Tài liệu Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - Vấn đề cần được quan tâm: Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - vấn đề cần được quan tâm
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
76
Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - vấn đề cần
được quan tâm
Vũ Tùng Dương
Trẻ em lang thang - một trong những đối tượng thuộc nhóm trẻ có hoàn cảnh
đặc biệt hiện đang được các cấp, các ngành quan tâm và cho đây là vấn đề xã hội
cần phải giải quyết. Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004:
“Trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư
trú không ổn định; Trẻ em cùng với gia đình đi lang thang”. Trẻ em lang thang có
đặc điểm dành thời gian chủ yếu trong ngày đi lang thang kiếm sống trên đường
phố, các khu vực đô thị và làm một số việc như: Xin ăn, đeo bám khách du lịch, ép
mua ép giá, đánh giầy, bán báo, bán vé dạo, mì gõ, nhặt phế liệu, bốc vác và làm
một số việc không ổn định khác. Chính vì những đặc điểm này mà việc thực hiện
các chính sách giáo dục, tạo dựng cơ hội học tập cho các em là mộ...
5 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 794 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - Vấn đề cần được quan tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - vấn đề cần được quan tâm
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
76
Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - vấn đề cần
được quan tâm
Vũ Tùng Dương
Trẻ em lang thang - một trong những đối tượng thuộc nhóm trẻ có hoàn cảnh
đặc biệt hiện đang được các cấp, các ngành quan tâm và cho đây là vấn đề xã hội
cần phải giải quyết. Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004:
“Trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư
trú không ổn định; Trẻ em cùng với gia đình đi lang thang”. Trẻ em lang thang có
đặc điểm dành thời gian chủ yếu trong ngày đi lang thang kiếm sống trên đường
phố, các khu vực đô thị và làm một số việc như: Xin ăn, đeo bám khách du lịch, ép
mua ép giá, đánh giầy, bán báo, bán vé dạo, mì gõ, nhặt phế liệu, bốc vác và làm
một số việc không ổn định khác. Chính vì những đặc điểm này mà việc thực hiện
các chính sách giáo dục, tạo dựng cơ hội học tập cho các em là một thách thức lớn.
Giáo dục cho mọi người và tiến tới xây dựng xã hội học tập là mục tiêu căn
bản, chiến lược của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cùng với
các nước trong khu vực, nước ta đã có những cam kết quan trọng với cộng đồng
quốc tế về giáo dục được thể hiện rõ tại Hội nghị Giáo dục cho mọi người (EFA)
được tổ chức từ 5-9 tháng 3 năm 1990 tại Jomtien - Thái Lan. Tại Hội nghị này, đại
biểu của 155 nước tham gia đã đưa ra tuyên bố chung: “Mọi người - trẻ em, thanh
niên và người lớn đều phải được hưởng các cơ hội giáo dục để đáp ứng các nhu
cầu học tập cơ bản của họ”. Và mười năm sau, Diễn đàn giáo dục thế giới với sự
tham gia của 160 nước đã cụ thể hóa Tuyên bố về Giáo dục cho mọi người bằng
cách thông qua “Khung hành động Dakar” (Sénégan, 4/2000) với 6 mục tiêu cơ
bản, trong đó có Mục tiêu 2: Đảm bảo đến năm 2015 tất cả trẻ em, nhất là trẻ em
gái, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và con em dân tộc thiểu số được tiếp cận và
hoàn thành giáo dục tiểu học bắt buộc miễn phí với chất lượng tốt. Hiện thực hóa
cam kết của mình, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược giáo dục giai
đoạn 2001 - 2010 và Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người (2003 -
2015).
Thực hiện các cam kết trên, chúng ta đang tiến hành triển khai giáo dục đối
với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thông qua các đề án, dự án. Dưới góc độ giáo dục
thì trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và cần sự bảo vệ đặc biệt được hiểu như là những
trẻ em không được hưởng lợi từ các dịch vụ giáo dục do Nhà nước cung cấp với
cùng một mức độ như nhau ở hầu hết các trẻ em khác. Những trẻ em này bao gồm
các em không có cơ hội tiếp cận hoặc không thể tiếp cận với quá trình giáo dục cơ
bản, những trẻ em có nguy cơ lưu ban hoặc bỏ học, những trẻ em khuyết tật/tàn tật,
Vũ Tùng Dương 77
là con các hộ gia đình nghèo và thuộc dân tộc ít người, sức khoẻ kém hoặc sống
trong các điều kiện khó khăn (trẻ em lang thang, trẻ lao động sớm, trẻ có
HIV/AIDS).1
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, về trẻ em lang
thang thì: năm 1996 cả nước có 14.596 em; năm 1997 có 16.263 em; năm 1998 có
19.024 em; năm 1999 có 23.000 em; năm 2000 lên đến khoảng 25.000 em. Vào thời
điểm thống kê tháng 2 năm 2003 cả nước còn khoảng 21.000 trẻ em lang thang.
Tháng 8 năm 2003 ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em điều tra tại 2 thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh số trẻ em lang thang có mặt tại hai thành phố này có
trên 10.000 em. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có trên 8 ngàn em và Hà Nội có gần
2000 em (số trẻ em lang thang được thống kê gồm cả trẻ em là người của Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh). Số trẻ em này có tới trên 50% không đi cùng gia đình và
khoảng 40% đi cùng gia đình, cùng người thân tạm thời đến thành phố rồi lại về
quê hương hoặc di chuyển đi nơi khác. Một số khác đi cùng gia đình (di dân tự do)
đến các vùng đô thị. Các tỉnh, thành phố tập trung nhiều trẻ em đến lang thang kiếm
sống là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Bình Dương, Khánh Hòa,
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng. Các địa phương có nhiều trẻ em đi lang
thang gồm: Quảng Ngãi, Phú Yên, Thanh Hóa, Hưng Yên
Thực hiện kế hoạch đưa trẻ em lang thang về với gia đình và hòa nhập cộng
đồng và triển khai Đề án Ngăn chặn và trợ giúp trẻ em lang thang kiếm sống, năm
2005 tại 38 tỉnh, thành phố còn từ 100 trẻ em lang thang trở lên đã đem lại những
kết quả khả quan. Hiện nay, theo báo cáo của 38 tỉnh, thành phố, số lượng trẻ em
lang thang kiếm sống còn khoảng 8000 em; trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh còn khoảng 1.500 em.
Có nhiều nguyên nhân liên quan đến việc trẻ em bỏ gia đình đi lang thang,
nhưng tập trung ở hai nhóm nguyên nhân chính có liên quan chặt chẽ và tác động
qua lại với nhau đó là: Nhóm nguyên nhân liên quan đến kinh tế và nhóm nguyên
nhân về xã hội. Sự phát triển không đồng đều giữa khu vực nông thôn và thành thị,
chênh lệch mức sống và thu nhập, nhu cầu việc làm ở các đô thị là những nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến vấn đề trẻ em lang thang. Theo Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội, trong tổng số trẻ em lang thang có tới 82% ra đi từ các vùng nông thôn
hoặc tập trung ở các vùng điều kiện tự nhiên không thuận lợi, kinh tế khó khăn.
Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn là lý do chủ yếu dẫn đến việc trẻ em lang thang
kiếm sống. (71,7% trẻ em lang thang ra đi vì kinh tế gia đình khó khăn). Nhận thức
của gia đình về vai trò trách nhiệm của cha mẹ đối với nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em còn hạn chế, việc quan tâm thường xuyên đến con cái chưa được
nhiều; bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ về hậu quả lâu dài đối với việc bỏ
nhà đi lang thang; chưa có ý thức phòng ngừa hoặc còn tò mò, muốn thử nghiệm,
muốn thể hiện mình; chưa có các kỹ năng sống cần thiết để tự bảo vệ mình nên dễ
1 Nguồn: Khung kế hoạch Chiến lược giáo dục cho trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt. Viện Chiến lược và
Chương trình Giáo dục - UNICEF.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - vấn đề cần được quan tâm
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
78
bị rủ rê, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội bên cạnh đó các xung đột giữa vợ - chồng,
giữa cha mẹ với con cái, đặc biệt giữa cha và con cái đã làm ảnh hưởng không nhỏ
tới tâm lý của trẻ em; thường các em có thể chán học, bỏ học, quan hệ với những
trẻ chưa ngoan, dẫn đến các em rời xa gia đình, bỏ nhà đi lang thang (theo khảo sát
có 5% trẻ em lang thang bỏ nhà ra đi chủ yếu vì sự bất hòa trong gia đình và không
có mối liên hệ với gia đình).2
ở nước ta, hiện nay các điều kiện, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện
các quyền cơ bản của trẻ em còn hạn chế (trường học, dịch vụ khám chữa bệnh, khu
vui chơi), chi phí cho trẻ em đi học còn quá cao so với thu nhập của các hộ gia
đình nghèo. Do đó, một số trẻ em tranh thủ thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là dịp nghỉ
hè để đến các thành phố kiếm tiền phụ giúp gia đình, đóng góp cho việc học tập
Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng lao động ở các đô thị, đối với một số công việc cụ
thể như: Giúp việc trong gia đình, làm thuê trong các nhà hàng, quán ăn, đánh
giày ngày một gia tăng. Ngoài ra, bộ phận trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi không nơi
nương tựa cũng là nguy cơ dẫn đến việc trẻ em đi lang thang (trẻ em lang thang bị
bỏ rơi, mồ côi không nơi nương tựa chiếm 3,4% trong tổng số trẻ em lang thang
được khảo sát). Việt Nam vẫn là nước nghèo, theo chuẩn nghèo mới, cả nước có
khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc; tỷ lệ đói nghèo chênh lệch
lớn giữa các vùng (cao nhất là vùng Tây Bắc: 42% và Tây Nguyên: 38%, thấp nhất
là vùng Đông Nam Bộ: 9%,) cũng là nguyên nhân làm nảy sinh các vấn đề xã hội
ngày càng phức tạp và tạo nguy cơ gia tăng trẻ em lang thang.
Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước
đang phát triển, sự phát triển kinh tế không đồng đều giũa các vùng, sự cách biệt
lớn trong thu nhập giũa khu vực thành thị và nông thôn làm cho số lượng người di
dân tự do (trong đó có trẻ em) từ nông thôn đến các đô thị sẽ ngày càng tăng. Môi
trường sinh thái bị huỷ hoại dẫn đến thiên tai thất thường (hạn hán kéo dài, bão lụt
liên tiếp) làm cuộc sống của nông dân trở nên nghèo khó và bấp bênh hơn. Tình
trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp dẫn đến một bộ phận trẻ em phải bỏ học, thất
học đi lang thang kiếm sống. Hầu hết trẻ em lang thang gắn liền với lao động sớm;
trẻ lang thang kèm luôn cả bỏ học và rất khó trở lại trường học và nếu đi học trở lại
thì gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức.
Học vấn của trẻ em lang thang nhìn chung là thấp vì đa số là những trẻ bỏ
học sớm, thất học và thậm chí còn có một số em mù chữ hoặc tái mù chữ. Theo
điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trẻ em lang thang từ 6 - 16 tuổi
chưa từng đi học chiếm 4,7%; 34% bỏ học ở bậc Tiểu học; 58,7% bỏ học ở cấp
Trung học cơ sở và 2,6% bỏ học ở cấp Trung học phổ thông. Qua khảo sát trẻ em
lang thang tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ biết chữ là 73,9%; không biết
chữ là 26,1%; có 12,9% học lớp 1; 39,6% học lớp 5 trở lên và rất ít trẻ em lang
thang có được trình độ Trung học phổ thông. Như vậy, Luật phổ cập giáo dục Tiểu
2 Báo cáo: Tình hình trẻ em lang thang tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em - 2003.
Vũ Tùng Dương 79
học đã có từ lâu, nhưng vẫn còn khoảng gần 40% trẻ em lang thang chưa được học
xong chương trình tiểu học. Và theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Thanh
niên kết hợp cùng ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em Việt Nam thì tỷ lệ trẻ em lang
thang muốn có cơ hội được tiếp tục học tập không phải là ít (dưới 15 tuổi là 50%;
trên 15 tuổi là 25%); tuy nhiên nhu cầu học tập của các em đa dạng hơn, không chỉ
đơn thuần là học văn hóa mà còn mong muốn học nghề. Khảo sát về trẻ em lang
thang tại thành phố Hà Nội cũng cho thấy 46.6% trẻ em lang thang chỉ có trình độ
học vấn từ mù chữ đến bậc tiểu học. Các em có trình độ trung học cơ sở là 51,7%.
Kết quả đánh giá việc trẻ em lang thang ở Hà Nội tự nguyện học văn hóa đã cho
thấy: 94,1% số em được điều tra thích thú với việc học; 71,1% trẻ này rất thích thú
với việc học nghề, có 47,3% trẻ cho rằng nếu được học nghề chắc chắn các em sẽ
kiếm sống tốt hơn và nếu có việc làm ổn định các em sẽ không đi lang thang nữa.
Trẻ em lang thang được tạo điều kiện, có cơ hội học tập, tiếp cận với giáo
dục sẽ: Được nâng cao trình độ văn hóa, được phát triển trí tuệ; có hiểu biết về
pháp luật, về quyền của mình, có ý thức được tự bảo vệ và chấp hành luật pháp tốt
hơn; được đào tạo nghề, có kỹ năng làm việc tốt hơn; được lựa chọn, hoặc chuyển
đổi nghề phù hợp với năng lực, sở trường của bản thân và yêu cầu của cuộc sống.
Việc trẻ em lang thang được đi học sẽ góp phần phòng ngừa và xóa bỏ dần tình
trạng trẻ em phải đi lang thang kiếm sống, bị lạm dụng sức lao động... và trong
tương lai các em là lực lượng lao động có tay nghề, trình độ.
Đối với trẻ em lang thang, cơ hội tiếp cận với các loại hình giáo dục gặp rất
nhiều khó khăn mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ điều kiện sống của các em.
Khó khăn tác động đến cơ hội học tập của trẻ em lang thang bao gồm các yếu tố
khách quan và chủ quan; trực tiếp và gián tiếp... Trên thực tế, trẻ em lang thang đã
bị mất đi các cơ hội, cơ may phát triển cá nhân, cơ hội học hành. Phải rời bỏ mái
trường, cộng đồng, gia đình, bạn bè để đi lang thang kiếm sống, các em cũng
không có được một cuộc sống ổn định cho nên không thể có điều kiện được học
hành. Khi không có kiến thức văn hóa cần thiết và các kỹ năng trong lao động,
nghề nghiệp các em cũng không thể có cơ hội tìm được việc làm. Điều đó buộc các
em chỉ có thể làm được những công việc đơn giản, dịch vụ đường phố. 3
Cuộc sống của trẻ lang thang có rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự phát triển về mọi mặt của trẻ em; ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội.
Hoạt động cơ bản để phát triển trí tuệ của trẻ em là quá trình học tập nhưng trong
độ tuổi tiếp thu kiến thức tốt nhất thì các em lại không hoặc ít có cơ hội đi học, tiếp
cận với giáo dục. Vì không được trang bị kiến thức cơ bản nên việc tiếp thu kiến
thức về nghề nghiệp đối với trẻ lang thang cũng rất khó khăn, ít có khả năng kiếm
được việc làm ổn định.
Tạo dựng cơ hội học tập cho trẻ em nói chung và trẻ em lang thang nói riêng
phải được coi là đầu tư phát triển nguồn nhân lực của đất nước và phải gắn chặt với
3 Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến công bằng về cơ hội học tập cho trẻ em. Mã số: C18-2003,
CNĐT: Vũ Trùng Dương, Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Cơ hội học tập của trẻ em lang thang - vấn đề cần được quan tâm
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
80
công tác phòng ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang và tái lang thang.
Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách trợ giúp trẻ em lang thang khắc phục khó
khăn, tạo điều kiện cho các em tiếp cận với các dịch vụ, loại hình giáo dụcTuy
nhiên nhu cầu học tập của các em là đa dạng, phụ thuộc vào các đặc điểm tâm sinh
lý, điều kiện sống của các em... Do đó cần tạo điều kiện, cơ hội cho các em với
nhiều giải pháp, khung chính sách khác nhau nhằm hỗ trợ cho trẻ em lang thang, trẻ
em có nguy cơ lang thang và gia đình giải quyết khó khăn trước mắt cũng như lâu
dài. Giải quyết vấn đề này cần có các giải pháp đồng bộ với sự tham gia của nhiều
ngành, nhiều tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng, gia đình và chính bản thân các
em. Việc đảm bảo cơ hội học tập của các em phải được quan tâm thường xuyên và
coi đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong đó trách nhiệm chính và trực tiếp
là gia đình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so2_2007_vutungduong_4823.pdf