Tài liệu Chuyên đề Vấn đề quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông): Mở đầu
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước trong công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song thực tế cho thấy, công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước còn có những bất cập trong chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp đang bị ăn mòn và việc thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước bị hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trở thành yêu cầu cấ...
75 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 969 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Vấn đề quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước trong công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song thực tế cho thấy, công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước còn có những bất cập trong chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp đang bị ăn mòn và việc thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước bị hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước càng cần được thực hiện tốt hơn.
Trong thời gian thực tập tại Nhà máy len Hà Đông, em đã nghiên cứu tìm hiểu về công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy và thấy rằng bên cạnh những thành tựu Nhà máy gặt hái được trong những năm gần đây còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy (cả khi giao vốn và trong quá trình sử dụng vốn). Do đó, để thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao, công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy cần sớm được hoàn thiện.
Em chọn đề tài: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
(Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)”
với mục đích qua nghiên cứu phát hiện những hạn chế trong công tác quản lý đối với phần vốn tại Nhà máy len Hà Đông, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông.
Nội dung đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy
len Hà Đông
Chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại
Nhà máy len Hà Đông
Nội dung
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục...). Khi giảng về doanh nghiệp nhà nước, giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân làm hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh nghiệp khác như:
Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản xuất-cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ.
Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự chi phối và tác động của môi trường kinh tế.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây:
Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp...
Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở hữu đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên số tài sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh doanh của họ.
Có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng hoạt động của doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh (hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích (hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...)
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau:
Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo;
Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh nghiệp nhà nước được bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước;
Thứ ba, chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà nước phải có đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh doanh có hiệu quả; doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định này để Chính phủ có đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đề ra.
1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.2.1. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn được cấp từ ngân sách, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ.
Từ khái niệm trên có thể thấy vốn nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn doanh nghiệp nhà nước được cấp phát lần đầu khi mới hoạt động (xác định từ thời điểm giao nhận vốn), vốn được cấp bổ sung trong quá trình hoạt động; vốn được tiếp quản từ chế độ cũ để lại.
Hai là, vốn có nguồn gốc ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chênh lệch giá tài sản cố định, vật tư, hàng hoá tồn kho qua các lần kiểm kê, điều chỉnh giá; các nguồn vốn viện trợ: viện trợ nhân dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng theo qui định phải ghi tăng vốn ngân sách cấp;
Ba là, vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ, chính là phần thu nhập sau thuế doanh nghiệp nhà nước giữ lại để tái đầu tư.
Hình thức thực hiện đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước cụ thể như sau:
Một là, giá trị quyền sử dụng đất, Chính phủ giao đất cho doanh nghiệp nhà nước hay cho doanh nghiệp thuê đất, thực hiện những chính sách ưu đãi về đất đai đối với doanh nghiệp nhà nước;
Hai là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn:
- Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị đưa vào sản xuất;
- Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước được giao thêm nhiệm vụ;
Ba là, không thu khấu hao, miễn giảm thuế hay cấp tín dụng nhà nước ưu đãi... Những khoản đó được doanh nghiệp nhà nước sử dụng để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của Chính phủ.
1.1.2.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước phải quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước vì:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước giao cho một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa người sở hữu vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu không phù hợp nhau. Các doanh nghiệp nhà nước không phải đương đầu với nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Do đó người sử dụng vốn có thể sử dụng vào những động cơ cá nhân, những động cơ có thể làm cho những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước hành động không nhất quán với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi những người này không nắm quyền sở hữu vốn của doanh nghiệp và cũng không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng cách tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ phải nhìn xa khi quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của nhà nước không bị xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động theo đúng mục tiêu nhà nước đề ra.
Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế độ đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước giúp cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp, theo dõi tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông qua công tác quản lý vốn, nhà nước mới có những thông tin chính xác để đánh giá đúng chất lượng kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở các thông tin đánh giá này, nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn và lao động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, phần lợi nhuận sau thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của nhà nước. Do đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản lý phần vốn đầu tư của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả, trên cở sở đó tăng lợi ích nhà nước.
Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình.
Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn được giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình.
Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khác với cách thức quản lý doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, Nhà nước quản lý doanh nghiệp một cách gián tiếp theo nguyên tắc: Nhà nước điều chỉnh thị trường, thị trường điều chỉnh doanh nghiệp. Nhà nước ban hành chính sách nhằm định hướng sự phát triển theo mục tiêu của Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bình đẳng và môi trường kinh doanh vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi hiệu quả kinh tế cao để các doanh nghiệp hoạt động. Chính sách quản lý vốn được ban hành hướng vào việc khai thác, động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm khuyến khích phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống các chính sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ kích thích sự chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng duy động mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu vào ngân sách nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng quy mô đầu tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; kế đó, quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ còn thực hiện được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra.
Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng:
Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý vốn và tài sản;
Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như: cơ chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ...
Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý hợp lý đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao trùm các nội dung quản lý sau:
a, Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động, nhà nước có thể cấp theo định mức một phần, phần còn lại doanh nghiệp phải huy động trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở các nước là khác nhau. ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà nước quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanh nghiệp khác thì nhà nước không cấp vốn. ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. ở Malaysia, nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu được nhà nước cấp 100% và hàng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của nhà nước; vốn lưu động thì các công ty phải vay theo lãi suất thị trường. Còn ở nước ta, việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước mới thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan có thẩm quyền khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo đủ vốn thực có tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định nhà nước quy định cho mỗi ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất dinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng của ngân sách nhà nước, nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho các doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao vốn thuộc sở hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.
Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau:
+ Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu có).
+ Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia tách) là số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên, sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.
Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách tự chủ và linh động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước thường chỉ được phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định, các kênh huy động vốn đó là:
Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình. Đây là nguồn vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền được yêu cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để huy động vốn.
Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp), được phát hành trái phiếu huy động vốn để đầu tư phát triển.
Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới để bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ này.
b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả.
Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành; phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn
Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản.
Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản và vốn hiện có. Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng, mất phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không đợc đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của doanh nghiệp khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó.
Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp.
Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ, nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa hình thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản để liên doanh, góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về).
Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp:
Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật.. Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ...
Doanh nghiệp Nhà nước được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Bảo toàn và phát triển vốn:
Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là:
Thứ nhất, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của Nhà nước;
Thứ hai, thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh;
Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính...
Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh ...) vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà nước.
1.2.2. Phân cấp trong quản lý
Để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, mỗi nước đều tổ chức cho mình một bộ máy quản lý khác nhau với cách thức quản lý khác nhau. Bộ máy này bao gồm bản thân doanh nghiệp nhà nước (với tư cách là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn nhà nước giao) và các cơ quan quản lý cấp trên (giám sát việc thực hiện quản lý, sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp nhà nước và ra các quyết định quản lý). Mỗi cấp quản lý được phân rõ chức năng nhiệm vụ trong việc thực hiện hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
ở Pháp và Malaysia, nhà nước trực tiếp cử nhân viên của mình làm công tác kiểm tra tại doanh nghiệp, nhân viên đó thuộc biên chế Bộ tài chính; ngoài ra mỗi doanh nghiệp còn chịu sự điều tra của một nhân viên do toá án chỉ định, có chức năng kiểm tra tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, ở các doanh nghiệp còn có Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng này là đại diện của nhà nước, đại diện cho doanh nghiệp và đại diện của công nhân.
ở một số nước khác như Trung Quốc thì việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước lại do các Công ty đầu tư tài chính nhà nước đảm nhận. Hoạt động của Công ty tài chính là hoạt động kinh doanh, khác với việc cử đại diện của Bộ tài chính làm công việc kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức tài chính do Chính phủ thành lập giúp Chính phủ thành lập chức năng kinh doanh các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Công ty đầu tư tài chính nhà nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ sở hữu công ty là Chính phủ
Thứ hai, công ty đầu tư tài chính là một doanh nghiệp nhà nước, công ty được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, được Chính phủ giao vốn ban đầu và đầu tư bổ sung vốn trong quá trình hoạt động.
Thứ tư, chức năng của công ty là kinh doanh vốn nhà nước. Điều này khẳng định mục đích đầu tư vốn vào các doanh nghiệp nhà nước là để đảm bảo đồng vốn chẳng những được bảo toàn mà còn được phát triển (gia tăng giá trị của chủ sở hữu).
Thứ năm, đối tượng hoạt động của công ty là các doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có phần vốn góp của nhà nước như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà nước đã đầu tư vào doanh nghiệp. Chức năng của Cục tài chính doanh nghiệp được cụ thể hoá như sau:
Một là, thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các thanh phần kinh tế trong cả nước, có thể tóm tắt các công việc cơ bản như sau:
+ Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề cóm liên quan đến tài chính doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp, qua đó xây dựng các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ quản lý, bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp, chế độ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp và các chế độ khác có liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ tài chính;
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính; chế độ quản lý vốn nhà nước; chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp thống nhất trong cả nước;
+ Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả nước, đồng thời tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và khách hàng những thông tin cập nhật, chính xác đầy đủ về tình hình tài chính doanh nghiệp; hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính doanh nghiệp;
Thứ hai, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập hoặc góp vốn trong đó:
+ Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà nước; tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính;
+ Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong các trường hợp giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi quyền sở hữu; giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các trường hợp chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước; giám sát việc phân phối lợi nhuận sau thuế, việc sử dụng các quỹ tại doanh nghiệp;
+ Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản chi hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp trọng điểm, các tổng công ty nhà nước; tham gia xây dựng và thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính; tham gia các phương án giá sản phẩm và dịch vụ do nhà nước quy định giá; tham gia việc xây dựng đơn giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh nghiệp theo quy định của nhà nước;
+ Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp; kiểm tra báo cáo tài chính, xác định khả năng hoàn trả nợ, mức độ bảo toàn và phát triển vốn hàng năm của doanh nghiệp;
+ Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo toàn và phát triển vốn thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp trong cả nước và theo ngành kinh tế;
+ Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ tài chính uỷ quyền;
+ Hướng dẫn các Sở tài chính-vật giá thống nhất quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp do tỉnh thành phố thành lập hoặc góp vốn, tổng hợp phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trên địa bàn;
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ tài chính giao.
Dưới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính doanh nghiệp quản lý trực tiêp các doanh nghiệp nhà nước trung ương. Các doanh nghiệp nhà nước địa phương chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính-vật giá tỉnh, thành phố.
Hình thức phân công mới này có ưu điểm ở chỗ do doanh nghiệp nhà nước vẫn được tổ chức theo hai hình thức, đó là doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương, đồng thời việc tổ chức cán bộ ở địa phương do UBND tỉnh quyết định, ở trung ương do Bộ ngành quyết định. Mặt khác các doanh nghiệp trung ương lớn thường có các chi nhánh ở các địa phương khác nhau nên việc quản lý theo vùng sẽ hạn chế, đặc biệt là các Tổng công ty thường tập trung ở các địa bàn thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... sẽ khiến cho việc quản lý ở các địa phương rất phức tạp.
Sơ đồ quản lý như sau:
Chi cục tài chính doanh nghiệp tỉnh, thành phố
Cục tài chính doanh nghiệp
Quản lý vốn các doanh nghiệp địa phương
Bộ tài chính
Quản lý vốn các doanh nghiệp trung ương
Có thể nói rằng, sự ra đời và đi vào hoạt động theo hệ thống dọc từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố đã giải quyết được những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, đó là thu gọn đầu mối, thực hiện nguyên tắc một đầu mối cho từng chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, từng bước xoá bỏ cơ chế chủ quản, sự phân biệt giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương.
1.2.3. Tổ chức thực hiện
Dựa trên các căn cứ về quản lý vốn nhà nước đã được thiết lập (các văn bản pháp luật liên quan), các cơ quan quản lý (đã được phân cấp quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp) sẽ tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo phạm vi chức năng của mỗi cấp đã được quy định.
1.2.3.1. Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước
Một việc không dễ song không thể thiếu trong hoạt động quản lý là phải xác định được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các trường hợp để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một cách hợp lý.
Nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên biến động tuỳ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp khác nhau với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu về vốn cũng khác nhau. Do vậy, xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là việc làm cần thiết của các nhà quản lý. Các nhà quản lý thường dùng hai phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, đây là phương pháp dự tính ngắn hạn, đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính quy luật của mối quan hệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm với tài sản, vốn và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây có thể là phương pháp ước tính nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong thời gian ngắn, vì cơ bản nó dựa trên giả thiết cho rằng tất cả các chi phí thành phẩm sẽ chiếm một tỷ lệ ổn định trong doanh thu bán hàng tương lai, không thay đổi so với tỷ lệ của chúng trong quá khứ. Tỷ lệ phần trăm trên doanh thu này là tỷ lệ chi phí trung bình trong hai năm gần đây và mỗi khoản mục của báo cáo nhu cầu vốn dự kiến được tính theo tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu. Khi tìm được tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu thì việc xây dựng báo cáo nhu cầu sử dụng vốn cho năm kế tiếp theo phương pháp phần trăm trên doanh thu khá đơn giản.
Thứ hai, phương pháp hồi quy, đây là phương pháp dự tính dài hạn, bản chất của phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học. Khi sử dụng phương pháp này, nhà quản lý vốn cũng cần xuất phát từ doanh thu tiêu thụ. Phương pháp hay được sử dụng để xem xét khả năng nguồn đối với các khoản có liên quan trực tiếp tới tăng giảm doanh thu.
Sau khi đã xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp, công việc này được thực hiện căn cứ vào các quy định đã được nêu ra trong các văn bản pháp luật liên quan.
ở nước ta, cấp vốn đã trở thành hình thức đắc lực nhất đối với doanh nghiệp nhà nước trong suốt thời kỳ bao cấp. Đến nay tuy đã giảm nhiều song các doanh nghiệp nhà nước vẫn được bao cấp nhiều qua giá và qua cấp vốn từ ngân sách nhà nước. Trước đây và hiện nay, Nhà nước cấp toàn bộ vốn cố định và một phần vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, thường là 30%. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được xác định theo công thức sau:
Nhu cầu vốn lưu động =
Tổng doanh thu
Vòng quay vốn lưu động
Nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thiếu vốn, số vốn thiếu xin được cấp bổ sung. Nhu cầu vốn cấp bổ sung tính theo công thức:
Số vốn thiếu xin được cấp bổ sung
=
Nhu cầu vốn lưu động
-
Số vốn lưu động hiện có tài doanh nghiệp
Trong những năm qua, Chính phủ đã xét duyệt để cấp vốn bổ sung cho nhiều doanh nghiệp theo nhiều dự án. Trong 3 năm 1997-->1999, Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6428 tỷ đồng là để cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp. Có thể thấy việc quản lý nhu cầu, cấp phát vốn đã từng bước chặt chẽ hơn. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước một cách có trọng điểm hơn chứ không dàn trải như trước. Vốn được cấp cho doanh nghiệp nhà nước một cách hợp lý hơn. Các doanh nghiệp được nhà nước đầu tư vốn phải nằm trong chiến lược phát triển của Nhà nước và phải thoả mãn một số yêu cầu nhất định. Đồng thời, mức hỗ trợ tối đa cũng được quy định rõ. Ví dụ như trong đợt hỗ trợ vốn năm 1998 quy định rõ các đối tượng được xét đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, các doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đang hoạt động có sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, chế biến hàng nông hải thuỷ sản, xây dựng các công trình quan trọng của nhà nước với những điều kiện cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp về doanh thu lợi nhuận và mức nộp ngân sách. Nhờ có sự chọn lọc trong nhu cầu vốn bổ sung này mà đồng vốn của nhà nước trong những năm gần đây đã được sử dụng có hiệu quả hơn và đúng đối tượng hơn. Trong hai năm 1997 và 1998, Nhà nước đã đầu tư thêm vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thông qua việc cấp bổ sung một lượng vốn đáng kể (khoảng 3000 tỷ đồng) cho các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao và có thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp đã biết kết hợp vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Số vốn tự bổ sung của một số ngành chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn chủ sở hữu và cũng tăng về số tuyệt đối liên tục qua các năm, ví dụ: ngành Hàng hải, Bưu điện, Hàng không. Kết quả thống kê của Cục tài chính doanh nghiệp cho biết: Quy mô vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua tăng. Tuy nhiên, việc cấp vốn của nhà nước vẫn còn những hạn chế. Hiện tượng thiếu vốn trầm trọng tại số đông các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là một minh chứng cho sự chưa hợp lý trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng chung của các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay là tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn nhà nước không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Trên 50% các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô hoạt động kinh doanh. Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển song hiện vẫn có tới gần 80% số Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Con số này chứng tỏ có tình trạng chênh lệch về vốn khá lớn giữa các Tổng công ty và số Tổng công ty thiếu vốn, ít vốn là chiếm đa số.
Bên cạnh nguồn vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, nguồn vốn huy động được bằng việc sử dụng các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay cũng được quản lý khá chặt chẽ do nó ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. ở nước ta, các khoản nợ phải trả cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Theo kết quả kiểm kê nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước là 527.267 tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 173.857 tỷ đồng (chiếm 32,9%), còn tổng vốn huy động qua các khoản nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng (chiếm tới 67% tổng nguồn vốn). Việc huy động vốn qua các khoản nợ cũng ngày một tăng. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng về quy mô cũng như về tỷ trọng trong cơ cấu vốn đối với một số doanh nghiệp nhà nước. Điều này phản ánh khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp có tăng lên.
b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
Là một loại hình doanh nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm như các loại hình doanh nghiệp khác về tư cách pháp nhân, về điều kiện và mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ lợi ích của mình với tư cách là chủ sở hữu. Nhà nước cần thiết phải thực hiện hoạt động giám sát. Giám sát sử dụng vốn nhà nước là một nội dung quan trọng của hoạt động giám sát tài chính-một bộ phận của giám sát doanh nghiệp nhà nước, đó là việc theo dõi kiểm tra của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý nhằm hướng các hoạt động của khách thể quản lý theo đúng mục tiêu mà chủ thể quản lý đã lựa chọn, phủ hợp với quy chế pháp luật hiện hành. Giám sát sử dụng vốn nhà nước vừa là yêu cầu khách quan, vừa xuất phát từ chức năng quản lý nhà nước với doanh nghiệp, vừa do yêu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu.
Các đơn vị quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện vai trò quản lý nhà nước thông qua giám sát. Việc giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả sự dụng vốn và khả năng thanh toán nợ đối với từng doanh nghiệp để xem xét quyết định việc tăng thêm hoặc giảm bớt số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp và quyết định thưởng phạt đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp. Ngoài ra, giám sát doanh nghiệp còn để đánh giá việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ tài chính, chuẩn mực kế toán hiện hành và đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động sản xuất kinh đoanh của doanh nghiệp để phục vụ cho việc ban hành, hoàn thiện các chính sách vĩ mô và chế độ đối với doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực, thực hiện sự hỗ trợ đối với trường hợp cần hỗ trợ của nhà nước nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời và phát triển doanh nghiệp. Các hình thức giám sát doanh nghiệp nhà nước bao gồm:
Thứ nhất, giám sát từ bên trong: là giám sát nội bộ do các tổ chức của doanh nghiệp như kiểm toán nội bộ, ban kiểm soát, thanh tra nhân dân và do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện.
Thứ hai, giám sát từ bên ngoài: là giám sát do cơ quan chức năng của nhà nước hoặc các tổ chức cá nhân bên ngoài doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc giám sát bên ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức:
Một là, giám sát gián tiếp: là theo dõi và kiểm tra từ xa thông qua báo cáo tài chính, thống kê và chế độ báo cáo khác do các cơ quan chức năng của nhà nước quy định, thông qua báo cáo công khai tình hình tài chính tại thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Hai là, giám sát trực tiếp: được thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra, thanh tra, khảo sát nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn có thể thông qua các công ty tư vấn (bao gồm công ty tư vấn tài chính kế toán, thuế, các công ty kiểm toán độc lập, công ty đánh giá tài sản...) để thực hiện các dịch vụ về giám sát doanh nghiệp.
Có thể giám sát trước, trong quá trình thực hiện và sau khi thực hiện:
+ Giám sát trước khi thực hiện là việc kiểm tra tính khả thi của các dự án như kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn; dự án đầu tư xây dựng hoặc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, dự án huy động vốn...
+ Giám sát trong quá trình thực hiện là theo dõi, kiểm tra hoặc thanh tra tính hiệu lực của các quy định pháp luật, nguyên tắc quản lý điều hành của doanh nghiệp và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp.
+ Giám sát sau khi thực hiện là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra các kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo kết quả hoặc quyết toán định kỳ và giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật, quyết định của chủ sở hữu hoặc điều lệ doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời:
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
=
Tổng lợi nhuận
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này dùng để xem xét một đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
=
Tổng lợi nhuận
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này được dùng để xem xét một đồng vốn chủ sở hữu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Mức độ bảo toàn vốn:
Số vốn nhà nước bảo toàn cuối kỳ
=
Số vốn nhà nước đầu kỳ
+
Số vốn nhà nước đầu tư thêm hoặc rút về
+
Số vốn đầu tư thêm từ lợi nhuận sau thuế
Khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán hiện thời
=
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán nhanh
=
Tiền
Nợ ngắn hạn
Các chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ quá hạn của doanh nghiệp.
Hiệu quả của việc quản lý sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước được thể hiện bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các doanh nghiệp nhà nước.
Trong công tác kiểm tra giám sát quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cần:
Thứ nhất, nắm được tình hình vốn, tài sản của doanh nghiệp trong cả nước và phân loại theo doanh nghiệp nhà nước trung ương, doanh nghiệp nhà nước địa phương một cách có hệ thống;
Thứ hai, thiết lập cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về doanh nghiệp nhà nước ở các địa phương và trung ương dựa trên tiêu chí nhất định. Cơ sở dữ liệu sẽ phục vụ cho việc phân tích đánh giá về doanh nghiệp nhà nước không chỉ của cơ quan tài chính mà của nhiều ngành chức năng của trung ương, các chuyên gia trong nước và quốc tế; giúp phân biệt giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn, đóng vai trò quyết định trong nền kinh tế. Chất lượng của cơ sở dữ liệu cần được nâng cao bằng việc xử lý, sắp xếp khoa học các dữ liệu. Khai thác, sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu sao cho có hiệu quả, không chỉ phục vụ cho việc đánh giá tổng quát tình hình doanh nghiệp cả nước mà còn được sử dụng đề phân tích đánh giá từng doanh nghiệp, từng ngành...
Thứ ba, bên cạnh việc giám sát từ xa cần thực hiện việc giám sát tại chỗ. Hàng năm, tuỳ theo điều kiện cụ thể tình hình quản lý vốn của các doanh nghiệp, cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp tổ chức kiểm tra theo chuyên để hoặc kiểm tra toàn diện ở một số hoặc toàn bộ các doanh nghiệp trên địa bàn. Việc kiểm tra như vậy giúp cho doanh nghiệp nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý vốn, hạch toán kế toán...
Thêm vào đó, các cơ quan thanh tra tài chính, kiểm toán nhà nước cùng tiến hành thường xuyên việc thanh tra và kiểm toán tại doanh nghiệp nhà nước. Việc kiểm tra này sẽ giúp khắc phục được một số yếu kém còn tồn tại trong công tác quản lý vốn, đồng thời qua đó góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Việc giám sát, kể cả giám sát từ xa và giám sát tại chỗ cần tập trung vào đánh giá, phát hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó dự báo sớm tình hình mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và đề xuất biện pháp để ngăn chặn tình trạng này. Công tác giám sát cần giúp cho việc đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, như việc phát hiện doanh nghiệp bị thua lỗ, doanh nghiệp đầu tư lãng phí, công nghệ thiết bị lạc hậu, khả năng tiêu thụ sản phẩm, giá thành sản phẩm và khả năng thu hồi vốn không được tính toán kỹ... để có biện pháp ngăn chặn kịp thời;
Thứ tư, kênh thông tin từ doanh nghiệp lên các cơ quan tài chính cũng như trong hệ thống cơ quan tài chính doanh nghiệp thường phải nhanh, đầy đủ.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.3.1. Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì nhân tố này sẽ quyết định tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp như thế nào? Nội dung các văn bản pháp luật phục vụ cho công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải như thế nào? Trình độ của cán bộ quản lý? Chẳng hạn: Nếu một nhà nước quan niệm nên tạo sự chủ động cao cho doanh nghiệp thì việc xây dựng văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý cũng được thực hiện theo hướng tạo sự chủ động cho doanh nghiệp, bộ máy quản lý gọn nhẹ, chấm dứt sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp...
1.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý
Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tiếp đó phụ thuộc vào tổ chức bộ máy quản lý, vốn nhà nước sẽ không thể được quản lý tốt nếu tổ chức bộ máy quản lý không hợp lý. Hiện nay ở nhiều nước, cơ quan trực tiếp tiến hành công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước nói riêng đối với doanh nghiệp cũng là cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ quản lý vốn tại doanh nghiệp (thông qua việc dự thảo các chính sách trình cơ quan có thẩm quyền ký ban hành). Bộ máy quản lý gồm một cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Với mô hình này, việc giám sát doanh nghiệp được thực hiện theo phương thức từ xa, định kỳ theo quy định, tiến hành từ cấp địa phương đến trung ương. Công tác giám sát từ xa nếu được thực hiện đầy đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý có được cái nhìn tổng thể về toàn bộ hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc quản vốn nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan duy nhất, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý khác như đơn vị chủ quản, cơ quan thuế...Các cơ quan này cũng thực hiện việc giám sát tại chỗ đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp rất nhạy cảm đối với hoạt động giám sát tại chỗ này. Việc giám sát tại chỗ có thực sự phát huy hiệu quả, nghĩa là thấy và phản ánh được kịp thời những khó khăn mà doanh nghệp đang gặp phải để tìm cách tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư doanh nghiệp đang thực hiện...Đồng thời các cơ quan quản lý phải tổ chức việc giám sát tại chỗ cho phù hợp, không gây cản trở đối với hoạt động của doanh nghiệp và không để cho một số cán bộ lợi dụng việc giám sát ngay tại doanh nghiệp để làm lợi cho riêng mình.
ở nước ta, việc tổ chức phân cấp quản lý các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những vướng mắc. Cơ chế quản lý Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản vẫn còn gây nhiều khó khăn cho hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Cục tài chính doanh nghiệp chịu trách nhiệm quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong cả nước, song thực sự thì Cục chỉ quản lý và trực tiếp giải quyết những vấn đề về vốn liên quan đến những doanh nghiệp nhà nước trung ương, những doanh nghiệp nhà nước địa phương thì do Sở tài chính vật giá tỉnh, thành phố quản lý. Việc phân cấp quản lý này tạo ra một sự phát triển không cân đối giữa các doanh nghiệp nhà nước trung ương và các doanh nghiệp nhà nước địa phương, đồng thời cũng chưa triệt để trong việc thực hiện mục đích hình thành Cục tài chính doanh nghiệp là quản lý thống nhất các doanh nghiệp nhà nước. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước trung ương lớn hơn các doanh nghiệp nhà nước địa phương, các doanh nghiệp nhà nước trung ương cũng mau đổi mới máy móc thiết bị hơn doanh nghiệp nhà nước địa phương do có nhiều nguồn vốn đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước trung ương làm ăn cũng hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước địa phương. Từ đây có thể thấy, việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước tuy đã tập trung gọn lại về một đầu mối là Cục tài chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế thì việc quản lý các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự được tập rtung và đó là một trong các nguyên nhân gây ra sự phát triển không đồng đều giữa các doanh nghiệp nhà nước. Sở dĩ việc quản lý vẫn cần phải phân cấp như vậy vì hiện nay khối lượng công việc cho cán bộ quản lý tại Cục tài chính doanh nghiệp là quá lớn. Bởi vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới là một vấn đền không kém phần không kém phần quan trọng được đặt ra cùng với việc đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
1.3.3. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan
Để tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể bất chấp những lợi ích chung của toàn xã hội. Để hạn chế mặt tiêu cực đó, bên cạnh “bàn tay vô hình”- các quy luật của thị trường còn có “bàn tay hữu hình”-sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước thể hiện qua những chính sách quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, qua hệ thống pháp luật...Các chính sách quản lý của nhà nước vừa trực tiếp, vừa gián tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
Sự tác động trực tiếp thể hiện qua những chính sách trực tiếp liên quan tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Đó là những chính sách quy định về nội dung quản lý vốn, phương pháp quản lý vốn, bộ máy quản lý vốn. Các chính sách này được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước cũng như hệ
thống các doanh nghiệp nhà nước. Một hệ thống chính sách quản lý đúng đắn, đầy đủ sẽ đem lại hiệu quả quản lý cao và ngược lại, một hệ thống chính sách quản lý chưa đầy đủ, không đồng bộ, còn thiếu sót sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản lý.
Sự tác động gián tiếp của chính sách quản lý của nhà nước tới hoạt động quản lý vốn nhà nước thể hiện ở chỗ: các chính sách quản lý của nhà nước có tạo ra được một môi trường thuận lợi cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không, hay tạo khó khăn cho công tác quản lý? Ví dụ như: chính sách về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước có tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không?...
ở nước ta, tác động của yếu tố này tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thể hiện rất rõ. Cùng với việc không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (căn cứ để quản lý), việc tổ chức thực hiện đã cho thấy những dấu hiệu tích cực rõ rệt. Tuy vậy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong hệ thống chính sách đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tốt hơn.
1.3.4. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý
Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý trực tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước là cơ quan trực tiếp tiến hành hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Không những thế ở nhiều nước đây còn là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ về quản lý vốn tại các doanh nghiệp. Bởi vậy, sự am hiểu của cán bộ quản lý về ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng nắm bắt tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc cán bộ quản lý đó có phân tích và đưa ra được những kết luận đúng đắn hay không, có dự thảo ra được những chính sách quản lý đúng đắn hay không? Thêm vào đó, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý sẽ quyết định việc họ có thực hiện quản lý đúng theo lương tâm trách nhiệm hay không?
1.3.5. Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội
Sự ổn định về kinh tế-chính trị-xã hội là nhân tố quan trọng, có tác động lớn tới hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp và do đó tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Môi trường chính trị-xã hội ổn định, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, ít lạm phát và ít biến động sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư một tâm lý yên tâm trong quá trình huy động và sử dụng vốn, do đó vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước có điều kiện được bảo toàn và phát triển.
Nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường-một cơ chế kinh tế luôn được quan niệm là năng động, bất ổn định, chứa đựng nhiều cơ hội và cả những khó khăn. Trong thời gian qua, do nhiều lý do như ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực, thiên tai khiến môi trường kinh tế nước ta chưa thực sự ổn định. Mặt khác, môi trường kinh tế hiện nay của nước ta còn đang thiếu nhiều yếu tố cần thiết để tạo điều kiện cũng như tạo động lực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các nhân tố trên đây đều tác động lớn tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy việc nghiên cứu tác động của từng nhân tố cũng như tác động tổng hợp của các nhân tố tới hoạt động quản lý vốn nhà nước là hết sức cần thiết. Từ đó tìm ra được các nguyên nhân dẫn đến những bất hợp lý trong hoạt động quản lý vốn nhà nước, rồi đưa ra những đề xuất để hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len hà đông
2.1. Tổng quan Nhà máy len Hà Đông
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển
Nhà máy len Hà Đông là một doanh nghiệp nhà nước, được khởi công xây dựng vào tháng 4/1958. Năm 1959, chính thức đi vào hoạt động và có tên là Nhà máy nhuộm in hoa Hà Đông. Khi đó, Nhà máy chỉ là một cơ sở gia công nhuộm tẩy các mặt hàng vải lụa, sợi thuộc công ty Bông vải, sợi-Bộ nội thương. Ban đầu, công nghệ sản xuất chủ yếu là sản xuất thủ công tren chảo rang và hong khô ngoài trời.
Tháng 1/1961, Nhà máy chính thức được chuyển sang cho bộ Công nghiệp nhẹ quản lý và đổi tên thành Xí nghiệp in hoa Hà Đông. Nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp lúc đó là in hoa trên vải và khăn mặt bông, nhuộm vải sợi phục vụ tiêu dùng trong nước.
Năm 1973, theo kế hoạch đầu tư mở rộng của Bộ Công nghiệp nhẹ, xí nghiệp được đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len phục vụ cho dệt thảm xuất khẩu. Nhờ đó, thiết bị sản xuất của xí nghiệp được cơ khí hoá dần dần. Đến năm 1977, xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy len nhuộm Hà Đông, thuộc Liên hiệp các xí nghiệp dệt Bộ công nghiệp.
Từ năm 1990, thực hiên chương trình Đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, Nhà máy đã tiến hành tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lại lao động. Để giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dư thừa, Nhà máy đã xây dựng thêm một bộ phận dệt thảm len xuất khẩu, đồng thời phát triển thêm dây truyền in vải hoa (là nghề truyền thống của nhà máy). Cũng trong năm này, Nhà máy đổi tên thành Công ty len Hà Đông. Năm 1996, Nhà máy đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len Acrylic đan áo từ xơ hoá học với dây chuyền công nghệ và máy móc nhập khẩu từ Pháp.
Năm 1999, Nhà máy chính thức sát nhập trở thành đơn vị trực thuộc Công ty len Việt Nam (thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam) và mang tên Nhà máy len Hà Đông. Hiện mặt hàng chủ yếu của Nhà máy là len thảm và len Acrylic; ngoài ra, nhà máy còn nhận gia công nhuộm vải và in hoa.
Qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Nhà máy đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất. Từ một cơ sở gia công, sản xuất thủ công ban đầu, đến nay đã trở thành một nhà máy với 320 cán bộ công nhân viên. Trong những năm gần đây, do biến động của thị trường tiêu thụ, sản phẩm của nhà máy phải cạnh tranh với các hàng hoá nhập lậu bằng các đường tiểu nghạch qua biên giới nên Nhà máy gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, Nhà máy vẫn luôn cố gắng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, đảm bảo việc làm cho số lao động hiện có.
2.1.2. Bộ máy quản lý
Tổng công ty dệt may Việt Nam
Nhà máy len Hà Đông hiện là thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt Nam, một thành viên (hạch toán độc lập) của Tổng công ty dệt may Việt Nam. Bởi vậy giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, thể hiện ở các mặt sau:
Nhà máy len Hà Đông
Công ty len Việt Nam
Tổng công ty Dệt - May Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, gồm các thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong ngành dệt, may mặc, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Cụ thể là:
+ Đổi mới công nghệ, trang thiết bị theo chiến lược phát triển của Tổng công ty
+ Giao lại cho các đơn vị thành viên quản lý, sử dụng các nguồn lực mà Tổng công ty đã nhận của Nhà nước; điều chỉnh những nguồn lực đã giao cho các đơn vị thành viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung của toàn Tổng công ty.
+ Lựa chọn, khai thác và mở rộng thị trường trong và ngoài nước; hướng dẫn và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên; được xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của Nhà nước.
+ Hướng dẫn giá hoặc khung giá xuất, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, phụ liệu, thiết bị, phụ tùng, sản phẩm và dịch vụ trong Tổng công ty; quy định khung giá xuất, nhập khẩu một số vật tư, nguyên phụ liệu, thiết bị, phụ tùng, sản phẩm và dịch vụ quan trọng. Trường hợp các đơn vị thành viên phải áp dụng mức giá không nằm trong khung giá xuất, nhập khẩu do Tổng công ty quy định thì phải được sự đồng ý của Tổng Giám đốc.
+ Xây dựng và áp dụng các định mức lao động, vật tư chủ yếu, đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm trong khuôn khổ các định mức, đơn giá của Nhà nước.
Công ty Len Việt nam là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, được Tổng công ty dệt may Việt Nam giao vốn, tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác. Công ty chịu trách nhiệm về cam kết của mình trong phạm vi số vốn do Công ty quản lý và sử dụng, cụ thể là:
- Trong chiến lược và đầu tư phát triển, Công ty được giao tổ chức thực hiện các dự án đầu tư phát triển theo kế hoạch của Tổng công ty và được Tổng công ty giao các nguồn lực để thực hiện dự án đó;
- Trong hoạt động kinh doanh, Công ty xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch của mình trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu, chỉ tiêu, các cân đối lớn, các định mức kinh tế - kỹ thuật chủ yếu, đơn giá và giá của Công ty phù hợp với kế hoạch chung của Tổng công ty;
- Trong hoạt động tài chính và hạch toán kinh tế:
+ Công ty được nhận vốn là nguồn lực khác của Nhà nước do Tổng công ty giao lại cho Công ty. Công ty có nhiệm vụ bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn lực này;
+ Công ty được hình thành quỹ đầu tư xây dựng cơ bản, quỹ phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự trữ tài chính theo Quy chế tài chính của Tổng công ty; có nghĩa vụ trích nộp và sử dụng các quỹ tập trung của Tổng công ty quy định tại Quy chế tài chính Tổng công ty và theo các quyết định của Hội đồng quản trị;
+ Công ty giao vốn và nguồn lực khác cho các nhà máy thành viên, được quyền điều hoà vốn, điều động tài sản giữa các nhà máy thành viên, tương ứng với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh Công ty giao theo nguyên tắc tăng, giảm.
Nhà máy len Hà Đông, với tư cách là một thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt Nam, được Công ty giao vốn, chịu trách nhiệm trước Công ty và Nhà nước về hiệu quả sử dụng, bảo toàn phát triển vốn và các nguồn lực được giao. Nhà máy chịu sự chỉ đạo, điều phối trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong hoạt động tài chính của Công ty.
Nhà máy Len Hà Đông tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh theo mô hình trực tuyến. Đứng đầu nhà máy là giám đốc- chịu trách nhiệm lãnh đạo chung toàn nhà máy. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhà máy về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Giúp việc cho giám đốc có phó giám đốc kĩ thuật là người tham mưu cho giám đốc. Dưới nữa, Nhà máy có các phòng ban chức năng như: Phòng tổ chức hành chính, Phòng kĩ thuật, Phòng kinh doanh, Phòng tài chính- kế toán. Giữa các phòng ban chức năng có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, cùng triển khai thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Dưới đây là sơ đồ tổ chức quản lý của Nhà máy len Hà Đông:
Giám đốc
Phó giám đốc kỹ thuât
Phòng tổ chức hành chính
Phòng tài chính- kế toán
Phòng kỹ thuật
Phòng kinh doanh
Ngành cơ điện
Phân xưởng nhuộm, in hoa
Phân xưởng len 2
Phân xưởng len 1
Các tổ sản xuất
Phân xưởng cơ điện
Phân xưởng nồi hơi
2.1.3. Đặc điểm tổ chức hệ thống sản xuất và tiêu thụ
2.1.3.1. Nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu của Nhà máy bao gồm nguyên liệu chính và vật liệu phụ (hoá chất thuốc nhuộm, nước nhuộm, nhiên liệu động lực) với nhiều chủng loại dùng để sản xuất các loại sản phẩm khác nhau.
Nguyên liệu chính chủ yếu bao gồm: Lông cừu nhập từ NewDiland dùng để sản xuất len thảm; Tow Acrylic trắng nhập từ Nhật Bản để sản xuất len Acrylic.
Vật liệu phụ bao gồm: Midlonfast blue E 200%, Polar Yellow, Albegal A dùng để sản xuất len thảm; Tinegal MR, Soft AWT dùng để sản xuất len Acrylic; Các loại vật liệu phụ khác.
2.1.3.2. Lao động
Nhà máy len Hà Đông có số công nhân viên trong danh sách là 405 người nhưng hiện thực tế đi làm tại Nhà máy là 320 người trong đó nhân viên quản lý là 44 người (do thời gian trước, Nhà máy không có việc làm nên đã giải quyết cho một bộ phận công nhân viên về nghỉ không lương).
2.1.3.3. Trang thiết bị, máy móc
Máy móc, thiết bị của Nhà máy len Hà Đông hiện nay đã quá cũ. Hầu hết các máy móc, thiết bị của Nhà máy đã được đưa vào sử dụng từ năm 1976 và 1982. Riêng máy móc thiết bị tại phân xưởng 2 tuy mới được đầu tư mua năm 1996 nhưng không phải máy móc thiết bị mới được sản xuất mà cũng chỉ là hàng dùng lại, theo xác minh chúng được sản xuất từ năm 1989.
2.1.3.4. Cơ cấu tổ chức sản xuất
Nhà máy gồm có 3 phân xưởng và một ngành sản xuất. Các phân xưởng đều có mô hình tổ chức quản lý như sau: Đứng đầu các phân xưởng, ngành là các quản đốc, trưởng ngành. Giúp việc cho các quản đốc có các đốc công, các cán bộ kĩ thuật và các tổ trưởng sản xuất, giúp việc cho trưởng ngành cũng có các tổ trưởng sản xuất. Mỗi phân xưởng và ngành sản xuất một hoặc một nhóm sản phẩm: Phân xưởng len 1 sản xuất len thảm, phân xưởng len 2 sản xuất len cao cấp Acrylic đan áo từ xơ hoá học, phân xưởng nhuộm- in hoa nhuộm, in vải hoa gia công các loại theo yêu cầu của khách hàng, ngành cơ điện sản xuất phụ trợ cho các phân xưởng trong nhà máy.
2.1.3.5. Tình hình tiêu thụ:
Hiện nay, Nhà máy có hai cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Nhà máy, nhưng chỉ có một cửa hàng là hoạt động thực sự có hiệu quả. Tình hình tiêu thụ sản phẩm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Sản lượng thực tế năm 2001, 2002
Loại sản phẩm
Sản lượng sản xuất (kg)
Sản lượng tiêu thụ (kg)
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2001
Năm 2002
Len thảm
85.507
67.277
80.303
63.375
Len Acrylic
187.335
306.675
179.485
229.684
(Nguồn: Báo cáo tình hình tiêu thụ sản phẩm của Nhà máy)
Như vậy, sản lượng sản xuất, tiêu thụ len thảm giảm do nhu cầu đối với mặt hàng này giảm mạnh. Chỉ có len Acrylic là tăng sản lượng sản xuất, tiêu thụ; với mặt hàng này, đối thủ cạnh tranh đáng kể nhất của Nhà máy là len AC của Trung Quốc có giá hiện rẻ hơn len của Nhà máy 2000đ/cân song chất lượng kém hơn, tràn vào theo đường tiểu ngạch chiếm lĩnh thị trường và len Vĩnh Thịnh chuyên sản xuất len Acrylic dùng để đan áo, công ty này nhập khẩu top màu nên có lợi thế là màu của họ đẹp và đồng đều hơn song lại có hạn chế là không chủ động được về màu của sản phẩm nên không đáp ứng được nhu cầu đa dạng và thường xuyên thay đổi của khách hàng, trong khi đó Nhà máy len Hà Đông do quy trình sản xuất là tự nhuộm màu nên tuy sản phẩm không đẹp và đồng đều được như bên Vĩnh Thịnh (do công nghệ lạc hậu hơn và tay nghề công nhân yếu hơn) song lại có thể chủ động trong việc nhuộm màu đáp ứng nhu cầu đa dạng và hay thay đổi của người tiêu dùng; nhờ lợi thế đó mà sản lượng sản xuất, tiêu thụ của Nhà máy năm qua vẫn tăng. Có thể kể tên một số khách hàng lớn của Nhà máy trong 2 năm qua gồm có: Công ty TNHH Hoàng Dương (60 tấn len Acrylic mỗi năm), Công ty cổ phần kinh doanh len Sài Gòn (20 tấn len Acrylic mỗi năm), Công ty TNHH Đông Đô (20 tấn len thảm), Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Nam Định (6 tấn len thảm)...
2.2. Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông
2.2.1. Cơ sở thực hiện quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông
Quốc hội, Chính Phủ, các Bộ ban hành các văn bản pháp luật (từ Luật tới Thông tư) quy định các chế độ quản lí vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Có thể kể tên một số văn bản sau đây: Luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20/04/1995; Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996 của Chính phủ về Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước; Nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/04/1999 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/CP nói trên; Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN và Thông tư số 85/2002/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định này; Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999 hướng dẫn việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; Chế độ quản lí, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (Ban hành kèm theo Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính)...
Tổng công ty dệt may Việt Nam dựa vào những văn bản pháp luật liên quan như trên và Quy chế tài chính mẫu của Tổng công ty nhà nước (Ban hành kèm theo Quyết định số 838 TC/QĐ/TCDN ngày 28/8/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) xây dựng Quy chế tài chính của Tổng công ty dệt may Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 36/QĐ/HĐQT ngày 15/2/1997 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty dệt may Việt Nam). Công ty len Việt Nam (một thành viên hạch toán độc lập Tổng công ty dệt may Việt Nam) căn cứ vào đó xây dựng Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 19/QĐ-CTLVN ngày 19/8/1999 của Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam), trong đó đưa ra Chế độ tài chính của các đơn vị thành viên ( là các thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt Nam trong đó có Nhà máy len Hà Đông). Các nhà máy thành viên chịu trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh các quy định trong quy chế này. Ngoài các quy định trên, các nhà máy thành viên thực hiện đúng quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh theo quy định hiện hành của nhà nước.
Nội dung các văn bản trên đây hình thành nên căn cứ để các cấp quản lý quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông.
2.2.2. Tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy
2.2.2.1. Quản lý quá trình hình thành vốn
Được thành lập ngày 29/3/1999, Công ty len Việt Nam thực hiện giao vốn cho Nhà máy len Hà Đông trên cơ sở số vốn Nhà máy len Hà Đông đang quản lý và sử dụng. Theo Biên bản giao vốn đó, vốn Công ty len Việt Nam giao cho Nhà máy len Hà Đông sử dụng và bảo toàn tính đến 0h ngày 1/7/1999 thể hiện ở Bảng dưới:
Bảng 2: Vốn giao cho Nhà máy len Hà Đông tính đến ngày 1/7/1999
đơn vị : đồng
Chỉ tiêu
Tổng nguồn vốn
Trong đó
Nguồn ngân sách
Nguồn bổ sung
Tổng số vốn giao
11.250.652.059
4.847.958.744
6.402.693.315
1. Vốn cố định
5.200.688.859
2.503.093.658
2.697.595.201
-Dùng trong SXKD
4.956.668.276
2.259.073.075
2.697.595.201
-Chờ thanh lý
244.020.583
244.020.583
0
2. Vốn lưu động
6.049.963.200
2.344.865.086
3.705.098.114
-Dùng trong SXKD
2.833.413.014
0
2.833.413.014
-ứ đọng chờ thanh lý
3.216.550.186
2.344.865.086
871.685.100
(Nguồn : Biên bản giao vốn cho Nhà máy len Hà Đông ngày 1/7/1999)
Số vốn giao được xác định qua sổ sách Nhà máy len Hà Đông đưa lên, không được Công ty len Việt Nam kiểm kê kỹ lưỡng để đánh giá lại giá trị phần vốn nhà nước tại Nhà máy.
Theo số liệu tổng kết được từ Báo cáo tài chính của Nhà máy những năm gần đây, Vốn Nhà nước giao cho Nhà máy được thể hiện ở Đồ thị sau:
Đồ thị 1: Tình hình biến động vốn nhà nước qua hai năm 2001-2002
(số dư tại thời điểm 31/12 hàng năm)
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
VNN (đ)
11203245976
11255478548
10877609283
18488599890
NV (đ)
18549821203
21.438.844.185
21452408485
21959137838
VNN/NV (%)
60,40
52,50
50,71
84,20
3a) Biểu diễn theo giá trị tuyệt đối (đơn vị: đồng):
3b) Biểu diễn theo giá trị tương đối (đơn vị: %):
Đồ thị trên cho thấy chỉ có sự giảm nhẹ của vốn nhà nước giai đoạn 1999-2001 theo cả giá trị tuyệt đối và tương đối (trong năm 2001 Nhà máy điều chuyển 1 cửa hàng cho Công ty len Việt Nam cùng máy móc cho Nhà máy len Bình Lợi); song sang năm 2002 thì có sự biến động mạnh là do khoản vốn 7.478.889.093 đ trước đã được Công ty len Việt Nam quyết định điều chuyển khỏi Nhà máy nhưng Nhà máy chưa chuyển mà vẫn để lại ở tài khoản 336- phải trả nội bộ, trong năm 2000 sau khi Nhà máy được kiểm toán thấy việc điều chuyển đó không hợp lí đã kiến nghị lên Công ty điều chuyển lại số vốn đó cho Nhà máy và được Công ty thực hiện trong năm 2002.
ở Nhà máy len Hà Đông, hình thức thực hiện đầu tư và phạm vi đầu tư của Nhà nước vào Nhà máy cụ thể như sau:
Một là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn:
- Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị đưa vào sản xuất;
- Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp Nhà máy được Công ty len Việt Nam giao thêm nhiệm vụ (chủ yếu dưới hình thức tài sản điều chuyển về hay giảm khoản phải trả nội bộ);
Hai là, cho Nhà máy vay dài hạn không tính lãi, để lại tiền khấu hao để Nhà máy tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của Nhà nước;
Ba là, giao quyền sử dụng đất cho Nhà máy dưới hình thức thuê đất:
- Diện tích đất Nhà máy thuê là 39.938m2
- Về đường phố, khu đất nằm trên đường 430 thuộc địa bàn Vạn Phúc. Căn cứ vào Quyết định 03 của UBND tỉnh Hà Tây thì lô đất của Nhà máy nằm trên đường phố loại 2.
- Về vị trí, căn cứ vào thông tư liên bộ 856, thông tư 70 của Bộ Tài Chính, căn cứ thực tế lô đất của Nhà máy từ đường 430 kéo dài xuống áp với ruộng canh tác của Vạn Phúc (chiều dài > 200m2).
- Về tiền thuê, hiện Nhà máy phải nộp tiền thuê hàng năm: 101.457.000 đ.
Là một đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt Nam, vốn Nhà nước giao cho Nhà máy quản lí và sử dụng bao gồm:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách và vốn có nguồn gốc ngân sách:
+ Do Công ty len Việt Nam cấp trực tiếp;
+ Công ty len Việt Nam điều chuyển về từ các đơn vị nội bộ là các Nhà máy: Dệt chăn - Len Bình Lợi, Len Vĩnh Thịnh, Len Biên Hoà, Len Hải Phòng, Len Nam Định;
+ Quỹ khấu hao cơ bản Công ty len Việt Nam không thu mà để lại cho Nhà máy quản lí và sử dụng (để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định);
+ Tiền lãi không phải trả từ các khoản vốn vay Tổng công ty dệt may Việt Nam;
Hai là, vốn Nhà máy tự tích luỹ từ lợi nhuận sau thuế của Nhà máy;
Hàng năm Nhà máy len Hà Đông căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tiến hành xây dựng kế hoạch tài chính. Công ty len Việt Nam xem xét nhu cầu về vốn của Nhà máy; nếu qua xem xét thấy Nhà máy thiếu vốn, Công ty có biện pháp bổ sung kịp thời: điều động, xin cấp bổ sung theo luật định, hoặc đi vay cho Nhà máy và ngược lại.
Bên cạnh vốn được giao, Nhà máy đã tự huy động vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh, thay đổi cơ cấu nguồn và tài sản nhằm mục tiêu hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn, cụ thể: Nhà máy sử dụng tín dụng Ngân hàng với số dư Nợ 1000.000.000đ tại thời điểm 01/01/2002, tín dụng thương mại với số dư Nợ 435.504.481 đồng tại thời điểm 01/01/2002 và 617.731.708 đồng tại thời điểm 31/12/2000... Vốn này được Nhà máy sử dụng để phục vụ kịp thời các nhu cầu trong kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và có hoàn trả. Tài sản được thay đổi cơ cấu theo hướng giảm ngân quỹ nhằm đẩy mạnh sản xuất (tăng tồn kho) và tiêu thụ (tăng phải thu). Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam uỷ quyền cho Giám đốc Nhà máy len Hà Đông được vay vốn lưu động theo mức quy định tại giấy uỷ quyền với thời gian vay từ 6 tháng đến dưới 12 tháng. Vay dài hạn được căn cứ vào từng dự án được duyệt. Trong trường hợp có nhu cầu vay lớn hơn, Tổng giám đốc sẽ uỷ quyền từng trường hợp cụ thể. Tổng giám đốc công ty còn uỷ quyền cho Giám đốc nhà máy len Hà Đông được ký hợp đồng mua nguyên vật liệu trả chậm thông qua Vinatex ở phía bắc, hoặc các đơn vị khác.
2.2.2.2. Quản lý quá trình sử dụng vốn
a, Từ phía Nhà máy len Hà Đông:
Nhà máy len Hà Đông theo đó đã và đang thực hiện các biện pháp quản lý sau:
Một là, Nhà máy đã mở sổ và ghi sổ kế toán (theo hình thức Nhật ký chứng từ) theo dõi chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành: cụ thể là theo Quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 về chế độ kế toán doanh nghiệp; Thông tư số 10 TC/CĐKT ngày 20/3/1997 và Thông tư số 120/1999/TT-BTC ngày 7/10/1999 hướng dẫn sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán doanh nghiệp về niên độ kế toán (bắt đầu từ 1/1 kết thúc 31/12); đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép (đồng); phương pháp kế toán TSCĐ (phương pháp khấu hao tuyến tính và đánh giá theo mặt bằng giá tại thời điểm); phương pháp kế toán hàng tồn kho (phương pháp kê khai thường xuyên)...; phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong qúa trình kinh doanh của Nhà máy; với báo cáo tài chính doanh nghiệp, Nhà máy thực hiện đúng các quy định trong Chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000. Theo đó, Nhà máy đã lập 3 biểu mẫu báo cáo bắt buộc là Bảng cân đối kế toán, Kết quả hoạt động kinh doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính. Thực hiện công khai tài chính với cán bộ thuế và với cấp trên (Công ty len Việt Nam).
Hai là, đối với ngân quỹ, Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết các khoản: Tiền mặt tại quỹ (gồm cả ngân phiếu), Tiền gửi ngân hàng và Tiền đang chuyển; thực hiện Quy chế tài chính của Công ty len Việt Nam, Nhà máy đã mở tài khoản Việt Nam đồng ở Ngân hàng Công thương Hà Tây (số dư cuối năm 2002 là 826.720.150 đồng), thực hiện chuyên thu, chuyên chi đối với tài khoản này theo quy định của Công ty len Việt Nam (quy định trong Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam). Cụ thể, tài khoản này đã được thông báo tới ngân hàng về được quy định chuyên thu chuyên chi như sau:
- Về thu: + Thu về các khoản tiền do Công ty len Việt Nam và các nhà máy
thành viên trong Công ty chuyển tới;
+ Thu về các khoản do cơ quan nhà nước cấp;
+ Thu về các khoản do Nhà máy nộp vào tài khoản;
+ Thu về tiền hoàn thuế GTGT;
- Về chi: + Rút tiền về để trả lương và các khoản chi phí khác tại Nhà máy;
+ Chi trả bằng chuyển khoản cho các đơn vị trong nước về việc mua
nguyên vật liệu ;
+ Chuyển tiền về Công ty và các đơn vị thành viên trong Công ty;
+ Trả tiền điện, điện thoại, nước, nộp thuế.
Tuy vậy, quy định về hạn mức số dư tiền mặt (50.000.000 đồng) và số dư tài khoản (100.000.000 đồng) của Công ty len Việt Nam không được Nhà máy thực hiện.
Ba là, đối với TSCĐ, từ năm 2000 đến nay, Nhà máy quản lí, sử dụng và trích khấu hao đúng theo Chế độ quản lí, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định ban hành kèm theo Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính (trước đó, Nhà máy đã thực hiện theo Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định ban hành kèm theo Quyết định số 1062 TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). Cụ thể:
- Các TSCĐ trong Nhà máy đều có bộ hồ sơ riêng (bộ hồ sơ gồm có biên bản giao nhận tài sản cố định, hợp đồng, hoá đơn mua tài sản cố định và các chứng từ khác có liên quan), được theo dõi, quản lý, sử dụng và trích khấu hao theo đúng các quy định trong Chế độ hiện hành. Nhà máy áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính theo điều 18 của Chế độ này, theo đó:
Mức trích khấu hao Nguyên giá của tài sản cố định
trung bình hàng năm =
của tài sản cố định Thời gian sử dụng.
Thời gian sử dụng của TSCĐ được Nhà máy định theo quy định tại điều 15 của Chế độ hiện hành. Đồng thời, Nhà máy xác định nguyên giá của tài sản cố định như sau:
+ Đối với TSCĐ loại mua sắm (như Máy biến áp 380/ 220 V-nguyên giá 63.570.440 đ, Máy bứt đầu tư thêm-nguyên giá 84.028.704 đ mới mua năm 2001...): Nguyên giá = giá thực tế phải trả + chi phí vận chuyển, bốc dỡ + chi phí lắp đặt, chạy thử, thuế và lệ phí tr|ớc bạ;
+ Đối với TSCĐ loại đầu tư xây dựng (như Nhà kèo tiệp Len 2 mới-nguyên giá 664.007.464 đ xây xong trong năm 2001, Nhà vệ sinh khu điều hành-nguyên giá 39.174.000 đ xây xong đầu năm 2002...):
Nguyên giá = giá quyết toán công trình xây dựng + các chi phí khác liên quan;
+ Đối với TSCĐ loại được Công ty len cấp, được điều chuyển đến từ các đơn vị nội bộ của Công ty len (như Máy ghép chuyển từ len NĐ lên- nguyên giá 865.422.356 đ, Máy sợi thô chuyển từ len NĐ lên-nguyên giá 449.515.209 đ...): Nguyên giá TSCĐ là nguyên giá phản ánh ở đơn vị bị điều chuyển phù hợp với bộ hồ sơ của TSCĐ đó. Nhà máy căn cứ vào nguyên giá, số khấu hao luỹ kế,. giá trị còn lại trên sổ kế toán và bộ hồ sơ của TSCĐ đó để xác định các chỉ tiêu nguyên giá, số khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại trên sổ kế toán của tài sản cố định và phản ánh vào sổ kế toán. Các chi phí có liên quan tới việc điều chuyển tài sản cố định được Nhà máy hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
- Nhà máy sử dụng quỹ khấu hao cơ bản của Nhà máy để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định. Trong năm 2002, Nhà máy đề nghị Công ty len Việt Nam xin trích từ quỹ này hơn 1 tỷ đồng để mua sắm máy móc thiết bị và xây dựng nhà xưởng mới cho dự án đầu tư bổ sung thiết bị tăng năng lực sản xuất dây chuyền kéo sợi len từ 150 tấn/nămà 300 tấn/năm.
- Các chi phí để nâng cấp TSCĐ được Nhà máy phản ánh tăng thêm nguyên giá TSCĐ đó. Các chi phí sửa chữa TSCĐ được Nhà máy hạch toán trực tiếp (hoặc phân bổ dần nếu chi phí là lớn) vào chi phí kinh doanh trong thời kỳ.
- TSCĐ được Nhà máy phân loại, thống kê, đánh số và có thẻ riêng, được theo dõi chi tiết theo từng đối tượng ghi tài sản cố định và được phản ánh trong sổ theo dõi TSCĐ. Hiện TSCĐ trong Nhà máy được phân thành:
+ TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh, gồm Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc (như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, sân bãi...), Loại 2: Máy móc, thiết bị công tác (như máy bứt tách tow, máy ghép, máy sợi, máy đậu Savio, máy xe... ); Loại 3: Phương tiện vận tải (hiện chỉ có Ô tô); Loại 4: Thiết bị, dụng cụ quản lý (như Máy phô tô SF 2025 h/c, Máy in LQ 2180 t/v, Máy FAX 1270, Máy vi tính máy in ổ đĩa CD (KD,KT,GĐ,T/c), Máy điều hoà nhiệt độ (GĐ), Bộ loa đài phòng họp, Điên thoại...); Loại 5: Thiết bị động lực (như Máy biến thế 380/ 220 V, Máy biến áp 380/ 220 V, Hệ thống điện, Hệ thống nước, Nồi hơi đốt than...); Loại 6: Đất.
+ TSCĐ dùng cho phúc lợi, gồm có 28 căn nhà trong khu tập thể Len Nhuộm và Mương thoát nước tập thể;
Nhà máy đã thực hiện việc quản lý, sử dụng đối với những TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn tham gia vào hoạt động kinh doanh như: Máy nhuộm len, Máy đánh ống, Máy sấy len, Máy chải, Máy xé săn, Máy nén khí, Máy xé trộn, Máy sợi con, Máy vắt ly tâm, Máy bào, Máy nhuộm mẫu... Định kỳ vào cuối mỗi năm tài chính, Nhà máy vẫn tiến hành kiểm kê TSCĐ và kết quả kiểm kê cho kết quả đủ;
- Riêng đối với quyền sử dụng đất (mà theo sổ sách của Nhà máy là Đất), diện tích đất 39.938m2 Nhà nước giao đã được Nhà máy quản lí và sử dụng như sau:
+ Phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy (xây dựng nhà cửa công trình kiến trúc cho hoạt động sản xuất, cho công tác quản lí điều hành và hoạt động bán hàng);
+ Một số mảnh đất do chưa có nhu cầu sử dụng cho các hoạt động nêu trên được nhà máy đầu tư xây dựng thành các cửa hàng, nhà xưởng để cho thuê.
+ Nhà máy điều chuyển Nhà kho vật tư phụ tùng (gồm cả đất) cho Công ty len Việt Nam trong năm 2002 theo yêu cầu của Công ty len;
+ Bên cạnh đó vẫn còn một số mảnh đất để trống do chưa có nhu cầu sử dụng hoặc không thể khai thác sử dụng (phía sau giáp với đồng Vạn Phúc có 10000m2 (rộng 200m * 50m) do ảnh hưởng của đường điện cao thế nên hiện tại Nhà máy không đưa vào khai thác sử dụng được);
- Nhà máy cho thuê hoạt động các TSCĐ thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình (những TSCĐ tạm thời chưa dùng đến) để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập, đồng thời vẫn đảm bảo theo dõi và quản lý được TSCĐ. Nhà máy đã lập phương án trình Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam duyệt trước khi thực hiện. Nhà máy và bên thuê TSCĐ đã lập hợp đồng thuê TSCĐ trong đó nói rõ loại TSCĐ, thời gian thuê, tiền thuê phải trả và trách nhiệm hai bên. Cụ thể: Nhà máy ký hợp đồng cho công ty TNHH dệt Quốc Tấn thuê nhà xưởng (1507 m2 , 10.549.000 đ/tháng) + sân bãi (556,55 m2, 1.947.925 đ/tháng) thời hạn 10 năm (1/7/2000à1/7/2010); cho công ty TNHH Hoàng Dương thuê 1 cửa hàng (1.200.000 đ/tháng) thời hạn 5 năm (15/5/2001à15/5/2005), cho thuê nhà nồi hơi KZL (309 m2, 2.781.000 đ/tháng) + sân bãi (550 m2, 1.925.000 đ/tháng) thời hạn 10 năm (1/7/2000à1/7/2010). Hiện mỗi năm Nhà máy thu hơn 200 triệu đồng tiền thuê. Trong thời gian cho thuê, Nhà máy vẫn tính và trích khấu hao đối với những TSCĐ này vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
- Nhà máy đã nhượng bán các TSCĐ không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn (năm 2001, Nhà máy nhượng bán 1 ô tô tải con và 1 máy sợi con thu 147 triệu đồng, năm 2002 nhượng bán 1 số TSCĐ gắn với Nhà in hoa thu 11 triệu đồng); Nhà máy cũng đã thanh lý những tài sản lạc hậu hư hỏng không có khả năng phục hồi, tài sản lạc hậu kỹ thuật không có nhu cầu sử dụng, tài sản sử dụng không có hiệu qủa và không thể nhượng bán nguyên trạng. Hiện Nhà máy cũng đang xin Công ty len Việt Nam cho thanh lý một số tài sản khác (đã khấu hao hết). Những tài sản chờ thanh lý bao gồm:
1 Máy xé săn
1 Máy chải số 1
1 Hệ thống hút bụi máy chải
1 hệ Máy nén làm lạnh 107,3kw
1 hệ Tháp làm mát 116m3/h
1 hệ Máy điều hoà không khí
2 Nồi hơi đốt dầu Pháp
1 Máy xé Lông cừu ET 60
1 Máy In GL h/c
2 Máy Vi tính 300 A t/v
1 Máy in LQ 2180 t/v
1 Nồi hơi đốt than
1 Máy đánh ống chuyển từ NĐ lên
3 Máy nhuộm len
1 Máy sấy lông cừu
Để nhượng bán, thanh lý tài sản, một Hội đồng đánh giá thực trạng về mặt kỹ thuật, thẩm định giá trị tài sản đã được thiết lập (gồm có sự tham gia của Giám đốc, cán bộ phòng kỹ thuật, phòng kế toán và phòng kinh doanh). Tài sản đem
nhượng bán được tổ chức đấu giá, thông báo công khai trên báo Nhân Dân. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý đã được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của Nhà máy (phần Lợi nhuận bất thường).
Bốn là, đối với công nợ, Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu theo từng đối tượng nợ, thời gian nợ và số tiền thiếu nợ. Định kỳ (tháng, qúy), Nhà máy tiến hành đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi (là các khoản phải thu dự kiến không thu được trong kỳ kinh doanh tới do khách nợ không có khả năng thanh toán). Với các khoản nợ không thu hồi được, Nhà máy xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý rồi trình Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam xem xét phê duyệt. Ngày 10/9/2002, một Hội đồng xử lý công nợ đã được thành lập, họp xem xét Nợ tồn đọng khó đòi phát sinh từ năm 1996 đến nay vẫn chưa thu hồi được. Hội đồng gồm Giám đốc, Trưởng phòng tài chính-kế toán và một nhân viên phòng tài chính- kế toán chuyên kế toán công nợ của Nhà máy. Căn cứ vào Nghị định số 69/2002/NĐ-CP về quản lí và xử lí nợ tồn đọng đối với DNNN và Quyết định số 628/QĐ-TCHC của Giám đốc Nhà máy len Hà Đông về thành lập Hội đồng xử lý công nợ, sau khi xem xét kỹ khả năng thu hồi các khoản nợ tồn đọng, đã thống nhất trích lập dự phòng các khoản nợ tồn đọng khó đòi sau:
Bảng 3: Các khoản nợ tồn đọng khó đòi phát sinh từ năm 1996 đến nay
STT
Tên người nợ
Số nợ (đ)
Năm p/s nợ
Lý do lập dự phòng
1
HTX Hoà Phát-Hoa Vang-QNĐN
11.539.300
1998
Khách hàng đã ngừng hoạt động và không tìm được địa chỉ
2
Nguyễn Văn Mạnh-Cục thuế Hà Tây
2.000.000
1996
Là cá nhân đã già yếu không có khả năng thanh toán
3
Nhà máy giầy Yên Viên
965.579
1996
Chi phí đòi nợ > Giá trị khoản nợ phải thu
4
Nhà máy dệt vải công nghiệp HN
867.500
1998
Chi phí đòi nợ > Giá trị khoản nợ phải thu
Tổng cộng
15.372.379
(Nguồn: Biên bản xử lý công nợ khó đòi năm 2002 của Nhà máy)
Toàn thể Hội đồng xử lý công nợ đã nhất trí thông qua biên bản. Mức trích dự phòng như vậy là phù hợp với Thông tư số 107/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001 hướng dẫn chế độ trích lập và bổ sung các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán đầu tư, dự phòng nợ khó đòi tại doanh nghiệp; theo đó, tổng mức lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi tối đa bằng 20% tổng dư nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm lập Báo cáo tài chính năm (tức là không quá 20% * 6.422.771.513 = 1.284.554.302,6 đ >15.372.379 đ). Khoản dự phòng các khoản nợ khó đòi sau tạm được Nhà máy hạch toán vào chi phí kinh doanh của Nhà máy. Mức trích này đã được Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam duyệt.
Năm là, đối với dự trữ, Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản mục (gồm: Hàng mua đang đi đường; Nguyên liệu, vật liệu tồn kho; Công cụ, dụng cụ trong kho; Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang; Thành phẩm tồn kho; hàng hoá tồn kho và Hàng gửi đi bán). Định kỳ (tháng, qúy), Nhà máy tiến hành đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình hàng tồn kho. Riêng đối với công cụ lao động nhỏ, Nhà máy đã theo dõi, quản lý, sử dụng chúng như đồi với TSCĐ và đã tính toán, phân bổ dần giá trị của chúng vào chi phí kinh doanh theo thời gian sử dụng cho phù hợp. Đối với công cụ đã phân bổ hết mà vẫn sử dụng được, Nhà máy đã theo dõi, quản lý, sử dụng chúng như những công cụ lao động nhỏ bình thường nhưng không phân bổ giá trị của nó vào chi phí kinh doanh. Đặc biệt, ngày 6/12/1999, Nhà máy len Hà Đông đã thành lập Hội đồng kiểm kê gồm: Giám đốc, Trưởng phòng tài chính-kế toán, Trưởng phòng kinh doanh, Trưởng phòng kỹ thuật sản xuất đầu tư và hai phó phòng kỹ thuật sản xuất đẩu tư cùng nhau kiểm tra xem xét đánh giá chất lượng các loại vật tư hàng hoá thành phẩm kém mất phẩm chất của Nhà máy tại thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000 như sau:
+ Thảm len phục vụ xuất khẩu: Là loại thảm dệt ra với hy vọng trả nợ cho CH Liên bang Nga. Nhưng do chỉ tiêu trả nợ từ năm 1996 đến nay không có, cho nên không tiêu thụ được. Tổng số loại thảm này tồn kho đến 31/12/1999 là 1211,74 m2, số thảm này được dệt ra từ những năm 1991, 1994, 1995 nên chất lượng bị suy giảm nhiều, mặt thảm bị con nhậy cắn, các tua đa phần bị úa vàng, chất lượng kém;
+ Hoá chất thuốc nhuộm tồn kho ứ đọng lâu ngày: Do không có chỉ tiêu trả nợ
cho CH liên bang Nga nên mặt hàng len thảm bị thu hẹp lại. Vì vậy, số hoá chất thuốc nhuộm mua về để chuẩn bị phục vụ cho sản xuát len thảm bị tồn kho ứ đọng nhiều, vì tồn kho lâu năm nên số hoá chất thuốc nhuộm này bị tác động của độ ẩm, không khí, oxy hoá làm chất lượng giảm đi rất nhiều, đại bộ phận là vón cục, chảy nước, thậm chí có những loại không còn sử dụng được trong sản xuất công nghiệp nữa (chỉ đưa vào sản xuất ở dạng thủ công nghiệp);
+ Vải thành phẩm tồn kho lâu ngày: Đại bộ phận số vải này là vải đầu tấm, vải có khuyết tật trong quá trình nhuộm và cũng có cả khuyết tật ngay khi còn là vải mộc được dồn từ năm này sang năm khác; số vải này do chất lượng kém, khó tiêu thụ nên tồn kho quá lâu năm, vì vậy độ bền cũng như màu sắc các dạng lỗi, không còn đảm bảo theo tiêu chuẩn phân loại nữa;
+ Len thảm: Số len thảm tồn kho từ đầu những năm 1990 đến nay đã bị nhậy cắn nhiều, ố vàng, chất lượng suy giảm rất nhiều;
+ Len Acrylic: Do mới đầu tư nên chất lượng chưa đạt được như len Acrylic của các Nhà máy có truyền thống như len Vĩnh Thịnh, len Biên Hoà. Mặt khác, do chưa có kinh nghiệm trong khâu tiếp cận thị trường, nắm bắt những nhu cầu của khách hàng cho nên một số màu sắc bị lạc mốt, chỉ số sợi bị lạc hậu;
+ Phụ tùng dụng cụ: Một số phụ tùng dụng cụ để từ lâu không sử dụng đến dẫn đến bị han rỉ, nứt hỏng, giá trị sử dụng bị giảm đi rất nhiều;
Bảng 4: Giá trị nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm ứ đọng kém, mất phẩm chất đến 31/12/1999
đơn vị: đồng
STT
Tên vật tư
Theo giá trị sổ sách
Theo giá trị xác định lại
Chênh lệch tăng(+) giảm(-)
A
B
1
2
3=1-2
1
Hàng mộc
8.670.560
4.947.400
-3.723.160
2
Thuốc nhuộm hoá chất
1.259.331.692
536.851.416
-722.480.276
3
Xăng dầu mỡ
202.173.366
148.617.506
-53.555.860
4
Phụ tùng và vật liệu khác
94.185.309
24.501.660
-69.683.649
5
Công cụ dụng cụ
14.289.789
7.843.330
-6.446.459
6
Vải các loại
305.660.388
140.603.779
-165.056.609
7
Thảm len
588.978.514
98.210.000
-490.768.514
8
Len thảm
482.085.827
428.186.000
-53.899.827
9
Len đan
1.175.293.162
695.744.000
-479.549.162
Tổng
4.130.668.607
2.085.505.091
-2.045.163.516
(Nguồn: Biên bản xác định chất lượng vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm chất tồn kho đến 1/1/2000)
Tất cả mọi thành viên của Hội đồng kiểm kê đều ký tên vào Biên bản này. Nhà máy đã thảo Công văn số 159/CV-TCKT về việc xin xử lý hàng hoá kém mất phẩm chất kèm theo Biên bản này gửi Công ty len Việt Nam, đề nghị Công ty len Việt Nam đề nghị Tổng công ty dệt may Việt Nam xem xét và giải quyết cho Nhà máy được giảm vốn của số vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm chất tồn kho đến 1/1/2000 là: 2.045.163.516 đ; đồng thời có phương án nhượng bán số hàng tồn này để tránh chúng tiếp tục xuống giá nhanh chóng, song cho đến nay vẫn chưa được duyệt.
Sáu là, Nhà máy đã dùng lãi năm sau (trước thuế) để bù lỗ các năm trước: Lỗ luỹ kế hơn 1,5 tỷ đồng (tính đến hết năm 1998) của Nhà máy được bù bằng lãi trong 4 năm liên tục từ 1999à2002 (thời gian chưa quá 5 năm), đến nay lỗ luỹ kế chỉ còn 170.396.772 đ;
Bảy là, Nhà máy đang nỗ lực giảm chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Trong quản lý chi phí vật tư, giá vật tư đã được xác định như sau:
+ Theo giá hoá đơn do công ty giao cho nhà máy đối với vật tư do công ty trực tiếp nhập khẩu;
+ Là giá theo hoá đơn của người bán cộng với các chi phí khác có liên quan như vận chuyển, bốc xếp... đối với vật tư do nhà máy mua trong nước;
+ Là giá vật tư thực tế xuất kho cộng với chi phí phát sinh trong quá trình tự chế đối với vật tư tự chế và là giá vật tư thực tế xuất kho cộng với chi phí thuê ngoài gia công chế biến đối với vật tư thuê ngoài gia công chế biến. Các loại vật tư trên đều phải có hoá đơn chứng từ theo quy định của nhà nước.
Các khoản chi phí mua vật tư trong nước được quy định như sau:
+ Đối với loại vật tư mua lẻ, đột xuất, Giám đốc Nhà máy len Hà Đông quyết định, sau đó đã báo cáo Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam;
+ Các loại vật tư khác: Do Công ty len Việt Nam trực tiếp đàm phám giá và uỷ quyền cho Nhà máy len Hà Đông thực hiện.
Đối với mức tiêu hao vật tư, Giám đốc Nhà máy chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành định mức các loại vật tư dùng trong sản xuất kinh doanh. Tổ chức hạch toán, theo dõi, kiểm tra thường xuyên, định kỳ hàng quý phân tích tình hình thực hiện định mức vật tư, có biện pháp không ngừng hoàn thiện định mức trên.
Đối với tiền lương, hàng năm Nhà máy đã xây dựng định mức chi phí tiền lương trên doanh thu. Công ty len Việt Nam chịu trách nhiệm xem xét, tổng hợp trình Tổng công ty dệt may Việt Nam phê duyệt, làm cơ sở cho Nhà máy trích vào chi phí và trả cho người lao động.
Chi phí ăn ca được căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của Nhà máy, mức ăn ca do Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam xem xét quyết định. Năm 2001 và 2002, mức này là 3000đ/người/ca.
Các khoản chi phí tiếp khách, hội họp, giao dịch, đối ngoại Nhà máy đã tự xây dựng định mức chỉ tiêu trình Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam phê duyệt.
Các khoản chi và chi phí khác được Nhà máy len Hà Đông thực hiện theo quy định hiện hành.
Giám đốc Nhà máy len Hà Đông giải quyết các trường hợp giá trị hàng trả lại dưới 1 triệu đồng (Giá trị hàng hoá trả lại trên 1 triệu đồng phải báo cáo Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam quyết định).
b, Từ phía các đơn vị quản lý cấp trên:
Một là, hoạt động giám sát được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất:
- Hoạt động giám sát đột xuất những năm gần đây thể hiện qua hai sự việc sau:
+ Trong năm 2001, kiểm toán nhà nước (theo kế hoạch của Chính phủ) tiến hành kiểm toán một số doanh nghiệp nhà nước và Công ty len Việt Nam đã được lựa chọn. Việc kiểm toán được thực hiện ở các nhà máy thành viên của Công ty len Việt Nam trong đó có Nhà máy len Hà Đông. Qua kiểm tra kiểm toán nhà nước phát hiện thấy việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi 13.539.300 đồng năm 2000 không hợp lệ do Nhà máy đã không thành lập Hội đồng xử lý công nợ (hồ sơ thiếu thủ tục cần thiết) nên đã yêu cầu Công ty len Việt Nam điều chỉnh lại, xoá bút toán lập dự phòng, giảm chi phí quản lý doanh nghiệp và tăng lãi năm 2000; phân tích cơ cấu vốn của Nhà máy thấy việc điều chuyển khoản vốn 7.478.889.093 đ (trước đã được Công ty len Việt Nam quyết
định điều chuyển khỏi Nhà máy nhưng Nhà máy chưa chuyển mà vẫn để lại ở tài khoản 336- phải trả nội bộ) không hợp lí đã kiến nghị lên Công ty điều chuyển lại số vốn đó cho Nhà máy và đến năm 2002 đề xuất đó mới được Công ty len Việt Nam thực hiện.
+ Trong năm 2001, Tổng công ty dệt may Việt Nam thuê kiểm toán độc lập (Công ty AFC-Sài Gòn) về kiểm toán Công ty len Việt Nam, trong đó có kiểm toán đơn vị thành viên phía bắc là Nhà máy len Hà Đông. Kết quả kiểm toán phát hiện Nhà máy trích BHXH thừa 18.362.372 đồng. Tổng công ty dệt may Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo yêu cầu Công ty len Việt Nam điều chỉnh giảm tiền BHXH tăng lãi 18.362.372 đồng, Công ty len Việt Nam đã thực hiện và điều chỉnh lại Báo cáo tài chính của Nhà máy len Hà Đông trong đợt đi kiểm tra Báo cáo tài chính năm 2001của Nhà máy
Hoạt động giám sát định kỳ thể hiện qua việc Công ty theo dõi, kiểm tra Báo cáo tài chính hàng quý của Nhà máy và Báo cáo kiểm kê tài sản 6 tháng một lần do Nhà máy nộp lên. Kết thúc mỗi năm, cán bộ Công ty trực tiếp xuống kiểm tra Báo cáo tài chính năm của Nhà máy. Chẳng hạn trong hai năm 2001 và 2002 khi tiến hành công việc này, một Hội đồng kiểm tra đã được thành lập gồm có sự tham gia của cán bộ Công ty len Việt Nam (kế toán trưởng và kế toán tổng hợp) kết hợp với cán bộ Nhà máy len Hà Đông (Giám đốc, trưởng phòng TCKT và phó phòng TCKT). Việc kiểm tra cho kết quả như sau (trang bên):
Bảng 5: Bảng cân đối kế toán ngày 31/12/2001 và 31/12/2002
Đv: đồng
Số liệu của Nhà máy
Số liệu kiểm kê
2001
2002
2001
2002
A.Tài sản
21.438.844.185
21.959.137.838
21.188.869.185
21.960.684.332
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH085.doc