiệp đã cổ phần hoá: Số lượng : 5 DN (xí nghiệp gạch ngói Phổ Phong, xí nghiệp vôi Tịnh Khuê, Cty 19/8, xí nghiệp phân bón hữu cơ, cổ phần một bộ phận xí nghiệp vận tải ôtô Quảng Ngãi ) Tổng số vốn nhà nước : 3.175 triệu đồng Trong đó : + Doanh nghiệp độc lập: 04 DN ; vốn nhà nước ; 2.175 triệu đồng (cổ phần chi phối: 2 DN; cổ phần thương là 01 DN; không nắm giữ cổ phần; 01DN) + Bộ phận doanh nghiệp: 01DN; vốn nhà nước là: 1.000 triệu đồng (cổ phần chi phối). *Doanh nghiệp đã thực hiên giao bán: Sau khi Chính phủ ban hành nghị định 103/1999/NĐ-CP ngày 10/09/ 1999 về giao ban, khoán, kinh doanh, cho thuê DNNN; UBND Tỉnh đã xem xét, rà soát và xác đinh 2DNNN thuộc diện bán doanh nghiệp theo kế hoạch sắp xếp DNNN năm 2000 là : Công ty thương mại Quảng Ngãi và công ty thương mại tổng hợp Sơn Tịnh ( kế hoach trong năm 1999 thì 2 DN này thuọc loại giải thể nhưng chưa tiến hành xong). Tuy nhiên 2DN naỳ làm ăn thua lỗ kéo dài, những tồn đọng về tài chính, nhất là công nợ khó đòi lớn nên không tiến hành bán doanh nghiệp theo nghị định 103/CP năm 1999 của Chính phủ được. * Doanh nghiệp đã sáp nhập hợp nhất : không có * Doanh nghiệp chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu : không có * Doanh nghiệp chuyển đi nơi khác : ( chuyển giao cho tông công ty và công ty Trung ương ). Số lượng : 04DN (Lâm trường Ba Tơ, xí nghiệp mộc Quảng Ngãi, Công ty khoáng sản Quảng Ngãi, công ty cao su Quảng Ngãi) Tổng vốn nhà nước: 4.562,5 triệu đồng. * Doanh ngiệp đã thực hiện giải thể: -Số lượng: 04DN (Lâm Trường Sơn Hà, xí nghiệp công nghiệp thực phẩm , Công ty nhiếp ảnh mỹ thuật, Công ty dệt may ). -Tổng số vốn nhà nước: 3.465.2 triệu đồng. * Doanh nghiệp nhà nước giữ nguyên pháp nhân: -Số lương: 34DN (trong đó 2DN đã ngừng hoạt động) -Tổng số vốn nhà nước là: 427.159 triệu đồng ( nếu trừ giá trị công trình thuỷ lợi Thạch Nham thì vốn DNNN thực chất chỉ có 125 tỷ đồng). (trang sau) Những thuận lợi, hạn chế và tồn tại của DNNN trên địa bàn tỉnh: Thuận lợi: * Kết quả đat được. Thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Quảng Ngãi đẩy mạnh việc sắp xếp đổI mớI DNNN thuộc tỉnh quản lý đã đạt được kết quả bước đầu đáng kể: số lượng DNNN đã giảm từ 43 doanh nghiệp ( năm 1998), đến nay xuống còn 34 doanh nghiệp, nhưng thực chất chỉ còn 32 doanh nghiệp hoạt động ( 2 DN đã ngừng hoạt động đang làm thủ tục giải thể). Quy mô doanh nhgiệp đã tăng lên rõ rệt, vốn bình quân 1 doanh nghiệp từ 2,5 tỷ đồng năm 1998 đã tăng gần 4 tỷ đồng năm 2002 (không kể giá trị công trình thuỷ lợI Thạch Nham). Tỷ lệ số Doanh nghiệp không đủ vốn pháp định giảm từ 60% 9năm 1998) xuống còn 30% (năm 2002) trên tổng số doanh nghiệp thuộc tỉnh. Phần lớn các doanh nghiệp đã định hướng được hoạt động, bước đầu đã khai thông được bế tắc trong sản xuất kinh doanh, thực hiện liên doanh, liên kết, củng cố tổ chức, đa dạng hoá sản phẩm, giải quyết được một số khó khăn, nhất là về tài chính, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh… Cùng với sự chỉ đạo của Tỉnh, một số DNNN đã có chuyển biến tích cực, hoạt động có hiệu quả hơn, lợi nhuận và nộp ngân sách đều tăng hơn trước, số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả từ 35% (năm 1998) tăng lên 57% năm 2002, số DN kinh doanh thua lỗ từ 30% (năm 1998) giảm còn 19% (6 doanh nghiệp năm 2002). Công nghiệp quốc doanh năm 2003 đạt 830.800 triệu đồng, tăng 24% so với năm 2002( đạt 104,40% kế hoạch năm 2003). Hiện nay tỉnh đã hình thành 3 khu công nghiệp Dung Quất, Tịnh Phong, Quảng Phủ. Đặc biệt, khu công nghiệp Dung Quất là Trung tâm lọc hoá dầu, cảng biển nước sâu, nơi thu hút nhiều nhà đầu tư, triển khai nhiều dự án có quy mô lớn, mang tầm vóc cỡ quốc gia và khu vực. Trong tháng 6 năm 2003, sở đã tham mưu cho UBND tỉnh xét duyệt vốn đầu tư cho các huyện (từ nguồn vốn vay kho bạc Nhà nước) để thực hiện việc xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn, cụ thể: ĐVT: Triệu đồng DDanh mục công trình KH do Sở CN đề nghị UBND tỉnh phê duyệt Dự án đường vào Cụm CN - làng nghề đóng sửa tàu thuyền và chế biến hảI sản Sa Kỳ, xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh 700 580 Công trtình nền mặt đường, thoát nước phục vụ cho làng nghề tre đan tuyến đường Chợ Gồm – Tân Nghĩa, huyện Tư Nghĩa. 850 690 Công trình đường vào làng nghề nhựa hoá nền mặt đường – thoát nước tuyến ngã ba Hoà Mỹ - Đề An, huyện Nghĩa Hành 350 350 Công trình đường vào khu làng nghề: Nhựa hoá nền mặt đường – thoát nước ngã ba Ông Cổn, xã Hàng Trung, huyện Nghĩa Hành 350 350 Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của DNNN tăng 41,8%, đã tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu. Thương mại phát triển khá, đảm bảo nhu cầu cung ứng hàng hoá trong tỉnh và các mặt hàng thiết yếu cho miền núi như: vật tư y tế, thiết bị trường học….; hoạt động vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng cơ bản được yêu cầu phát kinh tế xã hội của Tỉnh. Bình quân hàng năm tạo việc làm mới và thêm việc làm cho khoảng 28.000 – 29.000 lao động, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 24,7% (năm 2000) còn 14,8% năm 2003 (ước năm 2004 còn từ 11 – 10%). Trong gian đoạn này, hằng năm triển khai trên 20 đề tài nghiên cứu khoa học, một số đề tài đã giải quyết những vấn đề thiết thực trong sản xuất, hỗ trợ các doanh nghiệp có thể tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất . Công ty cổ phần dịch vụ giao thông vận tải (xưởng cơ khí ô tô Vạn Tường cũ) năm 2000 có gặp khó khăn nhưng từ năm 2001 đã trụ được và hoạt động có hiệu quả. * Lợi thế phát triển: -Về vị trí địa lý: Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung, được chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng Nhà máy lọc dầu đầu tiên của đất nước sẽ đi vào hoạt động trong thập kỷ này và sẽ hình thành khu kinh tế Dung Quất. Đây là lợi thế rất quan trọng, điều kiện để tỉnh phát triển nhanh công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đi kèm theo chương trình phát triển lọc hoá dầu của quốc gia, mang lại nhiều lợi ích cho tỉnh đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. -Về khí hậu; Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đớI điển hình, nền nhiệt độ cao và ít biến động. chế độ ánh sáng mưa ẩm phong phú, vớI lượng bức xạ lớn thuận lợI về phơi sấy, sử dụng năng lượng mặt trời trong công nghiệp chế biến nông lâm sản, hải sản, làm muốI và sản xuất điện năng (năng lượng gió). -Tiềm năng quỹ đất để phát triển nông nghiệp ở tỉnh còn khá lớn, đất chưa sử dụng đến năm 2000 còn khoảng 242,88 nghìn ha, chiếm 47,3% diện tích đất tự nhiên. Đây là địa bàn có khả năng trồng cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản…, mở ra khả năng phát triển sản xuất lâm nghiệp, tạo việc làm thu nhập thêm lao động. Đồng thờI tỉnh có nguồn nhân lực dồI dào, có trình độ tay nghề khá. -Bờ biển dài trên 129 km, với vùng lãnh hải rộng lớn 11.000 km2, có 6 của biểu, giàu nguồn lợi hải sản với nhiều bãi biển đẹp có khả năng khai thác tổng hợp vùng kinh tế biển cả về nuôi trồng, đánh bắt hải sản và du lịch, đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Ngoài ra, Tỉnh đã hình thành một hệ thống đô thị tương đốI đều khắp với 1 thị xã, 1 Thành phố Vạn Tường trong tương lại và 10 thị trấn, 3 khu công nghiệp và các công trình kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội cơ bản. Bên cạnh đó nền kinh tế tỉnh đang trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm trước tăng khá, đặc biệt từ năm 2002 trở lại đây tăng ở “ 2 con số “, có khả năng ổn định và nhích lên trong thờI gian tới (năm 2002: 10,6%; năm 2003: 10,3%, ước năm 2004: 11 – 11,5%). Gần đây, Trung ương đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm sửa đổi những quy định không còn phù hợp. Cùng với những cơ chế, chính sách của Trung ương, việc triển khai các chương trình hành động, đặc biệt là 4 khâu đột phá thực hiện Nghị quyết Đại hội 16 cuả Đảng bộ tỉnh, triển khai thực hiện đề án sắp xếp DNNN và nhiều cơ chế chính sách được tỉnh ban hành trong năm 2002 và năm 2003 có tác dụng tích cực trong quá trình đổi mới kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tạo động lực để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. b.Một số tồn tại và hạn chế; * Những mặt tồn tại yếu kém của DNNN trên địa bàn tỉnh: Bên cạnh những doanh nghiệp đã kịp thời thích nghi với cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh tăng trưởng và có hiệu quả, đời sống cán bộ công nhân viên được ổn định và cải thiện, thì vẫn còn nhiều doanh nghiệp lúng túng bị động, không xác định rõ phương hướng sản xuất kinh doanh dẫn đến kinh doanh thua lỗ hoặc hoạt động cầm chừng, công nhân thiếu việc làm, đời sống khó khăn và không ổn định. Về vốn và quy mô của doanh nghiệp: Quy mô DNNN còn quá nhỏ bé, vốn bình quân của mỗi doanh nghiệp hiện nay khoảng 4 tỷ đồng, còn 30% số doanh nhgiệp (10 doanh nghiệp) chưa đủ vốn pháp định, một số doanh nghiệp vốn chưa tới 01 tỷ đồng. Các doanh nghiệp hoạt động bằng vốn vay là chủ yếu, tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, công nợ dây dưa khó đòi ngày càng lớn. Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài chậm được xử lý làm mất vốn của Nhà nước. Về công nghệ thiết bị: Cũng tương tự như nhiều địa phương khác, các DNNN ở Quảng Ngãi được hình thành từ thời kỳ cơ chế tập trung bao cấp, thiết bị công nghệ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nước Liên Xô và Đông âu cũ, từ thời chế độ Mỹ nguỵ để lại là chủ yếu và một phần mới đầu tư mua sắm từ các nước tư bản khác nhau. Nhìn chung, thiết bị công nghệ của các doanh nhgiệp thuộc loại lạc hậu, chỉ một số mới đầu tư thuộc loại trung bình, làm cho năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh kém. Bên cạnh đó chưa thúc đẩy mạnh mẽ việc áp dụng các công nghệ mới hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào Ngân sách nhà nước, chưa tạo được nguồn kinh phí từ việc áp dụng các đề tài nghiên cứu khoa học. Số đề tài được nghiệm thu đưa vào sản xuất thử để nhân rộng còn quá ít. Đối với Tỉnh ta, việc phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến được quan tâm nhưng năng suất chưa cao, đặc biệt là cây mía, năng suất bình quân còn quá thấp. Một số cây công nghiệp như cao su chưa khẳng định tính hiệu quả, cây quế đạt kết quả thấp, khâu chế biến thủy sản còn yếu kém, số tàu thuyền có công suất nhỏ còn chiếm khá cao (88%), công tác bảo vệ nguồn lợI thuỷ sản chưa được chú trọng, cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá còn yếu kém, kinh tế biển có tiềm năng nhưng giá trị sản xuất của ngành thuỷ sản vẫn chưa có vị trí xứng đáng trong tống giá trị sản xuất của Tỉnh, ngành công nghiệp phát triển chậm, chưa thực sự trở thành động lực của nền kinh tế, công nghệ thiết bị của công nghiệp địa phương còn lạc hậu; sản phẩm làm ra chủ yếu là tiêu dùng trong nội tỉnh (trừ các sản phẩm sau đường mía). Việc thu hút đầu tư vẫn còn khó khăn; đầu tư vẫn còn dàn trảI, hoạt động xuất nhập khẩu tuy có phát triển nhưng kim nghạch xuất khẩu còn nhỏ bé. Về quản lý doanh nghiêp: bộ máy quản lý doanh nghiệp còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, cơ chế quản lý mới được hình thành nhưng chưa đồng bộ, hoạt động của các DNNN chưa thực sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm, nhiều vướng mắc trong quản lý và điều hành doanh nghiệp chưa được khắc phục. Đội ngũ cán bộ quản lý đa số được đào tạo trong thời kỳ bao cấp, một số được đào tạo lại và bổ sung. Nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh trong giai đoạn mới của cơ chế thị trường. Hiện tượng độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng chức vụ tham nhũng, làm sai quy định của Nhà nước để vụ lợi vẫn phổ biến và chậm được xử lý và khắc phục. Quyền hạn và trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp chưa tương xứng và rõ ràng. Về thị trường và sản phẩm: hầu hết các doanh nghiệp thiết thông tin về thị trường, khả năng tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước rất hạn chế, sức cạnh trang của các sản phẩm và dịch vụ doanh nghiệp còn phấn. Công tác cổ phần hoá DNNN tiến hành còn chậm, 2 doanh nghiêp: Công ty vận tảI Biển và Công ty Thương mại tổng hợp, theo kế hoạch cổ phần hoá năm 2000, nhưng Công ty Thương mại tổng hợp Quảng Ngãi liên tục đề nghị xin hoãn đến nay vẫn chưa triển khai được và Công ty vận tải Biển đang xây dựng phương án cổ phần hoá. Công tác giải thể doanh nghiệp ở một số đơn vị được phê duyệt từ năm 1999 nhưng đến nay chưa xong (Nông trương 24/3, Lâm trường Trà Bồng). Việc bán DNNN theo Nghị định 103/NĐ-CP đối với 2 Công ty trong kế hoạch năm 2000 nhưng đến nay mới đánh giá xong tài sản doanh nghiệp Công ty Thương mai tổng hợp Sơn Tịnh, Công ty Thương mạI Quảng Ngãi chưa đánh giá xong tài sản doanh nghiệp. Việc củng cố 2 doanh nghiệp thua lỗ kéo dài đối với công ty Dược và Xí nghiệp in Quảng Ngãi tuy có được giải quyết nhưng chưa triệt để và có hiệu quả. Sự đổi mới hoạt động của Doanh nghiệp đã qua sắp xếp chưa có chuyển biến mạnh mẽ. * Hạn chế: Tỉnh có địa hình dốc, nằm trong vùng thường xuyên bị hạn hán đe doạ nghiêm trọng. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất đến sự phát triển và đa dạng hoá kinh tế ngành và lãnh thổ cũng như đờI sống của cư dân. Tuy nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, song xuất phát điểm của nền kinh tế tỉnh còn thấp. Tỷ lệ thu ngân sách mới chiếm 6,5 – 7,5% GDP, nguồn thu chủ lực chưa nhiều, còn lệ thuộc nhiều vào sự chi viện của Trung ương. Hàng năm ngân sách Trung ương phải trợ cấp khoảng trên 65% tổng chi ngân sách địa phương, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, thị trường tiêu thụ các sản phẩm chưa rộng khắp. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quá ít (10,7%). thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật đầu đàn, cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế có kinh nghiệm và công nhân có tay nghề. Ở hầu hết các ngành kinh tế và kỹ thuật then chốt đang đòi hỏi phải đào tạo nhanh đội ngũ này. Khu vực Miền núi của Tỉnh chiếm diện tích lớn, nhưng bình quân đất sản xuất nông nghiệp rất thấp, địa hình bị chia cắt. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế - tồn tại: Những kết quả đạt được của DNNN trong những năm qua trên địa bàn Tỉnh là nhờ Đảng và Nhà nước đã có những quan tâm, ban hành những cơ chế và chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho DNNN phát triển. DNNN hiện nay đã được cả xã hội thừa nhận vị trí quan trọng của nó nên nó được ưu tiên và chú ý đầu tư để áp dụng khoa học công nghệ mới, có chính sách hỗ trợ và đầu tư vốn ưu đãi. Mặt khác Đảng và Nhà nước thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nên kinh tế Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng vẫn còn nhiều ưu đãi cũng như lòng tin, tâm lý xã hội của người lao động, những người có chuyên môn giỏi thường có nguyện vọng được làm trong các DNNN. Bên cạnh đó, DNNN trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, do trong quá trình thực hiện quản lý - điều hành Nhà nước bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần sớm được khắc phục. Nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn và trong một thờI gian dài chịu sự quản lý của cơ chế kế hoạch tập trung. Đến hiện nay không ít DNNN còn tồn tại các vấn đề xung đột quan hệ giữa hộI đồng quản trị và Giám đốc, quản lý điều hành Công ty còn nhiều lúng túng. Một số Giám đốc và cán bộ quản lý không dám mở rộng sản xuất kinh doanh, sợ đổI mới nên hiệu quả chưa cao, các Sở ngành chưa quan tâm đúng mức trong công tác này. Bên cạnh đó sự giảI thể Cục quản lý vốn và Tài sản Nhà nước tại Doanh nghiệp đã ảnh hưởng nhất định đến công tác sắp xếp, đổi mớI DNNN địa phương. Hơn nữa phong cách hoạt động của nhiều Doanh nghiệp sau khi sắp xếp, đổi mới vẫn dùng các quy định của DNNN cũ để hoạt động. Ngoài ra trong thực hiện quá trình cổ phàn hóa còn gặp nhiều khó khăn: + Những vướng mắc về nhận thức tư tưởng: Cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp e ngại mất cương vị đang nắm giữ và những quyền lợi kèm theo. Người lao động trong doanh nghiệp chưa hiểu rõ những vấn đề liên quan đến công ty cổ phần, e ngại mất viêc làm hoạc giảm thu nhập. Ở doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, cán bộ, công nhân viên không muốn có sự xáo động; ngược lại, ở doanh nghiệp đang gặp kgó khăn lại nảy sinh sự lo ngại không còn trợ giúp của nhà nước, công ty không thể vượt qua được khó khăn. + Những vướng mắc về mặt tài chính: Việc xác định giá trị doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do tài sản, thiết bị của doanh nghiệp được trang bị vào những thời gian khác nhau, có trình độ và giá cả khác nhau, mức độ sử dụng trong sản xuất khác nhau, hệ thống sổ sách kế toán của nhiều doanh nghiệp không đầy đủ và rõ ràng. Về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý Doanh nghiệp còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Tồn đọng tài chính trong nhiều Doanh nghiệp khá nặng nề, gây khó khăn trong việc sáp nhập và hoạt động của Doanh nghiệp mới sau khi sắp xếp, cơ chế chính sách giải quyết những tồn đọng về tài chính còn nhiều trở ngại và bất cập, Khả năng hỗ trợ vốn và tài chính cho các Doanh nghiệp của tỉnh rất hạn chế. Dôi dư lao động ở các Doanh nghiệp khá lớn, là một khó khăn trở ngại không nhỏ khi sắp xếp, các Doanh nghiệp tự bươn chải là chủ yếu, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn mà bản thân mỗi Doanh nghiệp không tự giải quyết được. Tuy nhiên, điểm xuất phát nền kinh tế của tỉnh thấp, những biến động không có lợi của thị trường, tiến độ xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 chậm so với kế hoạch, chậm tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án. Trong đầu tư do phải đảm bảo việc phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư cho các chương trình, dự án trọng điểm nhưng nguồn vốn có hạn nên việc bố trí vốn chưa đồng đều. Về công nghệ, thiết bị thì còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Thiết bị, công nghệ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nước Liên Xô và Đông Âu cũ, từ thời chế độ Mỹ Nguỵ để lại là chủ yếu và một phần mới đầu tư mua sắm thuộc loại trung bình, làm cho năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh kém. Khả năng tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước rất hạn chế, hầu hết các Doanh nghiệp thiếu thông tin về thi trường, sức cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ doanh nghiệp còn thấp. Về khả năng khai thác nguồn lực của kinh tế Nhà nước mà trước tiên là các DNNN ở Quảng Ngãi chưa cao như: lực lượng lao động hàng năm khá dồi dào, số sinh viên được đào tạo ở các Đại học, cao đẳng tốt nghiệp loại khá giỏi thường thích làm việc ở các Thành phố lớn; tài nguyên ở Quảng Ngãi phong phú đa dạng như: bờ biển kéo dài trên 129 km với 6 cửa lạch lớn nhỏ; Quảng Ngãi có khoảng 5000 – 7000 ha đất để phát triển môi trường thuỷ sản nước ngọt, nước lợ… Bên cạnh đó diện tích 513.520 ha, Quảng Ngãi có 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 69 đơn vị đất phụ; diện tích đất có rừng toàn tỉnh khoảng 1.021 nghìn ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên 67,4 nghìn ha, diện tích rừng trồng 34,7 nghìn ha. Nhưng khả năng khai thác chưa cao, tiềm năng vẫn còn chưa được khai thác hết công suất. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TỈNH QUẢNG NGÃI: 1. Quan điểm tổng quát : Tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại và đan xen các hình thức sở hữu, hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ năng lực sản xuất.Thực hiện liên kết giữa các thành phần kinh tế vừa hợp tác,vừa cạnh tranh,với vai trò chủ đạo của DNNN theo hướng xã hội chủ nghĩa.Khuyến khích, tạo điều kiện các thành phần kinh tế khác phát triển là, một nội dung rất quan trọng để đảm bảo môi trường kinh doanh có hiệu quả . Tiếp tục nghiên cứu cơ chế, chính sách theo hướng tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, để thúc đẩy đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và cạnh tranh của sản phẩm . Tiếp tục phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong việc mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Doanh nghiệp nhà nước phải được tăng cường sức mạnh, giữ vị trí chủ đạo then chốt của nền kinh tế quốc dân, là chỗ dựa vật chất, kỹ thuật để nhà nước điều hành kinh tế, giải quyết vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng. Nhân tố con người có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây cũng chính là điều kiện quan trọng để thực hiện thành công quá trình đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát triển mới. Trên cơ sở đó tập trung đào tạo bồi dưỡng để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp đảm bảo tài đức, năng động trong kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo . 2. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Ngãi : a. Mục tiêu 10 năm (2001 - 2010 ): Sắp xếp đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . b. Mục tiêu 5 năm ( 2001 - 2005 ): - Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều hành cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện có: Cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả; giao, bán , khoán, kinh doanh, cho thuê các doanh nghiệp quy mô nhỏ, không cổ phần hóa được và Nhà nước không cần nắm giữ . - Thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn đối với doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn.Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ, đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. - Đổi mới và lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, giải quyết cơ bản nợ không có khả năng thanh toán, lao động dôi dư và có giải pháp ngăn chặn các tình trạng trên tái phát. - Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước: Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh. - Đầu tư phát triển và thành lập mới doanh nghiệp nhà nước cần thiết và có đủ điều kiện ở những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bản quan trọng . - Đổi mới và hiện đại hóa một bước quan trọng công nghệ và quản lý của đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước . II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI : 1. Phương hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước : a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh : Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm, vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản suất thuốc lá điếu. Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: buôn bán lương thực, buôn bán xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất xi măng, công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng , sản xuất hóa dược, thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường sắt, viễn thông, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản, chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết . Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ động là các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội . Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đối với DNNN. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị - xã hội đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. Việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà Nhà nước cần giữ độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia. b. Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích : Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong các lĩnh vực, in bạc và chứng chỉ có giá, điều hành bay, bảo đảm hàng hải, kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh, doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng, kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Chính phủ. Các danh nghiệp của quân đội và Công an được sắp xếp và phát triển theo định hướng này đồng thời tự kinh doanh bổ sung một phần để khai thác hiệu quả công suất thiết bị, có thu và giảm bớt chi ngân sách nhà nước, tự trang bị để nâng cao chất lượng phụ vụ xã hội. Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực, kiểm định kỷ thuật phương tiện giao thông cơ giới lớn; xuất bản sách giáo khoa, sách đường phố, quản lý, bổ trì hệ thống đường bộ, bến xe, đường thủy quan trọng, sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ khác theo quy định của Chính phủ. Trong từng thời kỳ, Chính phủ xem xét, điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn cứ vào định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thực hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ được sắp xếp lại. Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải được xem xét chặt chẽ đúng định hướng, có yêu cầu và có đủ các điều kiện cần thiết. 2. Một số giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Ngãi: a. Giải pháp sắp xếp và đổi mới, cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước: Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đã đóng góp những mặt tích cực cho nền kinh tế - xã hội. Song, số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ, thâm hụt ngân sách nhà nước cũng không ít, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế- xã hội đất nước. Vì vậy cần xem xét đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới; trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa doanh nghiệp nhà nước và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Ngãi quản lý giai đoạn (2003 - 2005) phải căn cứ. - Quan điểm và nội dung Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Phải phù hợp với phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi, phù hợp với trình độ của lãnh đạo, do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quảng Ngãi lần thứ 16 đề ra, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn (2001 - 2010) đã được Chính phủ phê duyệt và phù hợpvới quy hoạch ngành, quy hoạch vùng trọng điểm kinh tế miền Trung. -Căn cứ vào tình hình hoạt động và thực trạng của doanh nghiệp nhà nước hiện nay và xu hướng phát triển trong những năm đến và căn cứ vào tiêu chí phân loại doanh nghiệp theo Quyết định 58 /CP của Chính phủ về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm , mục tiêu và phương hướng đề ra. Phương hướng sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2003-2005: Nhóm 1: Hợp nhất ,sáp nhập các doanh nghiệp, một số đơn vị trực thuộc có cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh và giải thể một số doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, không cần thiết phải duy trì. Nhóm 2: Tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước đối với DNNN đang hoạt động trong lĩnh vự công ích đã có, chuyển một số DNNN hoạt động kinh doanh sang DNNN hoạt động công ích đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Những doanh nghiệp này cần kiện toàn về tổ chức, cán bộ, ưu tiên về tài chính để đổi mới công nghệ và trang thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ công ích. Về cơ bản không thành lập mới DNNN 100% vốn nhà nước, chỉ thành lập mới khi thật cần thiết và đúng quy định của nhà nước. Chuyển giao cho tổng công ty và công ty Trung ương quản lý một số DNNN, nếu xét thấy việc chuyển giao tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động thuận lợi hơn. Nhóm 3:tiếp tục chuyển đổi DNNN theo các hình thức sở hữư thích hợp: -Chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Gồm một số DNNN hoạt động kinh doanh cần duy trì 100% vốn DNNN. Trong năm 2003 tổ chức làm thí điểm 1-2 DN -Chuyển thành công ty cổ phần: Ngoại trừ một số DNNN giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của nhà nước, phần còn lại nhà nước không cần nắm cổ phần chi phối. Trường hợp ở các doanh nghiệp này phần vốn nhà nước không bán hết thì nhà nước tiếp tục giữ cổ phần còn lại cho đến khi bán hết. -Giao, bán, khoán, cho thuê: một số DNNN có quy mô nhỏ ( vốn dưới 5 tỷ đồng) xét thấy không thể sắp xếp theo các hình thức theo quy định của Nghị định 103/1999/NĐ-CP của Chính phủ. Doanh nghiệp Nhà nước là một tổ chứ kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và đồng thời là chủ sở hữu . Do vậy doanh nghiệp nhà nước phải chịu hai chế độ quản lý: Một mặt nhà nước quản lý các doanh nghiệp với nhiệm vụ và quyền hạn là quản lý một tổ chức kinh tế. Mặc khác nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu . Vì vậy, các nhà lãnh đạo của tỉnh cần quán triệt tư tưởng tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên trong ban thẩm định, đổi mới và phát triển doanh nghiệp tỉnh, nhất là giữa các Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư, Tài Chính, Lao Động Thương Binh Và Xã Hội, Sở Nội Vụ Và Sở Chủ Quản trong việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra doanh nghiệp thực hiện kế hoạch sắp xếp đổi mới theo sự phân công của UBND tỉnh tạiQĐ 972/QĐ – UB. Ngoài ra tổ chưc Đảng tại DNNN là người lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động của doanh nghiệp trong việc tham gia xây dựng phương án sản xuất kinh doanh đúng định hướng, quy hoạch phát triển chung nền kinh tế, quy hoạch bố trí cán bộ chủ chốt, động viên quần chúng hoàn thành suất sắc các nhiệm vụ được giao, kiểm tra giám sát việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Vì vậy cần phải thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, công nhân làm chủ trong doanh nghiệp. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thực sự là người lãnh đạo toàn diện nhưng không bao biện làm thay hoặc can thiệp sâu vào việc điều hành của giám đốc, khắc phụa tình trang một số doanh nghiệp mà vai trò của Đảng bị lu mờ thậm chí vô hiệu hóa. Vì vậy phải nâng cao năng lực lảnh đạo của Đảng trong doanh nghiệp; đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng: Công đoàn, thanh niên nhằm động viên khuyến khích quần chúng tích cực lao động sản xuất giỏi, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao, chăm lo bồi dưỡng chính trị, chuyên môn và quan tâm giải quyết những kiến nghị lên cấp trên, những nguyện vọng yêu cầu chính đáng của người lao động về việc làm, thu nhập, đời sống…, giáo dục ý thức làm chủ, tinh thần đoàn kết, sự gắn bó mật thiết giữa người lao động đối với sự sống còn của doanh nghiệp, phát huy lao động sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, dứng dụng khoa học công nghệ mới, hợp lý hóa sản xuất , nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu qủa, rèn luyện tác phong công nghiệp, chấp hành nghiêm chỉnh quy trình công nghệ và kỹ thuật lao động, giải quyết hài hòa lợi ích người lao động-tập thể -xã hội. Xây dựng cơ chế quản lý dân chủ và công khai tài chính trong doanh nghiệp. Thựa hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trong các DNNN. b. Giải pháp mở rộng thị trường đầu vào và tiếp thị sản phẩm. Để có được hàng hoá chất lượng cao bán trên thị trường thì điều kiện đầu tiên phải có nguồn nguyên liệu đầu vào đạt yêu cầu của quá trình sản xuất. Vì thế cần phát triển vùng cây nguyên liệu hàng hoá ổn định có năng xuất,chất lượng cao và nhằm đảm bảo nguyên liệu đầy đủ cung cấp cho các cơ sở chế biến, như: vùng nguyên liệu mía phục vụ cho họat động chế biến các sản phẩm sau đường, cây sắn (mỳ), vùng nguyên liệu cây ăn quả, cây dâu tằm, cây điều, cây bông vải, cây cao su, cây ca cao…; triển khai các qui hoach về nuôi trồng thuỷ sản; đầu tư hổ trợ cho hoạt động sản xuất các vật liệu xây dựng phục vụ tốt cho ngành xây dựng. Quảng Ngãi có nhiều điểm khoáng sản có thể dùng để sản xuất vật liệu xây dựng như đá Granit, bazan, cát kết, sét gạch …Trong thời gian tới cần tận dụng tài nguyên và lao động để phát triển các sản phẩm đá xây dựng các loại, khai thác các vàng, xi măng gạch tuy nen, gạch lát hoa ximăng, đá ốplát bêtông và cấu kiện bêtông, kêu gọi đầu tư vào các khu công nghiệp để phát triển vật liệu xây dựng cao cấp và trang trí nội thất thực hiện cơ giới hóa và hiện đại hóa công nghiệp khai thác đá cát, khuyến khích tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia công tác khai thác các mở nhỏ. Muốn vậy các cấp lãnh đạo của tỉnh cần phải có cơ chế, chính sách đầu tư hổ trợ để tạo điều kiện phát triển các nguồn nguyên liệu đầu vào chẳng hạn: xây dựng chính sách thu mua nguyên liệu đầu vào, phảI có giá bảo đảm ổn định nhiều năm và phảI ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa đơn vị thu mua với từng nơi cung cấp, khuyến khích sản xuất, đảm bảo cho sự tồn tại một thị trường đầu vào vững chắc cung cấp nguồn nguyên liệu cho họat động của DNNN. Song, hàng hóa chỉ có giá trị khi đem trao đổi mua bán trên thị trường. đặc trưng lớn nhất của hàng hóa là sản xuất ra để bán, để trao đổi. Do đó vấn đề tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu quan trọng nhất, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để sản xuất gắn liền với việc mở rộng thị trường trong và ngoài nước, một mặt phảI xây dựng chính sách sản phẩm đồng bộ, tạo ra sức cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường, mặt khác phảI không ngừng nâng cao năng lực tiếp thị của ácc doanh nghiệp. DNNN phải chủ động hội nhập thị trường trong nước và thị trường thế giớI, mở mang thị trường nông thôn, đảm bảo lưu thông hàng hóa, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. kế hoạch sản xuất – kinh doanh phải gắn kết chặt chẽ với thị trường tiêu thụ sản phẩm; chú trọng thị trường trong tỉnh nhất là vùng nông thôn, quan tâm đến nhu cầu của khách hàng truyền thống và khu vực miền Trung, Tây nguyên và vùng Đông Nam bộ, phát huy lợi thế cạnh tranh. tổ chức và mở rộng hệ thống thông tin về thị trường, chủ động nắm bắt nhu cầu của thị trường nhất là thị trường trong nước và thế giới để có kế hoạch họat động sản xuất phù hợp và ổn định. Giải quyết kịp thời đầu ra, khắc phục có hiệu quả tình trạng ứ đọng sản phẩm, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. Chú trọng phát triển xuất khẩu để đảm bảo đầu ra rộng lớn và tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. mở rộng đa dạng hóa thị trường, tập trung vào thị trường thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Châu Âu, Bắc Mỹ. Trong một địa bàn họat động các DNNN cần xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có cùng ngành nghề, cùng sản phẩm để tránh các hiện tượng tranh giành, chèn ép, hạ giá và các biểu hiện tiêu cực khác gây rối thị trường, dẫn đến hậu quả nặng nề cho doanh nghiệp. Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết và phốI hợp phát triển với các tỉnh trên cơ sở phát huy thế mạnh đặc thù của nhau để cùng phát triển, hai bên cùng có lợi. Giải pháp này có thuận lợi là Quảng Ngãi có đường quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất Bắc- Nam chạy qua tỉnh; quốc lộ 24B nối Quảng Ngãi vớI Kontum và Hạ Lào, đây là tuyến giao thông quan trọng của tỉnh trong quan hệ kinh tế với các tỉnh khác. c. Giải pháp đổi mới cơ cấu đầu tư, khai thác các nguồn vốn sử dụng đáp ứng được nhu cầu phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ và làm lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp. Cơ cấu đầu tư của các DNNN tỉnh Quảng Ngãi thay đổi theo chiều hướng tích cực, khả năng huy động các nguồn vốn có bước phát triển mới. Nhưng đạI bộ phận DNNN vẫn thiếu vốn để đầu tư chiều sâu và bổ sung vốn lưu động.Vì thế tỉnh cần có cơ chế chính sách hỗ trợ để huy động được nguồn vốn cho DNNN: Thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách tạo vốn từ quỹ đất. Triển khai mạnh việc thực hiện quy chế sử dụng đất, tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh. Tận dụng các cơ hội, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư từ Trung ương. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh. Cổ phần hóa trong DNNN để cải thiện nguồn vốn cho DNNN. Kịp thời thể chế hóa, ban hành các cơ chế, chính sách thực hiện các chủ trương của Trung ương về cải thiện môi trường đầu tư thu hút thêm nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Xây dựng cơ chế huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng, vốn tích lũy hằng năm của DNNN. Thực hiện triệt để tiết kiệm, sử dụng có hiệu quả để tăng nguồn đầu tư từ ngân sách. Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và thực hiện các giải pháp khuyến khích để huy động từng nguồn vốn cụ thể cho từng mục tiêu cụ thể, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng hiệu quả đầu tư và tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ. Mặt khác, để đảm bảo việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao, DNNN phối hợp với các cơ quan chuyên trách lập kế họach đầu tư hợp lý, đúng mục tiêu và phương án đề ra, cụ thể: - Cần ưu tiên bố trí vốn ngân sách, đảm bảo kế hoạch vốn tín dụng ưu đãi và tận dụng các nguồn vốn hợp pháp khác nhằm tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. - Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình xúc tiến kêu gọi đầu tư. Tận dụng các cơ hội, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn từ ngân sách nhà nứơc, vốn tín dụng, vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước để đầu tư phát triển sản xuất. Nhất là đầu tư vào các khu công nghiệp của tỉnh và các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn trọng điểm là giao thông, thủy lợi phục vụ cho phát triển klinh tế xã hội. đặc biệt hơn nữa ưu tiên nguồn vốn để hiện đại hóa trang thiết bị máy móc, khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất đáp ứng được nhu cầu của xã hội. -Sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa DNNN để hỗ trợ giải quyết khó khăn cho các DNNN, cần tập trung củng cố phát triển theo hướng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đã đề ra, nhằm nâng cao hiệu qủa họat động của DNNN. Cần bổ sung từ ngân sách cho quỹ hỗ trợ sắp xếp, đổi m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc302.doc