Cổ mẫu địa ngục: Từ folklore đến truyện truyền kì trung đại Việt Nam - Nguyễn Thị Kim Ngân

Tài liệu Cổ mẫu địa ngục: Từ folklore đến truyện truyền kì trung đại Việt Nam - Nguyễn Thị Kim Ngân: 21 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0065 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 21-29 This paper is available online at CỔ MẪU ĐỊA NGỤC : TỪ FOLKLORE ĐẾN TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Kim Ngân Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư Phạm Huế Tóm tắt. Được xem như là những chủ đề phổ quát, tái diễn nhiều lần trong kinh nghiệm của con người, nội dung của cổ mẫu trong những nền văn hóa khác nhau và thời điểm khác nhau sẽ được thể hiện theo những cách đa dạng nhưng vẫn còn phản ánh những kinh nghiệm cơ bản của con người trong những cơ tầng sâu kín nhất của tâm hồn. Với tính chất nguyên bản và cổ xưa, không ngạc nhiên khi lĩnh vực có thể tìm thấy một hệ thống cố mẫu phong phú và đầy đủ nhất chính là văn hóa dân gian và truyện kể truyền thống. Mặt khác, hệ thống cổ mẫu tiềm ẩn trong thần thoại, truyện kể dân gian hoàn toàn không bị giới hạn trong thời đại cổ xưa hay nền văn hóa dân gian. Chúng liên tục được tái sinh và tìm ...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cổ mẫu địa ngục: Từ folklore đến truyện truyền kì trung đại Việt Nam - Nguyễn Thị Kim Ngân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0065 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 21-29 This paper is available online at CỔ MẪU ĐỊA NGỤC : TỪ FOLKLORE ĐẾN TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Kim Ngân Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư Phạm Huế Tóm tắt. Được xem như là những chủ đề phổ quát, tái diễn nhiều lần trong kinh nghiệm của con người, nội dung của cổ mẫu trong những nền văn hóa khác nhau và thời điểm khác nhau sẽ được thể hiện theo những cách đa dạng nhưng vẫn còn phản ánh những kinh nghiệm cơ bản của con người trong những cơ tầng sâu kín nhất của tâm hồn. Với tính chất nguyên bản và cổ xưa, không ngạc nhiên khi lĩnh vực có thể tìm thấy một hệ thống cố mẫu phong phú và đầy đủ nhất chính là văn hóa dân gian và truyện kể truyền thống. Mặt khác, hệ thống cổ mẫu tiềm ẩn trong thần thoại, truyện kể dân gian hoàn toàn không bị giới hạn trong thời đại cổ xưa hay nền văn hóa dân gian. Chúng liên tục được tái sinh và tìm thấy trong các nền văn học về sau. Qua quá trình chuyển hóa của cổ mẫu Địa ngục từ folklore đến truyện truyền kì Việt Nam thời trung đại, chúng ta sẽ nắm bắt được chủ đề và lối tư duy vốn có nguyên mẫu từ folklore, đồng thời chỉ ra bằng phương cách nào đó các nhà văn qua các thời kì đã thích nghi với truyện kể truyền thống và dung hòa nó với các giá trị và nguyện vọng của nền văn hóa của chính họ. Từ khóa: Cổ mẫu, văn hóa dân gian, truyện truyền kì trung đại. 1. Mở đầu Cổ mẫu địa ngục là thành phần thiết yếu nằm trong chu trình vòng đời của người anh hùng trong truyện kể dân gian. Đó là chuyến đi ngược với ánh sáng, thoái triển và tiến sâu vào vùng đất của bóng tối. Trong lí thuyết phê bình huyền thoại, cuộc phiêu lưu này đại diện cho việc khắc phục những ham muốn vô thức, là hoạt động của sự tự tìm kiếm và cũng là một bước tiến quan trọng trong chuyến phiêu lưu của người anh hùng. Charlotte Spivack khi thảo luận với những người theo trường phái của Jung về vấn đề này đã nói rằng: “Bằng cách mở rộng tâm lí, hành trình đi xuống với thế giới dưới thấp cũng có thể được hiểu như một hành trình đến thế giới đen tối của vô thức” [5; tr.363]. Motif (F81) đi về thế giới bên dưới, vì vậy, phát triển từ rất sớm và chúng biến thành phương tiện cho những tư duy mang tính thần học và triết học. Mặc dù những mô tả đầy đủ về thế giới bên địa ngục đầy chết chóc và bóng tối có thể đã xuất hiện trong folklore Việt Nam từ lâu, song đến truyện truyền kì thời trung đại, cổ mẫu này đã được tái sinh với nhiều cấp độ ý nghĩa phức tạp. Nguyên nhân xuất phát từ chỗ, trong khi thay đổi thân phận, chuyển hóa nghiệp báo hoặc truy cầu công lí là mục đích chính yếu của những chuyến phiêu lưu xuống địa ngục trong truyện kể dân gian, thì đến truyện truyền kì trung đại, cổ mẫu địa ngục được tái sinh bằng cách phủ bóng lên nó một màu sắc siêu hình nhằm bộc lộ nhãn giới của người cầm bút. Và như thế, cổ mẫu địa ngục đã trở thành nơi phát lộ những trải nghiệm độc đáo của các văn nhân trong việc nhấn mạnh diễn ngôn về sự “giải thoát” và chống lại sự áp đặt của thế giới quan đầy lí tính của Nho giáo. Ngày nhận bài: 1/6/2018. Ngày sửa bài: 19/8/2018. Ngày nhận đăng: 2/9/2018. Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Kim Ngân. Địa chỉ e-mail: nganpedagogy@gmail.com Nguyễn Thị Kim Ngân 22 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái lược về Cổ mẫu (Archetype) Archetype bắt nguồn từ gốc từ Hy Lạp “archein” mang nghĩa là “nguyên bản và cổ xưa”, được hiểu như là "những mẫu hình ban đầu" và thường được sao chép, mô phỏng lại qua nhiều thời kì. Trong lí thuyết Phân tâm học, nhà khoa học Sigmund Freud gọi đó là các “vết tích tối cổ”. Nghiên cứu cổ mẫu là một trong những thành tựu mang tính đột phá của thế kỷ XX, trong đó xem xét một trong những lí thuyết quan trọng nhất của C.G.Jung về vô thức tập thể và liên kết lí thuyết này giữa ngành tâm lí học phân tích và các ngành khoa học xã hội khác. Carl Gustav Jung đã đưa ra khái niệm về cổ mẫu từ các công trình điển hình của mình được tập hợp trong Archetypes and the Collective Unconscious[sic], Collected Works of C.G. Jung (Nguyên tác của C.G.Jung: Phần về cổ mẫu và vô thức tập thể). Với quan điểm tham chiếu đến cấu trúc của nhân cách con người, Jung sử dụng cách nhìn nhận của khảo cổ học địa tầng và cho rằng tinh thần, gồm có ba cấp độ: ý thức cá nhân, vô thức cá nhân, và vô thức tập thể. Tương tự như một hòn đảo nhỏ trong đại dương, phần đỉnh đảo có thể nhìn thấy được trên mặt nước tương ứng với ý thức cá nhân, phần ngập chìm trong nước tương ứng với vô thức cá nhân, và các nền tảng vô hình kết nối đảo với lớp vỏ của trái đất tương ứng với vô thức tập thể. Chính tại nơi sâu thẳm và vô hình nhất này, Jung cho rằng tồn tại cái được gọi là cổ mẫu. Cổ mẫu là sự kết tinh các kinh nghiệm tinh thần của con người. Với quan niệm như vậy, cổ mẫu có thể được tìm thấy khắp mọi nơi trong suốt chiều dài lịch sử, ở bất kì đâu có trí tưởng tượng tự do hoạt động. Cổ mẫu được bao chứa trong nhiều lĩnh vực: Thần thoại; Giấc mơ; Văn học; Tôn giáo; và Văn hóa dân gian. Trong các nền văn hóa khác nhau và thời điểm khác nhau, nội dung một cổ mẫu sẽ được biểu hiện theo nhiều phương cách có thể khác nhau nhưng chúng vẫn phản ánh những kinh nghiệm cơ bản của con người. Đó có thể là những: hình ảnh; chủ đề; biểu tượng; kiểu nhân vật; hay một mô hình cốt truyện thường xuyên lặp lại. Chẳng hạn như: vòng tròn hay bánh xe; các con số có sức lôi cuốn, nhân vật nam anh hùng hoặc nữ anh hùng; một mô hình hành vi, một nghi lễ khởi đầu; nhóm các chủ đề như cái chết và sự tái sinh hay sự cứu chuộc, những câu chuyện về nhiệm vụ, sự gánh vác, chuyến đi đến thiên đàng và đặc biệt là chuyến hành trình của những người anh hùng về thế giới dưới thấp. Bên cạnh việc khởi xướng nghiên cứu từ các nhà khoa học thuộc về lĩnh vực tâm lí học, phê bình cổ mẫu còn bắt nguồn từ lĩnh vực nhân học. Đồng thời, cả hai lĩnh vực này đều thường xuyên sử dụng folklore- một nhánh của nhân học văn hóa làm đối tượng nghiên cứu. Do đó, từ rất sớm, các học giả folklore đã sớm đưa ra xu hướng và cách tiếp cận riêng với vấn đề cổ mẫu. Điển hình nhất là phương pháp nghiên cứu Lịch sử - Địa lí (Historic- geographic Method) hay còn gọi là Trường phái Phần Lan (Finnish Method) do Julius Leopold Fredrik Krohn, Kaarle Krohn và Antti Aarne mở đường. Trong đó, “các nhà nghiên cứu theo phương pháp trên đã tiến hành sưu tầm càng nhiều càng tốt các dị bản truyện cổ tích, lập nên bảng tra rồi tiến hành so sánh để tìm ra bản cổ nhất, trên cơ sở đó, xác định nơi phát tích của một truyện cổ và vạch ra con đường địa lí của sự lưu truyền truyện cổ ấy” [1; tr.14]. Trong bài viết Cổ mẫu trong nghiên cứu truyện kể dân gian, chúng tôi đã chỉ ra rằng: với tôn chỉ nghiên cứu sử dụng các Phương pháp Historicgeographic (lịch sử - địa lí) nhằm hướng tới việc tái thiết lại hình thức ban đầu và có tính quốc tế của các thể loại truyện kể dân gian như vậy, không ngạc nhiên khi ngày nay chúng ta nhận thấy rằng, phần lớn những motif trong hệ thống truyện kể dân gian trên toàn thế giới, thuộc về xu hướng thứ hai, đã tìm được sự kết nối mạnh mẽ với hệ thống tâm lí học phân tích mà C.G. Jung trong các lí thuyết của mình gọi là cổ mẫu, trong xu hướng tiếp cận văn hóa thứ nhất. Từ đó, một hệ thống cổ mẫu chung trong văn hóa, văn học, đặc biệt là văn học dân gian bao gồm ba nhóm quan trọng là: cổ mẫu nhân vật (Character Archetypes), cổ mẫu trạng huống (Situational Archetypes) và cổ mẫu biểu trưng (Symbolic Cổ mẫu địa ngục : từ Folklore đến truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam 23 Archetypes) đã đồng thời được chia sẻ bởi các quan điểm nghiên cứu tâm lí học phân tích và quan điểm nghiên cứu của các học giả thuộc lĩnh vực folklore [8; tr.77]. 2.2. Cổ mẫu Địa ngục và chu trình vòng đời của người anh hùng Liên quan mật thiết đến chu trình vòng đời của người anh hùng từ thế giới folklore đến văn học qua nhiều giai đoạn, cổ mẫu Địa ngục (Hell) được biểu hiện rõ nhất thông qua trạng huống hành trình đi về thế giới dưới thấp (The Fall), đồng thời đã trở thành một cấu trúc tự sự quan trọng, đóng vai trò là đơn vị hạt nhân xâu chuỗi nhiều motif trong truyện kể dân gian. Cũng từ cổ mẫu này, hàng ngàn phiên bản truyện kể khác nhau đã ra đời nhằm mô tả cho hành trình phiêu lưu kì lạ của người anh hùng về thế giới địa ngục. Người anh hùng được xem là một cổ mẫu lớn của nhân loại và là nhân vật trung tâm của những câu chuyện lâu đời và cổ sơ nhất ở nhiều nền văn hóa. Cổ mẫu này sau đó đã được tái thiết liên tục qua thời gian với nhiều thay đổi tình tiết lớn nhỏ khác nhau tùy thuộc vào thời đại và nền văn hóa nhưng cấu trúc gốc không hề bị xóa bỏ. David Adams Leeming, giáo sư văn học so sánh tại Mỹ với các công trình nghiên cứu và biên soạn tiểu biểu như The World of Myth, An Anthology (Thế giới thần thoại, một hợp tuyển văn chương), và A Dictionary of Creation Myths of the World (Từ điển thần thoại sáng tạo trên thế giới), trong chuyên luận có tựa đề Mythology – The voyage of the Hero) (Thần thoại – Chuyến hành trình của người anh hùng), tác giả đã thực hành phân tích tỉ mỉ các hình thức của một câu chuyện thần thoại đặc thù bằng cách chia câu chuyện ra tám phần khác nhau tương ứng với các sự kiện trọng đại diễn ra trong cuộc đời của người anh hùng. Đầu tiên người anh hùng bắt đầu cuộc phiêu lưu độc đáo của mình bằng cách được sinh ra một cách kì lạ, hoặc trong một số hoàn cảnh bất bình thường. Nhân vật có thể là con của một vị thần, một đôi vợ chồng hiếm muộn và được thần linh đầu thai. Giai đoạn này ẩn dụ cho những trải nghiệm đầu tiên về sự chấn thương và cũng là phép lạ đầu tiên của đời sống. Nhân vật sau đó thường sớm mồ côi, bị bỏ rơi và phải có những nỗ lực phi thường có thể tồn tại bên lề cộng đồng. Ở thời ấu thơ – giai đoạn của sự khởi đầu cơ bản, nhân vật đột nhiên nhận thức được sức mạnh vô hạn của các thế lực siêu nhiên mà bản thân anh ta không thể nào tri nhận hết. Huyền thoại trong giai đoạn này tập trung vào việc miêu tả các cuộc chiến của người anh hùng với các loại động vật hoang dã hay với những gã khổng lồ có sức mạnh siêu phàm. Sau đó, truyện kể đề cập đến sự chuẩn bị và khởi xướng của cuộc hành trình đi tìm kiếm chính bản thân, tìm vị thần trong chính con người mình của nhân vật anh hùng, và cũng là giai đoạn mô tả những cuộc chiến chống lại những cám dỗ của đời sống. Trong những chặng đường tiếp theo, đề cập đến chuyến đi của người anh hùng vào trong lòng địa ngục, sau đó trở lại và rồi tiếp tục lên thế giới thiên đường. Lần lượt các chương này đề cập đến sự đối diện của người anh hùng với cái chết về mặt thể xác. Một sự kiện được xem là kì lạ và phi thường, nơi mà anh ta là đại diện của ước muốn rằng cái chết bằng cách nào đó có thể nhận thức và hiểu rõ. Vì vậy, người anh hùng thực hiện một chuyến phiêu lưu dài đi xuống địa ngục để đối đầu với các lực lượng của cái chết. “Những chuyến viễn du của người anh hùng về cơ bản đã biểu hiện những mong muốn căn bản nhất của con người đó là mong muốn vượt lên trên cái chết về mặt thể xác và hướng đến sự kết hợp với các chu kì tự nhiên, chu kì của vòng tuần hoàn sinh ra, chết đi, và rồi lại tái sinh” [6; tr.7]. Phần cuối của cuộc hành trình là sự diễn giải nối tiếp các sự kiện sau khi vượt thoát khỏi những hiểm nguy ở thế giới của cái chết, người anh hùng tiếp tục đi lên thế giới của thiên đường và được đặt vào địa vị vĩnh viễn ở trong mối quan hệ với các đấng bậc thần linh. 2.3. Cổ mẫu Địa ngục từ truyện cổ tích đến truyện truyền kì trung đại 2.3.1. Cổ mẫu địa ngục hay là các chuyến đi trong văn học Cái chết, đi về thế giới địa ngục, và sự sống lại là chu trình phổ biến ở các câu chuyện truyền thống của thế giới. Trong đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, hành trình đi đến địa ngục phong phú hơn rất nhiều so với các hành trình lên thiên đường và trên mặt đất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến cho nhân vật cổ tích buộc phải thực hiện một chuyến hành trình đi về miền Nguyễn Thị Kim Ngân 24 đất tăm tối này. Tiêu biểu như anh hùng lớn của Hy Lạp là Odysseus phải đi đến vùng đất của người chết để tìm hiểu những dự đoán của nhà tiên tri Tiresias. Người anh hùng Bắc Âu Vainamoinen và cuộc hành trình với thế giới địa ngục của Tuonela để tìm hiểu về công thức ma thuật kì diệu. Hay như trong huyền thoại Sumer và Babylon nữ thần Inanna / Ishtar liên lạc với thế giới địa ngục để tìm kiếm người yêu của mình Dumuzi / Tammuz. Aeneas trong sử thi Latin của Virgil đến thăm vùng đất của người chết để nghe những lời tiên tri của Sibyl, nhận được lời khuyên rằng anh ta rằng phải có những cành cây vàng từ một cái cây đặc biệt để có thể giao tiếp với người cha đã chết của mình và do đó đạt được thành công trong hành trình nguy hiểm. Thông thường chúng ta hay bắt gặp nhất là hành trình mang tên Orpheus - về cõi chết để mang người thân từ cõi chết trở về, hành trình về thế giới khác để cứu công chúa hay hành trình của người vợ đi về vùng đất chết để lấy lại trái tim của người chồng đã mất. Trong một số truyện nổi tiếng thường thấy khác, mục đích của chuyến hành trình còn là hành trình xuống địa ngục để đòi lại giao kèo với quỷ dữ, để cắt bao quy đầu cho đứa trẻ, hay để cứu rỗi tâm hồn người mẹ. Đôi khi hành trình đi về thế giới này được kiến thiết như là một tai họa bất ngờ trong đó cô gái đi hái hoa, bị trái đất nuốt chửng và sau đó bị đưa xuống địa ngục Trong truyện kể dân gian, về căn bản, cổ mẫu hành trình đi về thế giới địa ngục có chức năng như là một phương tiện nhằm miêu tả một thế giới lạ thường không được tri nhận trực tiếp bởi thế giới những người đang sống. Hoặc đó là một thử thách về lòng cam đảm của người anh hùng. Khi được dùng theo những phương cách phức tạp hơn, hành trình về thế giới bên dưới của người anh hùng là một phương thức thu nhận kiến thức hay sức mạnh và thể hiện sự âu lo về cái chết hoặc những gì xảy ra sau chết. Một vài cuộc hành trình về thế giới địa ngục vừa là cái chết của người anh hùng lại vừa mang tính biểu tượng. Những motif liên quan đến hành trình về miền đất chết để giải cứu người thân, hơn thế nữa, còn là sự thể hiện khát vọng muốn chinh phục hay vượt qua sự băng hoại của đời sống và sức mạnh khủng khiếp trong cái chết của con người. Kiến giải về điều này, V.IA.Propp cũng cho rằng: “Theo quan niệm cổ đại, cái chết không phải là sự chấm dứt hoàn toàn sự tồn tại. Người chết hình như tiếp tục sống dưới lòng đất và có quyền lực lớn hơn so với đất, lớn hơn so với người nông dân với cái cày sống trên mặt đất. Từ cõi sâu thẳm người chết có thể quyết định việc việc được mùa hay mất mùa, có thể cho đất phát sinh hoặc giữ lại sức mạnh của đất. Họ biến thành các loại thổ thần khác nhau” [11; tr.51]. Tất cả những điều đó cũng phần nào được thể hiện trong các chuyến đi về miền đất của cái chết ở truyện cổ tích thần kì người Việt. 2.3.2. Những biến thể của cổ mẫu “địa ngục” trong truyện cổ tích người Việt - Thế giới âm phủ Truyện Thủ Huồn nổi bật với motif (F81.1.2) đi về vùng đất chết để thăm những người đã khuất. Truyện kể về một người đàn ông mất vợ từ rất sớm. Khi trẻ tuổi ông là một viên thơ lại đã gây ra rất nhiều sự bất công vì lợi ích cá nhân. Đến khi về già, một mình không có con cái, ông ta quyết định lên đường tìm kiếm ngôi chợ Mạnh Ma. Đó là ngôi chợ kì lạ khi được miêu tả như là nơi những người sống và người chết cùng buôn bán trong một vài thời khắc đặc biệt và ở đó ông ta gặp lại người vợ từ âm phủ đến. Khi được người vợ mang về thăm thế giới dưới thấp này, Thủ Huồn đã chứng kiến toàn bộ những hình phạt báo ứng khủng khiếp đang chờ đợi ông ta sau cái chết. Truyện Thủ Huồn là một trong những minh chứng tiêu biểu cho sự dịch chuyển từ không gian hiện tồn xuống không gian âm bản. Sự dịch chuyển của Thủ Huồn về với miền đất của cái chết được quy ước trong một khoảng thời gian giới hạn. Đồng thời những chủ nhân và đồ vật ở thế giới địa ngục cũng hiện ra một cách rùng rợn. Ở địa ngục có hằng hà sa số những căn phòng nhỏ để giam giữ các tù nhân và tại đó ông đã gặp vị thần cai quản chín tầng địa ngục. Cũng tại miền đất ấy, một trong những hình phạt bí ẩn ở thế giới khác (motif F171.6) dành cho ông được mô tả là những cái gông xiềng khổng lồ. Điều đặc biệt ở câu chuyện này trong motif cửa ngõ dẫn lối xuống địa ngục là ngôi chợ Mạnh Ma nơi người sống và người chết có thể gặp gỡ và đối thoại những chuyện âm dương cách trở. Truyện còn tỏ rõ sức ảnh hưởng của Phật giáo đến tâm thức dân gian của người Việt về Cổ mẫu địa ngục : từ Folklore đến truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam 25 thế giới địa ngục- một phần tất yếu nằm trong triết lí nghiệp báo và chu trình của luật nhân quả. Ngoài việc thể hiện những âu lo của con người về đời sống sau cái chết như thế, trong truyện cổ tích, sự dịch chuyển đến không gian địa ngục còn mang bóng dáng của một cuộc hành trình đi tìm công lí. Địa ngục lúc này là nơi chốn nhân dân thực hiện lí tưởng về sự công bằng. Trong truyện Những người chết trẻ, nhân vật Liêu vì muốn tìm lại lẽ phải cho dòng họ chết trẻ của mình đã quyết tâm về địa ngục, tìm gặp Diêm vương và giãi bày nỗi oan ức. Ở Sự tích ba ông đầu rau, người vợ và hai đời chồng sau cái chết cùng đi về âm phủ, hồn ba người đến gặp vua của vùng đất chết. Thương tình trước câu chuyện cảm động và nghĩa tình sâu nặng của họ, vua của địa ngục biến họ thành ba ông đầu rau, có thể chung sống với nhau vĩnh viễn. Truyện Sự tích con muỗi lại kể về một gia đình trọc phú tham lam, khi về đến thế giới âm phủ cũng bày tỏ sự oan ức. Song diêm vương cho chúng quay trở về dương gian nhưng với hình phạt dành cho chúng là ngàn đời hóa thành kiếp muỗi. Tất cả những chi tiết đó đều thể hiện nỗi âu lo về đời sống sau cái chết cũng như niềm tin mãnh liệt về sự đầu thai, hoàn cải và tái sinh một đời sống khác của tâm thức dân gian. - Không gian đáy giếng Tuy nhiên, thế giới âm phủ không phải lúc nào cũng được hình dung như một không gian trừng phạt sau cái chết với những dòng sông đưa đón linh hồn, với quỷ dữ canh gác và hằng sa số các loại nhục hình. Trong truyện cổ tích ở nhiều tộc người khắp nơi trên trái đất, thế giới bên dưới có xu hướng là một nơi mờ mịt, đặt ở đâu đó dưới mặt đất và có những cư dân dị thường cư ngụ và không phải lúc nào cũng là vùng đất hãi hùng của cái chết. Một trong số đó là việc hình dung về địa ngục như là thế giới nằm sâu trong lòng giếng. Trong từ điển motif của Stith Thompson xuất hiện nhiều các motif biểu hiện giếng như là cánh cửa dẫn lối xuống thế giới địa ngục. Thêm vào đó, trong rất nhiều truyện cổ tích, giếng là một phần sự vật không thể thiếu trong thế giới âm phủ. Đó là các motif: (F93.0.2.1) Đi xuyên qua giếng, (F162.5) Những chiếc giếng trong thế giới khác, (F.162.5.1) Giếng rượu vang trong thế giới khác. (F162.5.2) Những chiếc đầu trong những chiếc giếng phun ra từ miệng dòng nước ở thế giới khác hay giếng chứa tri thức và giếng chứa sự thật trong thế giới khác. Giếng là một biểu tượng của thế giới địa ngục có thể tìm thấy trong các câu chuyện cổ của Việt Nam. Chi tiết này tồn tại dưới dạng motif (F133.5) thế giới khác dưới đáy giếng. Trong quan niệm của người Việt từ xa xưa, giếng làng chính là mắt của đất. Cuộc sống quần cư của nền văn hóa nông nghiệp canh tác lúa nước đã biến chiếc giếng, cùng với cây đa, sân đình trở thành trung tâm sinh hoạt trung tâm tinh thần và tín ngưỡng của làng. Bản thân kiến trúc hình tròn của giếng cũng là một hình thuộc về âm tính. Chiều sâu của giếng xuyên sâu vào lòng đất là chiều âm. Vị thanh ngọt và sự mát lạnh của nước giếng hiếm khi được tiếp xúc ánh nắng mặt trời cũng là biểu chất âm tính. Trong trí tưởng tượng và hình dung của người dân từ thưở xa xưa giếng còn là nơi chứa đựng những điều linh thiêng và thần bí. Giống như rất nhiều nước Á Đông khác, đối với người Việt, giếng chính là biểu tượng của vực thẳm và âm phủ. Do đó, không ngạc nhiên, khi ngay cả sáng tác hậu hiện đại của những tác giả nổi tiếng như Haruki Murakami (Nhật Bản) cũng thường xuyên tái sinh motif thế giới khác trong lòng giếng của folklore nhằm khắc họa một thực tế khác của đời sống nằm ở đâu đó sâu hơn và tối hơn thế giới thực tại này. Quan niệm này của người Việt về giếng còn gặp gỡ với quan niệm của nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Chevalier và Gheerbrant, giếng được giải thích là “thông với nơi ở của người chết, tiếng vang từ đáy giếng dội lên, những ánh phản xạ thoáng qua của mặt nước bị lay động làm tăng thêm sự bí mật hơn là sự soi tỏ nó. Nhìn từ đáy giếng lên, đó là một cái kính thiên văn khổng lồ, chĩa từ đáy lòng đất lên thiên cực. Phức hệ đó thực hiện những bậc thang giải thoát nối liền ba tầng thế giới với nhau” [3; tr.361]. Trong truyện cổ tích thần kì người Việt, tương tự như vậy chúng ta có thể bắt gặp motif một thế giới khác trong lòng giếng trong câu chuyện Quả bí vàng. Câu chuyện kể về cô con gái riêng bị người mẹ kế và đứa em hắt hủi. Hai mẹ con người dì ghẻ đã lập mưu đưa Trắng xuống đáy Nguyễn Thị Kim Ngân 26 giếng và dùng đất đá lấp kín miệng giếng lại. Tuy nhiên, hành trình đi xuống đấy giếng đã mang cô gái đến với một thế giới khác, nơi không có ánh nắng mặt trời, những con đường nhỏ dị dạng dài tít tắp và ngôi nhà nguy nga đồ sộ của mụ phù thủy. Về sau, cô gái giải thoát một con chim đại bàng bị mụ phù thủy giam giữ. Và rồi, cô được chim thần mang ra khỏi thế giới kì ảo trong lòng giếng để đi đến một vùng đất mới (motif F101.6.2 Trốn thoát khỏi địa ngục bằng chim). Những không gian địa ngục trong lòng giếng như thế có thể tìm thấy ở rất nhiều ở các câu chuyện nổi tiếng trên thế giới. Chẳng hạn như câu chuyện: The Spinners by the Well (Người thợ dệt bên giếng) trong một phiên bản do anh em nhà Grimm sưu tầm. Ở một vài phiên bản truyện kể khác, chi tiết giam giữ người trong giếng, hoặc nhân vật yêu cầu được ném xuống giếng để chiến đấu với nhiều trở lực khác nhau cũng thường xuyên lặp lại. Trong những truyện kể như vậy, nhân vật sẽ trở về mặt đất trong hình hài và cuộc sống mới. Như vậy, trùng khít với ý nghĩa đi vào lòng địa ngục với cái chết tạm thời rồi lại hồi sinh, thế giới trong lòng giếng tồn tại ở cấp độ trung gian, chuyển tiếp từ thế giới trên mặt đất đến thế giới dưới thấp. Đây có thể được xem như là một phiên bản giảm nhẹ của cổ mẫu địa ngục. Chung quy lại, có thể thấy, những phần thiết yếu trong chu trình vòng đời của nhân vật trong các câu chuyện cổ dân gian có chứa đựng cổ mẫu địa ngục thường diễn ra theo ba nghi thức chính: sinh ra, khởi hành, và cái chết. Về bản chất, việc nhân vật cổ tích thực hiện chuyến hành trình đi về thế giới bên dưới sau đó lại quay trở lại, tương tự như việc người đã chết và rồi lại hồi sinh. Điều này phản ánh, bên cạnh những vấn đề có ý nghĩa triết học về những khám phá cuộc sống sau cái chết ra, phải chăng nhân dân, những người lao động- nghệ nhân sáng tạo nên những câu chuyện cổ từ ngàn xưa đã luôn bày tỏ khát vọng về một đời sống vĩnh hằng, nơi cái chết- sự kiện hãi hùng nhất - cuối cùng cũng được thông tỏ. 2.3.3. Hiện thể của cổ mẫu địa ngục trong truyện truyền kì trung đại ở Việt Nam Trong khi những ghi nhận về chuyến đi đến thế giới địa ngục của người Việt khá ít, ngược lại, dịch chuyển đến thế giới dưới thấp là địa ngục lại phát triển đột khởi trong truyện truyền kì thời trung đại. Điều này cho thấy, những suy tưởng về thế giới sau cái chết, về thế giới siêu hình đã nâng lên một tầm mức mới với những cấp độ tư duy triết học cao hơn trong thể loại này. - Địa ngục như là một trải nghiệm siêu hình Kiểu mô hình kết cấu cổ điển trong thần thoại và truyện cổ tíchnhư vòng tròn cái chết, đi vào thế giới địa ngục rồi lại tái sinh như trên xét trên một khía cạnh nào đó vẫn bảo lưu đầy đủ trong cái chết bí ẩn và sự sống lại không kém phần gây kinh ngạc của nhân vật trong truyện truyền kì. Cố nhiên, nhân vật truyền kì có thể không được sinh ra một cách kì lạ, không có được những tố chất quá phi phàm như người anh hùng thần thoại, cổ tích nhưng anh ta đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp của mình trong đời sống thông qua các thử thách/nhiệm vụ, và vì thế sau cái chết, anh ta được lên thiên đường trong tư thế của một vị thần. Chuyện Tướng Dạ Xoa hay Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên với những motif như (F80) Hành trình xuống địa ngục, (F101) Trở về từ địa ngục, (F81.1.2) Đi về vùng đất chết để thăm những người đã khuất; (E1.2) hay Người đàn ông đã chết lại nhập hồn vào cơ thể và nói về kinh nghiệm ở thế giới khác là những ví dụ. Ngô Tử Văn vốn dĩ là một kẻ sĩ cứng cỏi, dân vùng bắc vẫn thường truyền tai nhau rằng chàng là kẻ cương phương, thấy sự bất bình thì chẳng chịu được. Thấy ngôi đền cũ trong thôn vốn được thiên hạ lưu truyền là cực kì linh ứng bị yêu ma hoành hành, anh ta tức giận bèn tắm gội chay sach, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Hành động này của anh ta khiến người đời khiếp sợ bởi phạm vào các ngôi đền thiêng là điều đại kỵ. Chẳng mấy chốc sau hành động “ngông cuồng”, một cơn bệnh đột ngột ập đến và Tử Văn bị quỷ sứ mang xuống thế giới địa ngục: “Đến đêm bệnh càng nặng thêm, rồi thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ nửa ngày đến một tòa dinh lớn. Đi độ nửa ngày thì đến một tòa dinh lớn, xung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy chục trượng. Hai quỷ vào nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc rồi truyền chỉ rằng: - Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng Cổ mẫu địa ngục : từ Folklore đến truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam 27 khoan giảm. Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc, tức là con sông lớn, trên sông bắc một chiếc cầu dài ước hơn nghìn bước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ dạ xoa, đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác” [9; tr.204]. Đêm tại điện Minh ty này, Tử Văn làm sáng tỏ được sự thực về viên tướng bại trận của Bắc Triều hồn bơ vơ ở Nam quốc đã tranh chiếm miếu đền và giả mạo phúc thần, do đó anh ta được bình yên trở về. Độ tháng sau có ông già đến báo: “Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy, không biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân Phán sự, lão đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Người ta sống ở đời xưa nay ai không phải chất, miễn là chết đi còn được tiếng về sau là đủ rồi” [9; tr.242]. Truyện truyền kì này kết thúc bằng chi tiết: Tử Văn về thu xếp việc nhà, mấy hôm sau không bệnh mà mất. Đằng sau cái chết có vẻ bí ẩn này là cuộc hành trình của nhân vật chính theo tiếng gọi của những con người ở thế giới khác, mời gọi anh ta thực hiện một nhiệm vụ cao cả nào đó (bổ vào chức Phán sự đền Tản viên lúc đó hãy còn khuyết), như là phần thưởng xứng đáng cho những công đức mà anh ta đã tích được ở trần gian (Motif A566.1. Trở lại vòng chuyển kiếp luân hồi ở vương quốc của các vị thần sau khi sứ mệnh của mình đã được thực hiện trên trái đất). Như vậy, với cái chết dường như đột ngột, chuyến hành trình đi vào thế giới địa ngục, tái sinh rồi sau đó lại trở thành thánh thần của Ngô Tử Văn là mô hình cốt truyện thụ hưởng từ chuyến hành trình cuộc đời của người anh hùng thần thoại trong folklore. Tuy nhiên màu sắc nghi lễ hiến tế, nghi lễ trưởng thành, ý nghĩa của sự lụi tàn và tái sinh hằng năm của thảm thực vật, cây cỏ trong các câu chuyện truyền khẩu đã biến mất, thay vào đó hoàn toàn là nội dung xã hội mới với cảm hứng tôn vinh những người quân tử, đề cao giá trị đạo đức theo tinh thần đức trị của Nho gia. Cũng thông qua cổ mẫu địa ngục, truyện truyền kì đã xây dựng thành công những trải nghiệm siêu hình ở những cấp độ sâu hơn và trở thành một bước tiến mới trong quá trình chuyển hóa về mặt nghệ thuật từ việc tiếp thu các tư tưởng tôn giáo và khai thác các chất liệu của truyện kể truyền thống. Chính cảm thức siêu hình về sự tham dự của các yếu tố huyễn linh vào đời sống thường nhật của văn hóa dân gian là nguồn cội ban đầu cho sự hình thành, phát triển đầy tính sáng tạo của cảm quan siêu hình trong văn học giai đoạn này. Từ đó, không gian nghệ thuật trong truyện truyền kì trung đại một mặt vẫn bảo lưu các hằng số về không gian có từ truyền thống folklore, ở phương diện khác, ranh giới các không gian hiện thực và kì bí lại va chạm, xâm lấn lẫn nhau một cách dữ dội thông qua sự dịch chuyển của nhân vật từ đó tạo nên tấn kịch giao tiếp giữa các thế giới. Và như thế, truyện truyền kì trung đại đã đạt đến bản chất của truyện ngắn kì ảo với những trải nghiệm siêu hình tiêu biểu. - Địa ngục với hàm nghĩa trừng phạt Cố nhiên, dù đã bị tước bỏ đi các ý nghĩa xưa cũ, nhưng về cơ bản tất cả những gì thuộc về bản chất của thế giới địa ngục vẫn được truyền tải đầy đủ thông qua những motif đại diện cho chuyến hành trình này. Tiêu biểu như Truyện mụ ác với các motif (F80) Hành trình xuống địa ngục. (A671.2. A671.2.) cảnh khủng khiếp trong địa ngục, (F177.1) Toà án trong thế giới khác. (F171.6) Những hình phạt bí ẩn trong thế giới khác, (F167.1.1) Những con quỷ trong thế giới khác. (F105) Người chết sống lại từ miền đất của cái chết, hay (E166) Trở về từ cõi chết và được cấp cho thời hạn sống. Trong đó nhân vật nhận được thư triệu tập đến thế giới địa ngục từ các sứ giả, và khi trở về với cuộc sống, rất nhiều chi tiết còn lại trên cơ thể nhân chứng cho thấy kinh nghiệm thực sự đã xảy ra. Truyện kể về Hà mỗ một đêm trong giấc ngủ bỗng nghe nhiều tiếng gọi cửa gấp gáp, mở cửa thì thấy những người mặc áo trắng phụng mệnh thành hoàng bản ấp đến gọi, giấy triệu tập vẫn còn tươi dấu son. Anh ta bị ma quỷ điệu đến một thế giới “nơi thành quách tiêu điều, nhà cửa không được phồn hoa cho lắm. Nhìn phía trước, thấy trong cửa quân doanh, như tòa xét án”, tại đó Hà mỗ gặp lại hồn quả phụ họ Phan, người vì hành động của Hà mỗ mà cả thẹn, uất ức rồi nhiễm bệnh mà chết. Truyện mô tả những khoảnh khắc trong khoảng thời gian giao tranh giữa sự Nguyễn Thị Kim Ngân 28 sống và cái chết, trong kinh nghiệm cận tử của nhân vật. Sau đó nhân vật được trở về dương thế “như một giấc mơ chợt tỉnh, mũi vẫn còn cay cay, máu ở áo đã thâm lại” [10; tr.282] và bản án khắc nghiệt cho tương lai của bản thân và gia đình. Như thế, chuyến đi đến vùng đất kì lạ này, đặc biệt, bao giờ cũng mang ý nghĩa của sự trừng phạt. Trong các câu chuyện như Chuyện Lí tướng quân, hồn ma người bạn cũ báo cho con trai họ Lí việc sắp xảy ra, đồng thời nhận lời đưa Thúc Khoản đến thế giới địa ngục:Tại đó anh ta chứng kiến quang cảnh phiên tòa xử tội người cha độc ác của mình với các hình phạt khủng khiếp ở Cửu U và lời tuyên của các vị thần về trầm luân kiếp kiếp không bao giờ thoát ra được của viên quan họ Lí. Điều đáng bàn ở đây là sau cái chết tạm thời, Thúc Khoản được quỷ dữ lấy tay bưng miệng rồi đưa về nhà nhưng sự tái sinh này của nhân vật Thúc Khoản hoàn toàn không mang ý nghĩa vượt quan thử thách hay danh phận thần linh cho anh ta khi trở về như trong truyện kể dân gian. Trái lại, điều anh ta thu nhận được là nỗi sợ hãi về những nhân quả rùng rợn ở kiếp sau. Mạnh hơn nữa, chuyến đi đến địa ngục ngắn ngủi đã ám ảnh anh ta vĩnh viễn ngay cả khi anh ta sống lại: “Thúc Khoản giật mình tỉnh dậy, thấy người nhà đang ngồi chung quanh mà khóc, nói mình chết đã hai ngày rồi, chỉ vì thấy ngực hãy còn thoi thóp nóng, nên chưa dám đem chôn. Thúc Khoản bèn ruồng bỏ vợ con, đem của cải tán cấp cho mọi người và đốt hết những văn tự nợ, vào rừng hái thuốc tu luyện” [10; tr.299]. Câu chuyện đi về thế giới địa ngục ấy Thúc Khoản hoàn toàn giấu kín. Qua đó có thể thấy, nếu cổ mẫu địa ngục trong truyền thống folklore mang màu sắc nghi lễ và và màu sắc hành động thì chuyến hành trình đến thế giới địa ngục của nhân vật truyền kì mang đậm sắc màu tâm lí với những xung động dữ dội về mặt tư tưởng. Trong bối cảnh mất dần vị thế độc tôn, rạn vỡ vị thế xã hội, bị loại ra khỏi diễn ngôn chính thức ở trung tâm, hầu hết các nhà nho ẩn dật viết truyện truyền kì bề mặt tỏ ra lánh đời, rời xa thế sự, kì thực bên trong đều kín đáo tỏ bày nỗi niềm thế sự, bộc lộ tư tưởng bất hợp tác và sự phản kháng chống lại thực tiễn xã hội. Do đó, một bộ phận trí thức, văn nhân lìa bỏ công danh trở nên coi trọng sở thích cá nhân, “độc thiện kì nhân”, đòi tự do phóng khoáng, thậm chí hướng đam mê vào say hưởng lạc thú cõi trần. Và như thế, hành trình dịch chuyển không gian rời bỏ hiện thực ngột ngạt để đến những thế giới kì ảo khác nhau trong đó có những chuyến hành trình đến thế giới địa ngục trở thành một thứ diễn ngôn “giải thoát” cho trạng huống đầy mâu thuẫn của nhà Nho. Bằng cách để cho các nhân vật đi về thế giới địa ngục, trải nghiệm những sự việc kì lạ và thực hiện nguyên tắc “hành đạo”-nguyên tắc không còn khả thi trong thế giới thực- các nhà văn trung đại đã xây dựng nên những cuộc hành trình đến thế giới khác nhằm mô tả trong hình thức lí tưởng nhất những xung đột sâu sắc của tâm trí con người, giữa thiện và ác, giữa trật tự và rối loạn. Và như thế, với sự tái diễn thường xuyên trong truyện truyền kì của thế kỷ XV- XVI, cổ mẫu địa ngục chính là sự phát lộ rõ ràng nhất nỗi niềm bi quan, lạc lõng và sự thất bại trong việc đối phó với thực tại của các văn nhân thời trung đại. 3. Kết luận Cổ mẫu với C.G.Jung là những biểu tượng phổ quát luôn gợi lên những phản ứng sâu thẳm và đôi khi là vô thức trong tâm trí con người. Từ việc tiến hành tìm kiếm những mẫu hình cơ bản tái diễn trong một chuỗi hệ thống mà ở đó tiết lộ ý nghĩa và kinh nghiệm cơ bản của nhân loại, bất kể không gian và thời gian, Jung nhấn mạnh rằng có những mô hình phổ biến ở tất cả các câu chuyện thần thoại, bất kì nền văn hóa hay giai đoạn lịch sử nào và đưa ra giả thuyết về một phần của tâm trí nguyên sơ của con người chứa vô thức tập thể thông qua cổ mẫu trong truyện kể dân gian. Với tiêu chí như vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi hành trình về thế giới địa ngục của người anh hùng được xem là một cổ mẫu văn hóa lớn của nhân loại. Quá trình tiếp biến các chất liệu từ folklore trong truyện tự sự thời trung đại, trường hợp cổ mẫu địa ngục, đã cho thấy những Cổ mẫu địa ngục : từ Folklore đến truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam 29 nỗ lực vượt bậc của các văn nhân trong việc vượt qua các giới hạn của truyền thống để sáng tạo nên những hình thức nghệ thuật độc đáo trong truyện truyền kì. Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 602.05-2018.01. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Thị An, 2008. Nghiên cứu văn học dân gian dưới góc độ Type và Motif – những khả thủ và bất cập. Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr14. [2] J. Campbell., 1973. The hero with a thousand faces. Princeton University Press, New Jersey, pp. 89-95. [3] J. Chevalier, A. Gheerbrant, 2002. Từ điển biểu tượng văn hóa Thế giới (Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giáo, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ dịch). Nxb Đà Nẵng, tr.361. [4] N. Frye, 1957. Anatomy of Criticism, Princeton University Press, pp.267. [5] J. Garry and H. Shamy, 2005. Archetypes and motifs in folklore and literature: a handbook. M.E. Sharpe, New York, pp. 363. [6] D. Leeming, 1998. Mythology– The voyage of the Hero. Published by Oxford University Press, Inc, pp.7. [7] C.G.Jung, 1981. Archetypes and the Collective Unconscious [sic], Collected Works of C.G. Jung, Princeton University Press, pp. 419. [8] Nguyễn Thị Kim Ngân, 2017. Cổ mẫu trong nghiên cứu truyện kể dân gian, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học- Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, số 3, tr 77. [9] Trần Nghĩa (chủ biên), 1997. Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, T 1. Nxb Thế giới. [10] Trần Nghĩa (chủ biên), 1997. Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, T 2. Nxb Thế giới. [11] V.IA. Propp, 2003. Tuyển tập V.IA. Propp (Chu Xuân Diên, Phạm Lan Hương, Nguyễn Kim Loan, Phạm Bích Ngọc, Trần Minh Tâm, Đỗ Đức Thịnh, Đỗ Lai Thúy dịch). Nxb Văn hóa dân tộc, T1, tr.51. [12] S. Thompson, 1955– 1958. Motif – index of Folk – Literature, A Classification of Narrative Elements in Folk – Tale, Ballads, Myths, Fables, Medieval, Romances, Exempla, Local Legends, Indiana University Press. [13] E. M. Thompson, 1973. The Archetype of the Fool in Russian Literature, Canadian Slavonic Papers / Revue Canadienne des Slavistes, Vol. 15, No. 3, pp. 245-273. ABSTRACT Archetype of hell: from Folktale to medieval fantasy short stories in Vietnam Nguyen Thi Kim Ngan Faculty of Philology, Hue University of Education Being considered as universal themes and recurring many times in human experience, the content of archetype in different cultures and times will be expressed in diverse ways but always reflected the basic human experience in the deepest layers of human soul. With its original and ancient character, it is not surprising that the field that can find the most plentiful and complete archetype system is folklore and traditional narratives. On the other hand, the archetype system hidden in myths and folktales is completely unrestricted in ancient times or folklore. They are continuously being reborn and found in afterward literature. Through the transformation of hell’s archetype from the folktale to the medieval fantasy short stories in Vietnam, we would like to mention the theme and the mindset that were itself prototyped from the folklore. Meanwhile, we also pointed out a method that the writers throughout the ages had adapted to traditional narratives and reconciled it to the values and aspirations of their own culture. Keywords: Archetype, folklore, medieval fantasy short stories.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5346_3_nguyen_thi_kim_ngan_1173_2122848.pdf
Tài liệu liên quan