Tài liệu Chuyên đề Tìm một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm bảo hiểm an khang trường thọ của bảo việt nhân thọ Hà Nội: Lời nói đầu
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân, ví dụ như :các rủi ro do môi trường thiên nhiên như bão lụt, động đất, rét, hạn, sương muối, dịch bệnh…;các rủi ro do sự tiến bộ phát triển khoa học và kỹ thuật như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao động..;các rủi ro do môi trường xã hội như hoả hoạn, bạo lực…
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, sức khoẻ bị giảm sút, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hộ nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra. Trong số đó, Bảo hiểm được coi là một biện pháp tích cực nhất trong vi...
38 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Tìm một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm bảo hiểm an khang trường thọ của bảo việt nhân thọ Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân, ví dụ như :các rủi ro do môi trường thiên nhiên như bão lụt, động đất, rét, hạn, sương muối, dịch bệnh…;các rủi ro do sự tiến bộ phát triển khoa học và kỹ thuật như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao động..;các rủi ro do môi trường xã hội như hoả hoạn, bạo lực…
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, sức khoẻ bị giảm sút, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hộ nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra. Trong số đó, Bảo hiểm được coi là một biện pháp tích cực nhất trong việc hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn thất. Bên cạnh các loại hình bảo hiểm như BHXH và BHYT, ngày càng có nhiều người dân trên toàn thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng tham gia vào các loại hình bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại, trong đó đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ(BHNT).
Trên thế giới, loại hình BHNT đã phát triển hàng thế kỷ và cho đến nay đã có hàng trăm sản phẩm BHNT ra đời, góp phần phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng hoá của khách hàng. ở Việt Nam, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt ) đã cho ra mắt loại hình bảo hiểm nhân thọ vào tháng 8/1996 và cho đến nay đã đạt được những bước tiến lớn: chiếm 54% thị phần, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong năm 2001 và cũng là doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới đại lý phủ khắp các tỉnh thành. Các sản phẩm của Bảo Việt đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng và được khách hàng tín nhiệm, tin tưởng tham gia. Từ giữa năm 1999, Chính Phủ cho phép mở cửa thị trường BHNT đã xuất hiện thêm các doanh nghiệp BHNT lớn, có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trên thị trường có 5 doanh nghiệp BHNT, trong đó chỉ có 1 doanh nghiệp Nhà Nước là Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), còn lại là 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Sự xuất hiện này đã tạo ra sự cạnh tranh toàn diện với tốc độ cao giữa các doanh nghiệp BHNT và góp phần thúc đẩy thị trường BHNT của Việt Nam ngày càng phát triển. Dưới sức ép cạnh tranh, các công ty BHNT không ngừng nỗ lực nâng cao khả năng khai thác sản phẩm BHNT để thu hút khách hàng và mở rộng thị phần. Nhìn chung những phương thức cạnh tranh lành mạnh của các công ty đều đem lại lợi ích cho khách hàng, sẽ khuyến khích ngày càng nhiều người tham gia bảo hiểm.
Tuy nhiên, mặc dù các doanh nghiệp BHNT trong những năm qua đã có nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh khả năng khai thác sản phẩm của mình, nhưng nhìn chung số lượng sản phẩm bán được vẫn chưa cao, đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm Nhân thọ trọn đời, số tiền bảo hiểm còn hạn chế, hình thức thu phí còn nhiều bất cập...Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm bảo hiểm An Khang Trường Thọ của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội ” sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về thực trạng khai thác sản phẩm Bảo hiểm trọn đời trên thị trường Việt Nam và một số giải pháp để thúc đẩy công tác khai thác sản phẩm Bảo hiểm An Khang Trường Thọ của BVNTHN nhằm góp phần nâng cao số lượng sản phẩm bảo hiểm An Khang Trường Thọ được bán, đưa sản phẩm Bảo hiểm An Khang Trường Thọ trở thành một sản phẩm quen thuộc và được ưa thích của người dân Việt Nam.
Đề tài này được hoàn thành dựa trên bài giảng của TS Nguyễn Văn Định và sự hướng dẫn của TH. S Phạm Thị Định. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô. Mặc dù rất cố gắng, tuy nhiên do những hạn chế về mặt lý luận và đặc biệt là về thực tiễn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự tham khảo và góp ý của các thầy, cô và các bạn, những ai quan tâm đến vấn đề này để bài viết được hoàn thiện hơn.
Hà Nội ngày 26/11/2002
Sinh viên
Trịnh Thanh Huyền
Phần 1: Lý luận chung về BHNT
i>Khái quát về BHNT
1.Lịch sử hình thành và phát triển BHNT
ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực lượng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội. Song trong lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống hàng ngày, những rủi ro :tai nạn, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, già yếu ..v..v vẫn luôn tồn tại và tác động đến nhiều mặt của cuộc sống con người. Vì vậy, vấn đề mà bất kỳ xã hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục được những hậu quả của rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người. Thực tế đã có rất nhiều biện pháp được áp dụng như: phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm v..v .. nhưng bảo hiểm luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hữu hiệu. Có rất nhiều loại hình bảo hiểm ra đời với mục đích giúp con người khắc phục được những rủi ro, giảm thiểu tổn thất và ổn định cuộc sống, đặc biệt là loại hình BHNT.
BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm ) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm.
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân London là ông william Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.
Năm 1759, công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadenphia (Mỹ). Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình.Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở nước Anh được thành lập và bán bảo hiểm nhân thọ cho mọi người dân.
ở châu á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản .Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty khác là: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới 1.210,2 tỷ và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện nay có năm thị trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh và Pháp.
2.Một số đặc điểm cơ bản của bhnt
Dịch vụ BHNT là loại hình bảo hiểm chỉ liên quan đến các sự kiện xảy ra trong cuộc sống của con người . Do đó, BHNT có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro: Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với bảo hiểm phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho người bảo hiểm, ngược lại người bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm được trả khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và được ấn định trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết như thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái…Chính vì vậy, BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Tính chất tiết kiệm ở đây thể hiện ngay trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, người mua bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là khi người được bảo hiểm không may gặp rủi ro, trong thời hạn bảo hiểm được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay số tiền bảo hiểm từ công ty bảo hiểm. Điều đó thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT.
Thứ hai, BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm: Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia, thì BHNT đã đáp ứng được nhiều mục đích. Mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng loại hợp đồng. Hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng thường được bán cho các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục đích cá nhân khác…Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau nên loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
Thứ ba, các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp: Tính đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ở ngay các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp đồng với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau vể số tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia…Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản hợp đồng bảo hiêm phi nhân thọ, trong mỗi hợp đồng BHNT có thể có 4 bên tham gia (ngưòi bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham giabảo hiểm và người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm).
Thứ tư, phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp: Theo tác giả Jean-Claude Harrari “sản phẩm BHNT không gì hơn chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm đến công chúng”. Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm, như chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng…Nhưng những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm BHNT (tính phí BHNT), một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào: độ tuổi của người được bảo hiểm, tuổi thọ bình quân của con người, số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia bảo hiểm phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát …
Thứ năm, BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định. ở các nước kinh tế phát triển, BHNT ra đời và phát triển hàng trăm năm nay. Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa triển khai được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế xã hội phát triển .
Những điều kiện về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân một đầu người dân, mức thu nhập của dân cư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền, tỷ giá hối đoái….
Những điểu kiện về xã hội bao gồm: Điều kiện về dân số, tuổi thọ bình quân của người dân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
Ngoài điều kiện kinh tế – xã hội thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp BHNT. Thông thường ở các nước, luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản,quy định có tính pháp quy phải ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát triển . Luật bảo hiểm và các văn bản có liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các vấn đề như: tài chính, đầu tư, hợp đồng, thuế. Đây là những vấn đề mang tính chất sống còn cho hoạt động kinh doanh BHNT. Chẳng hạn ở một số nước phát triển như: Anh, Pháp, Đức ,..Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho BHNT bằng cách có chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là tạo ra cho các cá nhân cơ hội để tiết kiệm, tự mình lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp từ nhà nước. Mặt khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn trong các công ty bảo hiểm để từ đó có vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế. Cũng vì những mục đích trên, mà một số nước Châu á như: ấn Độ, Hồng Kông, Singapore…không đánh thuế doanh thu đối với các sản phẩm BHNT. Sự ưu đãi này là đòn bẩy tích cực để BHNT phát triển .
3.Vai trò của bhnt trong đời sống kinh tế – xã hội
Bản chất của Bảo Hiểm nói chung và BHNT nói riêng như chúng ta đã biết, không chỉ nhằm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, gây tổn thất về người và tài sản của xã hội, mà còn nhằm tạo ra dự phòng tài chính cần và đủ để bồi thường tổn thất ấy,góp phần ổn định sản xuất, đời sống kinh tế-xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy BHNT phát triển rất nhanh, doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng. Vai trò của BHNT không chỉ thể hiện trong từng gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn vể tài chính khi gặp phải rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội. Trên phạm vi xã hội, BHNTgóp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nước từ những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm trong dân cư, kìm hãm lạm phát…từ đó góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển. Những vai trò to lớn của BHNT được biểu hiện cụ thể dưới những hình thức sau:
Thứ nhất, đối với người dân, BHNT góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển cao, nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá nhân và gia đình trở nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình, đặc biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn. Khi đó, gia đình phải chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi. Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết chưa kịp hoàn thành như: trả nợ, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con cái ăn học…Dù rằng hệ thống bảo trợ xẫ hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó khăn, nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính. Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó.
Thứ hai, thông qua dịch vụ BHNT, một dịch vụ có đối tượng tham gia rất đông đảo, các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới, những tiến bộ khoa học đã góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế xã hội, kéo dài tuổi thọ của dân cư. Tuổi thọ tăng thể hiện đời sống vật chất tinh thần cao. Đây là điều đáng mừng, song nó cũng đặt ra cho xã hội, trước hết là nguồn ngân sách Nhà nước một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Đó là việc phải dành một khoản kinh phí ngân sách ngày càng tăng tương ứng với mức tăng dân số và tuổi thọ để giải quyết các chế độ đảm bảo xã hội, nhất là đối với những người già yếu, không nơi nương tựa. Do vậy, phần vốn ngân sách đầu tư cho phát triển ít nhiều nhất định sẽ bị ảnh hưởng. Nhằm khắc phục ảnh hưởng ấy, nhiều nước trên thế giới đã dùng biện pháp khác để bổ sung vốn đầu tư phát triển. Đó là mở rộng thị trường BHNT, huy động mọi tầng lớp dân cư tham gia mua BHNT dài hạn. Đây được coi là biện pháp hỗ trợ ngân sách Nhà nước trong việc đảm bảo sinh hoạt bình thường cho những người già yếu, những người mất sức bên cạnh các khoản phúc lợi xã hội của Nhà nước và là nguồn vốn bổ sung cho ngân sách Nhà nước trong việc đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giữ gìn trật tự và ổn định xã hội. Chẳng hạn, ở Mỹ, trong tổng số vốn đầu tư phát triển sản xuất hiện nay thì 30% là vốn huy động được từ các quỹ BHNT. ở Đức ngày nay, người hưu trí còn có khoản thu thêm từ quỹ BHNT bổ sung cho thu nhập tuổi già của mình và khoản này chiếm 20% thu nhập hàng tháng của họ.
Hơn nữa hoạt động đầu tư cũng chi phối chiến lược thiết kế sản phẩm và tính phí bảo hiểm của công ty và đóng một vai trò nhất định trong quan hệ với khách hàng .Lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư sẽ quyết định đến các sản phẩm bảo hiểm của công ty. Nếu thu nhập của hoạt động đầu tư cao sẽ giúp sản phẩm đưa ra hấp dẫn hơn đối với khách hàng về phí, về lãi đầu tư…trong khi tỷ lệ lãi đầu tư thấp có thể làm cho các sản phẩm kém cạnh tranh và có thể dẫn đến mất khách hàng.
Thứ ba, BHNT là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm, góp phần chống lạm phát. Xét về mặt sản phẩm, tất cả sản phẩm của BHNT đều có khả năng chống lại ảnh hưởng của lạm phát vì khi tính phí bảo hiểm, công ty bảo hiểm đã áp dụng một tỷ lệ chiết khấu phí (lãi kỹ thuật), phần lãi này sẽ bù đắp lại phần trượt giá. Khi tham gia BHNT, khách hàng có thể yên tâm về giá trị đồng tiền vì khi tham gia bảo hiểm, số tiền nộp phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (NTGBH) không phải là tiền “chết” mà là tiền “đẻ” ra tiền. Số phí bảo hiểm mà NTGBH đóng được công ty bảo hiểm đem đầu tư và lãi đầu tư được trả lại cho NTGBH dưới hình thức chiết khấu phí (tính lãi cho phí bảo hiểm đóng ), ngoài ra còn dưói hình thức lãi chia (bảo tức ). Thông thường, do thực hiện đa dạng hoá đầu tư nên lãi suất đầu tư của các Cty BHNT thường cao hơn lãi suất tiết kiệm tiền gửi Ngân Hàng (và cao hơn tỷ lệ lạm phát), như vậy NTGBH được hưởng lãi suất dương từ số phí đóng, tức là bảo toàn và tăng được giá trị của khoản tiền đóng phí bảo hiểm. Một điều cũng cần lưu ý là, khi tham gia bảo hiểm và đóng phí định kỳ, không phải toàn bộ số phí đóng phải chịu ảnh hưởng của lạm phát tương ứng với thời hạn bảo hiểm mà từng phần phí đóng sẽ chịu ảnh hưởng trong những thời hạn khác nhau. Qua đó, chúng ta thấy vai trò to lớn của BHNT trong việc kìm hãm lạm phát.
Thứ tư, BHNT còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch….Trong môi trường cạnh tranh mạnh mẽ, các công ty BHNT muốn phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường của mình thì phải cần đến một hệ thống đại lý có quy mô lớn để giúp tuyên truyền, tư vấn và phân phối các sản phẩm BHNT của doanh nghiệp đến khách hàng. Nhờ đó mà những người không có việc làm, gồm nhiều thành phần :các bạn thanh niên rất trẻ, những người đang tạm nghỉ việc, những người chưa tìm được việc làm, những người chưa hài lòng với công việc của mình …đến với công ty BHNT đã tìm cho mình được một công việc thích hợp với mức lương xứng đáng và họ cũng bị cuốn hút cùng với sự phát triển của BHNT.
Khi tổ chức các dịch vụ BHNT, các công ty BHNT còn cần một số lượng lớn các nhân viên sử dụng máy vi tính, nhân viên thống kê, kế toán…vì đối tượng và phạm vi rộng, thời gian dài, cho nên phát triển dịch vụ này sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Thực tế số lượng trong thời gian vừa qua tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm ở các nước khác cho thấy, lực lượng đại lý BHNT sẽ phát triển rất nhanh trong thời gian tới. Cán bộ làm việc trong hệ thống Bảo Việt tại thời điểm đầu năm 1998 khoảng 2000 người, trong khi đó đến tháng 6 năm 1998, tức là chỉ hơn một năm sau khi bắt đầu tuyển những đại lý đầu tiên và bảy tháng sau khi có những chính sách hỗ trợ công tác phát triển mạng lưới đại lý, Trung tâm Đào tạo đã cấp chứng chỉ tủ tiêu chuẩn cho 1300 người. Còn ở Mỹ, có gần 2 triệu lao động làm việc trong ngành bảo hiểm, ở Hồng Kông với số dân 6 triệu người, có tới 20.000 người làm ở các công ty bảo hiểm. Những số liệu nêu trên cho thấy việc xây dựng và phát triển lực lượng đại lý, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT đã tạo được việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần ổn định anh ninh, trật tự cho xã hội và tăng trưởng kinh tế cho đất nước .
Như vậy có thể nói BHNT vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa là công cụ kìm hãm lạm phát hữu hiệu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt khó khăn cho cá nhân và gia đình người gặp rủi ro, nhằm góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm và ổn định đời sống kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia. Do vậy, đối với những quốc gia vai trò đảm bảo xã hội của Nhà nước còn chưa mạnh thì cần đẩy mạnh dịch vụ BHNT dài hạn vì nó góp phần hỗ trợ cho ngân sách Nhà nước giải quyết được một số khó khăn vể kinh phí đảm bảo xã hội và đầu tư phát triển.
4.Các loại hình BHNT cơ bản
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những người tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những người ăn theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu tài chính trong tương lai…Do vậy, người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT, thực chất là đa dạng hoá các loại hợp đồng nhằm đáp ứng và thoả mãn tối đa nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế có 3 loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản :
-Bảo hiểm trong trường hợp tử vong;
-Bảo hiểm trong trường hợp sống ;
-Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Ngoài ra các công ty BHNT trên thế giới còn triển khai bổ sung một số điều khoản vào các loại hình BHNT nói trên nhằm mục đích tăng thêm quyền lợi cho khách hàng để lôi kéo họ, cạnh tranh với các đối thủ khác, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho phù hợp với các điều kiện của công ty. Việc làm này hoàn toàn không phải đơn giản. Thực chất, các điều khoản bổ sung không phải là BHNT, vì không phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người, mà là bảo hiểm các rủi ro khác có liên quan đến cuộc sống của con người. Đôi khi người tham gia bảo hiểm cũng thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho hợp đồng cơ bản.
4.1.Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm:
4.1.1_Bảo hiểm tử kỳ: (còn gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn): Được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất cứ khoản phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó, cũng có nghĩa là người bảo hiểm không phải thanh toán số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
*Đặc điểm chung:
-Thời hạn Bảo hiểm luôn luôn xác định;
-Quyền lợi và trách nhiệm mang tính tạm thời;
-Mức phí Bảo hiểm thấp nhất vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được Bảo hiểm.
*Mục đích :
-Bảo đảm các chi phí mai táng, chôn cất, hồi hương.
-Bảo đảm cuộc sống cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn.
-Giúp gia đình trả nợ và thanh toán các khoản tiền vay thế chấp.
Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau:
-Bảo hiểm tử kỳ cố định: có mức phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm cố định, không thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người bảo hiểm không thanh toán khi hết hạn hợp đồng. Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp đồng không nộp phí bảo hiểm. Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong.
-Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: loại này có thể được tái tục vào kết thúc hợp đồng và không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khỏe của người được bảo hiểm, nhưng có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65). Tại lúc tái tục, phí bảo hiểm tăng lên vì độ tuổi của người được bảo hiểm lúc này tăng lên.
-Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ cố định nhưng cho phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng thành một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi họp đồng đang còn hiệu lực. Phí bảo hiểm được tính dựa trên hợp đồng BHNT trọn đời hay hỗn hợp mới theo độ tuổi của người có hợp đồng.
Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền vay. Đồng thời nó còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được bảo hiểm.
-Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: đây là loại hình bảo hiểm mà có một bộ phận của số tiền bảo hiểm giảm hàng năm theo một mức quy định. Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kỳ hạn hợp đồng. Loại hình này đáp ứng nhu cầu của người tham gia, khi họ phải nợ một khoản tiền phải trả dần.
-Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người tham gia bảo hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền .
-Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho 1 gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết .
-Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty bảo hiểm cho gia đình không may có người được bảo hiểm bị chết, tương ứng với số tiền bảo hiểm khi mới ký hợp đồng .
-Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở đây là việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
4.1.2_Bảo hiểm nhân thọ trọn đời : (Bảo hiểm trường sinh) Loại hình bảo hiểm này cam kết bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm đến khi chết.
*Đặc điểm chung:
-Thời gian không xác định;
-Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết bất cứ lúc nào;
-Phí bảo hiểm của loại hình này thường cao hơn bảo hiểm tử kỳ vì người được bảo hiểm chắc chắn sẽ chết;
-Loại hình bảo hiểm này thường đóng phí nhiều lần và số phí bảo hiểm đóng mỗi lần không thay đổi .
*Mục đích :
-Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái chết của người được bảo hiểm;
-Giữ gìn tài sản cho thế hệ sau;
-Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kế hoạch đã định trước;
-Là mục đích tiết kiệm.
Hiện nay loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp đồng sau:
-BHNT trọn đời phi lợi nhuận
-BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại này thường ứng với một số tiền bảo hiểm nhất định nào đó.
-BHNT trọn đời đóng phí liên tục, mức đóng phí mỗi lần bằng nhau.
-BHTN trọn đời đóng phí một lần
-BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm
4.2.Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ )
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản chi đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Loại hình bảo hiểm này trước đây được triển khai theo 2 hướng:
-Bảo hiểm sinh kỳ thuần tuý: nhưng lâu nay người ta bỏ vì nó giống với gửi tiền tiết kiệm.
-Bảo hiểm trợ cấp định kỳ, còn gọi là bảo hiểm hưu trí tự nguyện (bảo hiểm niên kim nhân thọ).
*Đặc điểm:
-Thời hạn bảo hiểm có thể xác định, có thể không xác định.
+Nếu không xác định gọi là niên kim nhân thọ trọn đời
+Nếu xác định gọi là niên kim nhân thọ tạm thời.
-Phí bảo hiểm chỉ nộp 1 lần.
-Số tiền bảo hiểm được trả nhiều lần (trợ cấp định kỳ).
*Mục đích:
-Đảm bảo cuộc sống khi về già;
-Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã hội. Người tham gia bảo hiểm thường là những người bước vào độ tuổi về hưu.
Loại hình bảo hiểm này phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy, tên “Bảo hiểm trợ cấp hưu trí”, “Bảo hiểm tiền hưu”, “Niên kim nhân thọ”…được các công ty bảo hiểm vận dụng hết sức linh hoạt.
4.3.BHNT hỗn hợp
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen vì vậy nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới .
*Đặc điểm :
-Thời hạn bảo hiểm luôn luôn xác định
-Số tiền bảo hiểm được trả 1 lần khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra (chết, hết hạn hợp đồng người được bảo hiểm vẫn còn sống).
-Phí bảo hiểm nộp định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng.
*Mục đích:
-Thực hành tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ giáo dục con cái và mua sắm tài sản…
-Dùng làm vật vay thế chấp, thậm chí vay ngay trên hợp đồng bảo hiểm.
-Bảo trợ cuộc sống của người thân.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro nên hầu hết các loại hợp đồng, các loại bảo hiểm khác nhau đều được tham gia chia lãi. Khách hàng của loại hình bảo hiểm này là đông nhất và có thể ở mọi lứa tuổi.
4.4.Các điều khoản bổ sung
Các điều khoản bổ sung cho BHNT là rất cần thiết để tiến hành đa dạng hoá sản phẩm vì nếu tách riêng các điều khoản bổ sung thì mức phí rất thấp, không đáng kể. Vì vậy nếu triển khai bổ sung cho loại hình BHNT, mặc dù mức phí co tăng lên đôi chút nhưng khách hàng cảm giác mình được hưởng nhiều quyền lợi hơn vì vậy họ tham gia đông hơn.
Nếu khéo léo thiết kế sản phẩm phù hợp thì những điều khoản bổ sung này là một trong những yếu tố thực hiện cạnh tranh của BHNT.
Những điều khoản bổ sung cho 3 loại hình BHNT bao gồm:
-Điều khoản bổ sung bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật:có nghĩa nhà bảo hiểm cam kết trả các chi phí nằm viện và phẫu thuật cho người được bảo hiểm khi họ bị ốm đau, thương tích. Tuy nhiên nếu người được bảo hiểm tự gây thương tích, tự tử, mang thai, sinh nở …thì không được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Mục đích của điều khoản này nhằm trợ giúp người tham gia giảm nhẹ gánh nặng chi phí trong điều trị phẫu thuật, đặc biệt trong các trường hợp ốm đau,thương tích bất ngờ.
-Điều khoản bổ sung bảo hiểm tai nạn: Nhằm trợ giúp thanh toán chi phí trong điều trị thương tật, từ đó bù đắp sự mất mát hoặc giảm thu nhập do bị chết hoặc thương tích của người được bảo hiểm. Điều khoản bảo hiểm này có đặc điểm là bảo hiểm khá toàn diện các hậu quả tai nạn như: Người được bảo hiểm bị tàn phế,thương tật toàn bộ, thương tích tạm thời và bị tai nạn sau đó bị chết. Những trường hợp tự thương, tai nạn do nghiện rượu, ma tuý, tự tử …sẽ không được hưởng quyền lợi bảo hiểm .
-Điều khoản bổ sung bảo hiểm sức khoẻ :Thực chất của điều khoản này là nhà bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán khi người được bảo hiểm bị các chứng bệnh hiểm nghèo như: đau tim, ung thư, suy gan, suy thận, suy hô hấp…Mục đích tham gia bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tài chính nhất định để trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn và góp phần giải quyết, lo liệu các nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị.
Ngoài ra, trong một số hợp đồng BHNT, các nhà bảo hiểm còn đưa ra những điểm bổ sung khác như :hoàn phí bảo hiểm, miễn thanh toán phí khi bị tai nạn, thương tật…nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia.
Mặc dù mức phí cao hơn, nhưng các hợp đồng BHNT có các điều khoản bổ sung đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng của ngươì tham gia bảo hiểm.
II.Một số đặc điểm cơ bản của sản phẩm BHNT
1. Một số đặc điểm cơ bản của sản phẩm BHNT
Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ, vì vậy nó mang những đặc điểm chung của các sản phẩm dịch vụ, ngoài ra sản phẩm bảo hiểm cũng có những đặc điểm riêng biệt. Chính vì những đặc điểm chung và đặc điểm riêng này nên sản phẩm bảo hiểm được xếp vào loại sản phẩm “đặc biệt”. Bảo hiểm nhân thọ, một mặt nó cũng là một loại hình bảo hiểm do đó nó cũng mang những nét chung của bất kỳ sản phẩm bảo hiểm nào, nghĩa là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng mang những đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ và những đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm. Những đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ là:
+Là sản phẩm vô hình: Khi mua bảo hiểm, mặc dù khách hàng nhận được các yếu tố hữu hình đó là những tờ giấy trên đó in biểu tượng của doanh nghiệp,in tên gọi của sản phẩm, in những nội dung thoả thuận …nhưng khách hàng không thể chỉ ra được màu sắc, kích thước, hình dáng hay mùi vị của sản phẩm.Khách hàng cũng không thể “dùng thử” ngay thứ hàng hoá mà họ vừa mua, khách hàng chỉ có thể hình dung ra sản phẩm thông qua sự mô tả và sự hiểu biết của người đại lý. Khi mua sản phẩm bảo hiểm, người mua chỉ nhận được những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi ro, vì vậy có thể nói sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm vô hình.
+Là sản phẩm không thể tách rời và không thể cất trữ: Sản phẩm bảo hiểm không thể tách rời – tức là việc tạo ra sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó ( quá trình cung ứng và quá trình tiêu thụ là một thể thống nhất ). Thêm vào đó, sản phẩm bảo hiểm cũng không thể cất trữ được – có nghĩa là khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong tương lai. Điều này hoàn toàn khác biệt với sản phẩm hữu hình. Đa số các sản phẩm hữu hình có thể sản xuất với số lượng lớn sau đó được lưu trữ trong kho bán dần. Còn các sản phẩm dịch vụ thì không thể cất trữ được.
+Tính không đồng nhất: Dịch vụ bảo hiểm cũng như các dịch vụ khác, chủ yếu được thực hiện bởi con người. Nhìn chung, chất lượng phục vụ của một cá nhân nào đó tại các thời điểm khác nhau là khác nhau, với các khách hàng khác nhau là khác nhau.Chất lượng phục vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ, các yếu tố xung quanh. Ngoài ra, giữa các cá nhân khác nhau, chất lượng phục vụ cũng khác nhau.
+Là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền: Mặc dù trước khi tung một sản phẩm nào đó ra thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải đăng ký sản phẩm để nhận được sự phê chuẩn của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, việc phê chuẩn này chỉ mang tính nghiệp vụ kỹ thuật chứ không mang tính bảo hộ bản quyền. Đặc điểm này dẫn đến hiện tượng sao chép các dạng sản phẩm của các nước, thậm chí của đối thủ cạnh tranh một cách máy móc, trừ tên mình. Vì vậy, để nâng cao tính cạnh tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm phải có các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ .
Bên cạnh đó, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có những đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm, đó là:
+Là sản phẩm không mong đợi : Điều này thể hiện ở chỗ, đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần tuý, mặc dù đã mua sản phẩm – nhưng khách hàng đều không muốn rủi ro xảy ra để được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Bởi vì rủi ro một khi đã xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại thậm chí là mất mát, do đó số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, chi trả khó có thể bù đắp được. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên vô cùng khó khăn.
+Là sản phẩm có chu trình sản xuất ngược: Đối với các sản phẩm khác, căn cứ vào chi phí thực tế có thể tính được giá thành, giá bán của sản phẩm, qua đó thấy ngay được kết quả hoạt động. Nhưng đối với sản phẩm bảo hiểm, việc xác định giá bán hoàn toàn dựa trên các số liệu giả định về các tổn thất xảy ra trong quá khứ do đó tại thời điểm bán sản phẩm chưa thể xác định ngay được kết quả hoạt động do thực tế xảy ra có thể không như dự kiến, đặc biệt nếu thiệt hại xảy ra trầm trọng, tổn thất liên tục.
+Là sản phẩm có hiệu quả xê dịch: Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp có quyền thu phí của người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm; sau đó nếu có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường hay chi trả. Do vậy, với việc thu phí trước, nếu không có hoặc ít rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn dự kiến. Ngược lại, nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc quy mô lớn hơn dự kiến, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thua lỗ.
Về phía khách hàng, hiệu quả từ việc mua sản phẩm cũng mang tính xê dịch – không xác định. Điều này xuất phát từ việc không phải khách hàng nào tham gia bảo hiểm cũng “được nhận” số tiền chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm ( trừ trường hợp mua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm ). Nói cách khác, khách hàng chỉ thấy được “tác dụng” của sản phẩm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với họ.
Ngoài những đặc điểm trên, sản phẩm BHNT cũng có những đặc trưng riêng sau:
+Thời hạn bảo hiểm dài, thường là 5 năm, 10năm, 20 năm hoặc suốt cả cuộc đời.
+Mỗi sản phẩm BHNT cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau. Mỗi hợp đồng với mỗi thời hạn khác nhau lại có sự khác nhau về số tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí, độ tuổi người tham gia…
+ Các sản phẩm BHNT thường là những sản phẩm bán lẻ là chủ yếu.
2.Đặc trưng cơ bản của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Trọn Đời .
Nhóm sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời là nhóm sản phẩm bảo hiểm truyền thống, mang tính tiết kiệm và đã có mặt trên thị trường thế giới từ gần 100 năm. Do cũng là sản phẩm bảo hiểm nên nhóm sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời vẫn mang đầy đủ những đặc tính của sản phẩm dịch vụ và sản phẩm bảo hiểm nhân thọ như đã nêu trên. Bên cạnh đó, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời cũng có một số đặc điểm riêng khác các nhóm sản phẩm nhân thọ khác, đó là:
-Sản phẩm bảo hiểm này có thời hạn bảo hiểm không xác định trước. Phương châm của người bảo hiểm ở đây là: “Bảo hiểm đến khi chết”. Tuy nhiên, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi.
-Số tiền bảo hiểm được chi trả bất cứ khi nào người được bảo hiểm bị tử vong.
-Do thời hạn bảo hiểm dài nên phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên số tiền bảo hiểm chắc chắn phải chi trả.
-Phí bảo hiểm có thể đóng theo nhiều hình thức như đóng một lần, hoặc đóng định kỳ.
Đối với trường hợp phí nộp một lần thì phí thuần trong trường hợp này cũng được tính theo nguyên lý cân bằng giữa (số thu) và (số chi) tại thời điểm tham gia bảo hiểm.
Công thức tính phí thuần trong trường hợp này như sau:
Trong đó:
Sb : Số tiền bảo hiểm
lx : số người sống ở độ tuổi người tham gia bảo hiểm
i : lãi suất kỹ thuật
n : Thời hạn bảo hiểm
d(x+j-1) : Số người chết ở độ tuổi (x+j -1) đến (x+j)
m : là độ tuổi cuối cùng của bảng tỉ lệ tử vong sử dụng tính phí
Đối với trường hợp phí thuần nộp hàng năm trong bảo hiểm nhân thọ trọn đời, việc tính phí vẫn dựa trên nguyên tắc cơ bản là cân bằng thu-chi.
Ta có công thức tính phí thuần năm như sau:
ị
Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời là thời hạn bảo hiểm dài và không xác định nên nếu đóng phí một lần khi ký hợp đồng thì mức phí thường rất cao, không hấp dẫn khách hàng. Vì thế, phương thức đóng phí hàng năm có lẽ phù hợp hơn cả. Về nguyên tắc phải đóng phí đến hết đời, song người tham gia bảo hiểm thường có mong muốn đóng đến một độ tuổi nhất định (chẳng hạn như :80, 85 hay 100 tuổi).Nếu tham gia lúc còn trẻ và ở độ tuổi trung niên, họ thường yêu cầu đóng phí đến độ tuổi về hưu. Điều này công ty bảo hiểm vẫn chấp nhận. Nhưng khi tính phí, nguyên tắc cân bằng vẫn được đặt ra.
Phí toàn phần:
Ta có công thức sau:
Phí toàn phần = Phí thuần + Phí hoạt động
Nếu ký hiệu:
P: là phí toàn phần
f: là phí thuần
h:là phí hoạt động
Ta có: P = f + h
Bộ phận phí hoạt động (h) trong bảo hiểm nhân thọ bao gồm 3 khoản:
+ Chi phí hợp đồng mới (a)
+ Chi phí thu phí (b)
+ Chi phí quản lý hợp đồng (g)
Đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời thu phí một lần thì khoản chi phí thu phí (b) sẽ không có, cho nên:
h = (a) + (g)
P = f + a + g
Đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời thu phí nhiều lần trong suốt thời hạn tham gia bảo hiểm thì bộ phận phí hoạt động (h) sẽ bao gồm đầy đủ 3 khoản nêu trên:
h = a + b + g
Nhờ những đặc tính trên nên sản phẩm bảo hiểm trọn đời được các công ty chú trọng khai thác. Hiện nay trên thị trường Việt Nam, nhóm sản phẩm này bao gồm các sản phẩm: An Khang Trường Thọ của Bảo Việt, Phú Trường An của Prudentia và An Sinh Trường Thọ của AIA. Các sản phẩm này ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của người dân, giúp họ có được một khoản tiết kiệm khi tuổi cao, khiến họ cảm thấy yên tâm hơn trong cuộc sống.
III. Quy trình khai thác sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
vai trò của công tác khai thác
Một sản phẩm bảo hiểm ra đời nó đòi hỏi một quy trình triển khai đến tay người tiêu dùng .Đó là các công đoạn sau đây:
Khai thác
Thu xếp tái bảo hiểm.
Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất.
Giám định tổn thất.
Bồi thường tổn thất.
Thực hiện các hoạt động khác , dịch vụ khách hàng.
Trong quy trình trên thì khai thác là khâu đầu tiên nhưng đóng vai trò quan trọng nhất, có ảnh hưởng quyết định đến việc đưa một sản phẩm bảo hiểm đến tay người tiêu dùng cũng như trong hoạt động của công ty bảo hiểm. Sở dĩ như vậy vì quy luật cơ bản của bảo hiểm là số đông bù số ít, do đó nếu khai thác được nhiều hợp đồng sẽ tạo ra doanh thu hình thành được các quỹ tài chính để bồi thường, chi trả cho người tham gia và mang lại những lợi nhuận cho doanh nghiệp . Cũng thông qua công tác này mà những thông tin từ thị trường cũng như từ phía khách hàng được thu thập để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề tiêu thụ sản phẩm cũng được coi là quan trọng nhất, đặc biệt đối với doanh nghiệp BHNT khi quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm thì việc tiêu thụ sản phẩm càng đóng vai trò quyết định. Muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ càng phải chú trọng tới công tác khai thác.
Chính vì vậy việc xây dựng một quy trình khai thác cần phải mang tính chất khoa học để cho các khai thác viên trong công ty bảo hiểm thực hiện công trình khai thác của mình với hiệu quả mang lại một cách tốt nhất.
Quy trình khai thác sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
2.1 Quy trình khai thác
Việc hoạt động khai thác bảo hiểm được quy định trong mục 2 về khai thác bảo hiểm của luật kinh doanh bảo hiểm bao gồm các điều 15 , điều 16 , điều 17 , điều 18, điều 19 ,điều 20 quy định chi tiết về các hoạt động mua bán khai thác bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm . Đó là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quy trình khai thác của doanh nghiệp bảo hiểm.
Khâu khai thác thường bao gồm các bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch khai thác .
Kế hoạch khai thác được xây dựng dựa trên mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp và căn cứ vào đặc điểm của thị trường cũng như nguồn lực cuả doanh nghiệp . Vì vậy kế hoạch khai thác phải dựa trên những chỉ tiêu mang tính định lượng cụ thể và tiến hành theo các giai đoạn sau :
Mức doanh thu phí đạt được .
Số lượng hợp đồng khai thác .
Thời gian thực hiện kế hoạch .
Bước 2: Thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho quy trình khai thác .
Công việc hỗ trợ cho quy trình khai thác là công đoạn hỗ trợ cho tiến trình khai thác sao cho nó được tiến hành đúng hướng, nhanh chóng hơn, thực hiện quy trình khai thác hiệu quả hơn và được diễn ra nhanh hơn, nó như một chất men xúc tác cho quy trình khai thác. Thực hiện các họat động hỗ trợ cho quy trình khai thác có thể bao gồm các công việc sau: tổ chức hoạt động tuyên truyền; quảng cáo; xúc tiến bán ... Do tính chất quy mô của quy trình triển khai một sản phẩm bảo hiểm mà việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho quy trình khai thác sẽ nghiên cứu xem có cần tuyển thêm đại lý để thực hiện kế hoạch khai thác hay không .
Bước 3 : Tiến hành khai thác gồm các hoạt động :
Tìm kiếm khác hàng tìm năng: đó là những khách hàng có nhu cầu về bảo hiểm, có khả năng tài chính, có đối tượng bảo hiểm có thể bảo hiểm được và doanh nghiệp bảo hiểm có thể tiếp cận được.
Chuẩn bị tài liệu: là các đơn yêu cầu bảo hiểm, các điều khoản, các quy tắc bảo hiểm, biểu phí, những minh hoạ về quyền lợi bảo hiểm…
Tiếp cận khách hàng tìm năng để chuẩn bị cho việc giới thiệu chào bán sản phẩm bảo hiểm của sản phẩm bảo hiểm khai thác .
Tiếp nhận giấy yêu cầu bảo hiểm, thực hiện công tác thẩm định, đánh giá rủi ro. Công việc xem xét phân loại rủi ro từ đó sẽ quyết định chấp nhận hay từ chối bảo hiểm cho khách hàng. Có thể nói đây là công việc mà phần lớn người khai thác viên bảo hiểm nào cũng phải thực hiện trong quy trình khai thác bảo hiểm .
Phát hành hợp đồng, thu phí bảo hiểm.
Bước 4 : Đánh giá kết quả khai thác
Việc đánh giá kết quả khai thác có thể nói nó có vai trò quan trọng không kém trong các bước thực hiện ở trên. Trong bước này nhà quản lý kế hoạch khai thác so sánh các chỉ tiêu kế hoạch và các chỉ tiêu thực hiện về doanh thu phí bảo hiểm, sản lượng hợp đồng khai thác được, phân chia theo từng loại sản phẩm hoặc theo từng nhóm khách hàng, theo khu vực địa lý… để rút ra những nguyên nhân thành công và thất bại của quy trình khai thác tìm ra những thiếu sót để từ đó rút ra những bài học cần thiết cho quy trình khai thác lần sau.
2. 2. Xúc tiến hỗn hợp.
Ngoài các bước trên của quy trình khai thác nhằm để cho hoạt động của quy trình khai thác mang lại hiệu quả hoạt động tốt hơn người ta còn thực hiện các hoạt động xúc tiến hỗn hợp nhằm hỗ trợ cho khâu khai thác điển hình rõ nhất là quá trình truyền thông . Quá trình truyền thông gồm ba giai đoạn :
Giai đoạn 1: Mã hóa thông tin .
Giai đoạn 2:Truyền đạt thông tin.
Giai đoạn 3: Thu nhận thông tin phản hồi.
Phản hồi
Phản ứng đáp lại
Nguồn nhận tin
Người gửi tin
Mã hóa
Giải mã
Thông điệp
Phương tiện truyền thông
Người quản lý
Các giai đoạn trong quá trình truuyền thông.
Xác định người nhận tin là bước đi đầu tiên quan trọng của các giai đoạn trong quá trình truyền thông . Người quản lý quy trình khai thác phải xác định xem bộ phận khách hàng nào sẽ nhận được thông điệp mà doanh nghiệp mong muốn truyền đạt tới họ như vậy việc xác định khách hàng nhận được thông điệp truyền thông của công ty bảo hiểm trong giai đoạn của quá trình truyền thông có ảnh hưởng lớn tới tiến trình khai thác của công ty bảo hiểm . Người nhận tin có thể là người ra quyết định mua sản phẩm hạơc là người có ảnh hưởng đến quyết định mua của khách hàng công ty bảo hiểm.
Xác định phản ứng cảu người nhận tin là quá trình sau khi người nhận được thông tin từ quá trình truyền thông sẽ có những phản ứng như: biết về sản phẩm , hiểu về sản phẩm, có thiện cảm với sản phẩm, ưu chuộng, có ý định mua , quyết định mua.
Thiết kế thông điệp :là nội dung của các thông tin cần truyền đạt được mã hóa dưới dạng một ngôn ngữ nào đó như âm thanh, hình ảnh màu sắc...nó phải phù hợp yêu cầu là phải hấp dẫn , dễ hiểu truyền tải được những yêu cầu cần truyền đạt .
Lựa chọn kênh truyền thông tùy theo mục đích truyền đạt thông tin đến khách hàng mà ngưồi ta lựa chọn kênh truyền thông truyền đạt trực tiếp hay gián tiếp. Nếu lựa chọn kênh truyền thông trực tiếp cần phải có sự tiếp xúc, trao đổi thông tin một cách trực tiếp giữa doanh nghiệp với khách hàng tiểm năngnhư bán hàng cá nhân , quan hệcông chúng...Nếu lựa chọn kênh truyền thông gián tiếp thì xẽ không có sự gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp giiữa doanh nghiệp và khách hàng lúc này kênh truyền thông có thể là các chương trình quảng cáo, các chương trình tài trợ ...
Thu nhận thông tin phản hồi.
Để cho công việc khai thác trong doanh nghiệp bảo hiểm của công ty bảo hiểm đạt được những kết quả tốt ngoài thực hiện các bước trong quy trình khai thác một cách có khoa học cũng như các biện pháp xúc tiến hỗn hợp nhằm hỗ hợp cho khâu khai thác nó còn một số biện pháp khác nhằm giúp cho quy trình khai thác bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm đạt kết quả tốt hơn phụ thuộc vào từng kế hoạch khai thác khác nhau thì thực hiện công việc theo các bước khác nhau.
Giới thiệu về sản phẩm bảo hiểm An Khang Trường Thọ.
(Quyết định số 563/QĐ - BTC ngày 09/4/1999 kèm theo Công văn số 2755TC/TCNH ngày 28/3/2001 của Bộ Tài Chính).
2.1.1 Lợi ích của sản phẩm An Khang Trường Thọ
Đối với những người có gia đình
Bảo vệ tài chính gia đình: Mức độ bảo vệ cao hơn An Khang Thịnh Vượng (rất thích hợp cho những người không muốn tiết kiệm và đầu tư BHNT).
Trang trải các khoản nợ (thích hợp cho những người làm nghề buôn bán và chủ doanh nghiệp).
Đảm bảo cuộc sống khi bị tàn tật.
Đối với những người trung tuổi (50 tuổi trở lên):
Tạo một di sản thừa kế cho con cháu.
Lo hậu sự.
Đối với người trẻ tuổi :
Báo hiếu cha mẹ.
Phòng khi tàn tật.
2.1.2 Người được bảo hiểm:
Là người từ 18 đến 65 tuổi
+Từ 18 đến 60 (Nếu hợp đồng đóng phí định kỳ)
+Từ 18 đến 65(Nếu hợp đồng đóng phí một lần)
2.1.3Người tham gia bảo hiểm
Có thể không phải là người được bảo hiểm nhưng phải là người có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với người được bảo hiểm.
2.1.4 Thời hạn bảo hiểm:
Không xác định trước
Hợp đồng chỉ chấm dứt hiệu lực khi người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn.
2.1.5Phạm vi bảo hiểm:
Gồm các sự kiện xảy ra với người được bảo hiểm”
Chết do mọi nguyên nhân;
Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn.
2.1.6 Quyền lợi bảo hiểm
a)Trường hợp người được bảo hiểm chết:
*Do tai nạn:
Trả số tiền bảo hiểm cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
*Do tự tử, nhiễm vi rút HIV:
-Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 2 năm: hoàn 100% phí cho Người tham gia bảo hiểm.
Khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên: trả STBH
Khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên: trả STBH
*Do nguyên nhân khác: trả tiển theo bảng:
Phương thức
đóng phí
Trong năm hợp đồng thứ nhất
Trong năm hợp đồng thứ hai
Trong các năm hợp đồng sau
Hợp đồng nộp phí định kỳ
STBH*0.3
STBH *0.6
STBH
Hợp đồng nộp phí một lần
STBH*0.4
STBH*0.8
STBH
b)Trường hợp NĐBH bị TTTBVV do tai nạn
-Trả STBH cho Người được bảo hiểm.
-Hợp đồng chấm dứt hiệu lực
c)Chia lãi:
Điều kiện được hưởng lãi, cách tính lãi, thông báo chia lãi được áp dụng như các sản phẩm NA.
2.1.7Không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm: NĐBH bị chết hoặc bị TTTBVV do các nguyên nhân sau:
- Hành động cố ý của NTGBH, NĐBH, NĐHQLBH.
-NĐBH tham gia các hoạt động hàng không(trừ khi với tư cách là khách hàng), các cuộc diễn tập, huấn luyện quân sự, tham gia chiến đấu của các lực lượng vũ trang, các cuộc thi đấu thể thao nguy hiểm.
-Hành vi cố ý vi phạm pháp luật của NĐBH.
-ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý và các chất kích thích khác.
-Động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ.
-Chiến tranh, nội chiến, bạo động, nổi loạn và các sự kiện mang tính chất chiến tranh khác.
ã Giải quyết: Nếu NĐBH bị chết hoặc bị TTTBVV
+ Hoàn lại cho Người tham gia bảo hiểm 100% số phí bảo hiểm đã nộp
+ Hợp đồng chấm dứt hiệu lực.
2.1.8 Chấm dứt hiệu lực của hợp đồng:
Hợp đồng chấm dứt hiệu lực ngay sau khi NĐBH bị TTTBVV do tai nạn hoặc bị chết.
2.1.9 Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm:
a)Số tiền bảo hiểm:
-Quy định bằng đồng Việt Nam, chẵn đến hàng triệu đồng trong khoảng từ 5 triệu đến 1 tỷ đồng.
b)Phí bảo hiểm:
*Biểu phí:
Biểu phí quy định cho một đơn vị STBH là 1.000.000 đồng Việt Nam, phân biệt theo giới tính, bao gồm:
+Biểu phí nộp một lần
+Biểu phí tháng
*Thời hạn đóng phí: 3 thời hạn
Hết tuổi 55
Hết tuổi 60
Hết tuổi 65
*Phí bảo hiểm phụ thuộc vào:
Tuổi NĐBH;
Giới tính của NĐBH;
STBH mà NTGBH lựa chọn;
Phương thức nộp phí bảo hiểm. Nếu nộp phí định kỳ, phí còn phụ thuộc vào định kỳ nộp phí;
Thời hạn nộp phí mà NTGBH lựa chọn.
*Công thức quy đổi phí:
Phí (năm) = Phí (tháng) ´11.32
Phí (2 kỳ) = Phí (tháng) ´5.88
Phí (quý) = Phí (tháng) ´2.97
*Triết khấu STBH lớn:
-Từ 5 triệu đến 30 triệu =>100% tỷ lệ phí
-Từ 31 triệu đến 50 triệu =>99% tỷ lệ phí
-Từ 51 triệu đến 100 triệu =>98% tỷ lệ phí
-Từ 100 triệu đến 1 tỷ =>97.5% tỷ lệ phí
*Phương thức nộp phí:
-Nộp phí một lần (có biểu phí nộp một lần)
-Nộp phí định kỳ (theo năm, 6 tháng, quý hoặc tháng) đến hết hạn nộp phí.
Phần II . Thực trạng công tác khai thác sản phẩm bảo hiểm An Khang Thịnh Vượng của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội.
Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội .
Sự hình thành và phát triển của Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội .
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (tiền thân là Công ty Bảo hiểm Việt Nam)- được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17 tháng 12 năm 1964 của Thủ tướng Chính Phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 15 tháng 1 năm 1965. Ngày đầu Bảo Việt có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh ở Hải Phòng. Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, làm đại lý giám định và xét bồi thường cho công ty nước ngoài về hàng hoá xuất nhập khẩu.
Sau ngày thống nhất đất nước, Bảo Việt tiếp quản cơ sở vật chất của một số công ty Bảo hiểm thuộc chế độ cũ qua việc sát nhập với Công ty Bảo hiểm và Tái Bảo hiểm Miền nam Việt Nam, bắt đầu mở rộng hoạt động ở một số tỉnh phía nam.
Năm 1996, Bảo Việt đưa ra thị trường dịch vụ Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở Việt Nam. Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà Nội (Bảo Việt nhân thọ Hà Nội) trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam – Bảo Việt, ra đời theo quyết định số 568/TC/QĐ/TCCB ngày 22/06/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Cùng năm này, Bảo Việt được Nhà nước xếp loại “Doanh nghiệp hạng đặc biệt” trở thành một trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Sự ra đời của Bảo Việt nhân thọ Hà Nội được coi như mũi tiên phong của Bảo Việt đột phá thị trường Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam với hai sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm, 10 năm và Bảo hiểm trẻ em.
Năm 1997, Trung tâm đào tạo Bảo Việt được thành lập, đánh dấu một bước chuyển biến mới trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đại lý của Bảo Việt cũng như của các đơn vị trong ngành bảo hiểm Việt Nam.
Từ khi ra đời cho đến nay, đã được hơn sáu năm thì ba năm đầu tức là tính đến năm 1999, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội trở thành công ty kinh doanh độc quyền Bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Hà Nội. Điều này mang lại cho công ty những thuận lợi của vị thế độc quyền trên một thị trường đông dân cư, trình độ dân trí cao, thu nhập cao nhưng cũng làm cho công ty vướng phải không ít khó khăn mà có lẽ khó khăn lớn nhất là hầu như dân chúng chưa từng được nghe, không hề nói tới và cũng không biết chút gì về Bảo hiểm nhân thọ. Thậm chí khi được nghe cán bộ tư vấn Bảo hiểm nhân thọ giới thiệu, nhiều người còn nhầm lẫn với “sữa ông thọ”, “hội bảo thọ”…Còn hơn ba năm sau, tức là từ cuối năm 1999 trở lại đây, khi những khó khăn ban đầu đã qua thì công ty lại bắt đầu đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty Bảo hiểm nhân thọ nước ngoài – những thành viên con của các tập đoàn tài chính “sừng sỏ” trên thế giới. Đó là công ty TNHH Prudential (Công ty100% vốn nước ngoài do tập đoàn tài chính Prudential – Anh quốc đầu tư tại Việt Nam, chính thức được cấp giấy phép hoạt động từ tháng 10/1999). Đó là công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA (cũng là công ty 100% vốn nước ngoài do tập đoàn quốc tế Hoa Kỳ AIG đầu tư tại Việt Nam,thành lập chi nhánh tại Hà Nội tháng 05/2000). Tiếp đó là công ty TNHH Chinfon – Manulife (nay đã đổi tên thành Công ty Manulife với 100% vốn của tập đoàn Manulife – Canada. Và cuối cùng là một công ty liên doanh giữa công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh với tập đoàn CMG – úc: Bảo Minh CMG (hoạt động trên thị trường Hà Nội từ 01/2000).
Mặc dù hết khó khăn này tới khó khăn khác song với sự đoàn kết cố gắng, tận tâm tận lực của toàn thể lãnh đạo và nhân viên, với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền đặc biệt là sự quan tâm sâu sắc của Bộ tài chính, đồng thời thừa hưởng những lợi thế về uy tín và kinh nghiệm của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cho đến nay, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội đã có những bước phát triển mạnh mẽ và toàn diện trên nhiều mặt:
Một là, tăng trưởng doanh thu đạt mức cao và duy trì ổn định qua các năm. Riêng trong năm 2002 tăng trưởng doanh thu đạt mức 35% so với năm 2001.
Hai là, mạng lưới khai thác phát triển nhanh và phủ khắp các địa bàn dân cư. Ngày đầu mới thành lập, Công ty mới chỉ có 31 đại lý thì đến nay công ty đã có 22 phòng đại lý Bảo hiểm nhân thọ khu vực với 1210 cán bộ khai thác được tuyển chọn và đào tạo kỹ lưỡng đang hoạt động tích cực tại tất cả các quận huyện thành phố, phục vụ mọi nhu cầu về Bảo hiểm nhân thọ của nhân dân từ đô thị đến vùng thôn xóm xa xôi.
Ba là, công ty cũng hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và chất lượng phục vụ khách hàng. Hệ thống tổ chức và quản lý được xây dựng theo kiểu hình kim tự tháp với các liên kết trực tuyến, giúp cho việc điều hành nhanh chóng, chính xác.
Bốn là, công ty tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để cải thiện điều kiện làm việc và tăng cường công tác quản lý hợp đồng. Từ chỗ phải đi thuê trụ sở tại số nhà 52 Nguyễn Hữu Huân đến đầu năm 2000, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội đã khánh thành trụ sở mới khang trang hiện đại tại toà nhà 94 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đồng thời các phòng đại lý Bảo hiểm nhân thọ khu vực cũng được bố trí tại các địa điểm tập trung đông dân cư, thuận tiện cho hoạt động khai thác và phục vụ khách hàng.
Năm là, công tác dịch vụ khách hàng luôn được coi là một trong những hoạt động trọng tâm của công ty. Với chiến lược phát triển bền vững “Luôn hướng tới khách hàng với sản phẩm và dịch vụ đa dạng, chất lượng cao” cùng phương châm “Phục vụ khách hàng một cách tốt nhất để phát triển”, một mặt công ty luôn cải tiến, nâng cao chất lượng các dịch vụ theo điều khoản hợp đồng như: Đáp ứng kịp thời những nhu cầu về thay đổi điều kiện hợp đồng, giải quyết quyền lợi Bảo hiểm cho khách hàng nhanh chóng thuận tiện. Mặt khác, Công ty đã triển khai bổ sung nhiều dịch vụ mới nhằm tăng thêm giá trị ngoài hợp đồng cho khách hàng như: Cho vay theo hợp đồng, dịch vụ giải đáp qua đường dây nóng, tặng lịch năm mới, cung cấp “thông tin khách hàng”….Tính riêng năm 2001, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội đã tiến hành chi trả tiền Bảo hiểm cho 457 trường hợp trong đó có 151 trường hợp được nhận số tiền Bảo hiểm đáo hạn hợp đồng với tổng số tiền chi trả là 1434 triệu đồng, 77 trường hợp nhận số tiền bảo hiểm do tử vong với số tiền bồi thường là 645 triệu đồng, 13 trường hợp hợp đồng duy trì miễn phí cho người tham gia Bảo hiểm trong hợp đồng An sinh giáo dục, người được Bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn với số tiền bồi thường là 220 triệu đồng.Đồng thời Công ty cũng giải quyết 216 vụ theo điều khoản riêng với số tiền chi trả trên 95 triệu đồng giúp cho các khách hàng và gia đình họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và công việc.
Ngoài ra, công ty cũng luôn chú trọng đầu tư nâng cấp hệ thống máy tính cũng như cải tiến chương trình phần mềm quản lý hợp đồng một cách khoa học, đảm bảo quản lý chặt chẽ và đáp ứng một cách nhanh nhất những yêu cầu của khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ.
Với những thành tích to lớn trên, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội đã vinh dự được nhận bằng khen “Đơn vị xuất sắc trong kinh doanh” liên tục trong ba năm 1998,1999 và 2000. Điều này thêm một lần nữa khẳng định sự nỗ lực không ngừng nghỉ của Công ty.
Là một trong những công ty Bảo hiểm nhân thọ thành viên dẫn đầu gia đình Bảo Việt, qua hơn sáu năm hoạt động,cùng với sự phát triển lớn mạnh của mình, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam nói chung.
2.Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà Nội.
Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt nhân thọ Hà Nội ngày càng được phát triển để hoàn thiện hơn theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng phục vụ khách hàng.
Phòng quản lý đại lý
22 phòng khai thác
Đại lý
Tổ đại lý
Ban giám đốc
Tổ tin học
Phòng mar-keting
Phòng dịch vụ khách hàng
Phòng tài chính kế toán
Phòng quản lý hợp đồng
Phòng phát hành hợp đồng
Phòng tổng hợp
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Bảo Việt nhân thọ Hà Nội:
Theo sơ đồ này, cấp lãnh đạo của công ty trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của công ty. Với cơ cấu tổ chức này đòi hỏi người lãnh đạo phải có được một kiến thức toàn diện và tổng hợp. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức này có một nhược điểm là không phát huy được tính năng động của nhân viên nếu gặp phải sự chuyên quyền, áp đặt của cán bộ lãnh đạo trong điều hành công việc.
Chức năng và nhiệm vụ cụ thể của các phòng được quy định như sau:
* Giám đốc:
01 Giám đốc Công ty do Hội đồng quản trị Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Tổng Giám Đốc. Giám đốc là người đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Tổng công ty và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Công ty. Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Công ty.
*Phó giám đốc:
02 Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động của Công ty theo phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám đốc phân công thực hiện .
*Các phòng ban:
Các phòng ban quản lý nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc cho giám đốc trong quản lý điều hành công việc theo quyết định số 174/BVNT/98. Hiện tại công ty có các phòng chức năng chính sau:
(1) Phòng tổng hợp:Đây là phòng thực hiện công tác tổng hợp và bao gồm có 5 chức năng chính:
- Đảm nhiệm công tác tổ chức cán bộ và lao động tiền lương;
- Đảm nhiệm công tác hành chính, văn thư;
- Đảm nhiệm vấn đề pháp chế của doanh nghiệp;
- Thực hiện việc thi đua khen thưởng ;
- Thực hiện các nhiệm vụ tổng hợp;
(2) Phòng phát hành hợp đồng bảo hiểm: có 5 chức năng chính:
- Đánh giá rủi ro để chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm là chức năng quan trọng nhất ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh;
- Phát hành hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng ;
- Giám định bảo hiểm;
(3) Phòng quản lý đại lý: bao gồm 4 chức năng chính:
- Tổ chức đại lý, tổ chức quản lý đội ngũ cộng tác viên khai thác bảo hiểm;
- Quản lý về vấn đề nhân sự của đại lý, về hồ sơ, bổ nhiệm, miễn nhiệm, theo dõi đánh giá;
- Thực hiện công tác tổ chức và phát triển đại lý, tuyển dụng cán bộ như lập kế hoạch tuyển dụng, kế hoạch bổ sung;
- Đào tạo đại lý:Mở lớp đào tạo chuyên ngành;
(4) Phòng quản lý hợp đồng bảo hiểm: có 4 chức năng chính:
- Quản lý tình trạng hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm như: quá trình nộp phí, thay đổi người thu phí, thay đổi điều kiện thời gian nộp phí;
- Giải quyết yêu cầu của khách hàng liên quan đến trả tiền bảo hiểm, trả giá trị giải ước;
- Chi trả hợp đồng;
- Lưu trữ hợp đồng;
(5) Phòng tài chính kế toán: có 3 chức năng chính sau:
- Chức năng hạch toán kế toán thu, chi, lao động tiền lương, thuế, tài sản cố định, công nợ;
- Phụ trách vấn đề tài chính:nghiên cứu đề xuất chế độ tài chính, xây dựng định mức chi tiêu, tham mưu cho lãnh đạo thực hiện chi tiêu theo đúng định mức cho phép;
- Thực hiện công tác thống kê kế toán: chủ yếu lập báo cáo thống kê quản lý vốn, định kỳ chuyển số liệu về Tổng công ty ;
(6) Phòng dịch vụ khách hàng: tách một số chức năng của các phòng khác sang và bao gồm 2 chức năng chính:
- Phục vụ khách hàng;
- Hỗ trợ đại lý;
(7) Phòng Marketing: tách ra từ phòng dịch vụ khách hàng và có 2 chức năng chính sau:
- Khảo sát nghiên cứu thị trường. Từ đó đề xuất lên Tổng công ty để hoàn thiện sản phẩm ;
- Hỗ trợ các phòng khai thác;
(8) Tổ tin học: có 2 chức năng sau:
- Quản lý số liệu.
- Lập trình các phần mềm ứng dụng.
So sánh các sản phẩm bảo hiểm trọn đời của các Công ty
Sản phẩm
An Khang Trường Thọ
(Bảo Việt)
Phú Trường An
(Prudential)
An Sinh Trường Thọ
(AIA)
Độ tuổi người được bảo hiểm.
Từ 18 – 65 tuổi
Từ 0 – 55 tuổi
Từ 0 – 65 tuổi
Thời hạn bảo hiểm.
Không xác định trước, HĐ chỉ chấm dứt khi người được BH bị chết
Từ 44 – 99 năm
Từ 35 – 100 năm
Thời hạn đóng phí.
Đến tuổi 55, 60 hoặc 65 năm.
Đến tuổi 65
Đến khi HĐ kết thúc.
Số tiền BH.
Đến 1 tỷ đồng.
Đến 1,5 tỷ đồng.
Từ 10 triệu đến 7 tỷ đồng.
Quyền lợi Bảo hiểm.
Biểu 2
Biểu 2
Biểu 2
Phí bảo hiểm
Tuỳ thuộc vào số tiền BH, tuổi của người được BH, thời hạn bảo hiểm.
Tuỳ thuộc vào số tiền BH, tuổi của người được BH, thời hạn bảo hiểm.
Năm: 490.000
Nửa năm: 250.000
Quý:128.000
Các sản phẩm bổ sung có thể mua kèm.
Điều khoản riêng III;IV;V;VI;VII.
1.Bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn.
2.Bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn.
3.Bảo hiểm từ bỏ phí.
4.Bảo hiểm chết do tai nạn.
1.Bảo hiểm từ bỏ quyền lợi thu phí.
2.Bảo hiểm tử vong do tai nạn.
3.Quyền lợi bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn.
Quyền lợi bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm trọn đời của các công ty (Biểu 2)
Sản phẩm
Trường hợp người được bảo hiểm chết.
Trường hợp sống
Thương tật TBVV do tai nạn
Ghi chú
Bảo Việt
An Khang Trường Thọ
-STBH nếu chết do:
+Tai nạn
+Tự tử,HIV ³ 2 năm
-STBH theo tỷ lệ nếu chết do bệnh tật khác:
+Năm I: 30% STBH
+Năm II: 60%STBH
+Năm III trở đi:100% STBH
-100% phí nếu chết do Tự tử, HIV < 2 năm.
Không có
STBH
Prudential
Phú Trường An
*STBH theo tỷ lệ (A)
-Dưới 1 tuổi :nhận lại 100% phí
-Từ 1-2 tuổi:25%STBH
-Từ 2-3 tuổi:50%STBH
-Từ 3-4 tuổi:75%STBH
-Trên 4tuổi:100%STBH
*GTGƯ hoặc 100% phí (tuỳ theo giá trị nào cao hơn) nếu chết do tự tử < 2 năm và AIDS
Đến năm 99 tuổi được nhận STBH ( HĐ miễn phí từ năm 65 tuổi)
-Trước tuổi 60 :
Mỗi năm trả 1/10 STBH trong vòng 10 năm kể từ khi bị TTTBVV và vẫn phải đóng phí bình thường.
-áp dụng tỷ lệ trả STBH theo (A ) như trường hợp chết.
AIA
An Sinh Trường Thọ
*STBH với tỷ lệ:
-Nếu 0 tuổi nhận: 20%STBH
-Nếu 1 tuổi nhận: 40%STBH
-Nếu 2 tuổi nhận:60%STBH
-Nếu 3 tuổi nhận: 80% STBH
-Từ 4 tuổi nhận: 100% STBH.
*100% phí nếu chết do AIDS và tự tử < 2 năm.
*Bảo hiểm tạm thời – trong 30 ngày đầu tiên- đối với trường hợp chết do tai nạn: Nhận STBH gốc hoặc 100 triệu (tuỳ theo giá trị nào nhỏ hơn)
Cuối mỗi năm nhận 15% STBH gốc
Không có
STBH được tăng 2%/năm kể từ năm thứ 3 trở đi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BH09.doc