Tài liệu Cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển bền vững thủy lợi nội đồng đồng bằng sông Cửu Long - Bài học kinh nghiệm từ tỉnh An Giang - Đoàn Doãn Tuấn: KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢ I SỐ 18 - 2013 1
CƠ CHẾ KHUYẾN KHÍCH CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ THAM GIA
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY LỢI NỘI ĐỒNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG - BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TỈNH AN GIANG
PGS.TS Đoàn Doãn Tuấn
Trung tâm Tư vấn PIM
Đỗ Vũ Hùng
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang
Tóm tắt: Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện tích canh tác nông nghiệp chiếm khoảng
25% của cả nước, nhưng đóng góp 54% sản lượng lúa và xấp xỉ 60% sản lượng thủy sản. Để có
được nguồn lợi này phụ thuộc một phần vào hệ thống công trình thủy lợi nội đồng. Tuy nhiên,
hiện nay các công trình thủy lợi nội đồng còn rất manh m ún với hàng vạn cống, bọng, máy bơm
dầu. Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội vùng ĐBSCL, nhiều văn bản pháp lý
của trung ương và địa phương đã được ban hành, nhấn mạnh việc đầu tư thay thế trạm bơm
dầu, xây dựng hệ thống thủy lợi nội đồng để phục vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp theo chủ
trương ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển bền vững thủy lợi nội đồng đồng bằng sông Cửu Long - Bài học kinh nghiệm từ tỉnh An Giang - Đoàn Doãn Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢ I SỐ 18 - 2013 1
CƠ CHẾ KHUYẾN KHÍCH CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ THAM GIA
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY LỢI NỘI ĐỒNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG - BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TỈNH AN GIANG
PGS.TS Đoàn Doãn Tuấn
Trung tâm Tư vấn PIM
Đỗ Vũ Hùng
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang
Tóm tắt: Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện tích canh tác nông nghiệp chiếm khoảng
25% của cả nước, nhưng đóng góp 54% sản lượng lúa và xấp xỉ 60% sản lượng thủy sản. Để có
được nguồn lợi này phụ thuộc một phần vào hệ thống công trình thủy lợi nội đồng. Tuy nhiên,
hiện nay các công trình thủy lợi nội đồng còn rất manh m ún với hàng vạn cống, bọng, máy bơm
dầu. Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội vùng ĐBSCL, nhiều văn bản pháp lý
của trung ương và địa phương đã được ban hành, nhấn mạnh việc đầu tư thay thế trạm bơm
dầu, xây dựng hệ thống thủy lợi nội đồng để phục vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp theo chủ
trương tăng cường xã hội hóa về đầu tư và quản lý khai thác hệ thống thủy lợi nội đồng. Với số
liệu điều tra năm 2011-2012, bài báo này phân tích thực trạng đầu tư của nhà nước, tư nhân,
nông dân vào xây dựng, quản lý khai thác (QLKT) hệ thống thủy lợi nội đồng tại tỉnh An Giang,
m ột tỉnh sản xuất nông nghiệp trọng điểm vùng ĐBSCL, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị
về cơ chế khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế vào phát triển bền vững công
trình thủy lợi nội đồng vùng ĐBSCL.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long, xã hội hóa, đầu tư, bơm dầu, bơm điện, hệ thống thủy lợi
nội đồng, cơ chế khuyến khích sự tham gia, các thành phần kinh tế, phát triển bền vững
Summary: Mekong River Delta, Vietnam, with total agricultural land being approximately 25%
of the country land, contributes to 54% of the country rice and 60% of fishery productions. The
agricultural production, however, largely depends on rather poor on-farm irrigation system s
with tens of thousands of fuel pumps. To m eet production and socio-economic developm ent of the
region, there have been issued many local and central government’s legal documents, stressing
the im portant of electrification of pumps, on-farm irrigation system improvement for agricultural
m echanization and encouraging public private partnership in investm ent and management of the
on-farm irrigation system s.
Using data surveyed in 2011-2012, on a program of replacem ent of fuel pum ps by electrical
pumps system s in An Giang, a major agricultural production province of the Mekong delta, this
paper analyses the participation of the government, farm ers and private entities in investment,
operation and management of on-farm irrigation systems and recomm ends on policy
encouraging the sustainable participation of all stakeholders in the developemt of on-farm
irrigation system in the Mekong river delta.
Key words: Mekong River Delta, public private partnership, investment, fuel pum ps, electrical
pumps, on-farm irrigation system s, participation of all stakeholders, sustainable development
I. ĐẶT VẤN ĐỀ*
ĐBSCL có diện tích 40.548,2 km², dân số gần
17.213.400 người, có 12 tỉnh và 1 thành phố
trực thuộc Trung ương.
ĐBSCL hiện có trên 15.000 km kênh trục và
kênh cấp I, gần 27.000 km kênh cấp II, khoảng
Người phản biện: PGS.TS Nguyễn Trung Dũng
Ngày nhận bài: 22/4/2013 - Ngày thông qua phản biện:
18/6/2013 - Ngày duyệt đăng: 25/9/2013
50.000 kênh cấp III và nội đồng, 80 cống rộng
trên 5 m, trên 800 cống rộng 2-4 m và hàng
vạn cống, bọng nhỏ, trên 1.000 trạm bơm điện
lớn và vừa cũng như hàng vạn máy bơm nhỏ
để chủ động tưới, tiêu cho 70-80% diện tích
nội đồng. Tuy nhiên, quy hoạch thuỷ lợi nội
đồng còn rất manh mún và không đồng đều.
Hệ thống công trình thuỷ lợi nội đồng hiện còn
rất đơn giản, chủ yếu là kênh mương kết hợp
tưới tiêu, chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
2 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 18 - 2013
dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng và vật nuôi.
Nước lấy từ kênh cấp II, III, kênh nội đồng
vào ruộng bằng các trạm bơm (xăng, dầu hoặc
điện) và qua các cống bọng nhưng chi phí bơm
cao, phụ thuộc vào thị trường do giá nhiên liệu
luôn biến động, qui mô công trình nhỏ lẻ nên
phải xây dựng nhiều hệ thống cống bọng dưới
đê, ảnh hưởng đến việc gia cố, bảo vệ hệ thống
đê bao kiểm soát lũ.
Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống
xã hội vùng ĐBSCL, nhiều văn bản pháp lý
của Trung ương và địa phương được ban hành,
nhấn mạnh việc đầu tư thay thế trạm bơm dầu,
xây dựng hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ
cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp với chủ
trương tăng cường xã hội hóa về đầu tư và
quản lý khai thác hệ thống thủy lợi nội đồng.
Bài báo phân tích thực trạng đầu tư của nhà
nước, tư nhân, nông dân vào xây dựng, QL KT
hệ thống thủy lợi nội đồng tại tỉnh An Giang,
một tỉnh sản xuất nông nghiệp trọng điểm
vùng ĐBSCL, trên cơ sở đó đưa ra một số
khuyến nghị về cơ chế khuyến khích sự tham
gia của các thành phần kinh tế vào đầu tư, xây
dựng quản lý khai thác bền vững công trình
thủy lợi nội đồng vùng ĐBSCL.
II. HIỆN TRẠNG XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ
KHAI THÁC HỆ THỐNG THỦY LỢI NHỎ
TẠI AN GIANG
2.1 Q uản lý khai thác công trình thủy lợi
T ỉnh An Giang có diện tích tự nhiên 353.000
ha. Trong đó diện tích nông nghiệp chiếm
261.000 ha và diện tích nuôi trồng thủy sản
2.030 ha. Tổng diện tích gieo trồng cả năm là
661.629 ha1. Trong đó, tổng diện tích trồng lúa
là 605.235 ha (chiếm 91,5%); Diện tích lúa
Đông xuân: 235.482 ha; Hè Thu: 232.987 ha;
Vụ Thu Đông: 131.368 ha; Vụ mùa: 5.398 ha.
Diện tích cây màu các loại là 55.657 ha. Sản
lượng lúa cả năm đạt khoảng 3,8 triệu tấn và
sản lượng hoa màu cả năm trên 900.000 tấn.
Trên địa bàn tỉnh có sông Tiền và sông Hậu
chảy qua, hàng năm mang đến cho tỉnh An
Giang một lượng lớn phù sa bồi đắp cho đồng
ruộng và nguồn thủy sản dồi dào cả về sản
1 Số liệu năm 2011
lượng và chủng loại. Khai thác được nguồn lợi
này nhờ vào hệ thống công trình thủy lợi phục
vụ dân sinh, phát triển sản xuất nông nghiệp,
thủy sản nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội
nói chung. Toàn tỉnh có hơn 5.130 công trình
thủy lợi, phục vụ kiểm soát lũ và tưới - tiêu
cho hơn 267.000 ha đất sản xuất nông nghiệp
(lúa, màu) và hơn 4.000 ha đất nuôi trồng thủy
sản, ngoài ra còn cấp nước sinh hoạt cho hơn
1,6 triệu dân ở vùng nông thôn.
a) Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về công
trình thủy lợi
Ở cấp tỉnh, sở Nông nghiệp & PTNT và Chi
cục thủy lợi & PCLB được giao nhiệm vụ
quản lý nhà nước về công tác thủy lợi phục vụ
sản xuất, dân sinh kinh tế và thực hiện nhiệm
vụ tham mưu cho UBND tỉnh về công tác
phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
Tại cấp huyện, các trạm thủy lợi được thành
lập, trực thuộc phòng Kinh tế hoặc Nông
nghiệp huyện, theo Quyết định 1111/QĐ-
UBND ngày 29/06/2011 của tỉnh An Giang.
Đó là đơn vị sự nghiệp thực hiện chế độ tự chủ
theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng
4 năm 2006 của Chính phủ, có tư cách pháp
nhân, con dấu riêng và được mở tài khoản theo
quy định của pháp luật. Trạm thủy lợi huyện
có nhiệm vụ trọng tâm là quản lý vốn/phân bổ
cấp bù thủy lợi theo NĐ 115, định hướng phát
triển thủy lợi, duy tu sửa chữa hàng năm và hỗ
trợ trong việc xã hội hóa công tác quản lý khai
thác công trình thủy lợi.
b) Hệ thống tổ chức quản lý khai thác công
trình thủy lợi
Từ năm 2009 An Giang thực hiện chuyển đổi
Trung tâm QLKT CTTL thành Công ty TNHH
MTV khai thác thủy lợi trực thuộc UBND tỉnh
và thành lập Ban Quản lý hệ thống Bắc Vàm
Nao, quản lý vận hành khai thác vùng Bắc
Vàm Nao 31.000 ha. Vùng Bắc Vàm Nao
được chia làm 23 tiểu vùng và được thành lập
23 ban quản lý tiểu vùng để quản lý vận hành
khai thác hệ thống công trình thủy lợi như:
Các tuyến đê tiểu vùng (ngoại trừ các tuyến đê
tiểu vùng có kết hợp giao thông là đường xã),
các cống dưới đê tiểu vùng, các kênh nội vùng.
Các tổ chức quản lý công trình thủy lợi ở địa
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢ I SỐ 18 - 2013 3
phương chủ yếu là các hợp tác xã nông nghiệp,
tổ liên kết sản xuất, tư nhân... tham gia đầu tư,
quản lý khai thác công trình.
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức
kinh tế tự chủ do cá nhân, hộ gia đình tự nguyện
cùng góp vốn, góp sức lập ra. HTXNN có tư
cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân
hàng để hoạt động theo Luật Hợp tác xã. Về
nhân sự thường từ 7-9 người, gồm 3 người của
ban chủ nhiệm; 1 người kiểm soát; 3-5 người kế
toán, thủ quỹ, tín dụng, thu thủy lợi phí ...
Các dịch vụ về nông nghiệp gồm có bơm tưới
tiêu, nạo vét kênh mương, vận chuyển sản
phẩm, tín dụng nội bộ, cửa hàng vật tư nông
nghiệp, sản xuất lúa giống và kéo hàng. Về
dịch vụ thuỷ lợi, HTXNN quản lý toàn bộ các
công trình thuỷ lợi nhỏ như kênh cấp 3 nội xã,
kênh nội đồng, các cống ngầm có quy mô nhỏ,
các tuyến đê bao kiểm soát lũ của các tiểu
vùng, các đập tạm ở đầu kênh và các trạm bơm
điện do nguồn vốn của các HTXNN đầu tư.
Nguồn thu chủ yếu là từ dịch vụ tưới, tiêu và
nạo vét kênh mương chiếm hơn 96% tổng thu.
Kinh phí tu bổ, nâng cấp công trình chiếm tỷ
lệ lớn 80-90% tổng chi phí. Kinh phí cho hoạt
động thường xuyên chiếm tỷ lệ 10-20% tổng
kinh phí hoạt động QLKTCTTL của HTX. Lãi
cổ tức của xã viên nhiều nơi đạt 40-70%/năm.
2.2 Cơ chế khuyến khích và thực trạng đầu tư
cho phát triển và Q LKT thủy lợi nội đồng
a) Cơ chế khuyến khích các bên tham gia đầu
tư
Nhận thấy vai trò và khả năng của tư nhân
trong tham gia đầu tư xây dựng và QLKT hệ
thống thủy lợi nội đồng, cung cấp dịch vụ tưới
tiêu, chính quyền tỉnh An Giang đã sớm có
những chủ trương, cơ chế khuyến khích tư
nhân tham gia vào phát triển thủy lợi. Đặc biệt
đối với chương trình chuyển đổi trạm bơm dầu
sang trạm bơm điện. Song song với Quyết
định 1024/QĐ-UBND phê duyệt đề án Phát
triển trạm bơm điện, UBND tỉnh An Giang
ban hành Quyết định số 17/2008/QĐ-UBND
ngày 21/5/2008 sau đó được thay thế bằng
Quyết định số 12/2009/QĐ-UBND ngày
14/04/2009 về việc ban hành Quy định Chính
sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư xây dựng
hệ thống trạm bơm điện trên địa bàn tỉnh An
Giang với các nội dung chủ yếu sau:
- Đối tượng áp dụng: DN, HTX, các đơn vị sự
nghiệp, tổ hợp tác thành lập theo NĐ 151.
- Xác lập quyền khai thác đối với nhà đầu tư từ
7 đến 12 năm. Hết thời hạn khai thác, UBND
huyện quyết định giá và xác lập quyền sở hữu
hệ thống trạm bơm cho Hợp tác xã hoặc tổ hợp
tác.
- Kết thúc quyền khai thác trước thời hạn: a)
Nhà đầu tư vi phạm thỏa thuận với UBND
huyện hoặc hộ dân sử dụng dịch vụ; b) Trên
80% số hộ dân sử dụng dịch vụ tưới tiêu thống
nhất nhận lại quyền khai thác trực tíêp với
hình thức tổ hợp tác và nhà đầu tư đã khai thác
ít nhất 2/3 thời gian quyền khai thác.
- Nghĩa vụ nhà đầu tư: thu phí dịch vụ tưới
tiêu từ các hộ thuộc dự án, nộp trả vốn vay và
lãi suất ngân hàng. Mức thu theo thỏa thuận
giữa UBND huyện, nhà đầu tư trạm bơm điện
và các hộ dân nhưng không thấp hơn số tiền
tỉnh cam kết hỗ trợ công ty điện lực 2 trả nợ và
lãi vay ngân hàng hàng năm
- Ưu đãi đầu tư: Tạo điều kiện cho vay vốn với
mức hỗ trợ lãi suất 50% của lãi xuất tín dụng
đầu tư của nhà nước do Bộ Tài Chính quy
định. Miễn thuế thu nhập DN, đất đai, thuế
nhập khẩu, tín dụng, chuyển lỗ và trừ vào thu
nhập chịu thuế những năm sau.
b) Thực trạng đầu tư của nông dân - tư
nhân - nhà nước trong phát triển thủy lợi
nội đồng
Tổng kinh phí đầu tư phát triển hệ thống các
trạm bơm điện, kênh mương nội đồng và bờ
bao giai đoạn 2008-2012 ước đạt 1151 tỷ
đồng. Trong đó các tổ chức cung cấp dịch vụ
tưới tiêu (chủ đường nước) đầu tư vào trạm
bơm và kênh mương nội đồng 249 tỷ đồng
(21,6%), nhà nước hỗ trợ nông dân xây dựng
đê bao 162 tỷ đồng (14,1%), nông dân đóng
góp xây dựng đê bao 520 tỷ đồng (45,2%), có
nghĩa vụ thanh toán kinh phí xây dựng hệ
thống điện hạ thế 185 tỷ đồng và lãi suất 35 tỷ
đồng (19,1%) (Bảng 1).
Bảng 1. Tỷ trọng đầu tư của các bên trong đầu tư phát triển thủy lợi nội đồng tại An Giang
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
4 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 18 - 2013
Bên đầu tư Hạng mục Diễn toán
Kinh phí (tỷ đ) %
Tư nhân. TB&kênh nội đồng 249 tỷ đ (a) 249 21,6
Nông dân Đường dây và bình hạ thế
Đê bao
185 tỷ đ + 35 tỷ lãi xuất (a)
520 tỷ đ (b)
220
520
19,1
45,2
Nhà nước Hỗ trợ đê bao 162 tỷ đ (b) 162 14,1
Tổng vốn đầu tư 1151 100
Nguồn: (a) Sở NN&PTNT An Giang, 2012 (b) Số liệu điều tra đánh giá thực địa 2012
Trong quá trình thực hiện đầu tư nông dân tích
cực đóng góp tiền, công sức xây dựng đê bao.
Phần điện hạ thế được thống nhất hạch toán
vào phí dịch vụ tưới tiêu, với mức thu được
thỏa thuận giữa UBND huỵện, nhà đầu tư và
nông dân, để bên cung cấp dịch vụ (chủ đầu tư
trạm bơm) trả cho ngành điện.
c) Thực trạng về việc cung cấp dịch vụ và khả
năng chi trả của người sản xuất
i. Giá dịch vụ tưới tiêu nội đồng
Kết quả điều tra đánh giá cho thấy thủy lợi phí
bình quân nông dân sản xuất lúa phải trả cho
bên cung cấp dịch vụ tưới tiêu là 3-5 tr. đ/ha
năm (cho 3 vụ. Tại Huyện Châu Thành, HTX
NN&dịch vụ An Châu thu 1.1 tr. đ/ha vụ cho
tưới và 2 tr. đ/ha vụ cho tiêu, tổng cộng 4.2 tr.
đ/ha năm. Tại Huyện An Phú, DN Thủ-Tuyển
đầu tư xây dựng trạm bơm tiêu, vùng Bắc Cỏ
Lau, thu 2 tr. đ/ha vụ, các tổ chức dịch vụ khác
tưới, thu 1,5-2 tr. đ/ha vụ. Tại xã Vĩnh Hội
Đông, tổ đường nước chữ O cung cấp và thu
dịch vụ bơm tiêu năm 2011 là 2.86 tr. đ, năm
2012 thu 1.2 tr. đ, dân tự bơm tưới. Tại huyện
T ịnh Biên, HTX An Nông II thu vụ Đông xuân
1,6 tr. đ/ha vụ, vụ Hè thu 1,5 tr.đ/ha vụ, vụ
Thu đông 2 tr. đ/ha vụ (Bảng 2)
Bảng 2. Giá dịch vụ tưới tiêu
Huyện Tổ chức dịch vụ Giá dịch vụ (tr. đ/ha vụ)
Đông xuân Hè thu Thu đông (vụ 3)
Châu
Thành
HTX NN&dịch vụ An Châu
Tổ chức khác
1,1
1,1
2
An Phú DN Tuyển Thủ2
Tổ chức khác
1,5-2
1,5-2
2
Tổ đường nước chữ O dân tự bơm tưới dân tự bơm tưới 2,86 (năm 2011)
1,2 (năm 2012)
Tịnh Biên HTXNN An Nông II 1,6 1,5 2
Nguồn: Số liệu điều tra đánh giá thực địa 2012
Phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư, với thời gian
khấu hao trạm bơm là 10 năm, hệ thống đê bao
20 năm, cho thấy ngoài phần thủy lợi phí hiện
tại phải đóng cho chủ đầu tư trạm bơm người
dân sẽ còn phải trả thêm khoảng 1.5 tr. đ/ha
năm (phần khấu hao) cho xây dựng công trình.
Trong cơ cấu giá thủy lợi phí của các tổ chức
cung cấp dịch vụ tưới, tiêu được đìều tra đánh
giá, ngoài giá dịch vụ của doanh nghiệp Tuyển
Thủ, tự bỏ kinh phí xây dựng hệ thống bơm
bao gồm đường điện, đã bao gồm khấu hao cơ
bản, giá dịch vụ của các chủ đầu tư còn lại
dường như chưa bao gồm thành phần này.
ii. Khả năng chi trả của người sản xuất
Kết quả đánh giá tại các địa phương trong cả
nước, về trả thủy lợi phí nội đồng, cho thấy
sự chi trả thủy lợi phí nội đồng tỷ lệ thuận với
thu nhập31của hộ nông dân từ sản xuất lúa
(Hình 1).
2Trong giá thủy lợi phí đã bao gồm phần điện
3Lợi nhuận, bao gồm cả lao động gia đình
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢ I SỐ 18 - 2013 5
Hình 1. Tương quan giữa khả năng chi trả dịch vụ thủy lợi nội đồng và thu nhập, từ sản xuất lúa, hộ gia đình
Đối với các vùng ở An Giang, với qui mô hộ
gia đình khoảng 1 ha/hộ, năng suất cả năm ba
vụ bình quân 15-20 tấn/ha, giá lúa khoảng
5.500 đ/kg cho tổng thu 80-100 tr. đ/năm. Với
mức lợi nhuận từ trông lúa khoảng 50% cho
thu nhập 40-50 tr. đ/năm thì nông dân bằng
lòng đóng góp cho thủy lợi phí khoảng 2,5-4
tr. đ/năm (khoảng 8-10% của thu nhập). Như
vậy mức đóng góp hiện nay của nông dân đã
chạm trần trên của khả năng chi trả. Thực tế
chương trình phát triển trạm bơm điện ở An
Giang cũng cho thấy việc phải đóng góp quá
cao cho đầu tư hệ thống trạm bơm điện đã làm
giảm sự đồng thuận ban đầu của nông dân nên
đã giảm sự đồng tình đóng góp đầu tư. Cho
đến nay, còn nhiều địa phương chưa thu được
tiền để trả bên điện phần trung thế (trụ, dây và
máy biến áp). Trong khi đó, điều tra cho
thấy nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ tưới tiêu
có mức chi trả cổ tức khoảng 40-70%/năm.
Cần có chính sách thích hợp để khuyến khích
sự đóng góp cao hơn từ doanh nghiệp, tư nhân
cũng như đảm bảo lợi ích cho người dân. Nếu
các chủ đầu tư trạm bơm điện không hạ mức
lợi nhuận của mình để chi trả cho phần điện hạ
thế, thì nhà nước cần phải hỗ trợ nông dân
phần điện trung thế.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nhờ có định hướng đúng, từ năm 2008 đến
Tương quan giữa thu nhập và chi trả
dịch vụ thủy lợi nội đồng của hộ
(1000 VND/hh) y = 8092.6e0.0006x
R2 = 0.7042
0
20000
40000
60000
80000
0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500
Chi trả (1000 đ/hộ)
Th
u
nh
ập
h
ộ (
10
00
/h
ộ)
Thu nhập-chi trả TLP/thu nhập
y = 450634x - 648.52
R2 = 0.6567
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
0 0.01 0.02 0.03 0.04 0.05 0.06 0.07 0.08 0.09
chi tra/thu nhập
th
u
nh
ập
(1
00
0
đ/h
ộ)
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
6 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 18 - 2013
2012, trong toàn tỉnh An Giang đã có 936 hệ
thống trạm bơm điện được nông dân, tư nhân
và nhà nước hợp tác đầu tư, đang được khai
thác phục vụ tưới tiêu cho 137000 ha đất sản
xuất nông nghiệp (tăng khoảng 93.000 ha so
với năm 2007) với tổng kinh phí đầu tư qui đổi
về năm 2012 ước khoảng 1.151 tỷ đồng. Tỷ lệ
đóng góp của tư nhân, nông dân và nhà nước,
vào phát triển thủy lợi nội đồng, lần lượt là
21.6:64.3:14.1 (Bảng 1). Tuy nhiên, việc đầu
tư xây dựng hệ thống trạm bơm điện theo giải
pháp: Hệ thống điện do bên điện lực vay
thương mại để đầu tư; nông dân đóng góp trả
vốn gốc và lãi vay; chủ khai thác đầu tư phần
trạm bơm và khai thác làm dịch vụ bơm tưới
tiêu, còn nhiều bất cập. Ngoài việc nông dân
phải đóng góp trả gốc và lãi để đầu tư hệ thống
trung thế điện (phần vốn gốc phải trả 4 năm là
185 tỷ đồng và lãi xuất 35 tỷ đồng), nông dân
còn phải trả chi phí bơm tưới tiêu. Vì vậy giá
thành sản xuất lúa không giảm tối đa. Việc này
làm giảm sự đồng thuận ban đầu của nông dân
nên đã giảm sự đồng tình đóng góp đầu tư.
Cần có chính sách tăng cường sự tham gia đầu
tư đóng góp của tư nhân, doanh nghiệp, giảm
bớt gánh nặng cho nhà nước, tăng thu nhập
cho nông dân nhằm khuyến khích nông dân
tham gia đóng góp lâu dài cho đầu tư xây dựng
và quản lý vận hành công trình. Về phía nhà
nước, cần tạo điều kiện để gia hạn thời gian trả
nợ4 bằng thời gian khấu hao của công trình, hạ
mức lãi suất để giảm bớt sự đóng góp của
nông dân, đặc biệt trong những năm đầu xây
dựng trạm bơm.
Để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư cũng
như cho người nông dân, đảm bảo sự quan tâm
đầu tư xây dựng và quản lý khai thác bền vững
hệ thống thủy lợi nội đồng, dựa vào kết quả
phân tích thu nhập, khả năng chi trả của người
sản xuất lúa, chính quyền tỉnh cần có quy định
về mức lợi nhuận đối với tổ chức cung cấp
dịch vụ thủy lợi. Trên cơ sở đó chỉ đạo các
huyện ra mức trần thủy lợi phí, đảm bảo nộp
khấu hao, quản lý khai thác và lợi nhuận cho
nhà cung cấp dịch vụ.
Sự tham gia đầu tư, quản lý khai thác công
trình thủy lợi của tư nhân cần được thực hiện
thông qua hợp đồng tham gia đầu tư và quản
lý khai thác được ký giữa nhà nước (UBND
huyện) và doanh nghiệp/tư nhân đầu tư, giao
doanh nghiệp/tư nhân tham gia đầu tư, quản lý
khai thác công trình trong khoảng thời gian
nhất định, khoảng 10-20 năm, ký lại hợp đồng
nếu có nhu cầu, đồng thời có điều khoản cho
việc kết thúc quyền khai thác trước thời hạn
đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư và người sử
dụng dịch vụ.
Để giảm giá thành sản xuất cho nông dân cần
đầu tư phát triển mô hình hệ thống thủy lợi nội
đồng chủ động tưới tiêu, với mô hình trạm
bơm tưới tiêu kết hợp, phục vụ cơ giới hóa sản
xuất và phát triển canh tác tập trung.
Mô hình tổ chức cung cấp dịch vụ tưới tiêu rất
đa dạng, gồm tổ chức dùng nước, HTX dịch
vụ thủy lợi/nông nghiệp, doanh nghiệp, tư
nhân. Cần có nghiên cứu tổng kết và đề ra giải
pháp nhân rộng các mô hình, phù hợp các điều
kiện của từng vùng, với cách tiếp cận dưới lên
và trên xuống và phương pháp cùng học cùng
làm, có sự tham gia của các bên liên quan để
đạt được sự đồng thuận tạo nguồn lực cho địa
phương.
4“ vì việc gia hạn thời gian trả nợ, do Tổng Công ty
Điện Lực Miền Nam quyết định qua hợp đồng vay với
Ngân hàng thương mại”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Website Hội đập lớn 2012. Quy hoạch thủy lợi ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước
biển dâng
[2]. Sở Nông nghiệp&PTNT An Giang. 2012. Báo cáo Tổng kết công tác thực hiện Đề án Phát triển hệ
thống trạm bơm điện giai đoạn 2008-2012
[3]. Trung tâm PIM. 2012. Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện PIM và đề suất một số giải pháp thúc
đẩy phát triển PIM ở Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pgs_ts_doan_doan_tuan_0008_2217905.pdf