Tài liệu Chuyên đề Tìm một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Hà Nội: Lời nói đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay , bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được . Nhưng để đạt đượcmụa tiêu quan trọng đó đòi hỏ chính phủ phải có những chính sách , chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước mình , đồng thời phải kế thừa và phát triển những tinh hao của thế giới .
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng , sự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia và cuả cả thế giới . Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là Ngân hàng , nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường . Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không ổn định thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến làm suy giảm nền kinh tế .
...
112 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Tìm một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay , bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được . Nhưng để đạt đượcmụa tiêu quan trọng đó đòi hỏ chính phủ phải có những chính sách , chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước mình , đồng thời phải kế thừa và phát triển những tinh hao của thế giới .
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng , sự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia và cuả cả thế giới . Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là Ngân hàng , nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường . Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không ổn định thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến làm suy giảm nền kinh tế .
Tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là: Nhận tiền gửi , hoạt động tín dụng, trung gian thanh toán , hơn nữa nó là nguồn sinh ra lợi nhuận nhiều nhất cho Ngân hàng thương mại vì thế mà muốn hệ thống Ngân hàng ổn định và phát triển thì đòi hỏi chất lượng hoạt động tín dụng cũng phải ổn định và hiệu quả .
Xuất phát từ quan điểm đó mà em đã chọn đề tài nghiên cứu là :
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội ”.
Với thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội , một Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm cùng với số liệu thống kê từ năm 2000 trở lại đây em hy vọng rằng mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé nào đó của mình vào công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm:
ChươngI : Tín dụng Ngân hàng và chất lượng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa .
ChươngII: Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư &Phát triển Bắc Hà nội và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng .
ChươngIII: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà Nội trong những năm trước mắt .
Qua chuyên đề này em xin gửi lời cảm ơn đến các Cô, Bác, Anh , Chị phòng tín dụng và các phòng ban khác của Chi nhánh . Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lục Diệu Toán đã giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Sinh viên
Trần Quang Huy
Chương I
Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
I . tín dụng và vai trò của tín dụng tong nền kinh tế thị trường.
1. khái niệm về tín dụng và sự cần thiết của tín dụng.
1.1.khái niệm và đặc điểm của tín dụng.
1.1.1. Khái niệm .
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phương tiện thanh toán chủ yếu trong tất cả các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì tốc độ quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ thể kinh tế không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình mà họ phải dựa vào các chủ thể kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ tín dụng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta có thể nói cơ sở hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng chính là sự tin tưởng và nhu cầu về vốn trong nền kinh tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đưu ra một khái niệm chung về quan hệ tín dụng như sau :
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời và dựa trên nguyên tắc hoàn trả tin tưởng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là quan hệ mua bán , chỉ xảy ra trong thời gian nhất định và phải được xác định trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Nói chung đứng trên mỗi góc độ khác nhau người ta sẽ có cách hiểu khác nhau về tín dụng , chính vì thế mà theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng như sau:
“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng ” . Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay , chiết khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác .
Dù đứng trên quan điểm như thế nào chăng nữa thì bản chất hoạt động tín dụng không hề thay đổi: Trong quan hệ tín dụng ngườn cho vay chỉ nhường quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định chứ không nhường quyền sở hữu và người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay khi đến hạn đã thoả thuận . Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà còn được tăng thêm dưới hình thức lãi suất.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ tín dụng
Xuất phát từ cơ sở hình thành cũng như khái niệm về quan hệ tín dụng ta có thể đưa ra một số đặc điểm về quan hệ tín dụng như sau:
Trong quan hệ tín dụng không có sự vận động của quyền sở hữu mà chỉ thay đổi quyền sử dụng trong một thời gian nhất định .
Giá cả trong quan hệ tín dụng chính là lãi suất tín dụng.
Người cho vay nhận được thu nhập dưới hình thức lãi suất . Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá cả trong quan hệ tín dụng không ngang bằng với giá trị mà giá cả trong quan hệ tín dụng là biểu hiện bằng tiền của giá trị quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định
Thời gian được xác định trên cơ sở giữa người đi vay và người cho vay.
Quan hệ tín dụng được dựa trên yếu tố tin tưởng .
1.2.Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời thì quan hệ tín dụng cũng được hình thành và phát triển . Nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì kéo theo thị trường tài chính tiền tệ cũng phát triển một cách thích ứng. Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ là một phạm trù kinh tế, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá là yếu tố cần thiết của quá trình sản suất . Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ tham gia vào quá trình tuần hoàn vốn . Trong quá trình đó phát sinh tình trạng tạm thời nhàn rỗi và tạm thời thiếu vốn ở các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế .
Vậy tại sao quan hệ tín dụng lại cần thiết trong nền kinh tế thị trường, điều này được lý giải ở trên những khía cạnh sau:
1.2.1. Trong nền kinh tế thi trường mỗi doanh nghiệp đều muốn được thể hiện và khẳng định mình trên thương trường . Muốn thắng được đối thủ cạnh tranh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có được ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động; Khoa học công nghệ, trong đố có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành nên hai yếu tố còn lại. Nếu có vốn thì mỗi doanh nghiệp sẽ mua được máy móc thiết bị , vây dựng nhà xưởng v.v.v. Đồng thời họ cũng thuê được lao động , đào tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn. Nhưng rõ ràng là với số vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ không thể đảm bảo được tất cả các mối quan hệ kinh tế , chính vì thế mà trong nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ sở hữu. Do đó quan hệ tín dụng được hình thành một cách khách quan trong chính nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường , chỉ có quan hệ tín dụng ra đời mới đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung , các doanh nghiệp nói riêng . Ngân hàng sẽ là tổ chức tài chính trung gian cung cấp nghiệp vụ đó , đồng thời là người điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu góp phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế .
1.2.2. Trong nền kinh tế thị trường ở bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện tượng: “ Tạm thời thừa vốn” và “ Tạm thời thiếu vốn “
1.2.2.1. “Tạm thời thừa vốn”.
Thừa ở đây với nghĩa là tổ chức , đơn vị đó có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian nhất định. Điều nay được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ :
Trong nền kinh tế quốc dân việc thu chi xảy ra không đồng thời, thông thường các khoản thu nhập thì tạp trung theo định kỳ còn các khoả chi thì được phân bổ dần dần nên trong một khoảng thời gian nhất định sẽ xuất hiện số tiền nhàn rỗi từ Ngân sách nhà nước
- Các doanh nghiệp :
Nguồn thu của các doanh nghiệp và nguồn chi của các doanh nghiệp có sự không thống nhất về mặt thời gian vì những lý do: Hàng hoá sản xuất ra đã tiêu thụ được ; Lương của các công nhân chưa đến hạn trả; Tiền chưa phải trả do mua chịu hàng hoá; Dự trữ của doanh nghiệp ; Chưa phải thực hiện nghĩa vụ tài chính và trả lãi suất Ngân hàng ; Các quỹ chưa được sử dụng ; Lợi nhuận của doanh nghiệp ... Điều này dẫn đến các doanh nghiệp luôn có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian nhất định.
- Cá nhân người tiêu dùng:
Trong hoạt động sản suất kinh doanh , các cá nhân trong xã hội sẽ nhận được phần thu nhập của mình dưới các hình thức : tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, lợi nhuận thu được ... Một phần của các phần thu nhập này không chỉ tiêu dùng ngay mà còn để dành tiêu dùng trong tương lai . Phần tiền để dành này hình thành lượng vốn tiền tệ nhàn rỗi rất lớn trong nền kinh tế
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ nước ngoài:
Mỗi quốc gia vì lí do như là muốn tham gia vào các tổ chức quốc tế hay là để đảm bảo an toàn cho nên kinh tế cũng như ổn định đồng tiền trong nước họ thường giữ một khoản tiền tại các Ngân hàng ở nước ngoài để giao dịch hay một định chế tài chính quốc tế hoặc có một lượng vốn dồi dào mà không đêm đầu tư tiếp . Thương mại quốc tế ngày càng mở rộng dẫn đến mỗi quốc gia đều có một tài khoản của mình ở nước ngoài để giao dịch . Chính những lí do đó đã tạo nên một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ có thể sử dụng trong một thời gian nhất định.
1.2.2.2. “ Tạm thời thiếu vốn”.
Thiếu vốn ở đây với nghĩa là tổ chức đơn vị đó thiếu lượng tiền mặt tạm thời để trang trải cho những hoạt động kinh tế trước mắt đòi hỏi phải chi tiền mặt . Và điều này được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ:
Đóng vai trò là một chủ thể lớn điều hành thúc đẩy sự phát triển của một đất nước , Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ tầng , các công trình mang tính sống còn đối với lợi ích của quốc gia mà tư nhân không có đủ khả năng và điều kiện thực hiện . Nguồn vốn đầu tư chính phủ lấy từ Ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng đôi khi NSNN không đủ vì chưa đến hạn thu thuế dẫn đến sự thiếu vốn đấu tư Chính phủ phải đi vay
- Các doanh nghiệp :
Như ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện sản xuất kinh doanh dẫn đến tuần hoàn luôn chuyển vốn khác nhau . Đồng thời mỗi doanh nghiệp lại là một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp này thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì chưa bán được hàng, chưa thu được tiền nhưng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ , phải trả lương ... Dẫn đến các doanh nghiệp có nhu cầu được vay vốn.
- Cá nhân:
Người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi bất thường hoặc những khoản chi tiêu ngoài khả năng tài chính tạm thời của họ nhưng họ có khả năng bù đắp những thiếu hụt đó trong tương lai . Điều này dẫn đến nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân .
Từ sự phân tích ở trên ta thấy trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhu cầu cho vay và đi vay . Hai nhu cầu này có đặc điểm chung là đều nhằm thoả mãn nhu cầu hiện tại của các chủ thể kinh tế và nó xảy ra trong thời gian ngắn. Khác nhau ở cho vay và đi vay là quyền sở hữu, người cho vay vẫn có quyền sở hữu đối với khoản tiền cho vay còn người đi vay chỉ có quyền sử dụng đối với khoản tiền được vay trong khoảng thời gian thoả thuận giữa hai bên. Để giải quyết vấn đề “ Tạm thời thừa vốn “ và “ Tạm thời thiếu vốn “ thì quan hệ tín dụng ra đời và nó không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại.
2. Chức năng và vai trò của tín dụng.
2.1. Chức năng của tín dụng.
Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
Huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức cho vay.
Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thước đo để tiến hành quản lý doanh nghiệp với các mục tiêu: Sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
2.2. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Trong một thời điểm trong nền kinh tế luân tồn tại hai nhóm doanh nghiệp: Một nhóm “ tạm thời thừa vốn “ và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời trong một thời gian nhất định. Một nhóm “ tạm thời thiếu vốn “ và muốn tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thương xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng một cách tối đa.
Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu đó.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư.
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương thức vay trả góp.
Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín dụng lại quyết định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các Ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
3.1. Hoạt động cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng.
ứng với mỗi tiêu thức khác nhau người ta phân loại cho vay khác nhau, ta có thể dựa trên những tiêu thức sau:
Theo kỳ hạn nợ.
Theo mục đích sử dụng vốn.
Theo hình thức đảm bảo tiền vay.
Theo phương pháp hoàn trả .
Theo loại hình tiền tệ.
3.1.1. Theo kỳ hạn nợ.
Theo kỳ hạn nợ cho vay của Ngân hàng thương mại(NHTM) được phân làm ba loại: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
Cho vay ngắn hạn.
Là loại cho vay có kỳ hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Khoản cho vay ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho các hoạt động sau:
+ Cho vay mua hàng dự trữ.
Từ trước tới nay, ngân hàng thường cho các hãng vay ngắn hạn bổ xung tạm thời vốn hoạt động. Trên thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới thứ II, ngân hàng chủ yếu tập trung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới hình thức các khoản cho vay mang tính tự thanh toán (self-liquidating loans). Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô ... Các khoản cho vay như vậy tận dụng được chu kỳ tiền mặt thông thường trong một hãng kinh doanh như sau:
Tiền mặt được chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành phẩm hoặc thành phẩm.
Hàng hoá được sản xuất hoặc dữ trữ để bán.
Hàng đã bán(thường là bán chịu).
Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán chịu) và được dùng để trả các khoản vay ngân hàng.
Trong trường hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc(có thể trong vòng từ 60 đến 90 ngày) khi hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay vốn lưu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lưu động thường được dùng để mua hàng dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm gần giống với các khoản cho vay tự thanh toán như đã đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức sản xuất và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví dụ một hãng sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh vào mùa thu và quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn. Do vậy hãng cần các khoản tín dụng ngắn hạn vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê thêm công nhân nhằm tăng sản lượng để đáp ứng hàng hoá cho người bán lẻ trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12 . Ngân hàng của hãng lập ra một hạn mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9 tháng cho phép hãng sản xuất quần áo có thể rút tiền trong suất giai đoạn này. Quy mô của hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở dự tính về lượng vốn lớn nhất mà hãng có thể sẽ cần tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời hạn của hợp đồng tín dụng.
Thông thường các khoản cho vay vốn lưu động được đảm bảo bằng các khoản phải thu hoặc thế chấp bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ phải chịu lãi suất thả nổi trên lượng tiền thực tế họ đã sử dụng. Khoản lệ phí cam kết được tính trên phần tín dụng thuộc hạn mức không sử dụng và đôi khi tính trên toàn bộ giá trị của hạn mức. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có số dư bù tiền gửi. Số dư bù tiền gửi bao gồm lượng tiền gửi tối thiểu bắt buộc được xác định trên cơ sở quy mô hạn mức tín dụng và một lượng tiền gửi bắt buộc bổ xung bằng một tỉ lệ phần trăm quy định trên tổng lượng tín dụng mà khách hàng thực sử dụng.
+ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng thương mại là cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà ở, các toà nhà văn phòng, trung tâm thương mai, các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng công trình kéo dài nhưng các khoản cho vay lại mang tính tạm thời. Các khoản cho vay này cung cấp vốn cho bên thi công để thuê công nhân, thuê thiết bị xây dựng, mua vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi công thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác, để lấy tiền thanh toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế chỉ khi Công ty xây dựng chắc chắn có một cam kết cho vay thế chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho các dự án sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn. Gần đây một vài ngân hàng đã cho vay với thời hạn khá dài 5 đến 7 năm, cung ứng vốn cho việc xây dựng và hoạt động trong giai đoạn đầu của công trình.
+ Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Những người kinh doanh chứng khoán Chính phủ và chứng khoán tư nhân thường cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối với người kinh doanh chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng cao, thường được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn, chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín dụng trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng khác thuộc loại này là cho vay đối với các tổ chức ngân hàng đầu tư. Hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu , cổ phiếu công ty và các giấy nợ của Chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán thường diễn ra khi ngân hàng đầu tư giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại công ty khác, giúp đỡ Công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có, hoặc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư mới. Khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn thì khoản vay cùng với lãi sẽ được hoàn trả.
+ Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ dùng gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản phải thu mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận được sau khi họ ký hợp đồng bán trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất lượng tín dụng người vay vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời hạn của mỗi khoản vay.
Đối với người kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền khác Ngân hàng có thể tài trợ dự trữ tồn kho thông qua việc xác định kế hoạch sản xuất. Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho người bán lẻ để họ có thể yêu cầu hãng sản xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản vay như vậy có kỳ hạn 90 ngày và sau đó nó có thể được tái gia hạn với thời gian một tháng hay vài tháng. Để có được khoản tín dụng này người bán lẻ phải ký hợp đồng bảo đảm an toàn cho phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hoá trong trường hợp họ không thể thanh toán khoản vay. Sau đó, nhà sản xuất sẽ có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và gửi đơn thanh toán cho ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ đến kiểm tra hàng hoá trong kho của người bán lẻ để xác đinh lượng hàng đã được bán và lượng hàng tồn kho. Sau khi bán được hàng hoá, người bán lẻ sẽ gửi séc tới ngân hàng để thanh toán dần khoản nợ cho ngân hàng.
Nếu cán bộ ngân hàng xác định thấy bất kỳ một hàng hoá nào đã được bán mà ngân hàng không nhận được tiền thanh toán thì cán bộ ngân hàng sẽ yêu cầu người bán lẻ viết ngay séc trả tiền cho số hàng hoá đó. Nếu người bán lẻ không thanh toán được, ngân hàng có thể buộc thu hồi hàng và trả một phần hoặc toàn bộ số hàng đó cho nhà sản xuất kinh doanh để thu hồi số vốn cho vay. Hợp đồng kế hoạch sàn thương bao gồm một khoản dự phòng tổn thất tín dụng, tích luỹ các khoản lãi thu được khi người vay trả tiền.
Quy mô của quỹ dự phòng sẽ giảm nếu có bất cứ khoản vay nào không được hoàn trả. Khi dự phòng tổn thất tín dụng đạt tới mức định trước, người bán lẻ sẽ được giam trừ một phần số lãi của hợp đồng trả góp.
+ Cho vay trên tài sản.
Trong những năm gần đây, những khoản cho vay trên tài sản là khoản tín dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của hãng được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai. Ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản chủ yếu được dùng để bảo đảm cho các khoản vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu, hoặc trên giá trị hàng tồn kho. Ví dụ ngân hàng có thể sẵn sàng cho vay một khoản tiền bằng 70% khoản phải thu trên tài khoản thanh toán vãng lai của doanh nghiệp. Một cách khác ngân hàng có thể cho vay tới 40% giá trị hàng tồn kho hiện tại của doanh nghiệp gồm hàng hoá đang bán hoặc hàng hoá trong kho. Khi thu hồi được các khoản phải thu hoặc bán được hàng doanh nghiệp sẽ chuyển một phần tiền mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền vay.
Đối với hầu hết những khoản vay được thế chấp bằng các khoản phải thu hay hàng tồn kho doanh nghiệp đi vay vẫn có quyền sở hữu đối với các tài sản đó. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu cũng được chuyển sang cho ngân hàng để hạn chế rủi ro khi một số khoản nợ không được thanh toán như dự tính.
Cho vay trung hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại cho vay này chủ yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: Xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vân tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Loại cho vay này tài trợ cho các loại:
+ Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
+ Cho vay luôn chuyển.
+ Cho vay theo dự án.
+ Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.
3.1.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay.
Hoạt động cho vay bao gồm: Cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Cho vay tiêu dùng:
Là loại cho đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm nhà cửa, xe và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Hoạt động cho vay tiêu dùng rất phát triển ở các nước Âu Mỹ. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện ở nước ta nhưng áp dụng còn rất hạn chế bởi mức sống trung bình của người dân chưa cao, việc thanh toán bằng thẻ đang được chú trọng nhưng chưa thực sự phát triển, hiểu biết của người dân về loại hình tín dụng này chưa nhiều.
Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Là hoạt động cho vay đối với các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hoạt động cho vay này đã xuất hiện từ rất sớm và rất phát triển trên thế giới, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
3.1.3. Theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Trong cho vay, để giảm thiểu rủi ro, tổn thất có thể xảy ra cho Ngân hàng đối với những khách hàng không thực hiện đúng cam kết thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng, ngân hàng thường yêu cầu các khoản cho vay phải có bảo đảm. Việc bảo đảm đối với khoản vay là rất cần thiết bởi một mặt với doanh nghiệp sẽ phải có ý thức hơn trong kinh doanh và trả món nợ, mặt khác đối vơi ngân hàng việc có bảo đảm đối với các khoản vay của doanh nghiệp tạo nên tâm lý yên tâm hơn và giảm rủi ro. Có nhiều loại bảo đảm và do đó cũng có nhiều loại cho vay theo hình thức bảo đảm khác nhau như cho vay cầm cố, cho vay thế chấp, cho vay bảo lãnh....
Theo hình thức này ta có thể phân loại cho vay thành cho vay có bảo đảm và không có bảo đảm.
Cho vay có bảo đảm.
Là một loại hình tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3.
Cho vay không có bảo đảm.
Là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà dựa trên uy tín của chính khách hàng hay người ta còn gọi là tín chấp. Khách hàng được ngân hàng cho vay theo hình thức này thường là những khách hàng truyền thống của ngân hàng có uy tín và độ tin cậy cao.
3.1.4 Theo phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có thể phân loại cho vay thành hai loại:
Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn, gốc và lãi theo định kỳ, trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Kỳ hạn hoàn trả có thể hàng tháng, hàng quý , nửa năm hoặc một năm.
Cho vay trả một lần: Là loại cho vay trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
3.1.5 Theo loại hình tiền tệ.
Cho vay bằng ngoại tệ.
Cho vay bằng nội tệ.
Cho vay bằng vàng.
3.2 Hoạt động cho thuê tài chính(Leasing).
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đông thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương từ bỏ hợp đồng. ở Việt nam hoạt động này đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây và nó đã trở thành nguồn quan trọng để các doanh nghiệp có thể tiếp cận được công nghệ mới.
3.3 Hoạt động bảo lãnh
Theo quy chế về bảo lãnh Ngân hàng của Ngân hàng nhà nước Viết nam ban hàng ngày 25/08/2000, bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( bên bảo lãnh) với bên(nhận được bảo lãnh) có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
3.4 Hoạt động chiết khấu
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua lại thương phiếu , giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Trong hoạt động này có một hoạt động đáng chú ý đó là hoạt động tái chiết khấu. Hoạt động tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu là một nghiệp vụ đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Tại Việt nam do việc kém phát triển trong việc phát hành và lưu thông các thương phiếu cũng như các giấy tờ có giá khác, nên hoạt động này mặc dù đã xuất hiện nhưng chưa phát triển mạnh. Hoạt động chiết khấu tại Ngân hàng thương mại chủ yếu được tiến hành với trái phiếu Chinh phủ hoặc trái phiếu , kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Hoạt động tín dụng có nhiều nghiệp vụ như vậy nhưng trong chuyên đề nghiên cứu này ta chủ yếu đi sâu nghiên cứu hoạt động cho vay ngắn hạn của Ngân hàng. Vì vậy từ giờ trở đi ta thống nhất một thuật ngữ tín dụng ngắn hạn là để chỉ hoạt động cho vay ngắn hạn.
II. Quy trình phân tích tín dụng của Ngân hàng.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước(hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
Bằng các phương pháp như : phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian(qua các cơ quan quản lý, qua cac bạn hàng chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn), thông qua các báo cáo của người vay trính cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ có được những thông tin về khách hàng của mình, một điều quan trọng đối với Ngân hàng là phải xử lý được các thông tin đó, làm sao phải xác định được tín trung thực của những thông tin mà Ngân hàng có được.
Nội dung phân tích chủ yếu của bước này là phải tập trung vào:
Đánh giá tài sản của khách hàng, việc đánh giá tài sản của khách hàng là điều quan trọng đối với Ngân hàng bởi vì tài sản(một phần hoặc tất cả) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời. Khi đánh giá tài sản của khách hàng thì Ngân hàng tập trung vào: Ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng tồn kho, tài sản cố định.
Đánh giá các khoản nợ của khách hàng là một công việc quan trọng mà Ngân hàng cần phải làm bởi vì thông qua việc đánh giá các khoản nợ mà Ngân hàng biết được tình khả năng tài chính của khách hàng, đồng thời Ngân hàng cũng biết được vị trí của mình trong các chủ nợ. Nếu Ngân hàng giành được vị trí quan trọng nhất thì nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
Phân tích luồng tiền: Thông qua việc xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ(gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường) và dòng tiền thực xuất quỹ( gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường) Ngân hàng có thể biết được tình trạng ngân quỹ của khách hàng trong tháng, quý, hay năm. Từ đó Ngân hàng có thể thiết lập kế hoạch thu nợ, giải ngân hợp lý, nâng cao chất lượng khoản vay.
Sử dụng các tỷ lệ như: Nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời để đánh giá khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn và khả năng tạo lợi nhuận của người vay.
Các điều kiện kinh tế: Có thể thấy nghĩa vụ của khách hàng đối với Ngân hàng đều xảy ra trong tương lai vì thế khả năng hoạt động kinh doanh của khách hàng trong tương lai được Ngân hàng đặc biệt quan tâm phân tích. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng.
Bươc 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ(khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng(hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. So vậy, cả Ngân hàng và khách hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng.
Nội dung của hợp đồng tín dụng gồm những khoản mục chính là: Họ tên, địa chỉ của khách hàng; mục đích sử dụng vốn; số lượng tín dụng; lãi suất; phí; thời hạn tín dụng; các loại bảo đảm; kế hoạch giải ngân; điều kiện thanh toán và các điều kiện khác.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không?... Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được bảo đảm. Ngược lại khi các khoản vay bị đe doạ Ngân hàng có các biện pháp sử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Ngoài những khoản tín dụng được đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn còn có những khoản nợ quá hạn đòi hỏi Ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân để kịp thời đưa ra những quyết định mới liên quan đến tín an toàn của tín dụng.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi được khoản nợ, bao gồm phong toả, bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
III. Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng.
Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các Ngân hàng. Tuy vậy để đưa ra một khái niêm đúng về chất lượng tín dụng không phải là dễ, bởi lẽ mỗi khái niệm đưa ra đòi hỏi phải chỉ ra nó xuất phát từ đâu trên quan điểm nào. Như ta đã biết mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng.
Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu của họ là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa hoá giá trị sử dụng của khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn, quy mô, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu của họ hay không, làm sao để các thủ tục được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì khoản tín dụng đó được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả mãn nhu cầu của họ về khoản tín dụng trên các phương diện, lãi suất, quy mô, thời hạn, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ...
1.2 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng.
Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế Ngân hàng cũng phải hoạt động kinh doanh làm sao để đem lại càng nhiều thu nhập cho chủ sở hữu thì càng tốt. Nhưng điều rất khác của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp khác là Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với 3 nghiệp vụ cơ bản: Nhận gửi, cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì thế theo quan điểm của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng với các yếu tố cấu thành cơ bản đó là mức độ an toàn của tín dụng và khả năng sinh lời do hoạt động tín dụng mang lại.
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận hay mối quan hệ giữa an toàn và khả năng sinh lời là mối quan hệ biện chứng. Mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nhà đầu tư là phải cân nhắc giữa mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Về nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận thì mức độ rủi ro của lĩnh vực đầu tư càng cao thì sẽ có khả năng sinh lợi càng cao và ngược lại.
Hơn nữa hoạt động của ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro bởi lẽ số tiền ngân hàng cho vay có tới hơn 50% là nguồn vốn ngoài vốn chủ sở hữu. Vì thế nếu như Ngân hàng không cân nhắc thận trọng thì sẽ lâm vào tình trạng “ Mất khả năng thanh toán “.
Đối với Ngân hàng, một khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao khi khoản tín dụng đó đến hạn thanh toán thì sẽ hoàn trả đầy đủ vốn gốc và lãi. Do đó theo quan điểm của Ngân hàng chất lượng tín dụng được hiểu là: Chất lượng tín dụng là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng Ngân hàng.
1.3 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội.
Thông qua các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế, các hoạt động như tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển theo chiều sâu...sẽ được tiến hành và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy đứng trên quan điểm của xã hội để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng là: Sự đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà các khoản tín dụng của Ngân hàng đem lại.
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Nó là ngành mang lại cho giới Ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời nó cũng là ngành chịu nhiều rủi ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới... Có thể nói bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với khách hàng mà còn đối với toàn xã hội nữa.
Về phía Ngân hàng: Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh: bỏ vốn của mình ra và mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy đảm bảo chất lượng cho các khoản vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay không còn là cái bóng của Ngân hàng Trung Ương mà đã và đang dần trở thành một chủ thể kinh doanh độc lập, tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng Trung Ương. Do vậy mà Ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các khoản vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một nền kinh tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc làm ăn của các doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mà Ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, có như thế thì Ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư vấn...giúp doanh nghiệp tránh khỏi được những rủi ro không đáng có.
Như vậy, có thể thấy mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu cần thiết cho mỗi Ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho Ngân hàng duy trì hoạt động mà còn giúp Ngân hàng phát triển. Nếu đi ngược lại mục tiêu trên, Ngân hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
Về phía nhà đầu tư: Khách hàng của Ngân hàng có hai loại: Người gửi tiền và người vay tiền. Người gửi tiền thì họ quan tâm đến khả năng thanh toán của Ngân hàng mà khả năng thanh toán của Ngân hàng lại có mối quan hệ mật thiết với chất lượng của các khoản tín dụng vì vậy đối với họ nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản tiền gửi của họ vào Ngân hàng. Người vay tiền là người trực tiếp sử dụng giá trị sử dụng của các khoản vốn vay Ngân hàng, mà đối với họ chất lượng tín dụng chính là sự thoả mãn của họ về khoản tín dụng đó. Cuối cùng phải làm sao cho khoản tín dụng đó đem lại lợi nhuận cho họ để họ có thể trang trải chi phí và có lãi. Bởi thế bản thân người vay tiền coi vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết và ngày càng phải được nâng cao.
Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn đề cần thiết. Bởi một đồng vốn của Ngân hàng cho vay nó là đầu mối trong tất cả các mối quan hệ kinh tế, nếu người sử dụng vốn đó hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc nó co hiệu quả đối với Ngân hàng và xã hội bởi nó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đóng góp phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Hơn nữa sự xụp đổ của hệ thống Ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nó có thể làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ xã hội. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng cũng được cả xã hội quan tâm.
3. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
3.1. Nhân tố khách quan.
3.1.1 Môi trường kinh tế xã hội.
Nói đến môi trường kinh tế xã hội là nói đến tổng thể nền kinh tế quốc gia và thế giới. Như ta đã biết mọi thành phần kinh tế đều hoạt động trong xã hội. Vì thế môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của Ngân hàng.
Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản ký thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với các khoản ký thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận có thể bị giảm sút, từ đó có thể gây nên tình trạng Ngân hàng không thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của Ngân hàng là đường lối chủ trương cuả Quốc gia, địa phương. Lý do chủ yếu để Ngân hàng được tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng xã hội. Về mặt lý luận các Ngân hàng chỉ cho người nào vay nếu đưa ra được yêu cầu xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế, phù hợp với chủ trương của Nhà nước.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với sự phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Nhiều Ngân hàng thương mại do nóng vội mở rộng đầu tư, nâng cao dư nợ, đẩy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vượt quá mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đều phải trả giá cho sự nóng vội.
3.1.2. Môi trường pháp lý.
Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn ổn định và phát triển thì cũng cần có một hành lang pháp lý thích hợp, hành lang pháp lý chính là bàn tay hữu hình của Nhà nước tác động vào nền kinh tế nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, chế độ của mình. Hoạt động Ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế trong tổng thể nền kinh tế vì vậy nó cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Pháp luật nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Nói đến môi trường pháp lý là nói đến tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể hiện tín dụng của ngành đúng với Luật Ngân hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật, tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy việc vận dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động Ngân hàng là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng.
3.1.3 Trình độ quản lý, năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân vay vốn.
Trong khi các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng và quản lý vốn của mình thì Ngân hàng sử dụng vốn của mình dưới hình thức gián tiếp: Đó là giao vốn cho doanh nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát doanh nghiệp vay vốn. Do vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng chịu nhiều chi phối từ bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, tương lai phát triển của doanh nghiệp ở mức nào? Dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hay không? Điều này có ý nghĩa quyết định cho số phận món vay. Nếu doanh nghiệp kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn vay Ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cho Ngân hàng cả gốc và lãi.
Mức độ chuyển biến về nhận thức quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao? Họ có đầy đủ ý thức và trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp trông chờ nguồn vốn được cấp , được ưu đãi... Trình độ quản trị điều hành ở mức độ nào? Đã đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở nên hưng thịnh phát triển trong khi một doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ suy xụp . Sự khác biệt này có nguyên nhân xuất phát từ trình độ, chất lượng quản lý.
Như vậy có thể nói việc quản lý sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả, đảm bảo trả nợ Ngân hàng và có lợi nhuận cho doanh nghiệp là điều rất cần thiết đối với các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, bảo tồn và phát triển vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng sẽ cao và ngược lại.
3.2 Nhân tố chủ quan của Ngân hàng.
Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ của Ngân hàng trong cơ chế thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng món vay của Ngân hàng.
Chúng ta đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật là nền kinh tế quốc tế thị trường đang trở thành một không gian trung cho tất cả các nước. Các thị trường tài chính ở phạm vi hoạt động dường như không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội mới cho Ngân hàng vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt Ngân hàng trước những thách thức mới. Bởi vậy nếu Ngân hàng nào không nhận thức được điều này, không tự đổi mới, tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh riêng của mình, có hướng đi và chính sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại và phát triển, trong đó chiến lược con người giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế cho thấy rằng, nếu Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh, nhạy, sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì Ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của Ngân hàng đánh giá sai tài sản thế chấp, lơ là sự giám sát đối với các doanh nghiệp để Ngân hàng gặp rủi ro.
Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch hoạ, cơ chế chính sách, khách hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ... thì bản thân Ngân hàng phải chịu trách nhiệm chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm. Trong đó vai trò của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các món vay, bởi họ chính là người trực tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề suất cho vay và theo dõi quản lý thu nợ của khách hàng. Chính vì vậy cán bộ tín dụng là người, nguồn lực quan trọng nhất của các Ngân hàng khi tìm nguyên nhân nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi được.
Như vậy, để có một khoản vay tốt thì cần phải có nhiều điều. Ngoài một báo cáo tài chình vững mạnh cần có đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật nghiệp vụ, trực giác nhạy bén sắc sảo. Thông qua việc đào tạo và lựa chọn những cán bộ có năng lực, thiết lập một cơ chế tổ chức thích hợp thì các Ngân hàng bắt đầu một quá trình cải thiện chất lượng tín dụng, giảm thiểu các rủi ro để ngày một nâng cao uy tín của mình trong xã hội.
4. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
4.1. Nhóm chỉ tiêu định tính.
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá tình hinh, quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng của Ngân hàng.
Khi cho vay vốn Ngân hàng phải tuân thủ 3 nguyên tăc đó là:
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương.
Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên hình thành một quy luật nội tại của tín dụng. Trên thực tế cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc ấy, hoặc một trong ba nguyên tắc ấy bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này xem nhẹ nguyên tăc kia sẽ dẫn đến tình trạng khách hàng mất khả năng thanh toán, phá sản, đổ bể một dự án, một doanh nghiệp, một Ngân hàng. Khi nói đến chất lượng tín dụng chúng ta phải xem xét đến chất lượng tuân thủ nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc trên.
4.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng.
4.2.1 Tỷ lệ nợ quá hạn.
Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quí hoặc cuối năm.
Nguyên tắc quan trọng nhất của cho vay là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng cho vay. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ vi phạm nguyên tắc cho vay quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề , có khả năng mất vốn lớn, có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là một tất yếu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do khách hàng vay không có khả năng trả nợ được, hoặc không muốn trả nợ. Nguyên nhân chủ quan là do sự yếu kém của bản thân Ngân hàng thương mại. Do đó nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại luôn tồn tại, rất khó tránh khỏi. Nhưng nếu Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn hay tỷ lệ nợ quá hạn quá cao sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, sẽ có nguy cơ mất vốn, dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán , thậm chí làm phá sản một Ngân hàng. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là chất lượng cho vay thấp. Chỉ tiêu này thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại. Phân tích chất lượng thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn cần chú ý như sau:
Nợ quá hạn theo nguyên nhân.
Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế có tài sản thế chấp hay không có tài sản thế chấp, có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi.
Nợ quá hạn theo thời gian: Nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn trên 180 ngày.
Giải quyết nợ quá hạn là môt quan tâm thường trực của tất cả các Ngân hàng thương mại và có nhiều vấn đề cần phải làm, song việc quan trọng nhất là chất lượng cho vay.
Tổng dư nợ.
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động.
4.2.2 Hiệu suất sử dụng vốn vay.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được bao nhiêu trên một đồng vốn huy động. Do Ngân hàng phải trả lãi cho các khoản tiền mà Ngân hàng đi vay nên Ngân hàng cần tận dụng hết sức các khoản vốn huy động để tạo ra lợi nhuận bù đắp chi phí và có lãi. Mục đích của Ngân hàng là làm sao tạo ra được nhiều khoản tín dụng lành mạnh và có hiệu quả, góp phần mở rộng và tăng cường sự ổn định hoạt động của Ngân hàng.
4.2.3 Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích.
Tỷ lệ sử dụng Số tiền vay sử dụng sai mục đích.
vốn sai mục =
đích. Tổng số tiền dư nợ.
Một trong những nguyên tắc vay vốn Ngân hàng là phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận. Nếu như sử dụng vốn sai mục đích thì điều đó chứng tỏ có hành vi lừa dối Ngân hàng và khoản cho vay này có nguy cơ mất khả năng hoàn trả cao. Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích càng cao thì chất lượng cho vay bị đánh giá càng thấp và ngược laị.
4.2.4 Chỉ tiêu lợi nhuận.
Như đã đề cập, lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy lợi nhuận tăng hàng năm, điều đó chứng tỏ chất lượng cho vay đã được tăng lên hoặc Ngân hàng thương mại đã mở rộng công tác cho vay. Chỉ tiêu này cũng chỉ là chỉ tiêu tương đối vì như ta biết lợi nhuận được thu từ nhiều nguồn và nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chính sách thu nhập, chi phí của Chính phủ, chính sách lãi suất, chính sách khách hàng...
Vì vậy mỗi chỉ tiêu đưa ra phải được xem xét trong mối quan hệ với tất cả các chỉ tiêu khác, có như vậy mới đánh giá được chất lượng tín dụng và có phương án để nâng cao chất lượng tín dụng.
5. Chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội là một Chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Chi nhánh đã đưa ra tiêu chuẩn chất lượng trong một quy trình tín dụng ngắn hạn riêng cho mình dựa trên lý thuyết tổng quát và các văn bản pháp luật liên quan.
( Tiêu chuẩn chất lượng của quy trình tín dụng ngắn hạn trang bên ).
Tiêu chuẩn chất lượng của quy trình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội.
Tiêu chuẩn chỉ tiêu
I.Khách hàng mong đợi.
Phục phụ nhanh nhất, thủ tục đơn giản tiện lợi.
Có thái độ đón tiếp hướng dẫn phục vụ khách hàng chu đáo.
Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền và thời gian theo hợp đồng tín dụng đã ký .
Lãi suất, phí thấp , phù hợp.
Thời gian xét duyệt không quá 10 ngày làm việc kể từ khi Ngân hàng nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo qui định.
Thái độ phục vụ văn minh lịch sự tận tình chu đáo.
Giải ngân đúng theo hợp đồng tín dụng với khách hàng.
Lãi xuất phù hợp với thị trường đảm bảo cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng có hiệu quả.
II. Pháp luật yêu cầu.
Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.
Thời hạn cho vay.
Mức cho vay.
Tuân thủ các quy định của pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Thời hạn cho vay đối với quy trình tín dụng ngắn hạn tối đa 12 tháng, được xác định phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
Theo giới hạn tín dụng trong Luật các tổ chức tín dụng( tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng, trừ trường hợp đối với nguồn vốn cho vay từ uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân)
Chương II
Tình hình tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng.
khái quát về chi nhánh ngân hàng đầu tư & phát triển bắc hà nội.
lịch sử ra đời và phát triển của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc Hà nội.
Quá trình hình thành.
Tiền thân của Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Bắc Hà Nội là từ Phòng cấp phát 3, sau chuyển thành Chi điếm 3 ngân hàng Kiến Thiết thành phố Hà Nội thuộc ngân hàng Kiến Thiết Việt nam - Bộ Tài Chính. Khi đó Chi điếm 3 gồm 25 cán bộ phụ trách cấp phát vốn cho 2 huyện Gia Lâm và Đông Anh.
Đến năm 1981, Chi điếm 3 đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và xây dựng khu vực 3 thành phố Hà Nội. Đến năm 1990, Chi nhánh đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển huyện Gia Lâm thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội và đến tháng 8 năm 2000 thì đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển khu vực Gai Lâm, trực thuộc Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( NHĐT&PT Việt Nam ). Hiện nay, theo quyết định 80/QĐ-HĐQT ( hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2002 ) của NHĐT&PT Việt Nam, chi nhánh được quy định như sau:
- Tên đầy đủ bằng tiếng Việt:
Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư & Phát triển Bắc Hà Nội.
- Viết tắt: Chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Hà Nội.
- Gọi tắt: CN Bắc Hà Nội.
- Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh:
Bank for investment and development of vietnam, northern hanoi branch.
- Tên gọi tắt bằng tiếng Anh: BIDV Northern Hanoi Branch.
- Trụ sở: Số 558 Đường Nguyễn Văn Cừ - Thị trấn Gia Lâm
Gia Lâm - TP Hà Nội.
Trải qua hơn 39 năm hoạt động với bao thăng trầm, sau nhiều lần đổi tên và được bổ sung về chức năng, nhiệm vụ song về bản chất thì Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội vẫn là một ngân hàng quốc doanh đóng vai trò phục vụ cho sự nghiệp đầu tư và phát triển của đất nước.
Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội đã trải qua những chặng đường gắn liền với sự nghiệp cách mạng hết sức vẻ vang của dân tộc, gắn liền với những chuyển mình của đất nước. Nhất là từ năm 1990 trở lại đây, từ khi có pháp lệnh về ngân hàng thì Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội có những đổi mới cơ bản và thu được những thành tựu đáng khích lệ.
Từ năm 1994 trở về trước, hoạt động trong cơ chế bao cấp, Chi nhánh có nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách nhà nước và vốn tín dụng hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư và xây dựng cơ bản các công trình theo kế hoạch chỉ định của nhà nước hằng năm.
Từ năm 1995 trở lại đây, Chi nhánh chuyển hẳn hoạt động kinh doanh tiền tệ theo chế độ bao cấp của nhà nước sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời gian đầu khi thực hiện chuyển đổi, Chi nhánh đã gặp phải không ít khó khăn như cán bộ, nhân viên chưa quen với cơ chế mới, thị phần hạn hẹp do cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng khác trên địa bàn, địa điểm nằm quá sâu so với trục giao thông quốc lộ,...song Chi nhánh đã phấn đấu nỗ lực, cố gắng khắc phục mọi khó khăn và phát huy những tiềm năng, thế mạnh của đội ngũ cán bộ có nhiều năm kinh nghiệm lành nghề.
Qua hơn 7 năm thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động, Chi nhánh đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và của khu vực Gia Lâm. Chi nhánh đã có nhiều hình thức huy động vốn phù hợp nhằm huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế để đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng, vì vậy, mức tăng trưởng huy động vốn và sử dụng vốn bình quân hằng năm trên 10%. Bên cạnh đó, chi nhánh đặc biệt quan tâm tới mức tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng. Mặc dù mức tăng trưởng tín dụng hằng năm tăng lên nhưng tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh lại rất thấp. Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của ngân hàng là chiến lược khách hàng. Quán triệt chỉ đạo của NHĐT&PT Việt Nam: “Lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng”. Trên cơ sở quan hệ hợp tác hiệu quả cùng có lợi, phương châm hoạt động của Chi nhánh là coi dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng là cơ hội hợp tác kinh doanh, cùng các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, ắc tắc trong sản xuất kinh doanh, hướng mọi hoạt động của chi nhánh vào việc phục vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Chính vì vậy mà chi nhánh giữ được chữ tín với khách hàng và khách hàng đến với chi nhánh ngày càng nhiều hơn.
Có thể nói, với những kết quả kinh doanh đáng khích lệ đó chi nhánh đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Thủ đô nói riêng và của cả nước nói chung. Mặc dù trong mấy năm gần đây vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta, cho các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nước. Song chúng ta có thể hy vọng rằng, bằng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Hà Nội sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách để trụ vững trong cơ chế thị trường và đóng góp tích cực hơn nữa vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
1.2 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội.
Mô hình hoạt động mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đang xây dựng là : Mô hình Tổng công ty ( Một loại hình công ty đặc biệt chuyên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng ) . Hiện nay mô hình Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam hướng tới là : Trở thành tập đoàn Ngân hàng – Tài chính đa năng phát triển vững mạnh và tăng cường hội nhập quốc tế . Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển bắc Hà Nội – Trụ sở đóng tại 558 Đường Nguyễn Văn Cừ Gia Lâm - Hà nội . Ngân hàng bao gồm 70 cán bộ công nhân viên , đứng đầu là một Giám đốc và hai phó Giám đốc .
Về tổ chức Chi nhánh được chia thành các phòng ban sau:
Giám đốc Chi nhánh
GG
Phó Giám đốc thứ hai
Phó Giám đốc thứ nhất
Phòng
kinh
tế đối
ngoại
Phòng
Tài chính
Kế
toán
Phòng
tín
dụng
dịch
vụ
Phòng
quản
lý
kinh
doanh
Phòng
giao
dịch
Đức
Giang
Phòng
điện
toán.
Phòng
Tổ
chức
hành
chính
Tổ ngân
quỹ
Phòng Kiểm
tra và
kiểm toán nội bộ
Ngoài ra Chi nhánh còn có hai Quỹ tiết kiệm số 7 và Quỹ tiết kiệm số 8 thuộc Phòng giao dịch Đức Giang.
Tình hình hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội từ năm 2000 trở lại đây.
Hoạt động huy động vốn.
Kể từ năm 1995 lại đây, qua hơn 7 năm hoạt động , Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bắc Hà nội đã gây dựng được uy tín trong dân cư và có quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp lớn. Hoạt động huy động vốn luôn được Ngân hàng coi trọng, là yếu tố đầu tiên của quá trình kinh doanh, quyết định sự tồn tại của Ngân hàng. Trên thực tế với việc mở rộng các hình thức huy động ngày càng phong phú với nhiều loại tiền gửi(cả nội và ngoại tệ), cho từng thời hạn và hình thức lãi suất tương ứng. Ngân hàng đã triệt để khai thác nguồn vốn từ những khoản tiết kiệm nhỏ của dân cư cho đến các khoản tiền thanh toán của những doanh nghiệp lớn kết hợp với nhiều giải pháp và chính sách thích hợp, tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn có thời hạn dài nhằm phục vụ cho đầu tư phát triển dài hạn của đất nước . Do vậy nguồn vốn Chi nhánh huy động đã tăng liên tục qua nhiều năm.
Năm 2000 nguồn vốn Chi nhánh huy động được là : 97.052 triệu đồng.
Năm 2001 nguồn vốn Chi nhánh huy động được là: 159.382 triệu đồng tăng 62.330 triệu và bằng 164,22% so với cùng kỳ năm 2000.
Năm 2002 nguồn vốn Chi nhánh huy động được là: 323..280 triệu đồng , tăng 163.898 triệu đồng tương đương 202,83 % so với cùng kỳ năm 2001.
Những kết quả đạt được trên đây tuy còn khiêm tốn so với hoạt động của một Ngân hàng thương mại, nhưng nó đã cho thấy sự cố gắng nỗ lực của tập thể nhân viên Chi nhánh trong công tác huy động vốn với nguồn vốn huy động có những tiến bộ vượt bậc , năm sau luôn cao hơn năm trước . Có được điều này do Chi nhánh đã đưa ra những giải pháp huy động vốn cụ thể là :
- Đối với nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Năm 2002, Chi nhánh mở rộng được quan hệ với nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn trong và ngoài địa bàn nên lượng tiền gửi từ các tổ chức kinh tế tăng mạnh . Số dư tiền gửi huy động từ các tổ chức kinh tế có sự tăng trưởng cao vào cuối năm là do doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh với các khoản tiền thu bán hàng , tiền thu khối lượng công trình được thanh toán váo thời điểm cuối năm .
Năm 2000 huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 30.624 triệu đồng.
Năm 2001 đạt 33.518 triệu đồng , tăng 2.894 triệu đồng , bằng 109,45 % so với cùng kỳ năm 2000.
Năm 2002 đạt 120.461 triệu đồng , tăng 86.943 triệu đồng , bằng 259,39 % so với cùng kỳ năm 2001.
Nguồn tiền gửi lớn từ các tổ chức kinh tế chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp Nhà nước , các Tổng công ty lớn như Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ, Công ty cầu 5 Thăng Long, Công ty cầu 12 hoặc các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp như : Công ty kim khí Thăng Long , Công ty TNHN Đèn hình orion Hanel .... Đây là nguồn vốn có chi phí huy động thấp nhưng tính ổn định không cao , biến động theo tiến độ mùa vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
- Đối với nguồn tiền gửi dân cư.
Chi nhánh đã không ngừng củng cố và xây dựng lòng tin đối với người dân bằng nhiều giải pháp nhằm khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư như thái độ tác phong của các cán bộ giao dịch tại quầy đã được đổi mới : khiêm tốn, nhã nhặn , văn minh , lịch sự , tận tình , chu đáo , khắc phục kịp thời những sai sót khi được khách hàng góp ý . Chi nhánh vừa động viên khách hàng cũng duy trì số dư tiền gửi vừa tích cực tìm kiếm khách hàng mới như phát tờ rơi , giới thiệu các dịch vụ tiện ích của Ngân hàng tại các doanh nghiệp mới và các khu dân cư .... Bên cạnh đó , Chi nhánh đã đầu tư nâng cấp trang thiết bị cơ sở vật chất khang trang, đầy đủ tiện nghi như: panô thông báo lãi suất , bàn ghế tủ quầy giao dịch , hệ thống máy tính giao dịch nhanh chóng với khách hàng ...
Do vậy nguồn vốn huy động từ dân cư đã tăng khá nhanh:
Năm 2000 đạt 53.360 triệu đồng.
Năm 2001 đạt 88.902 triệu đồng, tăng 35.542 triệu đồng bằng 166,61% so với cùng kỳ năm 2000 .
Năm 2002 đạt 151.335 triệu đồng , tăng 62.433 triệu đồng bằng 170,23% so với nưm 2001.
Nguồn tiền huy động trong dân cư luôn chiếm tỷ trọng cao tư 40 đến 50% trong tổng nguồn huy động . Điều này chứng tỏ nguồn tiền gửi của dân cư là một nguồn vô cùng quan trọng của Ngân hàng. Loại này có số dư luôn ổn định bền vững và tăng trưởng đều .
- Nguồn vốn điều chuyển từ cấp trên:
Mặc dù bằng những chính sách mền dẻo cũng như những biện phát huy động hợp lý mà nguồn vốn huy động của Chi nhánh đã liên tục tăng qua các năm nhưng kết quả mà Chi nhánh đã đạt được trong công tác huy động vốn vẫn còn rất khiêm tốn , nguồn vốn huy động tại chỗ của Chi nhánh chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của khách hàng . Chính vì vậy mà Chi nhánh luôn phải nhận vốn điều chuyển từ Ngân hàng cấp trên ( Do Chi nhánh là đơn vị hạch toán phụ thuộc , trực thuộc Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ) với lãi suất của nguồn vốn điều chuyển luôn cao hơn so với lãi suất nguồn Chi nhánh tự huy động . Nguồn vốn mà Chi nhánh nhận điều chuyển từ Ngân hàng cấp trên luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn của Chi nhánh. Cụ thể : năm 2000 nguồn vốn này chiếm 58,28% trong tổng nguồn , năm 2001 chiếm 64,23% , năm 2002 chiếm 61,63% . Số vốn nhận điều chuyển của Chi nhánh tăng qua từng năm theo sự tăng trưởng của dư nợ tín dụng mà nguồn tự huy động chưa đáp ứng đủ .
- Phát hành công cụ nợ ( kỳ phiếu , trái phiếu ).
Xu hướng hiện nay , các Ngân hàng chủ động hơn trong việc tìm nguồn vốn với chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn . Vì vậy mà các Ngân hàng thường phát hành các công cụ nợ như trái phiếu , chứng chỉ tiền gửi... Đây là nguồn mà nếu xét về chi phí nó cao hơn tiền gửi tiết kiệm và thường được sử dụng khi ngân hàng có nhu cầu đầu tư mạnh và đặc biệt là phục vụ những khách hàng có nhu cầu vốn theo mùa vụ hay tài trợ cho các dự án lớn , đặc biệt của địa phương , bộ hay quốc gia cho nên nguồn vốn thu được do phát hành các công cụ nợ là không đều qua các năm .
Năm 2000 cơ cấu vốn huy động có những chuyển biến . Đặc biệt do biến động của tỷ giá mà tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ đã tăng lên và bằng nội tệ lại giảm.
Hoạt động sử dụng vốn.
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn là một hoạt động mang tính chất sống còn của bất cứ Ngân hàng nào . Trong những năm vừa qua , mặc dù gặp phải những khó khăn không nhỏ . Nhưng với nỗ lực trong hoạt động kinh doanh của mình , Chi nhánh đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong những năm vừa qua.
Hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng chủ yếu là nghiệp vụ tín dụng còn các nghiệp vụ khác như mua bán kinh doanh ngoại tệ , đầu tư chứng khoán ...chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ.
Hoạt động tín dụng.
-Tổng dư nợ.
Năm 2000 tổng dư nợ đạt 230.418 triệu đồng.
Năm 2001 tổng dư nợ đạt 435.748 triệu đồng , tăng 205.330 triệu đồng bằng 189,11% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2002 , tổng dư nợ đạt 832.794 triệu đồng , tăng 397.046 triệu đồng, bằng 191,12% so với cùng kỳ năm trước.
Về quy mô dư nợ của Ngân hàng trên địa bàn so với các Ngân hàng bạn là tương đối cao , các Ngân hàng trên địa bàn có dư nợ tín dụng vào khoảng trên dưới 170 tỷ năm 2000 , 600 tỷ năm 2002 trong khi đó thì dư nợ của Chi nhánh đạt năm 2000 là 230 tỷ , năm 2001 gần 436 tỷ , năm 2002 đạt gần 833 tỷ VND (kể cả ngoại tệ qui đổi ). Tuy nhiên , nếu so sánh với các Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn nội thành Hà Nội quy mô dư nợ của Ngân hàng vẫn còn thấp .
Trong cơ cấu dư nợ gồm :
+ Tín dụng ngắn hạn.
Nếu năm 2000 , dư nợ ngắn hạn là 184.695 triệu đồng thì năm 2001 dư nợ tín dụng ngắn hạn lên đến 324.786 triệu đồng, tăng 140.091 triệu đồng, bằng 175,84% so với cùng kỳ năm 2000.
Năm 2002 dư nợ tín dụng ngắn hạn lên đến 644.860 triệu đồng, tăng 320.074 triệu đồng , bằng 198,55% so với cùng kỳ năm 2001 . So với tổng dư nợ thì dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ rất cao : Năm 2000 là 80,16% , năm 2001 là 74,40% , và năm 2002 là 77,43% . Đó là tình trạng chung ở các Ngân hàng thương mại hiện nay . Tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh là khá tốt , các khoản cho vay hầu như thu được trong năm , số dư còn lại cuối năm nhỏ . Trong tổng số thu nợ các loại hình thu nợ thì thu nợ từ cho vay ngắn hạn là chủ yếu .
+ Tín dụng trung dài hạn cũng tăng đều qua các năm.
Cụ thể : Năm 2000 đạt 45.723 triệu đồng , năm 2001 đạt 110.962 triệu đồng, tăng 65.239 triệu đồng, bằng 242,68% so với cùng kỳ năm 2000. Năm 2002 cho vay trung dài hạn đạt 187.934 triệu đồng , tăng 76.972 triệu đồng, bằng 169,36 % so với cùng kỳ năm 2001 . Tuy nhiên , dư nợ tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh chiếm tỷ lệ tương đối thấp trong tổng dư nợ (giao động trong khoảng 19 % đến 23 % trong 3 năm 2000 , 2001, 2002 . Cụ thể năm 2000 chiếm 19,84 % , năm 2001 chiếm 22,46 % , năm 2002 chiếm 22,5 % ) trong khi tỷ lệ này ở một số Ngân hàng khác trong cùng ngành là vào khoảng 30 % . Trên địa bàn các Ngân hàng bạn tỷ lệ này là vào khoảng 40 đến 45% . Trong toàn ngành mục tiêu dài hạn hướng tới là 40 đến 60 % . Theo nguồn số liệu từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam : Tỷ trọng tín dụng trung dài hạn năm 2000 là 55,25 % năm 2001 là 53 % . Như vậy trong những năm tới Ngân hàng cần tìm những giải pháp để tăng dần tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn , tạo nguồn tăng trưởng tín dụng ổn định và đóng góp nhiều hơn vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước(CNH_HĐH) . Tại Ngân hàng riêng năm 2002 tỷ trọng tín dụng trung dài hạn so với tổng dư nợ giảm là do tốc độ tăng trưởng của tín dụng ngắn hạn quá nhanh so với tốc độ tăng trưởng của tín dụng trung dài hạn . Do áp dụng chiến lược khách hàng mới , Chi nhánh đã tìm được các đối tác vay vốn trong năm 2001 khiến năm này có tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng rất cao , bằng 242,68 % so với năm 2000 . Nhưng đến năm 2002 , dư nợ tín dụng trung dài hạn có tăng trưởng cao nhưng nói chung đã chậm lại so với năm 2001 ( chỉ bằng 169,36 % so với năm 2001) . Một phần là đã khai thác triệt để khách hàng trên địa bàn từ năm trước , hơn nữa năm 2001 có biến động mạnh về tỷ giá nên các doanh hạn chế vay trung và dài hạn . Năm 2002 Chi nhánh đã triển khai ký kết hợp đồng tín dụng trung và dài hạn với 30 dự án với tổng 254.825 triệu đồng , đã giải ngân được 99.779 triệu đồng (kể cả ngoại tệ quy đổi ) . Đối với các dự án chuyển tiếp các năm trước đã giải ngân thêm được 130 tỷ VND ( cả ngoại tệ quy đổi ) . Hầu hết các dự án trung dài hạn tăng trưởng đều là dự án đầu tư thương mại .
(bảng tình hình dư nợ trung và dài hạn trang bên)
Bảng 1: Tình hình dư nợ trung và dài hạn tại Chi nhánh
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001
2002
Dư nợ trung dài hạn
45723
110962
187934
Tỷ trọng trong tổng dư nợ
19,84 %
25,46 %
22,56 %
Biến động so với năm trước
Số tuyệt đối
_
65239
76972
Số tương đối
_
142,68 %
69,36 %
Nguồn số liệu : Bảng cân đối nguồn vốn kinh doanh _ Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Hội.
Hoạt động khác.
Hoạt động bảo lãnh.
Bảo lãnh là một nghiệp vụ mới được áp dụng tại Chi nhánh từ năm 1995 và được mở rộng trong những năm gần đây với các hình thức đa dạng như bảo lãnh dự thầu , bảo lãnh thực hiện hợp đồng , bảo lãnh chất lượng hợp đồng , bảo lãnh tiền ứng trước ... Cho tới nay , cùng với việc đa dạng hoá các hình thức bảo lãnh và chính sách mở rộng thị trường , duy trì khách hàng cũ và tìm kiếm khách hàng mới của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội , số lượng các đơn vị được bảo lãnh cũng như doanh số bảo lãnh cũng tăng lên nhanh chóng . Chất lượng bảo lãnh tốt , đến nay chưa có rủi ro đáng tiếc nào xảy ra . Điều này ngày càng khẳng định uy tín của Ngân hàng trên thị trường .
Năm 2001 , số dư bảo lãnh đạt : 48.394 triệu đồng.
Năm 2002 , số dư bảo lãnh đạt : 79.594 triệu đồng tăng 31.197 triệu đồng, bằng 164,5 % so với cùng kỳ năm 2001.
2.3.2. Hoạt động thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế : Năm 2001 là năm thứ hai Chi nhánh thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế . Mặc dù mới chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 2000 nhưng bước đầu đã đáp ứng đươc nhu câù của khách hàng truyền thống của Chi nhánh và nay đã tìm được nhiều đối tác mới tin cậy . Hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh tăng trưởng nhanh chóng làm tăng uy tín cho Ngân hàng và số lượng khách hàng ngày càng mở rộng . Mặt khác nó góp phần làm sôi động các hoạt động tại Chi nhánh , cung cấp dịch vụ khép kín cho khách hàng và qua đó góp phần quan trọng trong tăng trưởng tín dụng nhất là tín dụng ngoại tệ và tiền gửi khách hàng , mở rộng đối tượng khách hàng là người nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh , có vốn đầu tư nước ngoài , các Việt kiều ...
Như vậy sau gần 40 năm hoạt động , Chi nhánh đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng , trở thành một Chi nhánh hoạt động có hiệu quả , là Chi nhánh đầu tàu của Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
II.Thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội.
1.Tình hình huy động vốn ngắn hạn.
Như ta đã biết nguồn Chi nhánh huy động để đáp ứng nhu cầu tín dụng là rất nhỏ còn nguồn vốn Chi nhánh nhận điều chuyển là tới quá 60 % tổng nguồn . Nhưng không vì thế mà ta không nhắc đến sự nỗ lực cố gắng của Chi nhánh trong việc tự huy động nguồn vốn , trong đó nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá cao và được thể hiện thông qua các năm như sau:
Trong năm 2000 tổng nguồn vốn Chi nhánh huy động là: 97.052 triệu đồng trong đó nguồn vốn ngắn hạn là 67.320 triệu đồng , bằng 69,36 % so với tổng nguồn . Năm 2001 nguồn vốn Chi nhánh huy động được là 159.382 triệu đồng, trong đó nguồn vốn ngắn hạn là 111.896 triệu đồng , bằng 70,2 % so với tổng nguồn . Năm 2002 nguồn vốn Chi nhánh huy động được là323.280 triệu đồng, trong đó nguồn vốn ngắn hạn là 232761 triệu đồng , bằng 72 % so với tổng nguồn. Nếu so sánh nguồn vốn ngắn hạn năm 2002 so với nguồn vốn ngắn hạn năm 2001 thì nguồn vốn ngắn hạn năm 2002 tăng 120.865 triệu đồng tương ứng tăng 108 % .
Bảng 2. Tình hình huy động vốn ngắn hạn tại Chi nhánh
Đơn vi : Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng
97.025
100%
159.382
100%
323.280
100%
Ngắn hạn
67.320
69,36%
111.896
70,2 %
232.761
72 %
Trung dài hạn
29.705
30,64%
47.423
29,8%
90.519
28%
( Nguồn báo cáo của Chi nhánh )
Qua ba năm ta thấy nguồn vốn mà Chi nhánh tự huy động ngày càng tăng lên ( Năm 2000 nguồn vốn Chi nhánh huy động là 97.025 triệu đồng, năm 2001 là 159.382 bằng 164,22 % so với năm 2000 , năm 2002 là 323.280 triệu đồng bằng 202,83 % so với năm 2001), điều này chứng tỏ sự cố gắng nỗ lực rất lớn của Chi nhánh . Nguồn vốn huy động ngắn hạn của Chi nhánh cũng không ngừng tăng qua các năm : Năm 2000 nguồn vốn ngắn hạn là 67.320 , đến năm 2001 là 111.896 , tăng 66,21 % so với năm 2000, năm 2002 là 232.761 triệu đồng tăng 108 % so với năm 2001 . Như ta đã biết nguồn vốn ngắn hạn của Ngân hàng chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn của các doanh nghiệp , tiền gửi tiết kiệm của dân cư ... Do đó nguồn vốn ngắn hạn của Ngân hàng tăng lên nhanh chóng qua các năm là hợp với xu thế hiện nay. Nếu các doanh nghiệp ngày càng năng động hơn, hiệu quả hơn , coi Ngân hàng là trung gian thanh toán trong tất cả các mối quan hệ kinh tế thì lượng tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng. Ngoài ra tâm lý của người dân cũng đã có nhiều thay đổi so với thời bao cấp họ không có tư tưởng giữ tiền mặt nhiều nữa, vì thế mà lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư tăng lên .
2.Tình hình cho vay ngắn hạn.
Nói đến tín dụng ngắn hạn và đặc biệt là nói đến cho vay ngắn hạn thì đây là hoạt động chiếm tỷ trọng rất lớn của Chi nhánh . Hoạt động tín dụng ngắn hạn chiếm tới trên 70 % so với tổng dư nợ .
Bảng 3 tình hình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng
230.418
100%
435.748
100%
832.794
100%
Dư nợ ngắn hạn
184.695
80,16%
324.786
74,54%
644.860
77,43%
Dư nợ trung và dai hạn
45.723
19,84%
110.962
25,46%
187.934
22,57%
( Nguồn báo cáo của Chi nhánh)
Qua bảng số liệu trên ta thấy hoạt động tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh chiếm một tỷ trọng rất cao trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng , cụ thể năm 2000 dư nợ tín dụng ngắn hạn là 184.695 triệu đồng chiếm 80,16 % so với tổng dư nợ , năm 2001 dư nợ tín dụng ngắn hạn là 324.786 triệu đồng chiếm 70,54 % so với tổng dư nợ , năm 2002 dư nợ tín dụng ngắn hạn là 644.860 triệu đồng, chiếm 77,43 % so với tổng dư nợ . Một câu hỏi đặt ra là tại sao dư nợ tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh lại cao đến như vậy ? Điều này được giải thích như sau:
+ Nếu theo nguyên tắc rủi ro kỳ hạn thì Chi nhánh có tỷ trọng dư nợ ngắn hạn cao thì sẽ hạn chế được rủi ro kỳ hạn vì nếu kỳ hạn càng dài thì khả năng gặp rủi ro càng cao .
+ Từ năm 1995 trở lại đây Chi nhánh mới thực sự chuyển hoạt động kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, do đó việc tìm kiếm khách hàng mới còn hạn chế , nhất là việc tìm kiếm , ký kết các hợp đồng tín dụng dài hạn .
+ Mặt khác Chi nhánh mới chuyển sang kinh doanh độc lập cho nên nếu mở rộng hoạt động tín dụng dài hạn thì Chi nhánh sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định cũng như việc huy động nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động tín dụng
+ Hơn nữa, để tài trợ cho một hợp đồng tín dụng dài hạn thì đòi hỏi Chi nhánh phải có một nguồn vốn tương đối ổn định, và phải có khả năng huy động vốn tốt. Nhưng điều này với Chi nhánh còn hạn chế bởi vì nguồn vốn mà Chi nhánh nhận điều chuyển của cấp trên còn rất cao (chiếm tới trên 60% tổng nguồn vốn), nguồn vốn nhận điều chuyển này phải chịu lãi suất cao hơn nguồn vốn tự huy động, do đó nếu Chi nhánh ký kết nhiều hợp đồng tín dụng dài hạn, xảy ra rủi ro thì Chi nhánh sẽ gặp phải tổn thất rất to lớn .
3. Đối tượng khách hàng có quan hệ với Chi nhánh.
Một điều nổi bật trong quan hệ tín dụng của Chi nhánh là : Khách hàng của Chi nhánh hầu hết là các khách hàng truyền thống , có quan hệ lâu năm với Chi nhánh . Cho nên nói đến khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh (Năm 2000 dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước chiếm 99,58 % so với tổng dư nợ , năm 2001 chiếm 95,51 % , năm 2002 chiếm 88% ) các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các cá nhân vay vốn chiếm tỷ trọng rất thấp. Nguyên nhân là do với doanh nghiệp Nhà nước có quan hệ truyền thống lâu năm với Ngân hàng , Ngân hàng có thể cho vay mà không cần tài sản thế chấp , nhưng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn đòi hỏi tài sản thế chấp , cầm cố . Hơn nữa, những năm gần đây ,tình hình kinh tế biến động mạnh trên thế giới do cạnh tranh gay gắt trên thị trường , hàng lậu , hàng nhái nhiều... Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh lâm vào khó khăn đổ bể. Sau khi doanh nghiệp vay Ngân hàng trả nợ thì gặp rất nhiều khó khăn . Khi Ngân hàng xiết nợ phát mại tài sản thế chấp , thì Ngân hàng vấp phải rất nhiều vấn đề như: Giá cả, quyền sở hữu , thị trường tiêu thụ... Do vậy Chi nhánh thường ngại cho vay đối tượng này. Do vậy tỷ trọng cho vay với đối tượng ngoài quôc doanh không cao .
Một câu hỏi đặt ra là đối tượng khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước thì mặt mạnh của nó là gì ? và mặt hạn chế của điều đó là gì ?. Như đã phân tích ở trên thì điều mà Ngân hàng yên tâm đối với đối tượng này là sự an toàn , việc giảm thiểu thời gian tìm hiểu về khách hàng , giảm thiểu rủi ro đạo đức , ...Nhưng mặt khác cũng chính vì điều đó mà đối tượng khách hàng của Chi nhánh trở nên đơn điệu , không khai thác được tiềm năng cũng như thế mạnh của các thành phần kinh tế khác . Mặt khác nói đến doanh nghiệp Nhà nước không thể không nhắc đến tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh , bởi vì đã có rất nhiều bài báo nói về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước . Nếu so sánh tính năng động giữa doanh nghiệp quốc doanh (DNQD) với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh năng động hơn , thích ứng với cơ chế thị trường nhanh hơn . Tư tưởng ỉ lại, quan liêu bao cấp còn tồn tại rất lớn trong các doanh nghiệp Nhà nước, do đó hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước còn kém , sự thích ứng với cơ chế thị trường còn rất thấp , tiếp cận thị trường , thu thập thông tin , phân tích thị trường luôn là vấn đề lớn đặt ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước . Vì vậy chính tỷ lệ khách hàng truyền thống của Chi nhánh quá cao nên nó vừa là thế mạnh và cũng là điểm yếu của Chi nhánh .
Các doanh nghiệp cần vốn lưu động lớn như Công ty may Đức Giang, Công ty may 10 , Công ty TNHH ORION HANEL... quan hệ với Chi nhánh chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng ngắn hạn . Trong những năm qua do doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cho nên việc thu nợ của Chi nhánh gặp nhiều thuận tiện , tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp , lợi nhuận tăng đều qua các năm. Vì vậy đây là những đối tượng khách hàng Chi nhánh cần quan tâm giữ mối quan hệ tốt để đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngắn hạn trong tương lai.
Với những khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cần vốn đầu tư trung và dài hạn, tức các doanh nghiệp truyền thống hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như: Công ty cầu 12, Công ty cầu 14, Công ty cầu 5 Thăng Long, Công ty công trình giao thông 120... thì Chi nhánh cần mở rộng quan hệ tín dụng trung và dài hạn trong tương lai .
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dầu chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng nó sẽ là chiến lược khách hàng trong tương lai của Chi nhánh , Chi nhánh muốn đứng vững trên thương trường thì không thể không quan tâm đến đối tượng khách hàng này. Chỉ có mở rộng đối tượng khách hàng này thì Chi nhánh mới tận dụng được hết thế mạnh của mọi thành phần kinh tế , khai thác được hết thế mạnh của mọi khách hàng .
Đối tượng vay ngắn hạn là dân cư : Đây là cá nhân có tiền gửi tiết kiệm hoặc trái phiếu , kỳ phiếu của các ngân hàng thương mại và trái phiếu kho bạc Nhà nước . Khi nhu cầu đời sống phát sinh như làm nhà mua xe , cưới vợ... mà sổ tiết kiệm của họ chưa đến hạn , rút ngay thì không được hưởng lãi hoặc chỉ nhận được phần nhỏ , khi đó Chi nhánh sẽ cho các đối tượng này vay và giữ sổ tiết kiệm , kỳ phiếu trái phiếu của họ như vật thế chấp . Khi đến hạn thanh toán , khách hàng sẽ rút tiền trả nợ ngân hàng mà không bị thiệt do rút trước thới hạn.
4.Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng tín dụng ngắn hạn .
Tình hình nợ quá hạn .
Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm2001
Năm2002
Số tiền
Tỷ trọng so với tổng dư nợ
( %)
Số tiền
Tỷ trọng so với tổng dư nợ
( %)
Số tiền
Tỷ trọng so với tổng dư nợ
( %)
Nợ quá hạn
876
0,38
1264
0,29
1832
0,22
Nợ quá hạn từ
Tín dụng ngắn hạn
314
0,14
455
0,1
645
0,08
Nợ quá hạn từ tín
Dụng trung – dài hạn
562
0,24
809
0,19
1187
0,14
( Nguồn báo cáo tổng kết kinh doanh của Chi nhánh )
Số liệu từ bảng trên cho thấy tổng nợ quá hạn tại Chi nhánh trong những năm qua là tương đối thấp so với các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác. Trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng là dưới 1 % và liên tục giảm trong những năm trở lại đây . Trong những năm vừa qua Ngân hàng đã tích cực giám sát các khoản vay và thu nợ đầy đủ và đúng tiến độ, sát sao kiên quyết trong việc thu hồi nợ quá hạn khó đòi còn tồn đọng.
Nợ quá hạn từ những khoản tín dụng ngắn hạn nhìn chung là thấp , năm 2000 là 314 triệu đồng , bằng 0,17 % tổng dư nợ ngắn hạn , năm 2001 là 455 triệu đồng bằng 0,14% , năm 2002 là 645 triệu đồng , bằng 0,1% . Hầu hết các khoản tín dụng ngắn hạn đều ít có các khoản nợ quá hạn kéo dài và nợ khó đòi phải xử lý . Số khách hàng có nợ quá hạn cũng không lớn . Ngân hàng đang tích cực giảm nợ tồn đọng từ những năm trước để lại . Tuy nhiên về tỷ trọng nợ quá hạn giảm nhưng về số tuyệt đối tăng lên, vẫn phát sinh nợ quá hạn . Tỷ trọng nợ quá hạn giảm là do dư nợ tăng nhanh . Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển có số lượng khách hàng truyền thống là các đơn vị thi công xây lắp rất lớn . Các doanh nghiệp này vay ngắn hạn chủ yếu là để bổ xung vốn lưu động cho các công trình đang thi công , chờ kế hoạch Nhà nước hoặc khối lượng thanh toán của chủ đầu tư . Nhưng thời gian phân bổ kế hoạch của Nhà nước thường là rất lâu hoặc là phụ thuộc chặt chẽ vào tình hình tài chính của bên B . Những khoản đầu tư đến được tài khoản của doanh nghiệp thường cả một thời gian dài , có khi kéo dài hàng năm liền , do vậy các doanh nghiệp khó có thể trả nợ được đúng hạn. Trong tình hình đó Chi nhánh duy trì được tỷ lệ nợ quá hạn thấp là cả một cố gắng không nhỏ . Tốc độ xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng còn chậm là do khó khăn trong việc phát mãi tài sản thế chấp cũng như cho vay một số doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản thế chấp , việc giãn nợ hay khoanh nợ , Ngân hàng cũng không được tự ý quyết định mà phải chờ chỉ thị của cấp trên.
Trong nợ quá hạn ta không thể không nhắc đến Nợ khó đòi , giống như tên gọi của nó , nó đã tiềm ẩn khoản tín dụng mà Ngân hàng có thể sẽ mất không , không có khả năng thu hồi . Các khoản nợ khó đòi làm giảm thu nhập của Ngân hàng . Chính vì vậy các Ngân hàng luôn mong muốn duy trì tỷ lệ này càng thấp càng tốt . Trong những năm trở lại đây , Chi nhánh đã phấn đấu xử lý hết nợ tồn đọng trong những năm trước để lại , các khoản nợ khó đòi đã được cấp trên xem xét duyệt và xử lý, không phát sinh nợ khó đòi mới . Đó là cố gắng không nhỏ của tập thể Chi nhánh Ngân hàng .
4.2. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn.
Tổng dư nợ.
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng nguồn huy động.
Đây là một trong những chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng .
Bảng :5 Hiệu suất sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà nội
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Tổng dư nợ
230.418
435.748
832.794
Tổng nguồn vốn huy động
97.052
159.382
323.280
Hiệu suất sử dụng vốn
2,37
2,73
2,58
( Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh )
Qua bảng số liệu trên ta thấy hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng qua các năm là rất cao , chứng tỏ Ngân hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động được. Nhưng nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng thì chưa đủ và có phần chưa chính xác vì trong tổng nguồn vốn của Chi nhánh thì có tới hơn 60% là nguồn vốn nhận điều chuyển từ cấp trên do đó mà chỉ tiêu này chỉ phản ánh một phần nào đó chất lượng tín dụng tại Chi nhánh. Để đánh giá một cách chính xác chất lượng tín dụng của Chi nhánh thì chúng ta cần kết hợp chỉ tiêu này với các chỉ tiêu khác nữa , có như thế chúng ta mới đưa ra được phương án hiệu quả để nâng cao chất lượng tín dụng một cách thực chất.
4.3 Thu nhập từ hoạt động tín dụng.
Thu nhập là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng tín dụng. Nếu như chất lượng tín dụng tốt thì những khoản cho vay sẽ được thanh toán đúng hạn , nợ quá hạn ít , góp phần to lớn vào việc nâng cao thu nhập cho Ngân hàng. Như đã trình bày ở phần nợ quá hạn ta thấy trong những năm qua tình hình nợ qúa hạn của Chi nhánh là rất thấp nhất là những khoản tín dụng ngắn hạn có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn nhiều so với nợ quá hạn từ tín dụng trung và dài hạn. Chính điều này dẫn tới thu nhập của Chi nhánh trong những năm qua là rất khả quan.
Bảng: 6 Thu nhập từ hoạt động tín dụng ngắn hạn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng so với tổng thu nhập
( % )
Số tiền
Tỷ trọng so với tổng thu nhập
( % )
Số tiền
Tỷ trọng so với tổng thu nhập
( % )
Tổng thu nhập
26.873
100
27.518
100%
48.435
100%
Thu từ cho vay
20.926
77,87
26.605
96,69
46.679
96,38
Ngắn hạn
16.323
60,74
20.220
73,48
37.810
78,06
Trung và dài hạn
4.603
17,13
6.385
23,21
8.869
18,32
(Nguồn báo cáo của Chi nhánh)
Từ bảng trên ta thấy thu từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn năm 2000 là 77,78% , năm 2001 là 96,69% , năm 2002 là 96,38%. Một tỷ trọng cao so với các Ngân hàng thương mại khác. Tại các Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt nam, tỷ trọng này vào khoảng 44%, các Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn 89%. Tỷ trọng này cao một phần là do Ngân hàng chưa tham gia sử dụng vốn vào các hoạt động đầu tư như đầu tư vào trái phiếu Chính phủ hoặc gửi Ngân hàng khác kinh doanh ngoại tệ , hoặc mở rộng dịch vụ trung gian...Điều đó cho thấy hoạt động tín dụng của Ngân hàng chủ yếu trong các hoạt động cho vay vốn. Thu nhập chủ yếu của Chi nhánh được tạo ra từ hoạt động cho vay, trong khi xu hướng hiện nay của các Ngân hàng hiện đại trên thế giới là tăng dần tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động trung gian , dịch vụ tiện ích. Thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn như thế khiến cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro.
Trong tổng thu từ hoạt động cho vay ta thấy thu nhập từ hoạt động tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao cụ thể: Năm 2000 là 16.323 triệu đồng , bằng 60,74% so với tổng thu từ hoạt động cho vay, năm 2001 là 20.220 triệu đồng , bằng 73,48% so với tổng thu từ hoạt động cho vay, năm 2002 là 37.810 triệu đồng, bằng 78,06 % so với tổng thu từ hoạt động cho vay. Điều này phản ánh đúng thực trạng hoạt động tín dụng của Chi nhánh, đó là dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm tới trên 70% tổng dư nợ, nhưng cũng chính vì lý do này mà Chi nhánh dễ gặp phải rủi ro hơn bởi vì Chi nhánh đã không tận dụng được sự đa dạng hoá để tránh rủi ro, không nên “cho trứng vào một rổ”. Mục tiêu mà Chi nhánh cần phấn đấu là dần tiến tới tỷ lệ giữa dư nợ tín dụng ngắn hạn và dư nợ tín dụng trungvà dài hạn ngày càng hợp lý hơn, đúng với Chi nhánh thuộc Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt nam.
5.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn
5.1 Nhóm nhân tố từ phía khách hàng.
Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ đổi mới nên hầu hết các doanh nghiệp đều khan hiếm vốn . Để hoạt động được ngoài số vốn tự có ít ỏi , các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng . Vốn vay Ngân hàng sử dụng trong các doanh nghiệp nhiều khi không giữ đúng tính chất là nguồn vốn bổ xung mà nó chiếm tỷ trọng chủ yếu trong vốn lưu động và giá trị tài sản cố định của nhiều doanh nghiệp . Cho nên nhiều khi doanh nghiệp chỉ cần gặp rủi ro trong một thương vụ làm ăn nào đó có thể gây ra tổn thất đến vốn vay Ngân hàng. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn , nhìn chung nếu khách hàng có đủ điều kiện thì Ngân hàng cho vay . Do sự tính toán phương án sản xuất kinh doanh thường mang tính chủ quan của khách hàng nên trong khi thực hiện khách hàng thường gặp rủi ro do thực tế không dự định . Có thể đưa ra một số nguyên nhân như sau:
+ Sự yếu kém về trình độ kỹ thuật , máy móc , thiết bị lạc hậu làm cho năng suất lao động thấp , chất lượng sản phẩm kém , giá thành cao , dẫn đến hàng hoá ứ đọng , thua lỗ trong kinh doanh.
+ Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế , trong nền kinh tế thị trường muốn thành công trong kinh doanh thì doanh nghiệp phải có kiến thức quản trị kinh doanh không thể chỉ có lòng nhiệt tình và sự chịu đựng gian khổ.
+ Nhiều doanh nghiệp Nhà nước không theo kịp sự đổi mới của nền kinh tế, vẫn quen làm ăn theo kiểu bao cấp nên hiệu quả kinh tế không cao . Mặc dù Nhà nước ưu đãi rất nhiều nhưng nhiều doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn vay không có hiệu quả bởi họ có tâm lý trông chờ , ỉ lại Nhà nước như khoanh nợ , xoá nợ nếu có phát sinh nợ quá hạn.
+ Không ít chủ doanh nghiệp và cá nhân vay vốn Ngân hàng không chỉ kém về năng lực kinh doanh mà còn kém về tư cách đạo đức . Nhiều khách hàng dùng tiền vay của Ngân hàng để sử dụng vào mục đích không đúng như phương án đã xét duyệt khi cho vay.
+ Các doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn , tranh thủ chiếm dụng vốn lẫn nhau vì lý do nào đó chậm trễ trong thanh toán tiền hàng cho nhau cũng làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng không có thu nhập để trả nợ buộc phải chuyển sang nợ quá hạn.
5.2 Nhóm nhân tố từ phía Ngân hàng.
Mặc dầu Chi nhánh đã có rất nhiều cố gắng trong những năm qua , đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhưng Chi nhánh vẫn còn một số mặt chưa đáp ứng được nhu cầu so với thực tế .
+ Trong hai mục tiêu an toàn và sinh lời thì Chi nhánh còn quá coi trọng mục tiêu an toàn và điều này sẽ không phù hợp vì ngày nay theo xu hướng mở cửa hội nhập thì đòi hỏi mỗi Ngân hàng phải đa dạng hoá các hình thức kinh doanh của mình , đồng thời cũng phải mở rộng các mối quan hệ của mình với nhiều đối tượng khách hàng , có như vậy mới tận dụng khai thác được mọi tiềm năng khách hàng, mở rộng hoạt động kinh doanh chiến thắng trong cạnh tranh.
+ Đối tượng khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các doanh nghiệp quốc doanh, còn khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng rất nhỏ . Tuy cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có nhiều rủi ro, nhưng cũng không vì thế mà bỏ lỡ cơ hội kinh doanh đối với họ. Chính họ sẽ là nhóm khách hàng tiềm năng mà Chi nhánh cần khai thác trong tương lai, nếu muốn ngày càng có vị thế vững chắc trên thương trường.
+ Chi nhánh mới mở rộng qui mô, đội ngũ cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ rất cao (có tới 70% là đội ngũ cán bộ có độ tuổi dưới 30 tuổi) điều này là thế mạnh và cũng là điểm yếu của Chi nhánh bởi lẽ đội ngũ cán bộ trẻ ngoài tính năng động và nhạy bén ra thì kinh nghiệm lại là vấn đề còn nhiều bất cập.
+ Khâu thẩm định dự án đầu tư taị Chi nhánh đôi khi còn mang tính hợp lý hoá thủ tục và việc kiểm soát các hoạt động có liên quan đến khoản vay còn nhiều hạn chế .
+ Trình độ thu thập thông tin phân tích thông tin đối với Chi nhánh còn nhiều hạn chế , hơn nữa điều kiện nơi làm việc và số lượng cán bộ còn hạn chế nên việc mở rộng khách hàng đối vơí Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn. Chi nhánh chưa có chế độ đãi ngộ , thưởng phạt hợp lý với cán bộ ở vị trí khác nhau với năng lực và cường độ làm việc khác nhau.
5.3 Các nhân tố khác.
Nền kinh tế chịu nhiều tác động của nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh , đổi mới và hoàn thiện. Sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu và hàng ngoại . Các doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô .
Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ , đồng bộ, hợp lý cũng như môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng chưa được hoàn thiện nên không đảm bảo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động của nền kinh tế . Mặt khác sự thay đổi trong Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản liên quan đã khiến cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
III. Những ưu điểm và tồn tại trong hoạt động tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội.
Những ưu điểm.
Cùng với sừ phát triển toàn diện của Chi nhánh , hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Doanh số cho vay ở Chi nhánh có mức tăng trưởng rõ rệt năm sau luôn cao hơn so với năm trước , quy mô dư nợ không ngừng tăng trưởng . Chi nhánh đã đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tìm thị trường , đa dạng hoá nhiều loại hình khách hàng , đa dạng hoá loại hình cho vay vơí các mức lãi suất khác nhau. Cơ cấu cho vay không chỉ bó hẹp trong khu vực quốc doanh mà còn mở sang cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp và cá nhân . Mặc khác thu nhập từ hoạt động tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao so với các loại hình đầu tư khác, thương chiếm tới trên 70% tổng thu nhập .
Chất lượng thẩm định và quản lý món vay ngày một nâng cao . Chi nhánh đã thực hiện nghiêm túc Luật các tổ chức tín dụng, các quy định , quy chế cũng như quy trình nghiệp vụ do cấp trên ban hành . Nghiên cứu , phân tích đánh giá khách hàng từ nhiều nguồn thông tin , xây dựng hệ thống chỉ tiêu nhằm xác định hạn mức tín dụng phù hợp với từng khách hàng , nâng cao chất lượng tín dụng cũng như giảm thiểu thời gian và thủ tục duyệt vay . Thực hiện kiểm tra trước trong và sau khi cho vay , nâng cao vai trò kiểm tra nội bộ , tăng cường gặp gỡ , nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp , tìm kiếm các biện pháp tích cực tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp . Tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp và có xu hướng giảm qua từng năm, các khoản vay mới hầu như không phát sinh nợ quá hạn.
Tuy đội ngũ cán bộ của Chi nhánh chủ yếu là cán bộ trẻ nhưng sự liên kết giữa các cán bộ rất chặt chẽ , đội ngũ cán bộ trẻ cùng với sự năng động nhạy bén của mình và sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của các cán bộ lão thành đã tạo ra được một môi trường làm việc hết sức hiệu quả , một tinh thần làm việc hăng say, đoàn kết cùng phát triển.
2.Những tồn tại.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong một vài năm qua thì hoạt động tín dụng của Chi nhánh cũng còn một số mặt tồn tại như sau:
2.1.Đối tượng cho vay của Chi nhánh còn đơn điệu , Chi nhánh chủ yếu tập trung cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh.
Như phân tích ở phần đối tượng khách hàng của Chi nhánh ta thấy Chi nhánh hầu như chỉ cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Một trong những lý do là Chi nhánh đã quá chú trọng vào mục tiêu an toàn, không những thế Chi nhánh mới mở rộng quy mô , việc tiếp cận tìm kiếm khách hàng còn nhiều bất cập. Đây là một hạn chế mà Chi nhánh cần tìm biện pháp khắc phục, không chỉ để mở rộng hơn nữa tín dụng trong tương lai mà còn nhằm thu hút thêm những đối tượng khách hàng mới , trong lĩnh vực mới nhằm tăng thị phần của Chi nhánh.
2.2. Công tác thẩm định và quản lý món vay còn hạn chế.
Đối tượng cho vay của Chi nhánh chủ yếu là khách hàng truyền thống cho nên đôi khi vì quá thân quen mà trong khâu thẩm định cho vay Chi nhánh đã bỏ qua nhiều bước, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của món vay, đặc biệt là đối với những khoản cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này đòi hỏi Chi nhánh phải thận trọng hơn, đặc biệt là trong thời ký hiện nay.
2.3. Mặc dầu Chi nhánh đã cố gắng phấn đấu giảm tối đa tỷ lệ nợ quá hạn, nhưng về số tuyệt đối nó vẫn còn cao.
Xuất phát từ phân tích ở phần nợ quá hạn ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn của Chi nhánh thấp là do mức tăng trưởng của dư nợ rất cao, hơn nữa Chi nhánh chủ yếu cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh , họ là đối tượng khách hàng truyền thống của Chi nhánh cho nên họ được hưởng những đặc ân rất lớn . Một câu hỏi đặt ra là nếu trong tương lai Chi nhánh mở rộng đối tượng khách hàng thì tỷ lệ này có được duy trì mãi không. Muốn duy trì được điều này thì đòi hỏi bản thân Chi nhánh phả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH173.doc