Tài liệu Chuyên đề Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường: Lời mở đầu
Nhiều năm đã đi qua sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bản đồ địa lý kinh tế, chính trị thế giới đã được phân bố lại. Sự thành công hay thất bại của từng quốc gia đã được thời gian khẳng định như giá trị chung của quá trình phát triển nhân loại. Một trong những nước thành công trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội phải kể đến Nhật Bản và các nước NICs, Châu á... tất nhiên không thể dựa vào một vài khía cạnh kinh tế xã hội để định giá sự phát triển, song nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách đều khẳng định được mấu chốt ở chỗ các nước đều phát triển nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế không còn là xu hướng mà đã trở thành quy luật khách quan. Tuy nhiên để thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội nhập phụ thuộc ít nhiều vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước trong đó việc hoạch định chính sách đúng đắn và các biện...
38 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Nhiều năm đã đi qua sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bản đồ địa lý kinh tế, chính trị thế giới đã được phân bố lại. Sự thành công hay thất bại của từng quốc gia đã được thời gian khẳng định như giá trị chung của quá trình phát triển nhân loại. Một trong những nước thành công trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội phải kể đến Nhật Bản và các nước NICs, Châu á... tất nhiên không thể dựa vào một vài khía cạnh kinh tế xã hội để định giá sự phát triển, song nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách đều khẳng định được mấu chốt ở chỗ các nước đều phát triển nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế không còn là xu hướng mà đã trở thành quy luật khách quan. Tuy nhiên để thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội nhập phụ thuộc ít nhiều vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước trong đó việc hoạch định chính sách đúng đắn và các biện pháp thực hiện có vai trò đặc biệt quan trọng.
Việt Nam là một nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, thúc đẩy xuất khẩu nói riêng được coi là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Thúc đẩy xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế của đất nước thực hiện quá trình hội nhập kinh tế trong phạm vi khu vực cũng như quốc tế đồng thời phát triển nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được kết quả nhất định, chẳng hạn như trong việc chuyển hướng và mở rộng thị trường, trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp thay đổi cơ cấu mặt hàng ngày càng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm cần lưu ý đó là việc cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là sản phẩm thô và sơ chế, khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới còn rất hạn chế, chủ yếu là do tiêu chuẩn và giá thành của nhiều mặt hàng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Do đó cần phải có một hệ thống các chính sách thúc đẩy xuất khẩu, giảm thiểu những hạn chế trên. Chuyên đề: “Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường” ở Việt Nam là tên đề án môn học thương mại hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương i. Sự cần thiết phải thực thi chiến lược hướng về xuất khẩu
Các nhà kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng : có hai phương pháp thực hiện quá trình công nghiệp hoá (CNH) là chiến lược thay thế nhập khẩu và chiến lược hướng về xuất khẩu. Còn chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô được coi là chiến lược tạo nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH. Đồng thời, họ cũng chỉ ra rằng việc lựa chọn chiến lược nào cho phát triển kinh tế đất nước là tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của mỗi nước.Tuy nhiên, đối với nước nào áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu cũng chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và trong một phạm vi nhất định là quy mô thị trường nhỏ dung lượng thương mại không lớn. Trong khi đó, công nghiệp hoá là một quá trình đa ngành công nghiệp tác động vào nền kinh tế xã hội một cách toàn diện, liên tục với trình độ công nghệ ngày càng cao. Quá trình đó làm thay toàn diện nền kinh tế đa đất nước từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu lên một nước có nền công nghiệp hiện đại, phát triển. Điều đó có nghĩa là quá trình CNH đòi hỏi một khoảng thời gian dài để xây dựng một nền kinh tế có tiềm lực mạnh về mọi mặt. Đây cũng được xác định là nhiêm vụ trung tâm trong chiến lược phát triển của mọi quốc gia.
Trong lịch sử phát triển CNH, các quốc gia đều bắt đầu xây dựng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp phát triển còn hết sức sơ khai trở thành một nước xuất khẩu lương thực, công nghiệp hiện đại với công nghệ cao. Nhưng quá trình đó ở các nước khác nhau thời gian hoàn thành là không giống nhau : Anh cần khoảng 120 năm, Mỹ cần khoảng 80 năm, nhóm các nước NICs chỉ cần khoảng 30 năm... Như vậy một xu hướng chung là những nước tiến hành CNH cần thời gian hoàn thành càng ngắn nhưng lại đạt được những kết quả rất cao. Sở dĩ có xu hướng trên là do quá trình CNH ở các nước khác nhau tiến hành vào các thời kỳ khác nhau, tại các thời kỳ đó trình độ phát triển của khoa học công nghệ cũng không giống nhau mà cụ thể là càng ngày càng phát triển, càng hiện đại. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá ở các thời kỳ khác nhau được tiến hành theo các trình tự khác nhau từ thứ tự đến nhảy vọt hoặc kết hợp cả hai và sự can thiệp của Chính phủ vào quá trình đó cũng khác nhau. Đây là sự khác biệt cơ bản của quá trình công nghiệp hoá ở Châu á và các nước phương Tây. Đối với các nước NICs và ASEAN thì sự can thiệp của Chính phủ có thể coi là một nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của quá trình CNH. Điều đó chứng tỏ vai trò cần thiết của Nhà nước trong quản lý vĩ mô, lựa chọn đường đi nước bước kết hợp với việc lựa chọn các chính sách phát triển kinh tế, tạo ra hướng đúng để phát huy lợi thế so sánh của đất nước. Từ đó, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đất nước.
Trong thời kỳ đầu các nước NICs và ASEAN đều lựa chọn chính sách phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực có sẵn trong nước và hàng tiêu dùng. Thời kỳ này, vai trò của Chính phủ trong việc định hướng chiến lược, tạo khuôn khỗ pháp luật, đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Khi chiến lược này bộc lộ những hạn chế đặt ra yêu cầu khách quan là phải chuyển hướng chiến lược thì Chính phủ đã nhanh chóng định hướng lái nền kinh tế cho phù hợp với quy luật và thời đại .Như vậy, quá trình chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu là đúng đắn và phù hợp với quy luật cái cũ thay thế cái mới, bắt kịp xu hướng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để thấy được tính quy luật này, vai trò của Chính phủ thể hiện như thế nào và tiện liên hệ với điều kiện, đặc điểm nên khái quát mô hình CNH ở các nước NICs và ASEAN ở những điểm sau :
I - Nội dung của chiến lược thay thế nhập khẩu .
Chiến lược thay thế nhập khẩu là để đẩy mạnh các nghành công nghiệp trong nước trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các nghành công nghiệp khai thác, sản xuất sản phẩm nội địa thay thế sản phẩm từ trước đến nay phải nhập khẩu từ nước ngoài .
Năm 1971, ALin Coln nói: ” Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhưng tôi biết rất rõ khi tôi mua một cái áo ở nước Anh, tôi có áo và nước Anh có tiền. Khi tôi mua một cái áo ở Mĩ thì tôi có áo và nước Mĩ có tiền”. Có thể thấy ở đây một sự chú trọng vào thị trường nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và lưu thông hàng hoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược thay thế nhập khẩu. Chiến lược này được áp dụng rộng rãi từ cuối thập kỷ 50 đến gần cận nhất là các nước NICs và ASEAN.
Về cơ bản chiến lược này được áp dụng trong giai đoạn đầu với khoảng thời gian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu. Cụ thể là đối với Hàn Quốc việc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên tạo điều kiện tăng dần dung lượng thị trường nội địa nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng sử dụng nhiều sức lao động nhưng cần ít vốn như các ngành : dệt, may mặc, chế biến...
Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến lược phát triển ông nghiệp gắn với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này Đài Loan cũng đã thấy được khuyết điểm của chiến lược mà họ đang sử dụng đó là thị trường trong nước có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăng trưởng chậm lại .
Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 của Malaixia thể hiện rõ đường lối phát triển kinh tế là thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu để khẳng của Malaixia trong buôn bán cũng như trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ này Malaxyia chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt là sản xuất nông nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây mà Malayxia đã phải nhập khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 1966-1970 Malayxia tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu nhưng lại không lấy cây lúa làm trọng tâm mà lại phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sản phẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả của việc thực hiện chiến lược này Malayxia không những đảm bảo cơ bản về nhu cầu lương thực mà còn tiết kiệm được ngoại tệ làm tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.
Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầu đã có một cơ sở kinh tế khá vững vàng do Mỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dương. Cộng với vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan bước vào chiến lược thay thế nhập khẩu với mục tiêu chính là đẩy mạnh phát triển công nghiệp và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nước. Nếu như Malayxia tong chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây công nghiệp : cọ dừa, cà fê, ca cao... thì Thái Lan lại tập chung vào phát triển cây lương thực, áp dụng những chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản và những sản phẩm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả là Thái Lan luôn là một nước xuất khẩu lương thực lớn ra thị trường thế giới, đồng thời giải quyết được vấn đề việc làm cho xã hội góp phần ổn định đất nước .
Tóm lại, việc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs cũng như các tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu các nước đều khắc phục được vấn đề lương thực và giải quyết được việc làm cho xã hội .
Ngay từ nhận định ban đầu, chiến lược thay thế nhập khẩu chỉ phát huy trong thời gian ngắn với quy mô thị trờng nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế của mình như giới hạn về thị trường trong nước, không cập nhật được với khoa học công nghệ hiện đại đặc biệt là làm chậm tiến độ công nghiệp hoá của đất nước .
II. Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu .
Những hạn chế của chiến lược hướng nội là xuất phát từ phạm vi áp dụng của nó và yêu cầu để thực hiện chiến lược này có hiệu quả. Khi đối tượng áp dụng cho chiến lược này không phù hợp thì những ưu điểm của nó không những không được phát huy mà còn bộc lộ những hạn chế làm kìm hãm xu hướng phát triển kinh tế của một đất nước .
Thực vậy, khi thực hiện một đường lối, vạch ra một phương hướng phát triển thì không thể không tính đến thị trường ảnh hưởng của nó. Xuất phát từ nội dung của chiến lược thay thế nhập khẩu là sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu tối thiểu của đất nước tức là lấy thị trường trong nước làm trọng tâm để buôn bán và lưu thông hàng hoá thì chí ít về quy mô thị trường đó trước hết phải rộng rãi. Đối với một nước thị trường nội địa được coi là phù hợp với chiến lược này là một đất nước có quy mô dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Khi quy mô dân số đông và khả năng tiêu dùng lớn thì tương quan giữa sản xuất và tiêu dùng mới cân đối tức là sản xuất mở rộng cũng tiêu thụ hết. Do đó, với những nước có quy mô dân số nhỏ bé thì dung lượng thị trường nhỏ, chỉ cần sản xuất dưới mức tối ưu cũng đã đáp ứng đủ nhu cầu. Điều đó đồng nghĩa với không có động lực để mở rộng sản xuất hay tối ưu hoá các yếu tố nguồn lực.Thực tế điều này xảy ra ở những nước có quy mô nhỏ bé như Hàn Quốc.
Như vậy với những nước có phạm vi, quy mô thị trường nhỏ thì việc áp dụng chiến lược hướng nội là không phù hợp. Đây có thể coi là một yêu cầu để thực hiện chiến lược nhưng cũng có thể coi là một hạn chế của chiến lược.
Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là khi quy mô thị trường lớn thì áp dụng chiến lược hướng nội là thành công mà ngay khi điều kiện đó được đáp ứng thì những hạn chế khác của chiến lược như làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước lại tăng lên. Sở dĩ nảy sinh ra vấn đề này là xuất phát từ sự can thiệp của Chính phủ.
Khi mà động cơ có tác động mạnh mẽ nhất để các doanh nghiệp sản xuất cạnh tranh với nhau là lợi nhuận thì yếu tố này đã bị triệt tiêu khi có sự can thiệp của Chính phủ. Bởi vì, khi Chính phủ bảo hộ bằng hạn ngạch hay thuế quan tức là Chính phủ đã chịu phần thua lỗ thực sự mà các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả mang lại. Do được bảo hộ và mua nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ nên các nhà sản xuất yên tâm không phải lo cạnh tranh tìm kiếm thị trường để mua được nguyên liệu rẻ, hay cải tiến công nghệ để nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm cạnh tranh với giá hàng nhập trên thị trường quốc tế. Tất cả các quá trình đó đáng nhẽ họ phải tìm tòi nghiên cứu thì họ lại trông chờ vào sự bảo hộ của Chính phủ. Kết quả của sự bảo hộ này làm thất thu cho ngân sách nhà nước đồng thời làm tăng khoảng cách chênh lệch trình độ sản xuất giữa các nước trong khu vực cũng như trong thị trường quốc tế. Quá trình này nếu không kịp thời nhận ra, dần dần bãi bỏ bảo hộ thì sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ lạc hậu, ngày càng tụt hậu so với thời đại.
Thực tế các nước NICs và ASEAN cũng nhanh chóng nhận ra hạn chế này và họ khắc phục bằng cách giảm dần bảo hộ hoặc thay đổi chiến lược bảo hộ cho phù hợp với điều kiện của đất nước mình. Hàn Quốc là một ví dụ: trong giai đoạn phát triển mậu dịch 1962-1971 Hàn Quốc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu gặp khó khăn là năng lực xuất khẩu hạn chế dẫn tới mất cân đối xuất và nhập khẩu. Hàn Quốc cũng phát triển một số ngành công nghiệp nặng tạo điều kiện chuyển mạnh sang chính sách hướng về xuất khẩu.
Như vậy, hạn chế thứ nhất của chiến lợc hướng nội là làm giảm cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước được xuất phát từ sự can thiệp của Chính phủ. Nhưng không vì thế mà Chính phủ bỏ mặc cho nền kinh tế tự vận động theo cơ chế thị trường mà cần phải khẳng định một cách chắc chắn rằng: vai trò của Chính phủ là một điều kiện quan trọng nhất để thực hiện chiến lược hướng nội thành công. Bởi vì, trong thời kỳ đầu công nghiệp trong nước còn non trẻ chưa thể đa ra để cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì Chính phủ cần phải bảo hộ để nuôi dưỡng nó cho “đủ lông đủ cánh” rồi phải đưa nó ra thi trường cho nó tự vận động. Cho nên, biện pháp bảo hộ chỉ là biện pháp tạm thời và cần phải được giảm dần khi các ngành sản xuất trong nước phát triển hơn.
Hạn chế thứ hai của chiến lược hướng nội đó là những tệ nạn phát sinh từ việc thực hiện không nghiêm túc của các đối tượng chịu thuế và các cơ quan thuế vụ. Điều này dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế, hối lộ đội ngũ cán bộ thuế quan gây ra thất thu cho ngân sách nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân. Đây không còn là vấn đề vi phạm luật đơn thuần mà ngày nay đặc biệt đối với nước ta nó trở thành một quốc nạn.
Bên cạnh việc trốn lậu thuế là việc xin xỏ, hối lộ các quan chức phụ trách phân phối hạn ngạch nhập khẩu. Việc đánh giá sự thành công của các doanh nghiệp sẽ không còn chính xác nếu nhìn vào đó mà đánh giá thực lực của doanh nghiệp cũng như khả năng quản lý của lãnh đạo mà sự thành công đó có thể nhờ vào tài khéo léo, biết thương lượng có hiệu quả với các nhà chức trách phụ trách thuế quan hay hạn ngạch. Điều này không khuyến khích các tư nhân giỏi phát huy năng lực của mình.
Một hạn chế nữa của chiến lược thay thế nhập khẩu là hạn chế xu hướng công nghiệp hoá của đất nước. Chiến lược này bắt nguồn từ công nghiệp hàng tiêu dùng sau đó tiếp tục tạo thị trường cho các ngành sản xuất sản phẩm trung gian. Thường thị trường trung gian nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên đầu tư vào lĩnh vực này lại gặp những khó khăn nhất định. Do vậy, lại trông chờ vào bảo hộ điều này làm tăng giá đầu vào đối với những ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Để đảm bảo lợi nhuận của các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu làm cho các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu trong nước không có khả năng phát triển hạn chế sự hình thành cơ cấu công nghiệp đa dạng của đất nước.
Theo một số nhà kinh tế hiện đại thì chiến lược thay thế nhập khẩu không đồng nhất với sự đóng cửa nền kinh tế mà nó song song diễn ra hai quá trình : một mặt hạn chế thậm chí ngăn cấm việc nhập khẩu hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất, khuyến khích tiêu dùng nội địa, Mặt khác cho phép nhập khẩu các yếu tố để sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu. Trong khi đó để khuyến khích các nhà đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, Chình phủ áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó quan trọng nhất là hàng hoá sản xuất trong nước bằng thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, ưu đãi đầu tư, Chính từ những ưu đãi này nên các sản phẩm sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Do đó, không có khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu nhưng vẫn phải chi ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị và ngyuên liệu từ nước ngoài dẫn tới tình trạng thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài gia tăng. Nền kinh tế đó trái hẳn với mô hình kinh tế mà các nước đang phát triển xây dựng đó là : xây dựng một nền kinh tế độc lập, phát huy nội lực là chính, ít bị phụ thuộc vào nước ngoài.
Do chiến lược hướng nội có những hạn chế trên, muốn khắc phục nó để đưa nền kinh tế phát triển đi lên tất yếu phải tìm cách thay đổi chiến lược. Các nước đang phát triển nhận thấy rằng để khắc phục vấn đề nợ nước ngoài, mất cân đối trong hoạt động xuất khẩu, quy mô thị trường nhỏ hẹp thì chỉ có cách là dựa vào thị trường rộng lớn bên ngoài. Muốn vậy, phải mở cửa tiến hành chiến lược hướng ngoại.
III. Tính tất yếu khách quan thực thi chiến lược hướng vào xuất khẩu.
Như đã phân tích ở trên, lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế cho một đất nước có tầm quan trọng như thế nào tới sự thành công hay thất bại của nước đó. Nó quyết định nhanh chóng phát triển cùng với xu hướng thời đại hay không, hoàn thành quá trình CNH nhanh hay chậm. Chiến lược thay thế nhập khẩu đã nhanh chóng bộc lộ những hạn chế đặt ra một đòi hỏi tất yếu cho các nước đang áp dụng nó phải đổi hướng chiến lược. Điều đó là phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế, phù hợp với quy luật khách quan đó là cái cũ phải được thay thế bằng một cái mới tiến bộ hơn, là chiến lược hướng về xuất khẩu. Với chiến lược này các nớc khắc phục được những điều kiện không phù hợp của mình với chiến lược thay thế nhập khẩu đó là một thị trường trong nước nhỏ hẹp, một nền kinh tế mất cân đối và nợ chồng chất nước ngoài. Đồng thời chiến lược này cho phép tất cả mọi nước tiêu dùng một lượng hàng hoá dịch vụ nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn sản xuất trong nước dựa vào lợi thế so sánh. Điều ấy có nghĩa là tôi có thể tiêu dùng một mức nhiều hơn khả năng tôi sản xuất nếu tôi trao đổi với anh và ngược lại anh cũng được lợi khi anh trao đổi với tôi. Xét một cách khái quát hơn chiến lược hướng về xuất khẩu tác động vào phát triển nền kinh tế ở những mặt sau.
-Tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động hơn. Sự phát triển của ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu tác động đến các ngành cung cấp đầu vào tạo ra một mối liên hệ ngược có hệ thống thúc đẩy những ngành phát triển. Không những thế, khi có tích luỹ từ việc xuất khẩu sản phẩm tìm mối liên hệ xuôi giữa sản phẩm thô và ngành công nghiệp chế biến phát triển. Sự phát triển của tất cả các ngành này làm tăng thu nhập cho người lao động, tạo ra mối liên hệ gián tiếp cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Như vậy, chiến lược hướng ngoại kéo các ngành trong nền kinh tế lại gần nhau và buộc chúng phải có quan hệ với nhau.
- Nếu như chiến lược thay thế nhập khẩu lấy thị trường trong nước làm trọng tâm cho phát triển thì chiến lược hướng vào xuất khẩu lại lấy thị trường quốc tế làm trung tâm cho mọi sự phát triển. Trong chiến lược hướng nội các doanh nghiệp Nhà nước ỷ lại vào Chính phủ, không có khả năng cạnh tranh thì trong chiến lược hướng ngoại các doanh nghiệp trong nước muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp không bị giới hạn bởi một quy mô thị trường nhỏ hẹp cho nên họ có thể mở rộng sản xuất để lợi dụng lợi thế quy mô.
-Không những khi xây dựng nền kinh tế mở tiếp cận được với nền kinh tế có trình độ, phát triển cao hơn mà nhờ vào xuất khẩu đất nước còn có nguồn thu nhập là ngoại tệ, không phải nợ lần bị động mà còn có tiền để mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, đầu tư cho nghiên cứu phát triển máy móc điều đó giúp cho nền kinh tế chủ động hơn trong chiến lược của mình.
Tất cả những ưu điểm mà chiến lược hướng ngoại khắc phục được hạn chế của chiến lược hướng nội là một nguyên nhân để các nước chuyển hướng chiến lược phát triển thì nguyên nhân thứ hai là xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế .
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết của quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất khiến thị trường nội địa trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia phải ngồi lại với nhau để tìm cách khơi thông dòng chảy của hàng hoá, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Họ đấu tranh thoả hiệp với nhau nhằm mở rộng hơn nữa thị trường cho phát triển kinh tế. Xét cả về phương diện nhu cầu phát triển của bản thân, cả về phương diện buôn có bạn, bán có phường.Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.
IV. Tác động của quá trình hội nhập hình tế quốc tế đến hoạt động ngoại thương của Việt nam
Hoạt động đối ngoại gồm ba nội dung cơ bản, hoạt động ngoại thương, hoạt động hợp tác và hoạt động du lịch-dịch vụ thì hoạt động ngoại thương chiếm vị trí quan trọng.
Thông qua hoạt động ngoại thương các quốc gia phát hiện ra những lợi thế của mình và phát huy trên thị trường quốc tế. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng đợc lợi thế so sánh, mà muốn tận dụng được thì phải thông qua buôn bán ngoại thương. Quan hệ giữa hội nhập quốc tế và hoạt động ngoại thương là quan hệ hữu cơ với nhau. Khi hội nhập càng mạnh mẽ thì ngoại thương cần được tự do hoá, xoá bỏ độc quyền. Do đó, hoạt động ngoại thương được quan tâm vào bậc nhất ở tất cả mọi quốc gia. Bản thân hoạt động ngoại thương có những tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Kết quả của hoạt động ngoại thương được đánh giá qua cán cân thanh toán xuất nhập khẩu biểu hiện sự tăng hoặc giảm thu nhập ngoại tệ của đất nớc.
ở nước ta, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế là một chủ trương của đại hội VIII mà đảng ta đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế đối ngoại. Kết hợp chặt chễ hoạt động ngoại giao của nhà nước hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực này.
Nói tóm lại, do yêu cầu khách quan của đất nước phải phù hợp với thực tiễn và thời đại nên hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng có những thay đổi đáng kể thể hiện ở những mặt sau :
- Nước ta mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới trên tinh thần Viêt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
- Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương lẫn nhau tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
- Những ngành thay đổi trong hoạt động kinh tế đối ngoại dẫn tới những chuyển biến quan trọng trên toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước ta nhiều lĩnh vực đầu tư, hợp tác quốc tế và đặc biệt là hoạt động ngoại thương .
- Nhà nước xoá bỏ độc quyền ngoại thương sang tự do ngoại thương .
- Cán cân thương mại dần dần được cải thiện đáp ứng đợc 4/5 kim ngạch ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị .
- Cơ cấu nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu đợc mở rộng đặc biệt là nhóm, mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
- Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng dần dần đựơc khai thông, mở rộng trên quy mô và tỷ trọng trên từng thị trường.
- Nhập khẩu cũng có những thay đổi cơ bản về cơ cấu mặt hàng giảm mạnh nhập khẩu các thiết bị toàn bộ và tăng tỷ trọng của các hàng lẻ gồm nguyên nhiên liệu, thiết bị và phụ tùng …
V- ảnh hưởng của các chính sách trong kinh tế đối ngoại tới hoạt động xuất khẩu của nước ta.
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh CNH-HĐH thì hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vật chất nh vốn, thiết bị, vật liệu mà nước ta đang rất thiếu và rất cần. Tuy nhiên để có thể thu hút đựợc nguồn vật chất đó, nớc ta phải tạo ra những cơ hội đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn nước ngoài, phải có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị tiến kịp khoa học và công nghệ hiện đại. Đồng thời phải đón đầu những kiến thức quản lý kinh tế hiện đại để vận dụng có hiệu quả .
Hoạt động xuất nhập khẩu là một nội dung quan trọng trong hoạt động ngoại thương. Do đó hoạt động này chịu ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách ngoại thương. Những thay đổi trong hoạt động xuất nhập khẩu làm thay đổi căn bản hoạt động ngoại thương, đến lượt mình, những thành công trong hoạt động ngoại thương thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển.
Trong những năm qua, nước ta đã có những chính sách đổi mới theo hướng mở cửa rất hấp dẫn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thay đổi một cách toàn diện trên các mặt nhu : quy mô mở rộng và tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu cũng đợc mở rộng theo chiều sâu cơ cấu thị trường xuất khẩu được mở rộng đặc biệt là hàng xuất khẩu Việt Nam đã xâm nhập vào một số thị trường khó tính nhất trên thế giới là Mỹ và EU .
Bước vào thế kỷ mới Việt Nam vẫn phát triển trên tinh thần phát huy nội lực là chính nhưng phải tận dụng các nguồn ngoại lực. Kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp tiến công mạnh mễ vào CNH- HĐH. Qua đó ta thấy hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới không những không bị xem nhẹ mà còn được quan tâm tạo điều kiện phát triển từ những chính sách ưu đãi. Đặc biệt là từ nay đến 2006 Việt Nam phải dần dần hoàn thành giảm dần tiến tới xoá bỏ hạn ngạch và thuế quan theo hiệp định hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là chính nhth thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên.
Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu trong mười năm qua có thể xem là một thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới. Điều đó thể hiện qua tốc độ tăng trưởng, quy mô xuất khẩu, cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trường xuất khẩu và cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu.
Năm 1989 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4.511,8 triệu rúp-USD trong đó xuất khẩu 1946 triệu, đến năm 2000 con số này đã lên tới 23,16 tỷ USD trong đó xuất khẩu chiếm 11.540 triệu USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm của thời kỳ 91-95 là 28%.
Trong 6 năm qua, toàn đảng toàn dân ra sức thực hiện Nghị quết Đại hội VIII nên đã đạt được những thành tựu sau : xuất khẩu nông nghiệp (gạo, hàng thuỷ sản và các sản phẩm cây công nghiệp) chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Xuất khẩu sản phẩm cây công nghiệp tăng nhanh, giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thủ công năm 2000 khoảng 8,7 tỷ USD gấp 3 lấn so với năm 1995.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt cao nhất từ trước tới nay khoảng 50 tỷ USD tăng bình quân 18,6%. Chênh lệch xuất, nhập khẩu giảm mạnh từ 49,6%(năm 1995) xuống còn 3,1% (năm 2000) so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đạt được kết quả trên ngoài yếu tố xây dựng và phát triển thị trường còn phải kể đến đầu tư và phát triển năng lực sản xuất ở mọi thành phần kinh tế mà biểu hiện rõ nhất lầ việc hình thành nhiều ngành hàng mũi nhọn. Số liệu thống kê cho thấy trên 78% kim ngạch xuất khẩu mười tháng đầu năm nay thuộc về những mặt hàng chủ lực bao gồm những nhóm, mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu từ 100 triệu USD trở lên. Nếu trong những năm 1991-1993 mới có lác đác một vài mặt hàng chủ lực thì đến nay con số đã lên tới 12- 13 mặt hàng.
Tuy đạt được những kết quả trên nhưng khi nhìn lại trong những năm qua thì thấy tốc độ tăng chậm lại biểu hịên cụ thể là : năm 1994 tốc độ tăng xuất khẩu là 35,8%; năm 1995 tăng 34,4%; năm 1996 tăng 33,2%; năm 1998 chỉ còn 26%; năm 1999 chỉ còn 2,4% đến năm 2000 là 23,1%.
Một nguyên nhân quan trọng của hiện tượng này là do cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có những thay đổi căn bản so với thời kỳ 91-95 để tạo ra những xung lượng mới cho tăng trưởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chuyển hướng các mặt hàng xuất khẩu đặc biệt là thịt chế biến vào thị trường Liên Xô (cũ) gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như sự gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc đã làm cho việc xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Hồng Kông trở nên bế tắc.
Về quy mô, xuất khẩu của nước ta còn hết sức nhỏ bé xét cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Nếu tính bình quân đầu người ngay từ những năm 1986 và hiện lên tới 80-90 tỷ USD. Thái Lan đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ từ những năm 1987, hiện lên tới 55-60 tỷ USD. Philipin là nước kém hơn nhưng cũng đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 1992 và hiện nay xấp xỉ 25 tỷ USD. Nếu tính kim ngạch xuất khẩu/đầu người, năm 1996 Malaixia đã đạt 3700 USD, Thái Lan đạt 930 USD và Philipin đạt 285 USD trong khi đó Việt Nam mới đạt 96 USD. Năm 2000 Indolexia đạt 267 USD, Philipin 344 USD, Thái Lan 943 USD, Malaixia 3750 USD, Hàn Quốc 3961 USD, Xingapo 4167 USD, VIệt Nam 150 USD/đầu người.
Thực tế cho thấy, nguy cơ này xa hơn là hiện thực nếu như chúng ta không có giải pháp để tạo ra những chuyển biến cơ bản cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và cho xuất khẩu nói riêng. Như trên đã phân tích một trong những nguyên nhân chủ quan quan trọng gây ra hiện tượng tốc độ xuất khẩu ngày một chậm dần là do cơ cấu mặt hàng ít có sự thay đổi căn bản.
Trong thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu diện ra chủ yếu nhờ tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của bốn nhóm hàng : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử (bao gồm cả linh kiện máy tính ). Trong số này chỉ có sản phẩm gỗ tinh chế là đạt hàm lượng nội địa cao các nhóm hàng còn lại chủ yếu dựa vao phương pháp gia công hàm ưlợng nội địa tương đối thấp.
Song một điều không thể phủ nhận khi nhìn lại trong thời gia qua cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Nếu nh năm 1991, hàng nguyên liệu thô chiếm trên 92%thì nay chỉ còn 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến trong đó có hàng chế tạo năm 1991 chỉ chiếm khoảng 8% thì đến năm 2000 đã tăng lên 40%. Nhóm hàng nông lâm thuỷ-hải sản năm 91 chiếm 53% đến nay xuống còn 36,5%, nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 91 chiếm 47%, năm 2000 đã lên tới 63,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhóm hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng đã có 16 nhóm mặt hàng hoàn toàn mới và khoảng 20 nhóm mặt hàng lần đầu tiên thâm nhập vào một số thị trường. Nếu như năm 1991 mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ-hải sản, gạo và dệt may thì đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng chủ lực mới là cà phê, cao su, điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào diễn biến của thị trường quốc tế mức đóng góp của mỗi mặt hàng chủ lực trong từng năm có khác nhau. Nếu hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều đóng góp lớn vào việc tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của năm 97(26,6%) thì đầu năm đến nay đến lượt dầu thô, thuỷ sản, máy tính điện tử, thủ công mỹ nghệ, rau quả đóng vai trò tiên phong trong việc tăng trưởng giá trị suất khẩu. Theo Tổng cục Thống kê tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong mời tháng qua của dầu thô là 51%; thuỷ sản là 16,3%; máy tính điện tử là 7,3%.
Một điều nữa đáng ghi nhận là từ đầu năm đến nay nhóm hàng nông sản của Việt Nam (trừ gạo) luôn tỏ ra sung sức về khả năng sản xuất và có mức xuất khẩu ngày một tăng. Trong năm vừa qua, cả nước xuất khẩu 74000 tấn lạc nhân (tăng gần 47%); 214000 tấn cao su (tăng 18,3%) ; 543000 tấn cà phê (tăng 65,4%) đã vượt kế hoach cả năm 8,5%; 34000 tấn chè (tăng 36% so với cùng kỳ năm ngoái). Đặc biệt lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm qua không những vượt ngưỡng một tỷ mà còn đạt 1,16 tỷ USD tăng 49.45% so với cùng kỳ năm trước, vượt 6% so với kế hoạch năm. Kết quả xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế tác từ đầu năm đến nay vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may trong mười tháng qua đạt trên 1.516 tỷ USD ( tăng 4.4% so với cùng kỳ năm trước), giầy dép đạt 1.163 tỷ USD tăng 5.2%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt gần 200 triệu USD tăng gần 49% và vượt kế hoạch năm 10.6%, điện tử đạt 132 triệu USD tăng 9%, máy vi tính đạt 518 triệu USD tăng 38.6% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ông Lê Đức Gia-Phó vụ Trưởng Vụ tổ chức Bộ thương mại ba nhóm hàng nêu trên có tầm quan trọng như ba chân kiềng của hoạt động xuất khẩu nớc ta. Ông nhận định : “hàng năm do nhiều yếu tố khác nhau có thể nhóm hàng này tăng nhóm hàng kia giảm nhưng nếu biết phát huy để bù trừ cho nhau thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng bền vững”.
Nếu như trên phân tích cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng của hiện tượng tốc độ tăng trưởng giảm dần là do cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có những thay đổi trên tất cả các mặt hàng mà chủ yếu nhờ tăng nhanh kimh ngạch của bốn nhóm hàng cơ bản : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử thì vấn đề thị trường xuất khẩu là lời giải cho câu hỏi vì sao cơ cấu hàng xuất khẩu có sự thay đổi tích cực mà tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm.
Hiện nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 60 nước và có thoả thuận đối xử tối hậu quốc (MFN) với 68 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Sự tan rã của khối SEV dẫn tới những thay đổi lớn trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của nước ta thể hiện : Liên Xô (cũ) và Đông Âu, Việt Nam chỉ còn chiếm gần 2% kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD. Do đó, Châu á trở thành thị trường xuất khẩu chính ở nước ta. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cho thị trường này tăng từ 26,73% vào năm 1989 lên 43,29% vào năm 1990 và năm 1991 tăng lên tới 76,73% và luôn duy trì trong khoảng 72-74% từ đó đến nay. Trong đó Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn ( Nhật Bản chiếm 15,8%; các nước ASEAN chiếm 21,3%). Nhìn chung, cơ cấu thi trường xuất khẩu đã có những chuyển hướng tích cực. ở khu vực Châu á- Thái Bình Dương do các thị trường trong khu vực đang trên đà khôi phục, sức mua tăng lên một số mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu tăng lên ( điện tử, lương thực, thực phẩm…).
Khu vực Âu- Mỹ hàng năm nước ta xuất siêu trên 2000 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: hàng may mặc, giầy dép, thuỷ sản, cao su….
Với thị trường Tây-Nam A-Châu Phi quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam và khu vực này chưa được phát triển đáng kể, mặc dù ta có khả nâng xuất khẩu gạo, chè. đồ điện tử, hàng may mặc, giầy dép… có thể nhận định rằng đây là khu vực còn nhiều tiềm năng để khai thác nếu sử lý tốt vấn đề thông tin, xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm.
Bên cạnh nước ta là Trung Quốc, sự gia tăng của Trung Quốc là một hạn chế gây ảnh hưởng rất lớn cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu chính sang Trung Quốc tăng từ 340, 2 triệu USD năm 1996 lên 858,9 triệu USD vào năm 2000.
Tỷ trọng xuất khẩu sang EU nói riêng và Châu Âu nói chung tăng dần trong những năm qua. Năm 1991, EU mới chiếm 5 - 6% kim ngạch xuất khẩu thì đến nay đã tăng lên 21,7%.
Nhìn chung quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường suất khẩu đã diễn ra tương đối tốt trong thời gian qua, góp phần đáng kể vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch suất khẩu sau khi mất đi thị trường truyền thống. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên tầm nhìn dài hạn, chủ yếu mới là sự thích ứng với thay đổi đột biến của tình hình và vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu. Từ chỗ trước đây phụ thuộc chủ yếu vào buôn bán với hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) xuất khẩu nước ta hiện nay lại phụ thuộc lớn vào thị trường Châu á. Dẫn đến cơ cấu thị trường nước ta hiện nay vẫn thiên lệch, thậm chí trên phương diện nào đó còn thiên lệch hơn cả trước đây.
Thị trường nước ta mới chỉ có chiều rộng mà chưa có chiều sâu, hàng hoá và dịch vụ của nước ta chưa chiếm đước thị phần lớn tại các thị trường đã xâm nhập được, thậm chí còn bị mất chỗ đứng trên một số thị trường. Một hạn chế nữa là ở một số thị trường có dung lượng hàng hoá và dịch vụ của ta chưa có mặt, việc tìm kiếm, mở rộng thị trường còn có phần thụ động, hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư để xâm nhập thị trường chưa được quan tâm đúng mức.
Mặt khác, việc chậm trở lại với thị trường truyền thống và mở lối để “ lách chân” vào các thị trường khác trong những năm gần đây thể hiện sự bất cập trong chính sách bạn hàng xuất khẩu của nước ta. Như vậy, mặc dù chúng ta chủ trương đa phương hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ nhưng trên thực tế lại thiếu những chính sách và giải pháp cụ thể thúc đấy quan hệ đó.
Bên cạnh những chuyển động về cơ cấu thị trường, cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu cũng có những thay đổi lớn trong những năm vừa qua. Cơ chế xuất nhập khẩu đẫ được đổi mới một cách cơ bản, chuyển từ cơ chế nhà nước độc quyền ngoại thương sang cơ chế mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho cacs địa phương, các ngành và các thành phầ kinh tế; từ cơ chế hành chính mệnh lệnh sang sự vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 30/7/1999, chính phủ đã ban hành nghị định số 57/1999 ND-OP quy định chi tiết về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và mua bán hàng hoá, đại lý với nước ngoài. Nghi định và xu hướng thay đổi cơ chế trên đã xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Tới nay đã có 8.137 doanh nghiệp đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tăng hơn 3 lần so với thời thời gian trước ngày 1/9/1999, trong đó các doanh nghiệp quốc doanh là 4.497, ngoài quốc doanh là 3.640. Cùng với sự thay đổi cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường, thì sự thay đổi cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu được xem là sự thay đổi sâu rộng nhất. Điều đó chứng tỏ nhà nước ta đã có những nhận định ban đầu đúng đắn, những chính sách đưa ra dù chưa được là hoàn chỉnh thì cũng đã phần nào phù hợp với xu hướng phát triển và điều kiện thực tiễn. Kết quả của những cố gắng đó là “ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng bền vững” như phó vụ trưởng vụ tổ chức Bộ thương mại nhận xét. Ngoài việc phát huy nội lực của các doanh nghoiệp trong nước, để đạt được kết quả trên cong có phần đóng góp của các doanh nghiệp cóa vốn đầu tư nước ngoài chưa kể kim ngạch xuất khẩu dầu thô (trên 2,75 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng khác của khu vực đầu tư nước ngoài cũng đạt trên 2,7 tỷ USD, tăng 29,7% so với kết quả 10 tháng đầu năm 2000.
Tựu chung lại, xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua có những thay đổi lớn cả về quy mô, tốc độ, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường và đặc biệt là cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu. Những chuyển biến này làm thay đổi cục diện nền kinh tế đất nước, góp phần lớn vào thu nhập quốc dân, cải thiện đời sống của nhân dân, thay đổi căn bản cơ cấu công nghiệp của đất nước thúc đẩy sự hình thành cơ cấu copong nghiệp đa dạng của đất nước. Qua đó, phát hiện những ngành có tiềm năng phát triển lớn, có khả năng tạo bước đột phá và trở thành ngành xuất khẩu đầu tầu như dệt may, dầy dép, điện tử và đặc biệt là ngành khai thác và chế biến thuỷ sản.
Tình hình xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua
Thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Nó không những đóng góp vào thu nhập quốc dân cũng như là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao mà còn là một ngành góp phần giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, cải thiện bộ mặt của nông thôn miền biển, làm giầu cho đất nước.
Hơn nữa ngành thuỷ sản nước ta còn có tiềm năng rất lớn, cần phải phát huy hơn nữa để tăng vai trò của ngành thuỷ sản trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. ở Việt Nam, như chỉ thị 20 CT/TƯ của Bộ chính trị đã nêu rõ: “vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của nước ta, là thế mạnh và tiềm năng quan trọng chọ sự nghiệp CNH, HĐH” Do vậy chỉ thị cũng nêu: “Dựa trên những tiến bộ về khoa học và công nghệ làm động lực vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý khai thác tiềm năng biển có hiệu quả...”
Cùng với tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu năm 1999 chiếm 8,17% toàn quốc đứng hàng thứ tư trong số mặt hàng thu nhiều ngoại tệ cho đất nước, trong thời gian 10 năm qua ngành thuỷ sản có mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng khoảng 4%, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng từ 0 đến 15% đạt 858,6 triệu USD vào năm 1999. Tuy nhiên đây mới chỉ là con số khởi đầu (theo nhận xét của ông Nguyễn Trọng Hồng - Thứ trưởng bộ thuỷ sản) bởi vì ngành khai thác và chế biến thuỷ sản vẫn còn là ngành tiềm năng chưa được đầu tư và phát triển đúng mức.
Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đang khẳng định vai trò chủ lực trong xuất khẩu ở Việt Nam. Hiện nay nước ta đứng thứ 29 trên Thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, xuất khẩu sang 45 nước. Trong 12 năm qua, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 20% /năm (từ 90 triệu USD năm 1988 năm 2001 dự kiến 1.2 tỷ USD) ước tính giá trị xuất khẩu thuỷ sản quý 1/2001 sẽ đạt 212 triệu USD tăng 13,88% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả cao nhất là trong hai năm 1999 -2000 đã đưa hàng thuỷ sản lọt vào danh sách năm hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị cao nhất của Việt Nam và là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức tăng trưởng trên 10% về giá trị trong hai năm qua: năm 1999 tăng 10,59% so với năm 1998, năm 2000 tăng 13,08% so với năm 1999. Nếu tính cả giai đoạn 11 năm 1990 đến 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 4,06 lần so với năm 1990.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu trong hai năm 1999 và 2000 những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính là: đơn vị là %.
Mặt hàng
1999
2000
Hàng khô
7
5
Cá đông lạnh
10
8
Tôm đông lạnh
59
35
Nhuyễn thể đông lạnh
11
9
Các loại khác
13
43
Nhìn vào số liệu trên thì trong hai năm 1999 và 2000 cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chính của thuỷ sản được mở rộng nhưng vẫn trọng điểm là hàng tôm đông lạnh chiếm 39%.
Tính đến hết tháng 8/2000, sản lượng khai thác thuỷ sản đạt 911233 tấn tăng 110,47% so với cùng kỳ năm 1999. Một số loài trước đây dùng chế biến bột cá hoặc phơi khô rồi tiêu dùng nội địa như cá bò, cá cơm...nay cũng tận dụng để chế biến xuất khẩu .
Phương thức nuôi trồng cũng được chuyển đổi : mức độ thâm canh cáo nâng sản lượng khai thác lên tới 442.888 tấn kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh như vậy là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan; đó là “ thiên thời địa lợi “, nhu cầu thuỷ sản trên thế giới tăng mạnh đặc biệt là với mặt hàng chế biến giá trị gia tăng và giá trị cao hàng thuỷ sản Việt Nam được đánh giá cao hơn so với những năm trước. Do đó, doanh nghiệp đưa tỷ trọng hàng giá trị gia tăng từ 19,7% năm 2000, lên khoảng 30% trong năm nay.
Mặt khác giá trị xuất khẩu một số mặt hàng thuỷ sản chủ lực của Việt Nam tăng lên đáng kể : riêng giá trị kim nghạch xuất khẩu tôm các loại trong năm 2000 đạt 428 triệu USD so với 282 triệu USD của năm 1999.
Kết quả trên là hệ quả tất yếu của việc chủ động tìm khách hàng, lấy xuất khẩu làm trọng tâm của ngành thuỷ sản. Cùng với chính sách hỗ trợ của Chính Phủ về thuế, tín dụng, đầu tư... các doanh ngiệp xuất khẩu thuỷ sản đã phát huy hết khả năng và tích cực mở rộng thị trường. Việt Nam hiện nằm trong danh sách một xuất khẩu vào liên minh châu Âu (EU) và có 40 cơ sở nước ta có mã số cho thị trường này. Đây chính là bàn đạp quan trọng cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào các thị trường khác.
Trong những năm gần đây kim nghạch xuất khẩu của nước ta sang Mỹ cũng tăng lên từ 39 triệu năm 1998 lên tới 80 triệu năm 1999 và 129 triệu năm 2000. Ước tính tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này trong cả năm 2001 sẽ đạt 250 triệu và Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai của Việt Nam.
Về cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường EU, có thể liệt kê ra một số doanh nghiệp như An Giang fisery import-export company, work shop No 1- AGIFISH Ngoc Ha company Ltd. Food processing and trading... đặc biệt là ngày 14-7-1999 Chủ tịch nước ký quyết định 287/KT/CTN đã phong tặng danh hiệu anh hùng lao động với thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới cho xí nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Cần Thơ (Cafatex). Đây là xí nghiệp đạt được những thành công to lớn trong việc xác định đúng thị hiếu của khách hàng để cân đối cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, tìm được sự tin cậy hợp tác quý báu của khách hàng trong và ngoài nước. Mặt khác Cafatex là đơn vị đi đầu trong việc tìm kiếm nguyên liệu cho chế biến.
Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản An Giang cũng là một doanh nghiệp có nhiều đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu ngành thuỷ sản và là một trong những đơn vị đứng đầu tỉnh An Giang về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong 11 năm 1990 và 2000 tổng doanh thu của doanh nghiệp tăng 11 lần nộp ngân sách nhà nước 7,45 tỷ. Là một trong 18 doanh nghiệp đầu tiên được cộng đồng châu Âu đưa vào danh sách nhóm một các doanh nghiệp được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
VI. Các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu .
1. Chính sách thuế ưu đãi đối với hàng xuất khẩu .
Thuế là một công cụ Nhà nước dùng để đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ.
Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi thuế thấp kích thích xuất khẩu (thuế ưu đãi). Phần lớn các nước hiện nay có xu hướng khuyến khích xuất khẩu nên việc đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu hay đầu vào dùng để xuất khẩu đều được hưởng những ưu đãi nhất định. Đặc biệt là ở Việt Nam khi mà thiếu ngoại tệ để nhập công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật thì những chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu được các nhà lập chính sách cân nhắc rất kỹ sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia hoạt động xuất khẩu. Cụ thể là :
Điều 3 của luật thuế tiêu thụ đặc biệt(TTĐB) quy định đối tượng không chịu thuế TTĐB là hàng hoá quy định tại khoản 1 điều 1 luật thuế TTĐB khi cơ sở sản xuất gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, uỷ thác cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu .
Hiện nay do chính sách ưu tiên xuất khẩu nên hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB. Như vậy ngay trong việc thực hiện chính sách và ban hành chính sách ưu tiên xuất khẩu cũng có những vấn đề đặt ra:
Hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu, thoát ly khỏi ràng buộc của thuế TTĐB do người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam Nhà nước không điều chỉnh tiêu dùng của đối tượng này.
Mặt khác việc xác định hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nào?
Ngoài việc, xác định đối tượng chịu thuế đối với hàng hoá xuất khẩu đã có những ưu đãi thì việc hoàn thuế với hàng hoá xuất khẩu cũng được khuyến khích.
Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng như các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% được quy định theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng như các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% được quy định theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bất cứ mặt hàng nào thuộc đối tượng chịu thuế VAT khi đem xuất khẩu đều được áp dụng thuế suất 0% và được hoàn thuế VAT đầu vào. Như vậy cùng với việc khuyến khích xuất khẩu, kích thích sản xuất cùng với vấn đề giải quyết việc làm, hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu được bình đẳng với hàng hoá khác khi xuất khẩu .
2. Chính sách tỷ giá hối đoái.
Cũng giống như các biến số kinh tế vĩ mô khác, tỷ giá hối đoái rất nhạy cảm với sự thay đổi của nó có những tác động rất phức tạp, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những tác động khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Đưa đến những kết quả khó lường trước, đụng chạm không chỉ tới xuất nhập khẩu, cán cân thương mại mà còn tới mặt bằng giá cả, lạm phát và tiền lương thực tế, đầu tư và vay nợ nước ngoài, ngân sách nhà nước ,cán cân thanh toán quốc tế cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung .
Ngay từ 1996, thực hiên chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc, nước ta có những điều chỉnh lại tỷ giá một cách căn bản. Hoạt động ngoại thương phát triển mạnh, kim ngạch xuất khẩu 2000 gấp hơn 4 lần so với 1990, quan hệ với các nước trên thế giới mở rộng. Với sự phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất tỉ giá chính thức với thị trường, xoá bỏ cơ bản hệ thống tỉ giá cũ quá phức tạp ... thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỉ giá của Việt Nam đã có bước chuyển biến rất căn bản sang cơ chế thị trường, thoát khỏi trạng thái thụ động để trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở.
Trong giai đoạn 1992-1996, ổn định tỉ giá hối đoái quan trọng hơn là tăng giá để khuyến khích xuất khẩu là điều cốt lõi và cũng là thành công của chính sách tỷ giá trong giai đoạn này biểu hiện kim ngạch xuất khẩu liên tục qua các năm tăng cao từ 20-30%/năm.
Sự ra đời của thị trường ngoại tệ cho phép 7 ngoại tệ được sử dụng để giao dịch: USD, DEM, GBP, FF, JPY, HKD, VND, cùng với việc ra đời 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là bước tiến đáng kể theo hướng thị trường gián tiếp kích thích xuất khẩu thông qua tạo mặt bằng giá hợp lý hơn. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, xuất khẩu là một trong những nguồn cung ngoại tệ chủ chốt song cung cầu ngoại tệ luôn luôn căng thẳng và VND không có khả năng chuyển đổi hoàn toàn nên trong thời gian tới vẫn tập chung ngoại tệ vào các ngân hàng, để ngân hàng thống nhất ngoại hối. Đồng thời tự do hoá quyền sở hữu và sử dụng ngoại tệ, đặt ngoại tệ thành một hàng hoá đặc biệt được trao đổi trên thị trường. Đẩy mạnh các biện pháp khuyến khích không tiêu dùng tiền mặt trong thanh toán ngoại tệ, mở rộng tiến tới tự do hoá mở và sử dụng tài khoản nước ngoài và kinh tế trong nước. Để kích thích xuất khẩu giảm dần tiến tới xoá bỏ việc bảo đảm cân đối ngoại tệ từ phía chính phủ. Mở rộng quyền sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng cường quyền hạn và vai trò của ngân sách Nhà nước trong dịch vụ xuất khẩu. Để đảm bảo cho nhà xuất khẩu một mặt cần điều chỉnh giá mua ngoại tệ linh hoạt không để doanh nghiệp bị thua lỗ do biến động tỷ giá. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu mở, sử dụng, chuyển cũng như đóng tài khoản của mình.
Trong dài hạn, mục tiêu là khả năng chuyển đổi hoàn toàn của Việt Nam và một tỷ giá thích hợp có tác dụng khuyến khích tăng trưởng kinh tế và khuyến khích xuất khẩu. Khi VND có khả năng chuyển đổi hoàn toàn thì quy định về ngoại hố nói chung về bản tệ nói riêng sẽ được dần dần nới lỏng và các nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu và chủ động sử dụng số ngoại tệ của mình theo cơ chế thị trường.
Tóm lại trong thời gian tới vẫn tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hợp lý để ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt, phù hợp cung cầu không gây biến động lớn cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu trong ngắn hạn và trung hạn không đặt vấn đề kích thích xuất khẩu bằng công cụ phá giá và nới lỏng quản lý ngoại hối mà chỉ dừng lại ở chính sách tỷ giá không cản trở hay bóp chết xuất khẩu .
3. Chính sách đầu tư đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia hoạt động xuất khẩu .
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn và làm tăng quy mô của tài sản quốc gia.
Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trong nước và đầu te nước ngoài. Đối với đầu tư trong nước đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng hoá xuất khẩu được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh thông qua vận hành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo lãnh xuất khẩu cũng như các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm...
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của một đất nước, là một cầu nối quan trọng giữa kinh tế nội địa với nền kinh tế toàn cầu. Do đó, tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng húc đẩy xuất khẩu. Trong đề án này em xin đưa ra giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy xuất khẩu .
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, trong thời gian qua khu vực có vồn đầu tư nước ngoài cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hoá ngày càng lớn, nhất là hàng hoá xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Cụ thể là: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1991 là 52 triệu USD, năm 1995 tăng lên 440 triệu, năm 1996 đạt 786 triệu, năm 1998 đạt 1,5 tỷ(chiếm khoảng 15% tổng kim nghách xuất khẩu cả nước) chưa kể dầu thô. Trong 10 năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng cao và tăng kim nghạch xuất khẩu cũng như đóng góp vào GDP: năm 1992 là 2%, đến năm 1998 là 8,6%. Trong những năm tới Nhà nước liên tục có những điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài nhằm phát huy vai trò của nố đối với hoạt động xuất khẩu thông qua: Bổ sung nguồn vốn cho doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị trường...
Như vậy có thể thấy rằng gia tăng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dung vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu .
Hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động thuỷ sản nói riêng đều “khát vốn”. Như ta đã biết, ngành khai thác và chế biến thuỷ sản có tiềm năng phát triển rất lớn mà quy mô vốn đầu tư mới chỉ đáp ứng được 20%. Trong đó chưa kể đầu tư còn chưa đồng bộ mang nặng tính tự phát khiến dự án thuỷ sản chưa phát huy được hiệu quả.
Có lẽ việc quy hoạch vùng nuôi còn dang dở nên các tổ chức cho vay tín dụng tỏ ra khá e dè trong việc thẩm định dự án vay vốn để nuôi trồng. Đây là nguyên nhân đầu tiên khiến cho khu vực nuôi thuỷ sản “khát vốn”
Hiện nay, nhiều tỉnh chưa có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội hoặc có nhưng lại không cập nhật với thực tiễn cộng với việc chưanh chấp và thiếu phân định rõ ràng giữa nuôi trồng thuỷ sản và đất nông nghiệp gây trở ngại klhông nhỏ cho quá trình xét duyệt cấp vốn.
Theo các chuyên gia thuỷ sản, trong khi vốn trong nước còn hạn chế thì việc thu hút thêm nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ giúp ngành thuỷ sản thành công.
Theo ông Nguyễn Trọng Hồng - Thứ trưởng bộ thuỷ sản việc huy động 35.000 tỷ đồng vào thuỷ sản là rất khó khăn bởi vì nhìn vào khoảng thời gian 86-98 tỷ trọng vốn đầu tư cho thuỷ sản chỉ được 12,49% tương đương với 974 tỷ đồng. Trong khi đó có rất ít doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ, sản phẩm có giá trị gia tăng mới chỉ chiếm 6 -7% kim ngạch xuất khẩu. Trình độ bảo quản nguyên liệu hạn chế nên việc thất thoát sau thu hoạch là vẫn cao. Đó là lý do giải thích vì sao Việt Nam cho đến nay chỉ có 35 doanh nghiệp đăng ký nâng cao cơ sở chế biến theo HACCP và chỉ có 27 doanh nghiệp được công nhận sản xuất hàng hoá đạt yêu cầu thị trường EU
Giải quyết vấn đề vấn đề vốn thứ trưởng bộ thuỷ sản cho rằng: chỉ nhà nước mới giám đầu tư vốn vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đòi hỏi vốn lớn, khó và lâu thu hồi vốn nh cầu cảng, bến cá…, mua sắm thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học điều tra nguồn lợi đào tạo khuyến ngư.
Từ nay đến 2010 nên chăng bộ thuỷ sản hoàn thành hàng loạt công trình hạ tầng dịch vụ như cầu cảng, bến đậu, hệ thống cấp dầu, nước ngọt, kho chứa tại các tuyến bờ, tuyến đảo. Đồng thời vốn ngân sách nhà nước cũng sẽ đóng góp chủ lực để khôi phục và nâng cấp các bến cá địa phương ở các tỉnh ven biển như Hòn Gai, Đồ Sơn, Ninh Cơ… cũng như nạo vét các cửa sông để thuyền bè ra vào được dễ dàng.
4. Chính sách, chiến lược xúc tiến xuất khẩu .
Khái niệm xúc tiến thương mại được coi là mới ở những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế xúc tiến thương mại có thể là xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thương mại nội địa. Xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận của xúc tiến thương mại nhưng do tầm quan trọng của nó nên nhiều khi người ta thường nói tới như một khái niện riêng biệt. Xúc tiến xuất khẩu gồm ba nhóm yếu tố sau:
Kết cấu hạ tầng cơ bản.
Chế độ tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất và những biện pháp khuyến khích nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho xuất khaảu.
Biện pháp công cụ cụ thể để một nớc tham gia thành công vào thị trường quốc tế.
Quá trình phát triển xuất khẩu ở Việt Nam, vấn đề kết cấu hạ tầng còn thiếu trên mọi lĩnh vực đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc đã cản trở rất nhiều cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng. Hầu hết sản phẩm hải sản khai thác đều có tính tơng đồng cao. Do đó sức cạnh tranh của mặt hàng với công nghệ bảo quản sau thu hoạch sẽ quyết định phần lớn ưu thế trên thị trường quốc tế. Trong khi đó ở Việt Nam bảo quản thuỷ sản chủ yếu trong hầm đá và các mắt tre…do đó gây ra sự giảm sút chất dinh dưỡng dẫn đến giá cả bị tụt xuống. Mặt khác, đối với khai thác thuỷ sản ở nước ta, phương tiện đánh bắt xa bờ còn hết sức thô sơ, lạc hậu và thiếu thốn cho nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo quản sau thu hoạch.
Vai trò to lớn của kết cấu hạ tầng đòi hỏi chúng ta phải thành lập khu chế xuất để tạo ra nguồn xuất khẩu sản phẩm chế biến. Việc cung cấp một số kết cấu hạ tầng trong các khu vực địa lý được phân định rõ theo các khu chế xuất có thể góp phần xúc tiến xuất khẩu trong một thời gian tương đối ngắn thông qua khả năng cung cấp cho các nhà công nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn về quản lý, marketing, thu hút công nghệ,…Tuy nhiên lợi ích của khu chế xuất mang lại không được như người ta mong đợi nên không coi chúng là biện pháp xúc tiến xuất khẩu. ở Việt Nam, chúng ta áp dụng biện pháp xúc tiến xuất khẩu sau:
Thứ nhất, về tỷ giá hối đoái: Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thống nhất. Ngày 27/2/1998, thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam ra quyết định 45/QĐ-NH về việc quy định nguyên tắc ấn định tỷ giá mua, bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ trong phạm vi biên độ dao động
± 5% so với tỷ giá chính thức do thống đốc ngân hàng công bố hàng ngày. theo quyết định 16-1998 QĐNHNN7 ra ngày 10/1/1998 thì biên độ này là ±10 so với tỷ giá chính thức. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu đẩy mạnh công tác xuất khẩu ở doanh nghiệp mình.
Thứ hai, về tín dụng xuất khẩu được thông qua ngân hàng thương mại. Việc mở rộng quyền cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước của các ngân hàng thương mại là một bước tiến lớn trong hệ thống ngân hàng. Chủ trương chuyển hoá từ cho vay nhập khẩu sang cho vay đầu tư xuất khẩu của các ngân hàng góp phần nâng cao hệ số sử dụng vốn.
Để khắc phục vấn đề khát vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam đó là một hình thức tín dụng thuê mua ra đời. Công ty cho thuê tài chính quốc tế tại Việt Nam ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp không đủ vốn vẫn có thể thuê đợc máy móc, thiết bị hiện đại để thay đổi công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ ba về chính sách lãi suất: Sự điều chỉnh linh hoạt chính sách lãi suất của ngân hàng là một việc làm tích cực giúp doanh nghiệp xuất khẩu mạnh dạn vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu, hạ giá thành nhờ lợi thế quy mô, và nâng cao khả năng cạnh trang của hàng Việt Nam.
Tóm lại, trong 10 năm tới GDP nước ta phát triển tăng chí ít là gấp đôi và đến năm 20 về cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này, xuất khẩu chiếm vị trí cực kỳ quan trọng, tốc độ phát triển của nó chí ít phải gấp đôi tốc độ tăng trưởng của GDP, đồng thời hạn chế đi tới chấm dứt tình trạng nhập siêu, cân bằng cán cân thương mại quốc tế. Để đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới có ba khâu then chốt gắn quyện với nhau là đổi mới cơ cấu mặt hàng, mở rộng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh.
Về cơ cấu mặt hàng thuận chiều với cơ cấu kinh tế thế giới, bám sát tín hiệu thị trường, phù hợp với nhu cầu không ngừng của người tiêu dùng. Tức là chúng ta sản xuất những mặt hàng xuất khẩu mà thiên hạ cần chứ không chỉ làm ra những gì ta có. Theo đó tỷ trọng hàng thô và sơ chế không ngừng giảm tương đối, sản phẩm chế biến, chế tạo tăng mạnh, sản phẩm của các ngành công nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều phải chiếm vị trí thoả đáng.
Tuy nhiên đi đôi với phương châm trên cần khai thác mọi nguồn lực để đẩy mạnh xuất khẩu theo phương châm “nặng nhặt, chặt bị”. Bởi quá trình chuyển dịch cơ cấu không thể hoàn thành trong một sớm một chiều, hơn nữa lao động nước ta còn dư thừa nhiều, vấn đề việc làm còn bức xúc.
Bên cạnh đó cơ cấu hàng nhập cần duy trì theo hướng chủ yếu nhập công nghệ, vật tư phục vụ sản xuất trong đó chú trọng nhập khẩu công nghệ nguồn. Nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như chất lượng thiết bị và vật tư nội địa.
Vấn đề mở rộng thị trường cần tính đến những phương châm sau:
Một là, tìm mọi cách không ngừng mở rộng thị trường cả về số lượng các nước và bạn hàng ta có quan hệ lẫn khối lượng và giá trị hàng hoá ta có thể tiêu thụ được.
Hai là, trong khi mở rộng tới mức tối đa thị trường cần kiên trì chính sách đa dạng hoá có trọng tâm, trọng điểm trước hết nhằm vào các thị trường có dung lượng lớn, khả năng thanh toán cao.
Ba là, chủ động tích cực tìm kiếm thị trường và bạn hàng, khai thác thông tin chứ không thụ động ngồi nhìn.
Bốn là, chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới bằng cạch đó tranh thủ những điều kiện thuận lợi như hàng rào thuế quan thấp. Các doanh nghiệp cần nhanh nhậy nắm bắt những cơ hội, thông qua cạnh tranh để trưởng thành nâng cao hiệu quả xản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên điều có ý nghĩa quyết định vẫn là nhu cầu không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả ba cấp độ: nhà nước, doanh nghiệp cũng như mặt hàng và dịch vụ.
ở cấp độ nhà nước đó là sự ổn định về chính trị- xã hội, quan hệ quốc tế tốt đẹp, hành lang pháp lý hoàn chỉnh rõ ràng, minh bạch và theo phương hướng ổn định; bộ máy điều hành nhanh nhậy, cơ chế chính sách, các công cụ điều hành vĩ mô hợp lý, trong đó có lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Nâng cao khả năng cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp là khả năng không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhanh nhậy nắm bắt tình hình cung - cầu (cả lượng lẫn chất) trên thị trường thế giới cả sản xuất và kinh doanh.
ở cấp độ mặt hàng và loại hình dịch vụ thì khả năng cạnh tranh được thể hiện trước hết ở giá thành hạ, chất lượng cao, mẫu mã, bao bì phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng được tiếp thị rộng rãi.
Đương nhiên những nhân tố trên là quan trọng nhưng chưa phải là tất cả. Bên cạnh đó còn có chính sách đầu tư thích hợp, tổ chức kinh doanh phải bắt nhịp với thông lệ và những chuyển biến nhanh chóng trên thị trường thế giới, lựa chọn bồi dưỡng cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu thành thạo về nghiệp vụ, tinh thông về nghiệp vụ, ngoại ngữ và cảc các phương tiện kinh doanh hiện đại.
Chương III : Phương hướng thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu.
I.Quan điểm của nhà nước về ngoại thương nói chung về hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương của đảng ta.
Mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với những cam kết của nước ta trong quan hệ song phương và đa phương.
Coi trọng và ra sức phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước ASEAN, từng bước nâng cao hiệu quả và chất lượng của sự hợp tác.
Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển Châu á, châu Phi, trung Đông và các nước Mỹ la tinh, với phong trào không liên kết ủng hộ lẫn nhau cùng phát triển.
Về xuất nhập khẩu:
Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường cho một số mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh tìm kiếm thị trường cho mặt hàng mới.
Nâng cao chất lượng mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở rộng ra thị trường mới. Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng để nâng cao kim ngạch xuất khẩu cho các mặt hàng chủ lực như dầu khí, gạo, cafê, thuỷ sản, điện tử và linh kiện máy tính…
II.Thách thức đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam khi tham gia hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ mang lại những cơ hội to lớn cho nước ta mở rộng thị trường, tận dụng được lợi thế so sánh đấy mạnh xuất khẩu, giao lưu kinh tế với quốc tế mà còn đưa nước ta đứng trước thách thức hết sức mạnh mẽ. Hạn chế hay khó khăn lớn nhất của Việt Nam là chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi hội nhập. Mặt khác Việt Nam chưa hiểu thật sâu, chưa nắm thật chắc toàn bộ định chế của các tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu nhất là WTO và nhiều văn kiện quốc tế khác mà nước ta cần vận dụng khi gia nhập tổ chức này.
Việc chưa hình thành một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình hội nhập cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Do đó chúng ta thường bị động đối phó với nhiều khuyến nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra không đủ cơ sở để hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng chương trình cải tiến quản lý nâng cao khả năng cạnh tranh.
Những lợi thế về nhân công dần dần bị mất đi do việc đầu tư vào con người chưa ngang tầm với đòi hỏi.
Tích luỹ nội bộ còn quá thấp mà tỷ lệ đầu tư nước ngoài sau khủng hoảng giảm đáng kể đến vốn đâù tư cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn đang tiến hành trong khi yêu cầu hội nhập gay gắt làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Như vậy, thách thức mà Việt Nam phải đương đầu là to lớn trong khi quá trình hội nhập đang đến gần. Điều đó buộc Việt Nam phải xúc tiến thực hiện một số biện pháp gấp rút đặc biệt là chính sách khuyến khích đối với một số ngành hàng chủ lực xuất khẩu, thuỷ sản là một trong những ngành đó. Tuy nhiên trớc mắt ngành thuỷ sản còn gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể như tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, tìm kiếm thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở ra thị trường mới.
Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dầu khí, gạo, càfê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, giầy da, điện tử và linh kiện máy tính.
Ngành thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập cũng gặp những khó khăn thách thức mới mà hoạt động xuất khẩu nói riêng và ngoại thương gặp phải.
Gần đây ba chương trình kinh tế: chương trình khai thác hải sản xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đã phát triển và sâu rộng trên toàn quốc .
Trong những năm tới, ba chương trình này còn có những bất cập sau:
- Đối với khai thác hải sản xa bờ: vấn đề thiếu vốn để đóng tàu bè lớn, những phương tiện hậu thu hoạch còn lạc hậu mang nặng tính kinh nghiệm. Điều này hạn chế việc đánh bắt, chất lượng dinh dưỡng bảo đảm kém.
- Đối với nuôi trồng thuỷ sản: Việc sản xuất giống cá, tôm cho nuôi trồng còn ở mức độ khiêm tốn, chất lượng con giống kém, giá thành cao dẫn đến việc sản lượng con giống tự nhiên sẽ là mối nguy hại cho nguồn lợi thuỷ sản đa dạng trong tương lai. Việc thu mua, chế biến xuất khẩu thuỷ sản còn lắm nhiêu khê chưa tạo được sự ổn định về chất lượng uy tín sản phẩm để cạnh tranh bền vững trên thị trường. Cộng với thị trường tiêu thụ thuỷ sản còn bấp bênh, lại nhiều rủi ro luôn là vấn đề hàng đầu của cả người sản xuất và chế biến thuỷ sản. Một trở ngại có tính bức xúc hiện nay đối với việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản là vấn đề con giống, thức ăn, kỹ thuật chăn nuôi và phòng trừ bệnh. Nếu không giải quyết được vấn đề này ngành thuỷ sản khó mà có thể phát triển xa hơn được.
Đối với phát triển xuất khẩu Thuỷ sản thì nguyên liệu mới là bài toán khó giải quyết nhất. Hiện nay ngoài những yếu tố về an toàn thực phẩm, thị trường tiêu thụ hàng thuỷ sản chế biến trên thế giới còn đòi hỏi nhà cung cấp, nhà xuất khẩu có sự ổn định về khối lượng hàng và chất lượng sản phẩm. Không thể ổn định được các yếu tố này nếu ngành chế biến và xuất khẩu thuỷ sản không có được nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và kiểm soát được chất lượng.
Một khó khăn nữa đối với ngành nuôi trồng thuỷ sản đó là việc quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản. trong những năm gần đây tốc độ phát triển của lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản đạt bình quân từ 4-5%/năm, nhưng chủ yếu do tăng diện tích nuôi. Điều này dẫn đến mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường. Việc “khoanh riêng bắt tôm” ở tỉnh Cà mau đã tận dụng quá mức các yếu tố tự nhiên mà không có quy hoạch dẫn đến đất rừng bị nhập mặn, tôm chết hàng loạt. Vấn đề này đặt ra: việc quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản cần có sự phối hợp giã ngành thuỷ sản với các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, hàng hải,... để tránh sự chồng chéo trong việc phân định quyền quản lý.
Hiện nay, quyết định 244/1998/QĐ-TT của chính phủ về chương trình phát triển lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản đang được triển khai. Theo phó vụ trưởng vụ nghề cá- Nguyễn Văn Thành “việc triển khai nuôi trồng thuỷ sản ở các địa phương cần phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, trình độ công nghệ và nhu cầu thị trường”. Nhưng bên cạnh đó việc nuôi trồng thuỷ sản phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương để tạo ra khung chính sách thích hợp.
Về chế biến và xuất khẩu: Thiếu quy hoạch phát triển các nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Hai phần ba số nhà máy đợc phát triển từ những năm 90 có mặt hàng đơn điệu, phần lớn là bán chế phẩm, tiêu hao nguyên liệu cao, giá bán lại thấp, hệ thống kiểm tra chất lượng xuất khẩu thuỷ sản chưa đòng bộ, chất lượng sản phẩm chưa ổn định dẫn đến uy tín thị trường quốc tế chưa cao.
Công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các loại giống thuỷ, hải sản, thức ăn, công nghệ chế biến và các giải pháp xử lý các bệnh tôm cá còn yếu dẫn đến hiệu quả của ngành chưa cao.
III. Phương hướng thực hiện một số chính sách.
1. Chú trọng tới mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, hay nói cách khác bên cạnh tốc độ tăng trưởng cần chú ý hơn chất lượng tăng trưởng.
Cho tới nay xuất khẩu được bán nhiều hơn về mặt số lượng. Các chỉ tiêu như kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, tỷ trọng nhập siêu… rất được quan tâm trong khi các vấn đề mang tính quyết định như chất lượng, hỉệu quả và sức cạnh tranh chỉ được đề cập một cách rất chung không được chi tiết hoá thành các biện pháp cụ thể trong tất cả các khâu từ đầu tư đến quản lý sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Tư duy chỉ chú trọng chạy theo giá kim ngạch cần phải được thay đổi. Tất cả biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần được tập trung vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu được coi là có chất lượng khi nó được tiến hành một cách có bài bản dựa trên tính toán với tầm nhìn dài hạn. Còn hiệu quả các chỉ số như hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào, mức độ đóng góp cho GDP và mức độ đầu tầu lôi kéo thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển.
Về sức cạnh tranh:
Một là, dựa vào những lợi thế có sẵn như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý. Nhưng đây là hướng đi có phần thụ động và chỉ có tác động ngắn hạn. Hai là, dựa vào lợi thế có được nhờ nâng cao năng lực trong việc cắt giảm chi phí bình quân và hợp lý hoá quy trình sản xuất, kinh doanh. Đây là hướng đi chủ động hơn và có tác động trong dài hạn hơn. Đó chính là mấu chốt của vấn đề các biện pháp khuyến khích. Trong thời gian cần tìm mọi cách tìm môi trường thích hợp để thúc đẩy doanh nghiệp đi theo hướng chủ động, xoá bỏ chiến lược kinh doanh thụ động.
2. Coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Hiện nay, nước ta vẫn là một nước nghèo, muốn ngang tầm với các quốc gia khác ít nhất là trong khu vực thì chúng ta phải đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Để có được tốc độ tăng trưởng cao, có thể thiên về chiến lược thay thế nhập khẩu nó lại không bền vững. Do đó, phát triển theo hướng xuất khẩu thì sản xuất có thể đạt đến quy mô kinh tế ( không chịu hạn chế về quy mô) và sử dụng nguồn lực được tối ưu hoá qua đó phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong thời gian tương đối dài.
3. Bảo đảm mục tiêu thâm nhập vào thị trường quốc tế theo nguyên tắc đa phương hoá.
Muốn chủ động thâm nhập vào thị trường thì phải nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế trên cơ sở cân bằng các mối quan hệ với các đối tác chủ yếu tránh sự phụ thuộc vào các bạn hàng nào đó. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng đối với Việt Nam không chỉ đối với hoạt động xuất- nhập khẩu mà cả trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì Việt nam có những sự khác biệt về chế độ chính trị, cục diện kinh tế thế giới chứa đựng nhiều nhân tố khó xác định. Vì vậy, không nên mở rộng thị trường một cách quá mức về những tiềm ẩn quy mô bất lợi về lâu dài. Đa phương hoá không đơn thuần là sự chuyển dịch kim ngạch từ nơi này sang nơi khác mà cần phải đạt được tốc độ tăng trưởng trên tất cả các thị trường hợp lý.
4. Hướng tới sự thay đổi căn bản về đối tượng và phương thức quản lý.
Ta biết rằng đến 2006 thì các công cụ để điều tiết như hạn ngạch, tính phụ thu… phải cần được bãi bỏ. Trong khi đó một số công cụ mà các nước sử dụng phổ biến trên thế giới như: Hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối vẫn chưa được áp dụng ở nước ta mà những công cụ này lại không thuộc yêu cầu bị bãi bỏ. Vì vậy, định hướng cơ bản của cơ chế quản lý trong thời kỳ 2001-2005 sẽ là giảm dần công cụ phi thuế quan thuộc nhóm ta đang áp dụng (nhóm thứ nhất) và tăng công cụ thuộc nhóm thứ 2.
5. Một số kiến nghị đối với hoạt động khai thác và đánh bắt thuỷ sản.
Như ở trên đã khẳng định rằng việc nuôi trồng thuỷ sản và khai thác thuỷ sản thiếu quy hoạch đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái. Vậy để hạn chế nguy cơ cạn kiệt thuỷ sản nên chăng áp dụng hạn ngạch đối với tầu khai thác thuỷ sản.
Việc cấp hạn ngạch trước hết là bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Sau đó là tạo điều kiện chủ động về mùa vụ và có thể chuyến sang hoạt động kinh doanh khai thác đánh bắt hải sản. Đồng thời giúp các cơ sở chế biến xác định được mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, bố trí cơ cấu sản xuất hợp lý để từ đó có thể nâng cao sức cạnh tranh của ngành thuỷ sản. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho việc cấp hạn ngạch đó là :
Cá ở vùng biển Việt Nam bao gồm rất nhiều loài với các kích cỡ khác nhau. Trong khi đó để cấp hạn ngạch thì đòi hỏi nguồn lực tự nhiên phải khá đồng đều.
Tiếp đến là công tác điều tra nguồn lợi chưa ưđợc tiến hành đồng bộ với chủ trương đóng tàu, khai thác xa bờ. Hiện nay ngư dân vẫn chủ yếu đánh bắt với kinh nghiệm chứ chưa có chỉ dẫn về sự di chuyển của luồng cá.
Cuối cùng là việc thu nợ cho ngân sách nhà nước chương trình đánh bắt hải sản xa bờ còn rất thấp. Nếu cấp hạn ngạch sẽ hạn chế số lượng khai thác thì đến bao giờ số nợ này mới thanh toán đợc cả gốc lẫn lãi.
Như vậy việc ra hạn ngạch đối với khai thác hải sản xa bờ còn rất nhiều điều chưa phù hợp. Thiết nghĩ để chính ngư dân “nuôi biển” bằng cách giao quyền khai thác và nghĩa vụ quản lý theo từng vùng khai thác dưới sự quản lý của lực lượng kiểm ngư.
6. Mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo và chính sách của nhà nước cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến 2010.
a. Mục tiêu:
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm, tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch đạt trên 2,5 tỷ USD tạo ra việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu người ; góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế xã hội cho đất nước và an ninh ven biển.
b. Nguyên tắc chỉ đạo.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sản xuất và đời sống nhân dân.
Nuôi trồng thuỷ sản phải từng bước được hiện đại hoá, phát triển theo phương pháp nuôi công nghiệp là chính, kết hợp với các phương pháp khác phù hợp với từng vùng.
Hướng vào phát triển nuôi thuỷ sản ở vùng nước lợ và ven biển, đồng thời phát triển nuôi nước ngọt.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu, đồng thời chú trọng nuôi trồng thuỷ sản khác phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
c. Về chính sách
Sử dụng đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
Giao hoặc cho thuê đất mặt nước, eo, vịnh, đầm phá, hồ chứa mặt nước lớn đã được quy hoạch cho các thành phần kinh tế sử dụng vào nuôi trồng thuỷ sản ổn định và lâu dài, theo nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của chính phủ.
Được chuyển đổi ruộng nhiễm mặn, ruộng trũng, đất làm muối, đất ngập úng sản xuất lúa bấp bênh, kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản
Chính sách đầu tư.
+ Các thành phần kinh tế được nhà nước khuyến khích việc đầu tư nuôi trồng thuỷ sản theo luật khuyến khích đầu tư trong nước và các quy định hiện hành, nhà nước có các chính sách cho nông ngư dân nghèo có lao động và có đất nuôi trồng thuỷ sản được vay vốn không phải thế chấp tài sản, nông, ngư dân vùng sâu vùng xa, hải đảo vay vốn phát triển nuôi trồng thuỷ sản được hưởng các quy chế ưu đãi theo quy định hiện hành.
+ Vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho:
Quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho vùng nuôi tập trung gồm: đê bao, kênh cấp và thoát nước, trạm bơm lớn, cảng cá, chợ các và cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong cảng, chợ các quốc gia trong địa phương có nghề các.
Xây dựng và hoàn thiện các trung tâm giống quốc gia, cải tạo nâng cấp các trại giống cấp một.
Nghiên cứu khoa học nhập các đối tượng nuôi mới, công nghệ mới.
Xây dựng các trạm quan trắc, dự báo môi trường kiểm dịch.
Xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia.
Đào tạo nguồn nhân lực.
Hoạt động khuyến ngư.
Quản lý điều hành hoạt động chương trình.
+ Vốn tín dụng trung hạn, dài hạn đầu tư cho cải tạo, nâng cấp xây dựng mới cơ sở sản xuất thức ăn, sản xuất bột cá, cơ sở sản xuất giống cấp 1,2 và cải tạo ao, đầm nuôi của các thành phần kinh tế.
+ Vốn tín dụng ngắn hạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh cho tôm cá, cac vật tư chuyên dụng phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản.
+ Vốn đầu tư nước ngoài thông qua cac dự án được đầu tư vào việc trợ giúp kỹ thuật, tư vấn, đào tạo, nhập công nghệ mới, chuyển giao công nghệ và khuyến ngư.
Về thuế:
+ Các tổ chức, các nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản và được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của luật thuế khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và quy định hiện hành
+ Nuôi trồng thuỷ sản trên đất, mặt nước thuộc đất nông nghiệp, thực hiện chính sách thuế theo luật thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện hành.
+ Miễn thuế vận chuyển giống thuỷ sản đến vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Phân tích trên là toàn bộ phương hướng chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng cùng với những vấn đề liên quan đến ngành thuỷ sản.
Để hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, hoạt động xuất khẩu cũng như hoạt động ngọai thương cần phả được tăng trưởng hơn nữa về tốc độ, hoàn thiện hơn nữa về chính sách.
Lời kết
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quy luật khách quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam không thể nằm ngoài quy luật phát triển này nếu không muốn khoảng cách tụt hậu ngày càng xa so với khu vực và thế giới để hội nhập thành công Việt Nam phải tận dụng tối đa cơ hội mà khách quan đem lại nhưng cũng phải đối phó với những khó khăn chủ quan và khách quan đưa tới.
Hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cũng không những thời cơ và thách thức chung mà đất nước được hưởng và đối phó và còn có những điểm mạnh và điểm yếu mà chỉ nó phát sinh ra. Trong những phần trên ngoài những phân tích về tình hình xuất khẩu thì phân tích những khó khăn và thuận lợi của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản cũng đã nói nên điều đó.
Thực trạng trên cho thấy để hội nhập Việt Nam phải có những chuyển biến căn bản đặc biệt về chiến lược phát triển cũng như những chính sách khuyến khích, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Những kết quả đạt được trong những năm qua cho phép chúng ta hy vọng rằng với những chính sách kịp thời, sát thực hoạt động xuất khẩu nước ta sẽ đạt tới những thành công lớn góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương nước nhà phát triển bắt kịp xu hướng của khu vực và thế giới.
Qua đó chúng ta hiểu sâu sắc điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để hạn chế, khắc phục bằng những chính sách kịp thời nhất mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Văn kiện đại hội VI, VII, VIII.
2. Dự thảo văn kiện đại hội lần thứ IX của Đảng
3.Tạp chí cộng sản số 14, 17, 18, 19, 20.
4.Tạp chí kinh tế và dự báo số 10/99.
5.Kinh tế và phát triển số 38-8/2000
6. Phát triển kinh tế số 7/2000
7.Tạp chí thuỷ sản 1,3,4/2000.
8.Thị trường giá cả số 10/2000.
9.Hội nhập kinh tế quốc tế-thời cơ và thách thức.
10.Báo đầu tư số 79,86,90...100/2000.
11.Báo ngoại thương.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA235.doc