Tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản: CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
“Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ
ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản .”
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ.
1.1 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ .
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.2 Đặc điểm của hàng TCMN
1.1.3 Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.....................................
1.2 Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ...........................................
1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân...................................................................
1.2.2 Đối với các doanh nghiệp . ......................................................................
1. 3 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu TCMN...........................................
1.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.......................................................
...
86 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
“Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ
ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản .”
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ.
1.1 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ .
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.2 Đặc điểm của hàng TCMN
1.1.3 Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.....................................
1.2 Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ...........................................
1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân...................................................................
1.2.2 Đối với các doanh nghiệp . ......................................................................
1. 3 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu TCMN...........................................
1.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.......................................................
1.3.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô.......................................................
1.4 Tổng quan về thị trường Nhật Bản .............................................................
1.4.1 Nhật bản và nhu cầu nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ..................................
1.4.2Xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Nhật Bản ........................
Chương II :Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN ở Việt Nam và
công ty ARTEXPORT trong thời gian qua
1.1 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam...........
1.1.1 Thực trạng về sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề. ...................
1.1.2 Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .................. .
1.1.3 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản............................................................................................... .
* Xuất khẩu sang Nhật Bản ..............................................................................
*Xuất khẩu tại chỗ.
1.2 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN của công ty ARTEXPORT.... .
2.2.1 Tổng quan về công ty ..............................................................................
2.2.2 Tình hình xuất khẩu của công ty sang Nhật Bản trong một só năm vừa
qua ...................................................................................................................
* Xuất khẩu sang Nhật Bản.
* Xuất khẩu tại chỗ...........................................................................................
2.2.3 Đánh giá về thực trạng xuất khẩu sang Nhật Bản của công ty trong thời
gian qua............................................................................................................ .
Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng TCMN vào thị
trường Nhật Bản
3.1 Xu thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ ..................................................
3.1.1 Định hướng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Đảng và Nhà nước ..
3.1.2 Xu thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới................
3.2 Phương hướng kinh doanh của công ty ARTEXPORT trong thời gian tới.
3.2.1 Mục tiêu của công ty trong thời gian tới ..................................................
3.2.2 Nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới.................................................
3. 3 Một số giải pháp vi mô..............................................................................
3.3.1 Về nguồn nhân lực...................................................................................
3.3.2 Về hoạt động Maketing ...........................................................................
3.3.3 Hoạt động sản xuất . ................................................................................
3.4 Các giải pháp vĩ mô....................................................................................
3.4.1 Giải pháp về thị trường............................................................................
3.4.2 Giải pháp phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ..............................
3.5 Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ thương mại.
KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
Với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất
nước hướng về xuất khẩu, tận dụng mọi nguồn lực sẵn có đồng thời từng
bước tham gia hội nhập nền kinh tế khu vực, kinh tế thế giới thì việc tận dụng
nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước để phát triển những mặt hàng xuất
khẩu là vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trong chiến lược hướng vào xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu ngành
hàng, Đảng và Nhà nước đã xác định mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng
xuất khẩu chiến lược, có khả năng tăng trưởng cao, nó không chỉ mang lại lợi
ích thiết thực mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn. Với chính sách mở
cửa nền kinh tế và tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hoấ, toàn cầu hoá
đã mở ra nhiều cơ hội cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Trải qua những bước
thăng trầm, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện đã có mặt trên 120
nước trên thế giới. Tuy nhiên hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang gặp
những khó khăn không nhỏ trong vấn đề sản xuất và đẩy mạnh lượng hàng
xuất khẩu và để tìm cho mình một thị trường tiêu thụ ổn định thì hướng cần
thiết nhất là khai thác để thâm nhập và mở rộng thị phần ở những thị trường
mới trong đó có Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn
Quan hệ Việt Nam- Nhật Bản đã và đang diễn ra rất tốt đẹp do có
nhứng nét văn hoá truyền thống gần gũi, những mặt hàng xuất nhập khẩu của
2 nước đều có lợi thế so sánh tương đương. Vì vậy việc xem xét khả năng
thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản, một thị trường có dung lượng lớn là có cơ sở và rất cần
thiết. Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ có được còn không ít những
khó khăn thách thức, đòi hỏi không chỉ nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp
thủ công mỹ nghệ Việt Nam mà cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước
để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam vào thị trường Nhật Bản.
Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT là doanh
nghiệp Nhà nước thành lập theo quyết định của Bộ Thương mại,chuyên sản
xuất và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ để xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Trong bước chuyển mình của toàn ngành thủ công mỹ nghệ, công ty cũng
đang từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
mình sang thị trường Nhật Bản, trong những bước tiến này công ty sẽ gặp
không ít những khó khăn thách thức. Trong quá trình thực tập tại công ty , em
thấy cần thiết phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu sản
phẩm của công ty sang thị trường Nhật Bản, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Xuất phát từ ý tưởng đó cùng với những kiến thức đã học ở trường và
những thông tin thực tế thu thập qua thời gian thực tập, em xin chọn đề tài
“Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị
trường Nhật Bản” làm đề tài cho luận văn của mình.
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp bao gồm nhiều nội dung khác nhau : từ đặc điểm sản phẩm thủ công
mỹ nghệ , của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ, vai trò của xuất khẩu và các yếu
tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cho đến thực trang hiện nay ở công ty.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của công ty ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản.
Trong đề tài này em sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, thống
kê số liệu để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT
sang thị trường Nhật Bản trong thời gian qua, kết hợp với biện pháp tìm kiếm,
thu thập những thông tin liên quan đến thị trường nhập khẩu của Nhật Bản, từ
đó đưa ra những biện pháp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản trong thời gian tới.
Nội dung của luận văn được chia làm 3 phần như sau:
Chương I : Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ.
Chương II: Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN ở Việt Nam
và công ty ARTEXPORT trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng TCMN vào thị
trường Nhật Bản.
Trong giới hạn về khả năng cũng như thời gian em đã rất cố găng để
hoàn thiện đề tài này, tuy nhiên do hạn chế về mặt kiến thức cũng như nguồn
tài liệu nên bài viết còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến để
em có thể nhận thức một cách hoàn thiện hơn. Qua đây em xin chân thành
cảm ơn TS. Ngô Xuân Bình- thây giáo trực tiếp hướng dẫn và thầy cô giáo
trong Bộ môn Kinh tế thương mại, tập thể phòng Xuất nhập khẩu tổng hợp
9,công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT cung cấp tài liệu
và dành thời gian cũng như ý kiến đóng góp để em hoan thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG
THỦ CÔNG MỸ NGHỆ.
1 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ .
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đề cho thấy
làng xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như đời
sống nhân dân ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm,
những lệ làng phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì
đến ngày nay.
Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời, nó thường gắn liền với nông
nghiệp và sản xuất nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học, làng xã Việt
Nam xuất hiện từ thời các vua Hùng dựng nước, những xóm làn định canh đã
hình thành, dựa trên cơ sở những công xã nông thôn. Mỗi công xã gốm một
số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa giới nhất định. Đồng thời
là nơi gắn bó các thành viên với nhau bằng khế ước sinh hoạt cộng đồng, tâm
thức tín ngưỡng,lễ hội, tập tục, luật lệ riêng nhằm liên kết với nhau trong quá
trình sản xuất và đời sống.
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm
nông nghiệp, càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ
liên kết chặt chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ
chức theo nghề nghiệp, tạo thành các phường hội: phường gốm, phường đúc
đồng, phường dệt vải…từ đó, các nghề được lan truyền và phát triển thành
làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề thì đa phần vừa sản xuất
nông nghiệp, vừa làm nghề phụ. Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các
nghề mang tính chuyên môn sâu hơn và thường chỉ giới hạn trong quy mô
nhỏ dần dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công.
Những làng nghề phát triển mạnh, số hộ, số lao động làm nghề truyền thống
tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền
thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân
tộc . Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình rồi đến
cả họ và lan ra cả làng. Trải qua một quá trình lâu dài của lịch sử, lúc thịnh,
lúc suy, có những nghề được gìn giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn
và có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ công
nghệ tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá cao.
Theo đó ta có thể đưa ra một số khái niệm sau:
Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn( làng) có một
hay một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh
doanh độc lập. Thu nhập của các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá
trị sản phẩm của toàn làng.
Làng nghề truyền thống
Để làm rõ khái niệm về làng nghề truyền thống cần có những tiêu thức
sau
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50%
trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt
trên 50% tổng giá trỉan xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và
bản sắc dân tộc Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Từ những tiêu thức trên có thể định nghĩa về làng nghề truyền thống
như sau: “Làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều nghề
thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh
và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những nghề thủ
công đó được truyền từ đời náy sang đời khác, thường là qua nhiều thê hệ.
Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành
nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công
chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình
công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính
mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường.”
Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của nước ta còn tồn tại cho
đến ngày nay, bao gôm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được cải tiến
hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất nhưng vẫn tuân
thủ công nghệ truyền thống.
Như vậy từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu cụ thể về hàng thủ công
mỹ nghệ như sau: sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm mang
tính truyền thống và độc đáo của từng vùng, có giá trị chất lượng cao, vừa là
hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí có thể trở
thành di sản văn hoá của dân tộc, mang bản sắc văn hoá của vùng lãnh thổ
hay quốc gia sản xuất ra chúng.
Hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm các nhóm hàng sau:
1. Nhóm sản phẩm từ gỗ( gỗ mỹ nghệ)
2. Nhóm hàng mây tre đan
3. Nhóm sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ
4. Nhóm hàng thêu
1.2 Đặc điểm của hàng TCMN
1.2.1. Tính văn hoá
Khác với sản xuất công nghiệp, trong sản xuất tiểu thủ công , lao động
chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ, người
nghệ nhân. Sản phẩm làm ra bừa có giá trị sử dụng nhưng lại vừa mang dấu
ấn bàn tay tài hoa của người thợ và phong vị độc đáo của một miền quê nào
đó.Cũng chính vì vậy mà hàm lượng văn hoá ở các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ được đánh giá cao hơn nhiều so với hang công nghiệp sản xuất hàng
loạt. Ngay từ khi phát hiện ra các sản phẩm trống đồng Đông Sơn, trống đồng
Ngọc Lũ, thế giới đã biết đến một nền văn hoá Việt Nam qua những sản phẩm
phản ánh sinh động và sâu sắc nền văn hoá, tư tưởng và xã hội thời đại Hùng
Vương. Cho đến nay, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm tính văn
hoá như gốm Bát Tràng, hay bộ chén đĩa, tố sứ cao cấp có hình hoa văn Châu
á, mang đâm nét văn hoá Việt Nam như chim lạc, thần kim quy, hoa sen…đã
được xuất khẩu rộng rãi ra khắp thế giới, người ta đã có thể tìm hiểu phần nào
văn hoá của Việt Nam .
Có thể nói đặc tính này là điềm thu hút mạnh mẽ đối với khách hàng
nhất là khách quốc tế, nó tạo nên một ưu thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ
nghệ và được coi như món quà lưu niệm đặc biệt trong mỗi chuyến du lịch
của du khách nước ngoài. Khách du lịch khi đến thăm Việt Nam không thể
không mang theo về nước một món đồ thủ công mỹ nghệ , cho dù ở nước họ
có thể sản xuất ra nhưng sẽ không thể mang hồn bản sắc văn hoá của Việt
Nam . Sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là hàng hoá đơn thuần mà trở
thành sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng của
nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam .
1.2.2 Tính mỹ thuật
Sản phẩm mang tính mỹ thuật cao, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ là
một tác phẩm nghệ thuật, vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ. Nhiều
loịa sản phẩm vừa là phục vụ tiêu dùng , vừa là vật trang trí trong nhà, đền
chùa nơi công sở…các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ
công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Khác với các sản phẩm công
nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc, hàng thủ công mỹ nghệ có giá
trị cao ở phương diện nghệ thuật sáng tạo thì chỉ được sản xuất bằng công
nghệ mang tính thủ công, chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người
thợ. Chính đặc điểm này đã đem lại sự quý hiếm cho các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ. Nhờ đó, tai các hội chợ quốc tế như EXPO, hội chợ ở NEW
YORK , Milan( ý) …hang thủ công mỹ nghệ đã gây được sự chú ý của khách
háng nước ngoài bởi sự tinh xảo trong các đường nét hoa văn trạm trổ trên
các sản phẩm , hay những kiể u dáng mẫu mã độc đáo, mặc dù nguyên liệu rất
đơn giản có khi chỉ là một hòn đá, xơ dừa…qua bàn tay tài hoa của các nghệ
nhân đã trở thành các tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
1.2.3 Tính đơn chiếc
Hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đều mang tính cá biệt và có sắc
thái riêng của mỗi làng nghề. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể
phân biệt được đâu là gốm Bát Tràng, Thồ hà, Hương Canh…nhờ các hoa
văn, màu men, hoạ tiết trên đó. Bên cạnh đó, tính đơn chiếc có được là do
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam mang hồn của dân tộc Việt Nam , mang nét
văn hoá và bản sắc của dân tộc Việt Nam , chính vì vậy hàng của Trung
Quốc hay Nhật bản cho dù có phong phú hay đa dạng đến đâu cũng không
thể có được những nét đặc trưng đó,cho dù kiểu dáng có thể giống nhưng
không thể mang “hồn” của dân tộc Việt Nam . Cùng với đặc trưng về văn
hoá, tính riêng biệt đã mang lại ưu thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam trong xuất khẩu . Đối với Việt Nam và cả khách hàng nước
ngoài, nó không những có giá trị sử dụng mà còn thúc đẩy quá trình giao lưu
văn hoá giữa các dân tộc.
1.2.4 Tính đa dạng
Tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ thể hiện ở phương thức ,
nguyên liệu làm nên sản phẩm đó và chính nét văn hoá trong sản phẩm.
Nguyên liệu làm nên sản phẩm có thể là gạch, đất, cói , dây chuối, xơ
dừa…mỗi loại sẽ tạo nên một sản phẩm thủ công mỹ nghệ với những sắc thái
khác nhau, cho người sử dụng có những cảm nhận khác nhau về sản phẩm. Là
một đôi dép đi trong nhà, nhưng dép làm bằng cói đã quá cũ đối với người
tiêu dùng nên hiện nay, các nghệ nhân sử dụng chất liệu dây chuối, tạo cảm
giác rất mới lạ, vừa có màu vàng ngà của chuối vừa có mầu mốc tự nhiên của
thân chuối…Bên cạnh đó, tính đa dạng còn được thể hiện qua những nét văn
hoá trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ bởi vì mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ
đêù mang những nét văn hoá đặc trưng của từng vùng, từng thời đại sản xuất
ra chúng. Chính vì vậy trên thị trường có rất nhiều loại sản phẩm thủ công mỹ
nghệ, mỗi loại đều có sự khác biệt rõ rệt, không đồng nhất. Cũng là đồ gốm
sứ nhưng người ta vẫn có thể thấy đâu là gốm Việt Nam , gốm Nhật Bản ,
gốm Trung quốc…
1.2.5 Tính thủ công
Có thể cảm nhận ngay tính thủ công qua tên gọi của sản phẩm thủ công
mỹ nghệ. Tính chất thủ công thể hiện ở công nghệ sản xuất, các sản phẩm đều
là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo và sáng tạo nghệ thuật.
Chính đặc tính này tạo nên sự khác biệt giữa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và
những sản phẩm công nghiệp hiện đại được sản xuất hàng loạt và ngày
nay,cho dù không sánh kịp tính ích dụng của các sản phẩm này nhưng sản
phẩm thủ công mỹ nghệ luôn gây được sự yêu thích của người tiêu dùng.
1.3 Xuất khẩu thủ công mỹ nghệ và vai trò của xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ
1.3.1 Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác hàng hoá khác ở chỗ nó vừa có thể
sử dụng vừa có thể là vật trang trí, làm đẹp cho nhà cửa, văn phòng hay cũng
có thể là đồ lưu niệm hấp dẫn trong mỗi chuyến du lịch của khách quốc tế.
Chính vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ có thể được xuất khẩu ra nước ngoài
theo 2 phương thức sau:
- Xuất khẩu tại chỗ: khi khách du lịch đến từ nước ngoài vào Việt Nam
và mua hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Việt Nam. Với xu hướng phát
triển của du lịch như hiện nay, hình thức xuất khẩu này sẽ góp phần đáng kể
vào kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hàng năm.
- Xuất khẩu ra nước ngoài: là hình thức các doanh nghiệp bán hàng thủ
công mỹ nghệ cho các đối tác nước ngoài bằng cách mang hàng sang tận nơi
băng các phương tiện vận tải khác nhau và phải chịu sự ràng buộc của một số
thủ tục xuất khẩu nhất định.
1.3.2 Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
1.3.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân.
* Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất nước.
Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta trong mấy năm gần
đây đã mang lại cho nước ta nguồn ngoại tệ lớn, đóng góp không nhỏ cho sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể trong năm 2003 Việt Nam đã xuất
khẩu được gần 400 triệu USD, và tính đến tháng 4 năm nay, kim ngạch hàng
thủ công mỹ nghệ đã đạt trên 100 triệu USD, tăng 10% so với năm ngoái.
Đây là nguồn thu ngoại tệ to lớn thực thu về cho đất nước từ nguồn nguyên
liệu rẻ tiền có sẵn trong tự nhiên và từ lực lượng lao động nhàn rỗi ở các vùng
nông thôn nước ta.
Nhờ có nguồn vốn đó, các làng nghề truyền thống Việt Nam có điều
kiện đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề và kỹ thuật cao cho ngành
thủ công mỹ nghệ.
* Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng hiện đại hoá
Chuyển dịch cơ cấu nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông thôn lên
một bước về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất , cơ cấu lao động, cơ cấu việc
làm , cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập cua ra dân cư nông thôn
bằng các nguồn lợi thu được từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông
nghiệp. Với mục tiêu như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn ngày càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong nội bộ ngành công
nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc
phát triển các làng nghề truyền thống dẫ có vai trò tích cực trong việc góp
phần tăng tỉ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ
trọng của nông nghiệp, chuyển từ lao động sản xuất nông nghiệp thu nhập
thấp sang ngành nghề nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Ngay từ đầu khi
nghề thủ công xuất hiện thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông
nghiệp thuần nhất mà bên cạnh còn có các ngành thủ công nghiệp, thương
mại và dịch vụ cùng tồn tại phát triển.
Mặt khác có thể thấy kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập va
giá trị sản lượng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp
cận với nền kinh tế thị trường, năng lực thị trường được nâng lên người lao
động nhanh chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp,
dặc biệt là những sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong
nước và ngoài nước. Khi đó khu vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp , khu
vực sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được tăng lên.
Làng nghề truyền thống phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ
ở nông thôn mở rộng địa bàn hoạt động thu hút nhiều lao động. Khác với sản
xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục, đòi
hỏi sự cung cấp thường xuyên trong việc cung ứng vật liệu và tiêu thụ sản
phẩm . Do đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa
dạng và phong phú , đem lại thu nhập cao cho người lao động.
Như vậy, sự phát triển của làng nghề truyền thống có tác dụng rõ rệt
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Sự phát triển lan toả của làng nghề
truyền thống đã mở rộng quy mô và địa bàn sản xúât, thu hút rất nhiều lao
động. Cho đếnnay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60-80% cho công
nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp.
* Tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đến đời sống bao gồm rất
nhiều mặt. Trước hết thông qua mặt sản xuất hàng xuất khẩu với nhiều công
đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập
không thấp tăng gía trị lao động tăng thu nhập quốc dân. Bên cạnh đó, xuất
khẩu thủ công mỹ nghệ còn tạo nguồn để nhập nguồn vật phẩm tiêu dùng
thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong
phú của nhân dân và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động .
- Tạo việc làm cho người lao động.
Trên phương diện xã hội đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đã
kích thích việc phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay trong các làng
nghề truyền thống bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định
cho 27 lao động thường xuyên và 8 đến 10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên
nghề tạo việc làm cho 4 đến 6 lao động thường xuyên và 2 đến 5 lao động
thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút
200 đến 250 lao động.
Nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa
phương mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác. Làng
gốm bát tràng ngoài việc giải quyết việc làm cho gần 2430 lao động của xã,
còn giải quyết thêm việc làm cho khoảng 5500 đến 6000 lao động của các khu
vực lân cận đến làm thuê.
Mặt khác, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã kéo theo sự
phát triển và hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên
quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Ngoài
các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất trực tiếp còn có các dịch vụ khác như
dịch vụ tín dụng ngân hàng.
Từ kinh nghiệm thực tiễn đã tính toán cho thấy cứ xuất khẩu 1 triệu
USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm và thu nhập cho khoảng
3000 đến 4000 lao động chủ yếu là lao động tại các làng nghề nông thôn,
trong đó có lao đông nông nhàn tại chỗ và các vùng lân cận( trong khi đó chế
biến hạt điều thì 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu chỉ thu hút được 400 lao
động).
- Nâng cao và cải thiện đới sống nhân dân.
Ngoài việc được coi là động lực gián tiếp giải quyết việc làm cho người
lao động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn góp phần tăng thu nhập và cải
thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn. ở nơi nào có ngành nghề phát
triển thì nơi đó thu nhập cao và mức sống cao hơn các vùng thuần nông. Nếu
so sánh với mức thu nhập lao động nông nghiệp thì thu nhập của lao động
ngành nghề cao hơn khoảng 2 đến 4 lần, đặc biệt là so với chi phí lao động và
diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Bình quân
thu nhập của 1 lao động trong hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp là
430000- 450000 đồng / tháng, ở hộ kiêm nghề từ 190000- 240000 đồng/
tháng, trong khi đó ở hộ lao động thuần nông chỉ có khoảng 70000-100000
đồng/ người/ tháng. Có những làng nghề có thu nhập cao như làng gốm Bát
Tràng : Mức bình quân thu nhập của các hộ thấp cũng đạt từ 10-20 triệu/năm.
Thu nhập từ nghề gốm sứ Bát Tràng chiếm tới 86% tổng thu nhập của toàn
xã. Vì vậy thu nhập của các làng nghề truyền thống đã tạo ra sự thay đổi khá
lớn trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và của địa phương.
Sự phát triển ổn định của làng nghề tạo ra nguồn hàng ổn định đối với
các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này . từ đó tạo ra sự thuận lợi trong
kinh doanh, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao thu
nhập và mức sống cho người lao động.
Ngoài ra việc khôi phục và sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn
kéo theo nhiều ngành khác phát triển nhất là ngành du lịch và các ngành dịch
vụ có liên quan. Sản xuất thủ công mỹ nghệ và du lịch là 2 nhân tố có tác
động 2 chiều . Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn là một nét hấp dẫn rất
quan trọng và ấn tượng đối với khách du lịch nhất khách du lịch văn hoá ,các
sản phẩm càng đa dạng phong phú càng có tác dụng thu hút mạnh mẽ du
khach tới tham quan, qua đó các dịch vụ về du lịch phát triển đồng thời hàng
thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cũng được các nước bạn biết đến nhiều hơn,
đây chính là một biểu hiện của hình thức xuất khẩu tại chỗ. Ngược lại, nếu du
lịch phát triển, có nhiều khách du lịch đến tham quan tại các làng nghề c sản
phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ được biết đến nhiều hơn, được quảng bá nhiều
hơn, đó cũng là một hình thức khuyêch trương giới thiệu sản phẩm của Việt
Nam ra nước ngoài, từ đó ta có thể mở rộng quan hệ kinh doanh và có thể
tăng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
* Xuất khẩu TCMN là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Đẩy mạnh xuấu khẩu nói chung và thủ công mỹ nghệ nói riêng có vai
trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của
nước ta trên thị trường quốc tế…Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng đầu tư, mở rộng vận tải
quốc tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên
lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đóng vai trò
xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như
là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc
nội bộ nền kinh tế như: vốn , kỹ thuật, lao động, thị trường tiêu thụ…Đối với
nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu hàng là một trong những mục tiêu quan
trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại.
* Góp phần giữ gìn các giá trị văn hoá và ngành nghề truyền thống
của dân tộc.
Lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống luôn gắn liền với lịch
sử phát triển văn hoá của dân tộc, nó là nhân tố tạo nên nền văn hoá ấy đồng
thời là sự biểu hiện tập trung nhất bản sắc của dân tộc.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự kết tinh của lao động vật chất và lao
động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và trí óc sáng tạo của
người thợ thủ công. Vì vậy mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật chứa
đựng nét đặc sắc của dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính
riêng của mỗi làng nghề và mang mỗi dấu ấn của mỗi thời kỳ. Tìm hiểu lịch
sử của mỗi làng nghề ta thấy kỹ thuật chế tác ra các sản phẩm có từ rất xa xưa
và được bảo tồn đến ngày nay. Kỹ thuật đúc đồng và hợp kim đồng thau đã có
từ thời văn hoá Đông Sơn - một nền văn hoá với những thành tựu rực rỡ, đặc
biệt là trống đồng Ngọc Lũ gắn liền với lịch sử thời Hùng Vương dựng nước.
Cho đến sau này nghề đúc đồng vẫn để lại những dấu ấn lịch sử. Mới đây nhất
ta thấy có tượng phật mới đúc được đặt ở chùa Non Nước cao và nặng nhất
Đông nam á.
Ngày nay các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với tính độc đáo và độ tinh
xảo của nó vẫn có ý nghĩa rất lớn với nhu cầu đời sống của con người. Những
sản phẩm này là sự kết tinh, sự bảo tồn các giá trị văn hoá lâu đời của dân tộc,
là sự bảo lưu những văn hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời
khác tạo nên những thế hệ nghệ nhân tài ba với những sản phẩm độc đáo
mang bản sắc riêng. Chính vì vậy xuất khẩu thủ công mỹ nghệ không những
góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá của dân tộc Việt nam mà
còn có nhằm quảng bá chúng trên khắp thế giới .
1.3.2.2 Đối với các doanh nghiệp .
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của
các doanh nghiệp không chỉ được khách hàng trong nước biết đến mà còn có
mặt ở thị trường nước ngoài.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp , tăng dự trữ, qua
đó nâng cao khả năng nhập khẩu ,thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết
bị phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu phát huy cao tính năng động sáng tạo của các cán bộ xuất
nhập khẩu cũng như các đơn vị tham gia, tích cực tìm tòi và phát triển các mặt
hàng trong khả năng xuất khẩu vào các thị trường có khả năng thâm nhập.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn
thiện công tác quản trị kinh doanh , đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài
tuổi thọ chu kỳ sống của sản phẩm .
Xuất khẩu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lẫn nhau giữa các đơn vị tham
gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Chính vì vậy, các doanh nghiệp buộc phải
nâng cao chất lượng hàng hoá, tìm mọi cách để nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào hay tiết kiệm nguồn
lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động và tăng thêm thu nhập,ổn định đời sống cán bộ công nhân viên và tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan
hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng
có lợi.
1. 4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu TCMN
1.4.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
* Chính trị và pháp luật
Các yếu tố chính trị và pháp luật có thể ảnh hưởng đến việc mở rộng
phạm vi thị trường cũng như dung lượng thị trường, ngoài ra cũng có thể mở
rộng nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn trên thị trường quốc tế. Các yếu tố
chính trị có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu : sự bất ổn về chính trị
sẽ làm chậm lại sự tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển của khoa học công
nghệ gây khó khăn cho việc cải tiển công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm
xuất khẩu.
Luật pháp cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu. Bất kì
doanh nghiệp nào muốn kinh doanh xuất khẩu muốn tồn tại và phát triển lâu
dài thì phải tuân thủ pháp luật, không những pháp luật của nước mình mà
con tuân thủ luật pháp nước nhập khẩu. Nghiên cứu kỹ chế độ chính trị và
pháp luật sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
1.4.2 Chính sách kinh tế
* Chính sách về thúe quan và công cụ phi thuế quan.
Hệ thống thuế quan cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động xuất khẩu thông qua thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu nguyên liệu sản
xuất hàng hoá phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Nếu như thuế nhập
nguyên vật liệu quá cao sẽ làm chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành hàng
hoá xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá, giảm lợi
nhuận cho nhà xuất khẩu, và như vậy làm giảm lượng xuất khẩu và ngược lại.
Các công cụ phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với nguyên
vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu
cũng gây khó khăn rất lớn cho hoạt động xuất khẩu.
Vì những ảnh hưởng đó, để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ thường
miễm thuế xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất
hàng hoá xuất khẩu đối với những mặt hàng có lợi thế sản xuất . Chính phủ
thường áp dụng hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá mà sản xuất
không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng thuế nhập khẩu đối với nguyên
vật liệu dùng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu .
* Chính sách tỷ giá hối đoái
Trong thanh toán quốc tế, người ta thường sử dụng những đồng tiền
của các nước khác nhau, do vậy tỷ suất ngoại tệ so với đồng tiền trong nước
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu: nếu tỷ gia hôi đoái lớn hơn tỷ
suất lợi nhuận thì hoạt đông xuất khẩu có lãi, vì vậy thúc đẩy xuất khẩu và
ngược lại. Chính vì thế mà tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ điều tiết của
Nhà nước.
* Hệ thống ngân hàng tài chính.
Hoạt động xuất nhập khẩu liên quan chặt chẽ đến vấn đề thanh toán
quốc tế, thông qua hệ thống Ngân hàng Tài chính giữa các quốc gia. Nó tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán được thực hiện một cách đơn
giản, nhanh chóng, chắc chắn. Nhờ có hệ thống ngân hàng này dẽ đảm bảo
rằng người bán sẽ thu được tiền và người mua sẽ nhận được hàng , làm giảm
bớt việc phài dành nhiều thời gian và chi phí để các bên đối tác tìm hiểu nhau.
Nếu như một quốc gia có hệ thống tài chính phát triển, hiện đại thì đó
cũng là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong hoạt
động xuất khẩu và ngược lại.
*Khả năng sản xuất
Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam chịu sự tác động của
nhiều nhân tố, những nhân tố này có sự biên đổi trong từng thời kỳ và tác
động theo chiều hướng khác nhau. Chúng có thể là những nhân tố thúc đẩy
nhng ngược lại cũng có thể là những nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản
xuất. ở mỗi vùng, mỗi địa phơng, mỗi làng nghề do có những đặc đIểm khác
nhau về các đIều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội , văn hóa nên sự tác động của
các nhân tố này là không giống nhau. Có thể hiểu một cách kháI quát chúng
bao gồm các nhân tố sau:
Thứ nhất, nguồn nhân lực: là một trong những nguồn lực quan trọng
nhất của sản xuất. tại các làng nghề, nguồn nhân lực chính là các nghệ nhân,
những người thợ thủ công , và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Những
nghệ nhân là người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy
nghề, đồng thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang
đậm tính truyền thống. Có được nguồn nhân lực có tay nghề và trình độ cao
sẽ là một yếu tố thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
Thứ hai, nguồn vốn: đây là nguồn lực vật chất rất quan trọng trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu nhất của nguồn
vốn là đầu tư phát triển sản xuất , đầu tư phát triển cơ sở vật chật và kết cấu
hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ. Vì vậy phát triển sản xuất hàng thủ công
mỹ nghệ phụ thuộc rất lớn vào các nguồn vốn huy động được. Trước đây,
vốn của các hộ sản xuất kinh doanh đều rất nhỏ bé, chủ yếu là vốn tự có nên
đã làm hạn chế việc tăng trởng sản xuất. Ngày nay, sự phát triển của thị trư-
ờng luôn đòi hỏi lượng vốn rất lớn để đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Vì
vậy rất cần sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía nhà nước, đặc biệt là việc đề
ra những chính sách phù hợp với đặc đIểm sản xuất của các làng nghề truyền
thống để có thể đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất và xuất khẩu.
Thứ ba, nguồn nguyên vật liệu: trong những giai đoạn trước đây, gần
nguồn nguyên vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình
thành và phát triển của các cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ hay các làng
nghề truyền thống. Song hiện nay vấn đề này trở nên không quan trọng đối
với sự phát triển của các làng nghề bởi sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện
giao thông và các phương tiện kỹ thuật. Tuy nhiên vấn đề khối lượng chất
lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn nguyên liệu này vẫn có
những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng và giá thành sản phẩm. Nếu có
được nguồn nguyên vật liệu ổn định dẫn đến sản xuất cũng ổn định, các nhà
xuất khẩu sẽ có nguồn hàng thường xuyên, tạo uy tín cho doanh nghiệp.
Thứ tư, trình độ kỹ thuật và công nghệ: trong điều kiện hiện nay, khi
mà giao lưu thương mại mang tính toàn cầu hoá thì việc ứng dụng khoa học
công nghệ mới có ý nghĩa quyết định, có tác động trực tiếp tới sự đảm bảo và
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nhận thức được điều đó, nhiều
làng nghề thủ công mỹ nghệ đã đẩy mạnh việc áp dụng kỹ thuật và đổi mới
công nghệ, cải tiện phương pháp sản xuất để nâng cao năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và ổn định
cho ngành. Tuy nhiên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật không phải là hoàn
toàn mà vẫn phải giữ nét văn hoá và truyền thống cốt yếu trong mỗi sản phẩm
thủ công mỹ nghệ .
Thứ năm, kết cấu hạ tầng : bao gồm hệ thống các đường giao thông,
điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông. Thực tế cho thấy rõ, sản xuất thủ
công mỹ nghệ chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có kết cấu hạ tầng đảm
bảo và đồng bộ. Đây là yếu tố có tác dụng tạo điều kiện tiền đề cho sự ra đời
và phát triển của các cơ sở sản xuất, tạo tiền đề khai thác và phtá huy tiềm
năng sẵn có của các làng nghề. Sự phát triển của yếu tố này sẽ đảm bảo vận
chuyển và cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đưa nhanh tiến bộ
khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, đồng thời làm giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Hệ thống thông tin liên lạc bưu chính viễn thông giúp doanh
nghiệp nắm bắt các thông tin thị trường để có những ứng xử kịp thời.
1.4.3 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô
* Tiềm lực tài chính
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông
qua khối lượng nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh,
khả năng phân phối( đầu tư) có hiệu quả nguồn vốn. Khả năng quản lý có
hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua cá
chỉ tiêu: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận, khả năng
trả nợ ngắn hạn và dài hạn…
* Tiềm năng con người
Trong kinh doanh con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo
thành công. Chính con người với năng lực của họ mới lựa chọn đúng cơ hội
và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã có như vốn, tài sản, kỹ thuật công nghệ
một cá
* Trình độ tổ chức quản lý.
Mối doanh nghiệp là mọt hệ thống với những liên kết chặt chẽ với nhau
để hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn hướng tới mục tiêu của mình
thì đồng thời phải đạt tới một trình độ tổ chức quản lý tương ứng.Khả năng tố
chức quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát , tập trung
vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo nên sức mạnh thật
sự của doanh nghiệp.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có
thể huy động vào kinh doanh : thiết bị, nhà xưởng…Nếu doanh nghiệp có cơ
sở vật chất ngày càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng
như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuận tiện và hiệu quả
cao.
* Hoạt động Marketing
Trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá thì việc tiếp thị, tìm
đẩu ra cho sản phẩm là hết sức quan trọng và chức năng này thuộc về các hoạt
động Marketing. Hoạt động này bao gồm: nghiên cứu thị trường, xác định thị
phần, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm và nhiệm vụ chính của nó là quảng bá sản
phẩm cho doanh nghiệp . Đối với hoạt động xuất khẩu thì hoạtđộng này là rất
khó khăn nhưng cũng rất quan trọng. Khó khăn là ở chỗ việc quảng bá, tiếp
thị sản phẩm là rất tốn kém, hơn nữa xuất khẩu là bán hàng ra nước ngoài nên
việc tìm hiểu thói quen tiêu dùng…là rất phức tạp và tốn nhiều thời gian.
* Hoạt động tạo mẫu sản phẩm.
Hoạt động tạo mẫu sản phẩm là việc nghiên cứu thiết kế sản phẩm
mới, tính năng mới nhằm đưa ra thị trường những loại sản phẩm được người
tiêu dùng đón nhận và đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Trong hoạt động
xuất khẩu thì việc thiết kế sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người
tiêu dùng tại thị trường nhập khẩu được coi là bước thành công ban đầu của
doanh nghiệp, ngược lại, nếu công tác này không tốt doanh nghiệp sẽ chịu tổn
thất lớn do không tiêu thụ được sản phẩm đã sản xuất ra.
* Hoạt động sản xuất
Hoạt động sản xuất là một quắ tình bao gồm: thu mua nguyên vật liệu,
phụ liệu để sản xuất, sản xuất và đóng gói. Trong hoạt động xuất khẩu thì một
đòi hỏi rất khắt khe đó là chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng. Chất
lượng sản phẩm phải đáp ứng theo đúng yêu cầu của đối tác xuất khẩu về
chất liệu, mẫu mã. Trong quá trình sản xuất ngoài việc đảm bảo chất lượng
sản phẩm còn phải đảm bảo tiến độ sản xuất để kịp giao hàng đúng thời hạn.
Nếu không đảm bảo những yêu cầu trong hợp đồng của đối tác thì doanh
nghiệp trước hết bị mất uy tín trong kinh doanh và sau đó phải bồi thường
hợp đồng gây thiệt hại về tài chính.
1.5 Tổng quan về thị trường Nhật Bản
1.5.1 Nhật Bản và nhu cầu nhập khẩu thủ công mỹ nghệ.
* Đặc điểm thị trường Nhật Bản.
Nhật Bản là một thị trường mở quy mô rộng lớn với dân số 127 triệu
người có mức sống khá cao( GDP theo đầu người năm 2001 là 32.585 USD)
và GDP năm 2003 là 4,143 tỷ USD. Nhật Bản là một trong những nước có
nền công nghiệp phát triển mạnh và đứng hàng đầu thế giới. Nhưng do đặc
điểm về địa lý, Nhật Bản là một trong những nước rất hiếm về tài nguyên
thiên nhiên, ngoại trừ nguồn hải sản, do đó hầu hết các sản phẩm gia
dụng,trang trí nội ngoại thất đặc biệt là các hàng thủ công mỹ nghệ mà chủ
yếu là nguyên liệu tự nhiên, đều phải nhập khẩu.
* Tập quán tiêu dùng
Việc nắm rừ đặc điểm tiêu dùng và tính cách kinh doanh của người
Nhật sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam giao tiếp và kinh doanh thành công
với họ.
Thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản rất đa dạng nhưng cũng khá độc
đáo. Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, người tiêu dùng Nhật rất chú ý
đến chất lượng hàng hoá. Sống trong môi trường có thu nhập cao nên người
Nhật Bản thường đũi hỏi rất khắt khe về chất lượng hàng hóa bao gồm cả vấn
đề vệ sinh, hỡnh thức và dịch vụ hậu mói.
Cú những lỗi rất nhỏ, chẳng hạn như vết xước hàng hóa trong quá trỡnh
vận chuyển, cũng cú thể gõy ảnh hưởng rất lớn đến quá trỡnh tiờu thụ cả lụ
hàng và ảnh hưởng đến uy tín.
Người Nhật Bản cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Sau
cuộc khủng hoảng kinh tế bong bóng vào cuối những năm đầu của thập kỷ 90,
người Nhật Bản không chỉ quan tâm đến vấn đề chất lượng mà cũn rất chỳ ý
đến sự thay đổi giá cả.
Đặc biệt, do người mua chủ yếu là do những phụ nữ nội trợ đi mua
hàng ngày, có nhiều thời gian (tỡnh trạng sau khi lấy chồng sẽ bỏ việc làm tại
cụng ty vẫn cũn phổ biến) nờn họ rất quan tõm đến sự thay đổi về giá và về
mẫu mó hàng húa. Tuy vậy, tõm lý thớch dựng hàng xịn, hàng đồ hiệu cho dù
với giá rất cao vẫn không thay đổi nhiều so với trước đây.
Người Nhật Bản rất quan tâm đến vấn đề thời trang và màu sắc hàng
hóa phù hợp theo từng mùa xuân, hạ, thu, đông. Mặt khác, tính đa dạng của
sản phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng cho việc thâm nhập thị trường. Trên
thực tế, trong các siêu thị ở Nhật Bản có vô số những kiểu dáng, loại của cựng
một loại hàng tiờu dựng.
Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản cũng cho biết, gần đây, mối quan
tâm đến vấn đề sinh thái của người Nhật ngày càng nâng cao. Các cửa hàng
đang liên tục cải tiến cách đóng gói sản phẩm để làm sao vừa đẹp, vừa đơn
giản và bao bỡ cú thể tận dụng bằng cỏc nguyờn liệu tỏi sinh.
Xu hướng tiêu dùng và sính đồ ngoại ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ
của thị trường này rất lớn, vào khoảng 3000 tỷ yên, bao gồm cả hàng gia
dụng, trong đó đồ thủ công mỹ nghệ chiếm khoảng 30 % thị phần tại thị
trường Nhật. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ
lớn,đặc biệt trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện nay, người
Nhật Bản ngày càng có nhu cầu sử dụng những đồ vật bằng các chất liệu tự
nhiên thay thế các vật liệu bằng sắt, nhôm…Nhập khẩu các đồ thủ công mỹ
nghệ có xu hướng tăng ở Nhật Bản cũng do quá trình chuyển sản xuất các đồ
thủ công mỹ nghệ giá rẻ sang khu vực Đông Nam Á là nơi có nhân công rẻ,
nguồn nguyên liệu dồi dào, chi phí nhập khẩu thấp và đặc biệt là nỗ lực của
các nhà nhập khẩu Nhật Bản giảm chi phí trong khâu phân phối đã cho phép
giảm giá bán cho đồ thủ công mỹ nghệ nhập khẩu.
* Tập quán kinh doanh.
Thâm nhập thị trường Nhật Bản cần có chiến lược lâu dài, tầm nhìn sâu
rộng. Điều này đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như
- Dung lượng thị trường
- Đối thủ cạnh tranh
- Kênh phân phối.
- Mức giá.
- Giới hạn thời gian.
- Những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng.
Coi trọng chất lượng và hoạt động kinh doanh: Người tiêu dùng và
người sử dụng Nhật Bản thường đòi hỏi cao về chất lượng và tiêu
chuẩn.Những nhà sản xuất nước ngoài thường phàn nàn là người Nhật thường
đòi hổi quá cao
1.5.2Xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Nhật Bản trong
thời gian gần đây.
Trong một số năm gần đây, xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của Nhật Bản thể hiện như sau:
*Mặt hàng thảm.
Số lượng mặt hàng thảm nhập khẩu đạt đỉnh điểm vào năm 1995 trong
đó giảm sút cả về số lượng và giá trị. Tuy nhiên, năm 2000 lượng nhập khẩu
bất ngờ tăng mạnh trở lại. Năm 2001 lượng hàng nhẩp khẩu tăng tới 65.464
tấn ( tăng 4,3% so với năm trước) và đạt con số kỷ lục trong vòng hai năm
gần đây. Nếu tính theo giá trị thì lượng hàng nhập khẩu cũng đạt 45,1 tỷ yên,
tăng 6,1% so với năm trước. Tính theo số lượng thì loại thảm nhập khẩu nhiều
nhất là loại thảm lông tiêu thụ phổ biến ( 29.809 tấn, chiếm 45,5% lượng
thảm nhập khẩu ) và thảm dệt ( 26.843 tấn, chiếm 41% bao gồm cả một số
loại thảm tay ). Năm 2001 lượng nhập khẩu loại thảm này tăng đáng kể từ
Trung Quốc.
*Gốm sứ
Hàng gốm sứ nhập khẩu đạt mức kỷ lục cả về số lượng và giá trị trong
năm 2001, và xu hướng nhập khẩu mặt hàng này còn tiếp tục tăng. Hàng gốm
sứ nhập khẩu đạt 16.484 tấn so với hàng gốm là 45.800 tấn và mặt hàng này
bằng gốm đã tăng đáng kể nhờ tăng lượng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trước đây, lượng hàng nhập khẩu đạt được tăng trưởng như vậy chủ yếu là
nhờ :
- Lối sống cá nhân theo kiểu phương tây hoá ngày càng tăng lên ở
Nhật Bản.
- Tăng mức thu nhập cá nhân vốn là nhân tố thúc đẩy nhu cầu đối với
sản phẩm này;
- Người tiêu dùng Nhật Bản ưu thích những sản phẩm có nhãn hiệu hơn
- Sự lên giá mạnh mẽ của đồng Yên.
Nhưng hiện nay, nguyên nhân dẫn đến lượng hàng gốm sứ nhập khẩu
vào Nhật Bản tăng lên thực chất là do tăng lượng hàng nhập khẩu từ Châu á.
So với mức của năm 2001, lượng hàng sứ nhập khẩu trong năm 2001 đã tăng
170% trong khi lượng nhập khẩu mặt hàng gốm sứ tăng 80%, còn đối với đồ
gốm thì tăng 120%. Điều này chứng tỏ việc nhập khẩu những sản phẩm giá
thấp tăng khá mạnh.
Bảng 1 : Thảm nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản.
2000 2001 2002 2003 2004 Loại
thảm SL GT SL GT SL GT SL GT SL GT
Thảm 3.657 16.787 2.680 12.538 2.578 10.148 2.831 10.520 2.274 10.040
kết
nơ
Thảm
dệt
20.616 15.527 18.077 14.174 20.603 13.496 26.968 15.689 26.843 16.9880
Thảm
lông
26.924 17.389 23.284 14.566 23.427 13.183 27.730 13.771 29.809 14.839
Thảm
nỉ
1.012 576 1.321 707 1.600 635 2.271 764 2.282 761
Thảm
khác
1.730 1.195 1.172 999 1.511 1.005 2.971 1.720 4.255 2.430
Đơn vị : SL: Tấn; GT: Triệu Yên. Nguồn : Kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản.
Bảng 2 : Đồ sứ nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản
2000 2001 2002 2003 2004 Loại
sản
phẩm
SL GT SL GT SL GT SL GT SL GT
Đồ
sứ
9.422 20.624 7.167 16.233 10.751 15.349 15.607 16.430 16.484 16.581
Đồ
gốm
17.957 7.996 19.306 6.818 27.284 6.469 37.829 7.484 45.800 9.530
Tổng 27.379 28.620 26.472 23.050 38.035 21.817 53.436 23.914 62.284 26.111
Đơn vị : SL: Tấn; GT: Triệu Yên. Nguồn : Kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản.
* Mặt hàng rèm
Từ năm 1990 đến năm 1996 lượng hàng rèm nhập khẩu tăng mạnh, nhưng do nền kinh tế
đình trệ và sự giảm sút nhu cầu bất động sản đã làm cho lưọng hàng nhập khẩu giảm mạnh vào giũa
năm 1997 và năm 1998. Sau khi có một vài dấu hiệu phục hồi phục vào năm 1999 thì tổng lượng
hàng nhập khẩu trong năm 2000 tăng từ 908.000 tá sản phẩm lên 1,55 triệu tá sản phẩm. Năm 2001
tốc độ tăng là 40,1% và đạt con số kỷ lục mới 2,18 triệu tá sản phẩm. Nếu tính theo giá trị thì năm
2001 kim ngạch nhập khẩu đạt mức kỷ lục mới là 13,78 tỷ yên ( tăng 44% so với năm trước)
Có được sự tăng trưởng này chủ yếu là nhờ tăng lượng nhập khẩu từ Trung Quốc. Lượng
hàng này chủ yếu được thiết kế tại Nhật Bản và được sản xuất tại Trung Quốc với sự giúp đỡ kĩ thuật
từ phía Nhật Bản. Tại các xưởng dệt ở Nhật Bản tiền công cho người lao động khá cao, ngoài ra các
xí nghiệp Nhật Bản không thể cạnh tranh được với sản phẩm từ Trung Quốc về yếu tố giá cả. Chính
vì thế trong thời gian tới sẽ còn tiếp tục khuyến khích chuyển hướng sản xuất vải rèm ra nước ngoài.
Phẩn lớn hàng rèm nhập khẩu từ Châu Âu và từ Mỹ là nhập khẩu vải, vì thế không có những
con số thống kê hải quan chính thức. Trong những năm gần đây việc nhập khẩu mặt hàng rèm may
sẵn đã giảm sút, do giới trẻ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc thiết kế nội thất. Nhu cầu nhập
khẩu mặt hàng vải may rèm ngày càng tăng mạnh bởi điều này rất phù hợp với lối sống sôi động, tự
nhiên hiện nay. Trong tương lai gần có thể sẽ tăng xu hướng các nước phương Tây xuất khẩu vải
mau rèm sang Trung Quốc và tại đây người ta sẽ đảm nhiệm khâu sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.
Bảng 3: Mặt hàng thêu ren nhập khẩu của Nhật Bản.
2001 2002 2003 2004 2005 Loại
rèm SL GT SL GT SL GT SL GT SL GT
Rèm
thêu
đan
395 689 257 451 254 425 366 407 456 650
Loại
rèm
khác
431 5.208 445 4.712 654 5.789 1.188 9.162 1.721 13.134
Tổng 825 5.897 720 5.163 908 6.214 1.554 9.569 2.177 13.784
Đơn vị : SL: Tấn; GT: Triệu Yên. Nguồn : Kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản.
Trên cơ sở này, Việt Nam cần phân tích và rút ra cho mình những thời cơ cũng như thách thức
cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
Chuơng II
Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN ở Việt Nam và công ty ARTEXPORT trong
thời gian qua
1. Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam.
1.1 Thực trạng về sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề.
1.1.1 Tình hình lao động tại các làng nghề.
Đối với sản xuất tiểu thủ công,lao động chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và đầu
óc sáng tạo của người thợ, người nghệ nhân. Những năm trước khi ban hành chính sách đổi mới, lao
động tại các làng nghề truyền thống chủ yếu làm việc trong các hợp tác xã hoặc các tổ sản xuất tiểu
thủ công.Thời kỳ này đã tạo ra đội ngũ thợ thủ công đông đảo, phục vụ cho việc phát triển kinh tế
nông thông, tăng thu nhập, xuất khẩu. Nhưng, hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu hợp tác xã , việc
đào tạo thợ thủ công đại trà đã phá vỡ kết cấu gia đình truyền thống, gây nên sự thất truyền bí quyết
nghề nghiệp ở những nghề đòi hỏi kỹ thuật tinh xảo.
Hiện nay nhờ các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế của Chính phủ,hoạt động
thủ công lại trở về với hình thức sản xuất theo hộ gia đình( khoảng 90%) . Các cơ sở làm nghề này
trung bình có khoảng ba đến bốn lao động thường xuyên và hai, ba lao động thời vụ. Còn tại các
doanh nghiệp thì con số tương đương là 27 lao động thường xuyên, tám đến mười lao động thời vụ.
Việc sử dụng lao động ngày càng triệt để không những trong vùng mà còn thu hút thêm lao động ở
các vùng khác. Sự phân công lao động trong các làng nghề ngày càng được chuyen môn hoá sâu sắc.
Bên cạnh những người trực tiếp lo tạo ra sản phẩm còn có người chuyên lo khâu đầu vào và đầu ra
cho sản phẩm . ở những làng nghề có công nghệ và tổ chức phức tạp, đã có sự phân công phù hợp với
giới tính, tuổi tác và trình độ của người lao động. Phụ nữ và trẻ em được làm những công việc nhẹ
nhàng, người có tay nghề cao đảm nhận những công việc phức tạp. Tuỳ theo tính chất của công việc
cũng như tay nghề của người thợ mà có sự phân công phù hợp làm cho sản xuất ngày càng hoàn
chỉnh.
Tuy vậy trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lao động vẫn còn thấp kém. Lao động
thủ công chiếm chủ yếu nhưng trình độ học vấn của họ phần lớn chỉ đạt mức tôt nghiệp phổ thông
trung học, thậm chí có người còn ở trình độ thấp hơn. Trong khi đó, số lao động lành nghề, thợ bậc
cao và các nghệ nhân chỉ chiếm 2,1% . Cán bộ quản lý, kỹ thuật trình độ đại học còn ít. Điiêù này
ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển nghề cũng như tiếp nhận có hiệu quả sự đầu tư.
Bên cạnh đó là vấn đề dạy nghề. Chủ yếu viẹc dạy nghề trước đây là theo phương thức truyền
nghề trong gia đình hoặc bí truyền nhằm bảo lưu nghề trong pham vi làng nghề hay phố nghề. Cách
truyền nghề theo phương thức vừa học vừa làm như hiện nay có ưu điểm là đào tạo được những
người thợ giỏi, tài hoa song lai không đào tạo được đội ngũ lao động lành nghề đông đảo để đáp ứng
nhu cầu phát triển của làng nghề. Đây cũng là một vấn đề bất cập hiện nay của làng nghề cần giải
quyết.
2.1.1.2 Công nghệ- kỹ thuật
Công nghệ cổ truyền dựa trên kỹ thuật sản xuất thủ công tinh xảo và dụng cụ lao động thủ
công khá thô sơ do người thợ tự chế ra. Hiện nay nên kinh tế thị trường và cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật đã tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới công nghệ kỹ thuật trong các làng nghề. Một số cơ sở
đã trang bị được thiết bị hiện đại ở một số khâu cần thiết. Ví dụ như ngành sản xuất đồ gỗ đã được
trang bị những máy đa năng( cưa,đục, bào) làm rút ngắn thời gian sản xuất , ngành dệt nhờ áp dụng
máy móc, thiết bị vào sản xuất mà công nghệ dệt vải với nhiều hoa văn phức tạp, đa dạng, khổ rộng
đã thay thế cho công nghệ dệt cổ truyền khổ hẹp, hoa văn đơn giản. ở Bát Tràng, công nghệ nugn sản
phẩm gốm sứ bằng lò tuy nen ( dùng nhiên liệu gas và điện)đã thay thế cho lò hộp và lò bầu ( dùng
than và củi) ,công nghệ nhào luyện đất bằng máy đã thay cho công nghệ thủ công.
Tuy nhiên, nhìn chung, việc đổi mới công nghệ ở các làng nghề chưa được thực hiện một cách
hệ thống , chưa cơ bản. Năng lực nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vẫn còn kém. Trong
các làng nghề, những người thợkỹ thuật chuyên nghiên cứu, sáng tạo mẫu mã còn ít ỏi do không có
một trường lớp đầo tạo cơ bản nào mà chủ yếu là tự học. Tất cả những điều này làm hạn chế sự phát
triển sản xuất thủ công mỹ nghệ
2.1.1.Môi trường.
Sản xuất trong làng nghề mang lại hiệu quả kinh tế song mặt trái của nó là gây ô nhiễm môi trường
nặng nề. Qua điều tra, hiện có tới 52% số hộ và các cơ sở sản xuất làm ảnh hưởng đến môi trường.
Các làng nghề sản xuất gạch vôi, gốm sứ, đúc đồng đang gặp khó khăn vì ô nhiễm không khí nặng nề
làm ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng và làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Các lò gốm hàng ngày
phun vào khí quyển nhiều chất độc hại, chẳng hạn ở Bát Tràng, mật độ dân số 2500-3000 người/km ².
Trong làng nhà ở san sát kề với 1100 lò hôp lớn nhỏ,hàng năm sử dụng khoảng 7 vạn tấn than và xử
lý 10 vạn tấn đất nguyên liệu, thêm vào đó là 300 lượt xe ô tô lớn nhỏ chạy qua mỗi ngày. Bên cạnh
các lò gốm còn có hàng trăm lò gạch ở bãi sông của Đa Tốn và Xuân Quan, những lò này toả đầy
khói bụi suốt ngày đêm và gây tác hại rất lớn đến sức khoẻ của nhân dân nhất là trẻ em, phụ nữ,
người cao tuổi.
Nguyên nhân là do hạn chế về vốn, kỹ thuật, thiếu quy hoạch tổng thể nên hầu hết các gia đình
khi đầu tư sản xuất đã không đầu tư xử lý chất thải,các chất độc hại từ sản xuất đều đổ thẳng ra môi
trường. Bên cạnh đó, các bộ phận,các cơ sở sản xuất được bố trí xen kẽ khu vực dân cư, thậm chí
dùng làm nơi sản xuất đã gây tác hại trực tiếp tới sức khoẻ con người.
2.1.1.5 Nguyên vật liệu cho sản xuất .
Hầu hết các làng nghề truyền thống đều được hình thành xuất phát từ việc có sẵn nguồn
nguyên liệu ngay tai địa phương. Đặc biệt là các nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm tiêu dùng
như đan lát,mây tre…nguyên liệu thường có tại chỗ. Đối với một số nghề như sơn mài, chạm khắc
gỗ, đá…cũng có thể kkhai thac được từ nguồn nguyên liệu tại địa phương hay trong nước. Nhưng
hiện nay, nguồn nguyên liệu đang ngày càng cạn kiệt làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
các làng nghề.
Nghề gốm phát triển thì tài nguyên đất bị suy kiệt dần, nguồn nước cũng bị thu hẹp,chưa kể
đến việc các chất thải ngấm vào làm ô nhiễm nguồn nước. Nghề gỗ, mây tre đan phát triển thì sự suy
thoái tài nguyên rừng tăng nhanh. Sản lượng rừng tự nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ, trong
khi đó ý thức bảo vệ rừng và môi trường sinh thái của người dân rất kém,Nhà nước lại chưa có chính
sách nào để bảo tồn và tái sinh nguồn tài nguyên này.
Như vậy, sau khi xem xét hiện trạng hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam , ta thấy nghề truyền
thống Việt Nam đang từng bước phát triển cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước. Các
làng nghề phục hồi và phát triển đã góp phần không nhỏ vào GDP ở địa phương, tạo thêm nhiều việc
làm,tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân…Song,
vẫn còn nhiều khó khăn về vốn, trình độ công nghệ- kỹ thuật, sự ô nhiễm môi trường, năng lực,
kinh nghiệm quản lý sản xuất và sự quan tâm của cơ quan Nhà nước với sự phát triển của làng nghề
còn chưa thích đáng. Những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ, vì vậy để thúc đẩy xuất khẩu đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp ,chính sách thiết thực
được thực thi đồng bộ để giải quyết khó khăn trên một cách triệt để.
2.1.2 Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .
* Xuất khẩu ra nước ngoài
2.1.2.1 Kim ngạch xuất khẩu
Sau khi thống nhất đất nước, nước ta đã khai thác thế mạnh của các ngành nghề truyền thống
này để đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thời kỳ 1976_1990, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của ta chủ
yếu bao gồm: các loại thảm len,hàng mây tre, mành trúc, mành cọ, hàng thêu ren, khăn trải giường,
trải bàn thêu, áo thêu…tuyệt đại bộ phận các hàng hoá này được xuất khẩu sang thị trường các nước
Liên Xô cũ và Đông Âu.
Vào thời kỳ cuối những năm 1980, ta đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô, gạo với khối lượng tương
đối lớn và hàng công nghiệp nhẹ xuất khẩu cũng tăng trưởng nhanh(may mặc, thực phẩm chế biến,
giày da…) nên tỷ trọng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giảm đáng kể trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Bình quân trong thời kỳ 1986-1990 tỷ trọng cả hàng công nghiệp nhẹ và hàng thủ
công chỉ còn 27,9% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Từ năm 1991, khi thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu, thị trường chủ yếu của hàng thủ công
mỹ nghệ xuất khẩu trong thời kỳ trước của ta bị mất, các ngành thủ công mỹ nghệ gặp rất nhiều
khó khăn trong xuất khẩu dẫn đến sản xuất bị thu hẹp, lao động không có việc làm, việc chuyển đổi
thị trường đòi hỏi thời gian tìm kiếm thị trường mới, bạn hàng mới . Sau vài năm lao đao trong cơ
chế mới, dần dần một số ngành nghề tìm được lối thoát khôi phục lại tình hình. Mặc dù đứng thứ 8
về kim ngạch xuất khẩu năm 2000 với 235 triệu, chiếm tỷ trọng 1,6% so với tổng kim ngạch nhưng
nhìn ở khía cạnh khác thì giá trị thực thu khi xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của nước ta là không nhỏ.
Vì không giống như những mặt hàng khác, nguyên liệu sản xuất ra mặt hàng thủ công mỹ nghệ chỉ
toàn là nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, không phải nhập khẩu từ nước ngoài , nên giá trị thực
thu xuất khẩu là rất cao đồng thời qua đó, chúng ta cũng có thể quảng bá về hình ảnh và đất nước con
người Việt Nam với thế giới.
Bảng 1
Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam trong thời gian qua
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004
Tổng KNXK
Triệu USD 11540 14450 15018 16700 18500
Tăng hàngnăm % 123.9 15.2 103.9 111.2 110.7
KNXKTCMN Triệu USD 168 235 235.4 332 450
Tăng hàng năm % 151.4 139.8 100.2 141 135.5
Tỷ trọng
XKTCMN
% 1.5 1.6 1.68 1.99 2.4
Nguồn: báo cáo hàng năm của Bộ thương mại
Cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn tiếp tục là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chính
của Việt Nam và từ năm 1997 được xếp vào danh mục những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta.
Năm 1997, theo thông kê của Hải Quan, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt 121
triệu USD, trong đó trên 50% là hàng gốm sứ mỹ nghệ( khoảng 610 triệu USD) và khoảng 25% là
hàng dốm sứ mỹ nghệ( khoảng 30 triệu USD), bao gôm các loại hàng như: tranh, tượng gỗ, hàng sơn
mài, đồ gỗ trạm khảm…Năm 1998. do khủng hoảng kinh tế khu vực, kim ngạch xuất khẩu đã giảm
8,3% so với năm 1997 nhưng vẫn đạt 111 triệu USD . Năm 1999, 9 tháng đầu năm xuất khẩu đạt
111 triệu USD , cả năm đạt 168 triệu USD tăng 51,3% so với năm 1998. Năm 2000 đánh dấu một
thời kỳ phục hưng của ngành thủ công mỹ nghệ sau nhiều năm suy giảm. Kim ngạch xuất khẩu đạt
235 triệu USD , tăng 39,8 % so với cùng kỳ năm 1999. Nhưng đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu
thủ công mỹ nghệ đạt 322 triệu USD tăng 41% so với năm 2001. Năm 2003 đạt 350 triệu USD, tăng
20% so với năm 2002. Và trong năm 2004 ngành thủ công mỹ nghệ đã đạt kim ngạch xuất khẩu 450
triệu USD , tăng 22,6% so với năm 2003. Các mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu lớn bao gồm hàng mây
tre lá, hàng cói và hàng gốm sứ và hàng gỗ
Trong những năm gần đây, để đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Nhà nước đã có rất
nhiều hoạt động hỗ trợ. Trong năm 2002, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cùng các cơ
quan hữu quan và các doanh nghiệp đã xây dựng sàn giao dịch điện tử để trưng bày, giới thiệu hàng
thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lên mạng, sang giao dịch này là đầu mối cung cấp thông tin về thị
trường , giới thiẹu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam , về các doanh nghiệp , cơ sở sản xuất
kinh doanh mặt hàng này đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp trong giao dịch trực tuyến.
2.1.2.1.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu .
Theo đánh giá cơ cấu mặt hàng xuất khẩu là tỷ lệ tương quan giữa các mặt hàng trong toàn bộ
kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ . Hàng thủ công mỹ nghệ đa dạng về chủng loại ,
phong phú về mẫu mã do đó mà để đi sâu nghiên cứu tất cả các loại hàng thủ công mỹ nghệ là điều
không dễ. Việt Nam xuất khẩu 1 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ trong đó có 5 loại chính.Mỗi mặt
hàng xuất khẩu dù ít hay nhiều đều tham gia đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 2
Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chính của Việt Nam
từ năm 2000-2004
Chỉ tiêu đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004
Gỗ mỹ nghệ Triệu USD 50 52 62 76 30
Thêu ren - 14 18 22 27 11
Mây tre đan - 32.6 50.5 61 74 35.3
Thảm các loại - 5 12 14 17 4.5
Gốm sứ mỹ nghệ - 100 120 145 177 51.1
Nguồn: báo cáo tổng kết qua các năm của Bộ thương mại
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đều tăng qua các năm trong đó mặt
hàng có tỷ trọng lớn nhất là gỗ và gốm sứ sau đó mới đến mây tre đan và các mặt hàng khác. Mặt
hàng gỗ và gốm sứ rất được các khách hàng Nhật Bản ưa chuộng do kiểu dáng rất phù hợp với phong
cách của người Nhật với giá cả phải chăng. Riêng mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ là đảm bảo cho sự
tăng trưởng ở mức cao. Hiện nay hàng gốm sứ mỹ nghệ là nguồn hàng xuất khẩu chủ lực trong số
các chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam , sau đó là đỗ gỗ mỹ nghệ, hàng mây
tre đan. Đây là những mặt hàng mà nhu cầu luôn có xu hướng tăng. Năm 2000 nhóm hàng này đạt
khoảng 12 triệu USD và năm 2002 đạt khoảng 16 triệu USD , mục tiêu trong năm 2005 đạt 20-30
triệu USD .
2.1.2.1.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu .
Như đã khẳng định ở trên, nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường trong nước và
trên thế giới ngày càng tăng theo mức cải thiện đời sống nhân dân và sự phát triền thương mại, giao
lưu văn hoá giữa các nước và mở rộng hoạt động du lịch trong nước và quốc tế. Tuy nhiên , phát
hiện, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của từng thị trường trong từng thời gian đối với từng chủng loại
sản phẩm và nhanh chóng đáp ứng được các thị hiếu nhu cầu đó lại là một công việc đầy khó
khăn,phức tạp, đòi hỏi phải nhạy bén và tôn nhiều công sức chi phí . thực trạng trong những năm qua
cho thấy, thị trường hàng thủ công mỹ nghệ được mở rộng và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng
đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường các nước. Ngoài việc đẩy mạnh xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang các thị trường truyền thống ,thị trường tiềm năng, chúng ta cần có
những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện nay hàng thủ công mỹ
nghệ đã có mặt trên khắp các châu lục, có nhiều nước tuy kim ngạch xuất khẩu không lớn nhưng hy
vọng với sự cố gắng của các cấp vĩ mô, các công ty xuất nhập khẩu và các làng nghề,sẽ trở thành thị
trường lớn trong tương lai.
Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm qua có những giai đoạn thăng
trầm, khi thuận lợi, lúc khó khăn, nhưng nhìn chung trong những năm gần đây đã có những chiều
hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở rộng được nhiều thị trường mới theo
hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán với các nước trên thế
giới.
Hàng thủ công mỹ nghệ của ta đến nay đã có mặt tại 120 nước trên thế giới,chủ yếu là thị
trường các nước Âu_ Mỹ và một số thị trường Châu á như Nhật Bản , Đài Loan, Hàn Quốc và một
số nước Trung đông, nhưng ta chưa xuất được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng
lớn. Mỹ là thị trường có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ, Hàng thủ công quà tặng là một
trong những mặt hàng Việt Nam có ưu thế trên thị trường Mỹ, nhưng chưa được các nhà doanh
nghiệp Việt Nam quan tâm và đầu tư. Người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng những sản phẩm chất lượng
cao, mẫu mã đẹp, giá rẻ, không phân biệt xuất xứ ở đâu, hơn nữa mặt hàng này ít chịu tác động của
rào cản thương mại . Mới đây nhất, tại triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ diễn ra tại New York từ 15-
18 /5, những mặt hàng thủ công mỹ nghệ của hơn 20 công ty Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm
chú ý của các khách hàng Mỹ. Một số bản ghi nhớ và hợp đồngđã ký kết, mở ra nhiều cơ hội hợp
tác xuất khẩu mặt hàng này qua thị trường mỹ cho các HTX và công ty mỹ nghệ của Việt Nam .
EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc xuất khẩu các sản phẩm gỗ, gốm,sứ, mây tre lá,
hàng thêu ren. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu của ta xuất sang EU là sản phẩm gỗ mỹ
nghệ, đồ gốm sứ và các sản phẩm mây tre đan. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng lên khá
nhanh(21.18%) nhưng chỉ chíêm tỷ trọng 2.8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường này mặc dù khả năng sản xuất của ta là khá lớn. Dù cơ hội mở rộng thị trường tại EU là rât
lớn nhưng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa thực sự xâm nhập nhiều vào EU . thị trường xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong khối EU là Đức (26.4%),Pháp(14.7%), Hà Lan(
11.6%), Anh(11%), Bỉ(10.7%) ,Italia( 7.4%). Tây ban Nha( 6.3%), Thuỵ Điển( 5.0%)…Điều đáng
lưu ý là trong thời gian qua, nhiều thương gia EU lâu nay làm ăn vơí các chủ hàng Trung Quốc và
của các nước ASIAN khác nay đã phần nao quan tâm đên thị trường Việt Nam hơn.Đay là một cơ hội
cho xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam,cần có những giải pháp thích hợp để tận dụng lợi thế
từ thị trường này, từ đó mở rộng thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ của ta và nếu xét thị
trường theo từng nước thì Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta từ năm 1991 đến nay(
năn 1991 chiếm tỷ trọng tới 34,5% năm 2000 chiếm gần 15% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ).
Nhật Bản cũng là thị trường lớn đối với nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .
Ngưòi Nhật Bản có nhu cầu khá lớn về đồ gỗ, theo thống kê của Nhật, hàng năm ta đã xuất
sang Nhật khoảng 60 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ. Xuất khẩu đồ gỗ vào
Nhật Bản chưa gặp phải những quy định ngày càng khắt khe như của EU và Mỹ về bảo vệ rừng.
Theo số liệu năm 2002 thì bạn hàng lớn về xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chính
là Nhật Bản với 33,35 triệu USD , sau đó mới đến Đức 25,4 triệu USD , Anh 17,64 triệu USD , Đài
Loan 15,4 triệu USD …
Theo đánh giá của các chuyên gia tư vấn cao cấp của JETRO( tổ chức xúc tiến thương mại của
Nhật Bản ) thì vài năm gần đây người tiêu dùng Nhật Bản rất chuộng hàng thủ công mỹ nghệ của
Việt Nam từ đồ gia dụng, trang trí nội thất đến hàng quà tặng. ở Nhật Bản , nhu cầu về hàng thủ
công mỹ nghệ ngày càng nhiều trong khi sản xuất các loại hàng này lại giảm đi, các doanh nhân Nhật
đi tìm nguồn hàng để nhập khẩu và các mặt hàng đượclàm từ đôi tay khéo léo của ngươi Việt Nam
được họ chú ý bởi tính phong phú về kiểu dáng, mẫu mã giàu tính sáng tạo nghệ thuật. Những cơ sở
sản xuất kinh doanh có hàng thường xuyên xuất khẩu sang Nhật Bản tiêu biểu là các hợp tác xã mây
tre lá lớn nhỏ ở TP.HCM như: Ba Nhất, Hoà Hiệp ( Q4),Việt Tre, Phú Trung…đều khả quan, những
sản phẩm như khay trái cây,mành cửa, bàn ghế, giỏ đựng vật phẩm, thảm lau chân, gối tre, lẵng hoa,
giỏ đựng quần áo…được làm từ cói, mây, tre, xơ dừa đang rất được ưa thích tại thị trường Nhật Bản.
Theo sự phản hồi của các doanh nghiệp Nhật Bản thì hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ngoài
yếu tố hài hoà, gần gũi với người Nhật thì giá cả cũng dễ chấp nhận. Tuy nhiên phía Nhật cũng lưu ý
các nhà sản xuất Việt Nam không nên sao chép sản phẩm của nước ngoài, mà phải tạo nét độc đáo
riêng bởi trước kia người Nhật Bản chỉ chú ý đến đặc điểm đa dạng, giá rẻ thì nay họ quan tâm nhiều
đến chất lượng, sự sáng tạo về màu sắc, kiểu dáng, mẫu mã, nhất là nét văn hoá dân tộc thể hiện trên
sản phẩm.
Bên cạnh đó, thị trường Đài Loan cũng nhập khẩu khá lượng đồ gỗ khá lớn của Việt Nam
,kim ngạch hàng năm khoảng 50-60 triệu USD , chiếm 20% kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của
Đài Loan. Đây là thị trường còn nhiều tiềm năng ta có thể khai thác để xuất khẩu vì thuế nhập khẩu
mặt hàng này của Đài loan là thấp, từ 0-25% . Ngoài ra, một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam cũng được xuất khâủ sang thị trường này, một mặt hàng khó xuất lâu nay với lô hàng lớn như
đá mỹ nghệ Non Nước thì năm 1998 một công ty của Đà Nẵng đã hoàn thành hợp đồng xuất khẩu 2
container sang Đài Loan.
* Xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh các hình thức để mở rộng thị trường ở nước ngoài, thì thị trường du lịch có vai trò
rất quan trọng trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay.
Trong những năm đổi mới, thị trường du lịch ngày càng có điều kiện phát triển và đó là một thị
trường đâty tiềm năng của nước ta. Số lượng khách du lịch nước ngoài và nước ta ngày một nhiều,
đáp ứng nhu cầu của thị trường này là những sản phẩm truyền thống thể hiện nét độc đáo của nền
văn hoá dân tộc và mang đậm dấu ấn lịch sử của từng thời kỳ. Nhu cầu của khách du lịch thường là
mua những sản phẩm lưu niệm mang tính chất văn hoá truyền thống dân tộc hoặc thể hiện tập trung
những nét đặc trưng của vùng mà họ đến. Qua quan sát cho thấy khách nước ngoài đến tham quan
du lịch ở nước ta, ngoài việc đi đến các điểm du lịch, bao giờ họ cũng đến những nơi bày bán và giới
thiệu các sản phẩm truyền thống. Các sản phẩm chủ yếu được giới thiệu là các đồ thủ công mỹ nghệ :
gốm sứ, khảm trai, khắc gỗ, đá, bạc, đồng, đồ thêu ren, đan lát…
Trong năm 2004, Việt Nam đón tiếp hơn 2,9 triệu lượt khách du lịch nước ngoài đến thăm
quan và mua sắm, tăng hơn 19% so với năm 2003. Trong năm 2005 Việt Nam đặt mục tiêu sẽ đón
3,2 triệu lượt khách với nhiều chương trình và các chính sách thu hút khách du lịch nước ngoài. Sau
thảm hoạ sóng thần và động đất vừa qua nhiều khách du lịch nước ngoài đã chuyển hướng đến Việt
Nam làm lượng khách tăng lên đáng kể, và những mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã thực
sự thu hút các du khách đến từ các nước trên thế giới.
Những hàng hoá thủ công mỹ nghệ dưới dạng quà tặng hay quà lưu niệm sẽ được tiêu thụ
ngaỳ càng nhiều cho khách du lịch. Tuy nhiên điều này cũng còn phụ thuộc vào sự hấp dẫn của sản
phẩm và thị hiếu của người nước ngoài. Từ xa xưa, nghề truyền thống Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
rất lớn từ Trung Quốc. Vì thế,nhiều khách nước ngoài chưa nhận thấy sự khác nhau sản phẩm thủ
công mỹ nghệ Việt Nam với sản phẩm thủ công mỹ nghệ Trung Quốc. Điều này cũng là một trở ngại
cho việc bán sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta cho khách nước ngoài. Các sản phẩm của ta bán cho
khách nước ngoài nhin chung là rẻ, song giá rẻ nhiều khi chưa phải là điều hấp dẫn vớihọ : vì trong
một thời gian ngắn,họ chưa có điều kiện tìm hiểu vè giá trị của sản phẩm , mà lại cho rằng đó là
những sản phẩm kém giá trị hay được sản xuất hàng loạt chứ không phải sản phẩm thủ công đích
thực được làm bởi những nghệ nhân tài hoa. Cho nên trước mắt cần quan tâm sao cho hàng thủ công
mỹ nghệ phải thực sụ đặc sắc và phù hợp với nhu cầu quốc tế.
2.1.3 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật
Bản .
* Xuất khẩu sang Nhật Bản
2.1.3.1 Về kim ngạch xuất khẩu
Thị trường Nhật Bản là một trong nhưng thị trường lớn nhất của Nam trong xuất khẩu thủ
công mỹ nghệ. Như đã phân tích ở trên, thị trường Nhật Bản là một thị trường tiêu thụ hàng thủ công
mỹ nghệ lớn ( hàng năm nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Với thị trường Nhật Bản, ta đã xuất khẩu
sang các mặt hàng như mây tre đan, tranh dân gian Đông Hồ, sơn mài, đồ khảm trai, gốm sứ và gỗ
mỹ nghệ…
Trải qua những năm khủng hoảng do sự biến động về chính trị- xã hội ở Liên Xô và các nước
Đông Âu, sự khó khăn về thị trường tiêu thụ, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã
được khôi phục, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhà nước ,tư nhân, với sự hỗ trợ của Nhà nước ,
đã tìm kiếm và giới thiệu sản phẩm ở nhiều thị trường mới. Từ thời gian này trở đi, hàng thủ công mỹ
nghệ mới tiếp cận được thị trường Nhật Bản.
Bảng 4
Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam vào Nhật Bản
Đơn vị : triệu USD
Năm KNXK sang
Nhật Bản
Tăng giảm
tuyệt đối
Tăng giảm
tương
đối(%)
KNXK
TCMN cả
nước
Tỷ
trọng(%)
1994 1,5 - 25 0.06
1995 7,5 6 50 31.5 23.8
1996 17,5 10 23.33 90 19
1997 20 2.5 11.4 121 16.5
1998 18 -2 -10 111 16.2
1999 24,4 6.4 35.5 200 12.2
2000 25 0.6 2.46 237 10.5
2001 25,16 0.16 00.64 235 10.7
2002 36,8 11.64 46.26 250 14.72
2003 50 13.2 35.86 332 15.06
2004 55 5 10 450 12.22
Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này rất nhỏ bé, khoảng 1,5 triệu USD, không
đóng vai trò gì đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam năm đó (
0.06%) . Nhưng đây thực sự là một kết quả đáng khích lệ vì ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam mới
thoát khỏi thời gian khủng hoảng, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có hiểu biết gì nhiều về thị
trường Nhật Bản cũng như đặc điểm của thị trường này.
Sang năm sau năm 1995, kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản đã đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao 150% gấp 5 lần, đạt giá trị 7,5 triệu USD tăng 6 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu
như vậy chưa lớn song xét về tốc độ tăng trưởng thì khá cao. Lúc này tỷ trọng hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản còn thấp nhưng trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì thị trường Nhật Bản đã chiếm 23.8 % . Sở dĩ có mức tăng trưởng
kỷ lục như vậy là do Việt Nam đã đi từ con số không đi lên. Hơn nưa, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
ngày càng tiến triển tốt đẹp.
Năm 1996, kim ngạch đạt 17.5 triệu USD với tốc độ tăng trưởng là 23.33 %. Sang năm 1997,
1998, do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị trường nhập khẩu của Việt Nam bị giảm sút
nhưng thị trường Nhật Bản vẫn khá ổn định, vì mặt hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là một trong những
mặt hàng cần thiết cho sinh hoạt của người Nhật Bản, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng giảm tương
đối so với các năm trước. Năm 1997,tốc độ tăng trưởng là 11,4 % nhưng đến năm 1998 giảm 10% so
với năm 1997, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 18 triệu USD . Kết quả giảm sút này là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính làm cho giá cả của hàng Việt Nam cao hơn do đồng tiền của các nước
khác chịu khủng hoảng mất giá, đồng thời sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bị cạnh tranh
bởi hàng thủ công mỹ nghệ của các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như Trung Quốc, Thái
lan…
Năm 1999, tình hình đã được cải thiện sáng sủa hơn. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật
Bản là 24.4 triệu USD tăng 35.5 % so với năm 1998, chiếm 12.2 % tổng kim ngạch xuất khẩu thủ
công mỹ nghệ của cả nước. Năm 2000 đánh dấu một thời kỳ phục hưng của ngành thủ công mỹ nghệ
Việt Nam . Xuất khẩu sang Nhật Bản cũng tăng nhưng tốc độ không cao. Sang năm 2002, kim ngạch
xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang Nhật Bản tăng vọt 36.8 triệu USD ,tăng 46.26 % so với năm 2001.
Trong năm 2002 phải kể đến những thành công trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản, đó là việc
phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam(VCCI) cùng các cơ quan hữu quan và doanh nghịêp đã
xây dựng sàn giao dịch điện tử để trưng bày, giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lên
mạng. Sàn giao dịch này là đầu mối cung cấp thông tin về thị trường , giới thiệu sản phẩm thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam, về các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh mặt hàng này, đồng thời hỗ
trợ các doanh nghiệp trong giao dịch trực tuyến( như đàm phán , ký kết hợp đồng…). Năm 2003,
thương mại điện tử với những lợi ích của nó đã được khai thác mạnh mẽ trong xuất khẩu của ngành
thủ công mỹ nghệ , các doanh nghiệp kí được nhiều đơn hàng mới với đối tác Nhật Bản mà tốn ít chi
phí giao dịch hơn, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tiếp tục gia tăng với 50 triệu USD,
tăng 35.86% so với năm 2002. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ của ngành thủ công mỹ nghệ
Việt Nam . Cũng phải nói đến sự quan tâm của Nhà nước trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp tham
gia tiếp cận thị trường Nhật Bản đồng thời nỗ lực phát triển mối quan hệ song phương giữa 2 quốc
gia. Cũng nhờ những nỗ lực đó của Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp mà trong năm
2004, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 55 triệu USD,
chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của cả nước.
Kết quả trên tuy chưa phải là rất cao nhưng trong khi Nhật Bản đang gặp nhiều khó khăn mà
Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng qua các năm cũng là kết quả rất đáng khích lệ.
2.1.3.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản.
Nhật Bản có nhu cầu rất lớn đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Các mặt hàng được phân thành
loại cao cấp là các loại nhập từ Mỹ và các nước châu Âu, loại giá rẻ được nhập từ các nước CHÂU Á
như Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN.
Mặt hàng Nhật Bản nhập khẩu từ Việt Nam nhiều và thường xuyên nhất là đồ mỹ nghệ và
gốm sứ, ngoài ra khách hàng Nhật Bản cũng rất ưa chuộng các mặt hàng được làm từ cói.
Bảng 5
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản
Đơn vị: triệu USD
Mặt hàng 2001 2002 2003 2004
Gỗ mỹ nghệ 15 20,7 21 18
Gốm sứ 4 4.5 5 5
Mây tre đan 3 2,5 4 4,3
Thêu ren 15 10 17,5 20
Thảm các loại 2 3 1 3
Sản phẩm được làm từ gỗ được đánh giá là mặt hàng có lợi thế nhất của Việt Nam trong xuất
khẩu sang Nhật Bản. Người Nhật Bản có nhu cầu sử dụng gỗ rất lớn. Đây là loại sản phẩm không
phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh, các tiêu chuẩn về môi trường cũng không khắt khe như Châu
Âu và Mỹ. Trong năm 2001, Việt Nam đã xuất khẩu 15 triệu USD gỗ mỹ nghệ, các mặt hàng gỗ
được khắc trạm khảm dùng trang trí trong nhà, sử dụng trong bếp...được đánh giá rất gần gũi với thị
hiếu người Nhật Bản, chính vì vậy mà sang năm 2002, kim ngạch đã lên tới 20.7 triệu USD, chiếm
40% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ cả nước ( 52 triệu USD ), xuất khẩu gỗ mỹ nghệ đều tăng qua các
năm, mức tăng trưởng là 21.28%. Tuy vậy, gỗ mỹ nghệ Việt Nam cũng chỉ chiếm thị phần nhỏ trên
thị trường Nhật Bản là 7.3%,trong khi đó, các quốc gia Châu á xuất khẩu gỗ sang Nhật Bản như
Trung Quốc chiếm 28.7%, Thái Lan 20.3%, Malaysia 13.8%, Indonesia 11.8%. Vì vậy, ngành cần có
các biện pháp thúc đẩy sản xuất và xâm nhập để mở rộng thị trường Nhật Bản hơn nữa.
Bên cạnh các sản phẩm gỗ mỹ nghệ các thị trường nội thất và sản phẩm bằng mây tre cũng
được người Nhật Bản ưa dùng, chủ yếu là đĩa, chậu, ghế… với công nghệ sử lý nguyên liệu làm cho
màu sắc đẹp, bóng, không mốc mọt, cùng với sự tăng cường phối hợp các nhiên liệu khác như kim
loại màu để tăng được vẻ đẹp và tính hiện đại của sản phẩm, sản phẩm từ mây tre được khách hàng
Nhật Bản ưa dùng. Tuy vậy, sản phẩm này đã gặp phải sự khó khăn lớn trong việc cạnh tranh với các
sản phẩm từ Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia với công nghệ và kỹ thuật cao, sự đa dạng…Chính vì
vậy kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới chỉ đạt 3 triệu USD vào năm 2001, kim ngạch tăng
giảm không ổn định, năm 2002 xuất khẩu được 2.5 triệu USD và sang năm 2003 là 1.4 triệu USD.
Tuy nhiên trong năm 2004 vừa qua ngành thủ công mỹ nghệ đã đưa ra nhiều mặt hàng với kiểu dáng
và mẫu mã đặc biệt như giỏ xách tay hình quả bí, bàn ghế …thu hút sự quan tâm của các nhà nhập
khẩu Nhật Bản cùng với sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt làm kim ngạch xuất khẩu tăng lên 4.5
triệu USD.
Bên cạnh mặt hàng gỗ và mây tre đan gốm sứ cũng được đánh giá là mặt hàng có tiềm năng
xuất khẩu sang Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ vào Nhật Bản trong năm 2004 tăng mạnh so với
năm 2003 cả về số lượng và kim ngạch nhập khẩu, đồ sứ là 16.484 tấn, gốm là 45.800 tấn nhưng
nhập chủ yếu từ Trung Quốc, so với năm 2000, năm 2004 nhập khẩu đồ gốm tăng 160% tính theo
lượng và 150% tính theo kim ngạch, nhập khẩu đồ gốm sứ từ Châu á tăng nhanh do mức giá rẻ và
công nghệ sản xuất được chuyển giao từ Nhật Bản sang cho phép các nhà sản xuất Châu á cung cấp
sản phẩm gần gũi hơn với người Nhật Bản. Đây là vấn đề mà ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
cần lưu ý khi đưa ra các giải pháp để thúc đẩy hàng thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản.. Tuy nhiên thị
phần của Việt Nam còn khá khiêm tốn, mới chỉ đạt 5 triệu USD/ năm mặc dù thuế nhập khẩu rất
thấp. Đây là mặt hàng có nhiều triển vọng nếu nhà sản xuất chú ý đến khâu tạo hình và đặc điểm hệ
thống phân phối của thị trường Nhật Bản.
* Xuất khẩu tại chỗ
Sau những thiên tai và bệnh tật xảy ra trong khu vực Châu á, Việt Nam được đánh giá là điểm
đến an toàn đối với khách du lịch. Hiện nay khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngay một nhiều.
Hiện các cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ đón tiếp rất nhiều khách Nhật Bản,chủ yếu là tầng lớp
thanh niên, họ ưa chuộng những mặt hàng mới mẻ mang dáng vẻ truyền thống nhưng độc đáo của
Việt Nam. Mua sắm là mục đích thứ 2 của người Nhật Bản khi họ đến Việt Nam , trên cả mục đích
tham quan và chỉ đứng sau mục đích thưởng thức ẩm thực. Trong tháng 4/ 2005 vừa qua, Tổng cục
trưởng tổng cục du lịch Việt Nam và Bộ Trưởng Giao Thông và Lãnh thổ Nhật Bản Kazuo Kitagawa
đã ký văn bản thoả thuận về hợp tác phát triển du lịch giữa 2 nước, theo đó hai nước sẽ thảo luận kế
hoạch hợp tác cụ thể trong lĩnh vực du lịch như chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hợp tác nghiên cứu
thị trường và đào tạo cán bộ quản lý, hướng dẫn viên du lịch. Trong năm 2004 vừa qua, khách du lịch
Nhật Bản ra nước ngoài là 16 triệu lượt người,trong đó khách vào Việt Nam là 700 nghìn lượt người.
Như vậy, nếu mỗi khách du lịch sắm cho mình một sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì kim ngạch xuất
khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể. Việt Nam cần có nhiều chính sách phát
triển thị trường du lịch, để từ đó có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
2.1.3.3 Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản
Thuận lợi
Trong bối cảnh chung khó khăn như vậy, đồng thời với thị trường khắt khe,khó tính như Nhật
Bản thì kết quả trên là điều đáng khích lệ, sỏ dĩ có được thành tựu trên là do Việt Nam đang có được
những điều kiện hết sức thuận lợi cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ :
* Lợi thế về nguồn nhân lực: nguồn nhân lực cho ngành thủ công mỹ nghệ bao gồm những
nghệ nhân, những người thợ thủ công, chủ cơ sơ sản xuất kinh doanh. Những nghệ nhân có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đòng thời là những người sáng tạo ra những
sản phẩm độc đáo mang tính truyền thống, hiên nay ở các làng nghề Việt Nam , vẫn còn có rất nhiều
nghệ nhân có tâm huyết với nghề, muốn giữ gìn và phát triển nghề. Bên cạnh đó còn có một lưc
lượng lao đọng dồi dào,cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường. Do đặc
điểm sản xuất của nghề này là sử dụng lao động thủ công là chủ yếu , nơi sản xuất cũng chính là nơi
ở của người lao động nên bản thân nó có khả năng thu hút nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ
nông nhàn đến lao động trên hay dưới độ tuổi , trẻ em, tham gia dưới hình thức học việc hay giúp
việc. Lực lượng lao động nay chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động làm nghề
* Tính phong phú của sản phẩm thể hiện trên 2 khía cạnh:
-Văn hoá: Sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam . Từ những con
rồng trạm trổ ở các đình chùa hoa văn trên các trống đồng, màu men, hoạ tiết trên các đồ gốm sứ, tất
cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương và chứa đựng trongnó những ảnh hưởng văn hoá tinh thần
quan niệm nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. Việt Nam nghìn năm văn hiến và tầng lớp
nghệ nhân tay nghề cao đã sáng tạo những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tuyệt vời mà Nhật Bản không
thể sản xuất, đây chính là chiếc cầu nối giao lưu văn hoá giữa 2 nước. Bên cạnh đó, những nét riêng
về phong tục của mỗi địa phương, cá địa danh được thể hiên trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều
làm tăng giá trị cho sản phẩm, gây cho khách hàng một sự thích thú, như một sự khám phá khi thấy
sản phẩm.
- Nguyên liệu: Mỗi năm, Nhà nước ta đều đưa những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mới được
xuất khẩu lần đầu vào danh sách khen thưởng. Sự phong phú của nguyên liệu sử dụng đã tạo nên các
sản phẩm độc đáo. Từ mây, tre, song, nứa người ta có thể dùng cả rơm phơi khô, gáo dừa, xơ dừa,
dây chuối, cói đay thâm chí cả vỏ trứng tạo nên các sản phẩm độc đáo như rương đựng đồ hình quả
bí ngô với màu sắc bí xanh và bí chín, dép thay vì đan cói đã quá cũ giờ đan bằng dây chuối và lục
bình với màu vàng ngà của bẹ chuối, màu mốc tự nhiên của thân chuối, hay mới đây doanh nghiệp
S.V.C tại Yên Hoà đã chế tác thành công chiếc bình lơn nhất Việt Nam được làm băng gáo dừa mang
tên Huyền Sử Đời Hùng với 5000 chi tiết hoa văn, phù điêu trang trí thể hiện một cách sống động
những sự tích, hình tượng như: Lạc Long Quân- Âu cơ, Tiên Dung- Chử Đồng Tử, trống đồng Đông
Sơn, nhà rồng, cồng chiêng…cho thấy khả năng sang tạo mẫu mã của nghệ nhân Việt Nam tạo nên
sự độc đáo để quảng bá với thế giới về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .
* Các chính sách vĩ mô của nhà nước:
- Chính sách biện pháp khuyến khích, ưu đãi được quy định trong nghị định 51/1999NĐ-CP :
các ngành nghề truyền thống được ưu tiên phát triển và được hưởng ưu đãi gồm có : khảm trai, sơn
mài, khắc đá, mây tre, dệt thảm, lục tơ tằm, gốm sứ, thêu ren thủ công, đúc và gò đồng; ưu đãi đầu
tư được hưởng khi đầu tư vào 10 ngành nghề thủ công truyền thống : miễn giảm tiến sử dụng đất,
tiền thuế đất,miễn thuế nhập khẩu với máy móc thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được hoặc
chưa đáp ứng được yêu cấu chất lượng .
- Chính sách đào tạo thợ thủ công truyền thống.
- Chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
- Chương trình khuyến nông về ngành nghề nông thôn.
- Hỗ trợ sản xuất , phát triển ngành nghề cho đối tượng đói nghèo.
Bên cạnh đó Nhà nước đang sửa đổi bổ sung nhiều quy chế chính sách khác như các chính
sách về thị trường, vôn đầu tư tín dụng, chính sách đối với nghệ nhân, chính sách đối với phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành nghề truyên thống…
* Các hoạt động xúc tiến thương mại.
Nhà nước đã có nhiều hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề tiếp cạn thị trường
Nhật Bản : mở các showroom hàng thủ công mỹ nghệ tại nhiều thành phố của Nhật Bản , hỗ trợ kinh
phí cho các doanh nghiệp khi tham gia các hội chợ quốc tế tại nước ngoài, tổ chức các hội chợ riêng
về hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam , đon tiếp các đoàn khách du lịch Nhật Bản và tổ chức các
buổi giao lưu nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tim kiêm đối tác… Điển hình trong
năm nay từ ngày 23-36/6/2005, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản sẽ phối hợp với văn phòng II bộ
thương mại tổ chức đưa đoàn doanh nghiệp Nhật Bản về TP.HCM để tìm kiếm đối tác đầu tư tại Việt
Nam
Khó khăn và hạn chế
- Theo cục xúc tiến thương mại( Bộ Thương mại), khách hàng Nhật Bản đánh giá hàng thủ
công mỹ nghệ của Việt Nam yếu nhất là khâu thiết kế. Các công ty xuất khẩu của Việt Nam ít quan
tâm đến cải tiến chất lượng sản phẩm , chỉ cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá. Do đó, mẫu mã
của các công ty gần như giống nhau và chất lượng ngày càng giảm sút. Trong khi muốn bán được
nhiều hàng thì tỷ lệ chế tác thủ công và mẫu mã phải chiếm phần nhiều. Không những thế,qua nhân
xét của JETRO (Cơ quan xúc tiên thương mại của Nhật Bản ) người Nhật cho rằng hàng Việt Nam
chỉ ở mức trung bình trở xuống, không có mẫu mã riêng, chỉ làm theo đơn đặt hàng là chính.
- Khả năng tiếp cận thị trường của Việt Nam còn yếu. Chúng ta quen với phương châm sản
xuất nhanh- nhiều- tốt- rẻ, nhưng làm thế nào bán được hàng nhanh và b án được nhiều hàng thì đó
là vấn đề mới mẻ. Hệ thống thị trường thiếu ổn định, nhiều người chưa biết bán sản phẩm cho ai,
hàng hoá bị tồn đọng, luân chuyển chậm. ở các vùng nông thôn, nhân lực tuy nhiêu nhưng trình độ
văn hoá lại chưa cao,chưa có khả năng tiếp cận để có thể năm bắt được xu thế của sản phẩm mới,
không hiểu biết thị hiếu ngườ tiêu dùng.
- Bên cạnh đó là tình trạng các doanh nghiệp tranh mua tranh bán theo kiểu “được cá bỏ
tôm” khi hàng đang có giá. Kiểu cạnh tranh thiếu lành mạnh làm xấu hình ảnh của doanh nghiệp
Việt Nam trong năt đối tác nước ngoài, tự mình lám suy yếu sức cạnh tranh trước các đối thủ của
nước ngoài. Doanh nghiệp Việt Nam chưa gắn kết thành một mối mãnh mẽ trong quan hệ với cá đối
tác nước ngoài, mọi quan hệ đều mới ở mức riêng rẽ, mạnh ai nấy được . Đã vậy còn xuất hiện
những hàng nhái kém phẩm chất làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích của các cơ sở sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ truyền thống.
- Các cơ sỏ sản xuất nước ta đều gặp khó khăn về mặt băng sản xuất , bãi tập kết nguyên
liệu, các cửa hàng giao bán sản phẩm ,hệ thống công cụ còn quá lạc hậu, tính chuyên nghiệp trong
cung ứng sản xuất còn thấp…chính vì vậy nhiều khi ta không thể nhân những đơn hàng quá lớn mà
bên đối tác yêu cầu.
- Hạn chế về mặt thể chế: bên phía Nhật Bản tuy mức thuế được xem là thấp nhất thế giới
song hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng một phạm vi rộng lớn và phức tạp về tiêu
chuẩn, thủ tục xác nhận và các hàng rào kỹ thuật không chính thức như quy định về vệ sinh và y tế
làm cho quy trình nhập khẩu bị kéo dài và gặp nhiều khó khăn..
2.2 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN của công ty ARTEXPORT.
2.2.1 Tổng quan về công ty
Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, tên giao dịch đối ngoại ARTEXPORT đựơc
thành lập theo quýêt định số 617/BNgT-TCCB ngày 23/12/1964 của Bộ Ngoại Thương.Sau khi sát
nhập 2 Bộ Ngoại Thương và Bộ Nội thương thành lập Bộ thương mại vàDu lịch nay đổi thành Bộ
thương mại, công ty được thành lập theo quyết định số334/TM-TCCB ngày31/3/1993 của bộ Thương
mại
Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động xuất nhập khẩu có tư cách pháp nhân, có quyền và
nghĩa vụ dân sự theo luật định, có con dấu riêng, có tài sản và các quỹ tập trung, được mở tài khoản
trong và ngoài nước, đựơc tổ chức và hoạt động theo điều lệ của Tổng công ty nên trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình công ty phải đảm bảo không làm trái với pháp luật, thực hiên mọi chế
độ kinh doanh theo luật thương mại Việt Nam, chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh và nguồn
vốn nhà nước cấp.
2.2.1.1 Mặt hàng kinh doanh của công ty.
Hiện nay,công ty kinh doanh chủ yếu các mặt hàng sau:
Hàng sơn mài mỹ nghệ như tranh sơn mài, hộp đựng trang sức, các vật trang trí…
Hàng gỗ mỹ nghệ được trạm khảm, kết hoa văn…
Hàng cói, mây, dừa, dép,thảm với chất liệu đa dạng.
Hàng gốm sứ
Hàng thêu ren
2.2.1.2 Tình hình sử dụng các công cụ cạnh tranh của công ty .
* Giá thành
Khi đưa ra các quyết định về giá, công ty thực hiện nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc
định giá xuất khẩu của mình bao gồm các yếu tố chi phí, khách hàng, cạnh trạnh, phân phối và mục
tiêu của doanh nghiệp.
Thông thường giá sản phẩm của công ty được tính bằng tổng tất cả các chi phí: sản xuất , thu
gom, dịch vụ, kinh doanh và cộng với phần lãi dự tính mà công ty muốn đạt được. Tuỳ từng mặt
hàng mà mức lãi nàylà khác nhau, thông thường khoảng 15-20% giá trị mặt hàng.
Tuy nhiên, công ty còn sử dụng chính sách giá linh hoạt, mức giá quyết định cho mặt hàng
xuất khẩu của công ty còn phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa nhà nhập khẩu và xuất khẩu. Nếu khi
nghiên cứu, tìm hiểu về khách hàng mà công ty thấy họ có thể trả giá cao thì công ty đặt giá cao hơn
dự kiến và nếu như việc định giá thấp hơn có thể tạo được một đối tác làm ăn lâu daì hay so sự khó
khăn trong kinh doanh của bạn hàng lâu năm mà công ty sẽ chấp nhận mức giá đó. Và khi có sự
canh tranh gay gắt về giá trên thị trường công ty cũng sẽ thay đổi mức giá phù hợp để giữ bạn hàng.
Với một số sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc Việt Nam có độ tinh xảo và đòi hỏi cấc nghệ
nhân có tay nghề cao như tranh thêu, tranh sơn mài, hàng trạm khảm thì giá cả không phải là vân đề
quyết định, công ty có thẻ đưa ra mức giá cao hơn để tăng giá trị sản phẩm.
* Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chất lượng
sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Nói cách khác thì việc thâm nhập thị trường luôn gắn liền với việc giành chữ tín hay hàng
hoá phải có chất lượng.
Nếu như trước đây,giá cả được coi là công cụ cạnh tranh hàng đầu thì ngày nay nó nhường
chỗ cho chất lượng sản phẩm .Công ty thường xuyên cử người xuống để giám sát đôn đốc nhất là
kiểm soát chặt chẽ các nguyên liệu đầu vào. Chất lượng của hàng thủ công mỹ nghệ thể hiện ở độ
chắc, bền, độ tinh vi, tính mỹ thuật…những sản phẩm này dù có sơ xuất nhỏ hoặc chất lượng không
đồng đều sẽ bị loại bỏ để tránh trường hợp khách hàng từ chối hoăc phải bán rẻ, tránh tổn thất làm
giảm uy tín của công ty.
Bên cạnh đó, tâm lý người tiêu dùng luôn đòi hỏi cải tiến không ngừng đối với sản phẩm ,
mang lại sự thoả mãn nhu cầu cả về chất lượng và tính thẩm mỹ khi sử dụng sản phẩm . Để đáp ứng
nhu cầu chính đáng đó của khách hàng công ty ARTEXPORT đã không ngừng sáng tạo những mẫu
sản phẩm mới lạ độc đáo, vừa đáp ứng chất lượng vừa đảm bảo tính thẩm mỹ của mặt hàng thủ công
mỹ nghệ mà công ty cung ứng cho thị trường.
Đối với hàng thêu ren, một mặt hàng xuất khẩu gần như chủ lực của công ty, muốn đạt được
chất lượng cao phải đúng mẫu mã, đảm bảo kỹ thuật, từ khâu đầu đến khâu cuối:
- Đúng mẫu mã, màu sắc theo yêu cầu của khách hàng
- Kích thước chính xác(dung sai cho phép 0,5-1 cm là tối đa)
- Mặt vải phải lỳ và đẹp.
- Đường mép thẳng, không văn vẹo.
- Các đưòng rua phải đẹp, chặt, và làm đến đường rua cuối cùng.
- Các rua phai được cắt có độ dài bằng nhau và vải trải kỹ cho phẳng,không được quăn, các
đường thêu phải nuột, mềm, tinh xảo
- Sản phẩm thêu đảm bảo yêu cầu vệ sinh công nghiệp, không có vết bẩn, được gấp theo yêu
cầu của khách hàng.
Gần đây, công ty đã chú ý đàu tư trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm
thích ứng với điều kiện tự nhiên, nhu cầu khách hàng. Đối với sản phẩm gốm sứ, đất nung hiện nay
đã đưa vào sử dụng lò nung điện, lò nung bằng Gas đảm bảo nhiệt độ nung đều,tạo cho sản phẩm vẻ
đẹp về h oa văn, đường nét, có độ bóng, bền chắc. Đối với sản phẩm mây tre cói có nguồn gốc từ
thực vật để xử lý vấn đề vi sinh, chống mối mọt, chống ẩm thì nguyên vật liệu trước khi đóng gói
được thực hiện bằng lò sấy vi sinh nhằm làm cho sản phẩm được khô đều.
Ngoài ra vấn đề kho bảo quản và điều kiện của kho cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản
phẩm. Đối với từng tính chất của mặt hàng thủ công mỹ nghệ mà có cách xếp đặt cũng như điều kiện
bảo quản khác nhau để tránh những tổn thất không đáng có. Đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ vốn
là mặt hàng đòi hỏi yêu cầu bảo quản khá cao và rất cẩn thận.
* Mẫu mã và đề tài sản phẩm.
Hiện nay sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty được xuất khẩu theo 2 cách
- Công ty thực hiện sản xuất, thu gom hàng hoá theo mẫu, chất lượng mà khách hàng đưa ra
- Khách hàng đặt hàng theo mẫu mà công ty đưa ra và cũng có thể thay đổi một số chi tiết hoa
văn, màu sắc, vật liệu.
Những đề tài cũ như con người, cuộc sống, chim muông…của công ty đa số đã cũ không còn
phù hợp với thị hiếu hiện nay. Hơn thế nữa, mẫu mã đề tài của sản phẩm yêu cầu phải thường xuyên
thay đổi để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Điều này là do đặc điểm văn hoá, phong cách, lối sống
khác nhau nên có nhu cầu khác nhau. Đôi khi tính nghệ thuật của sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn
được đánh giá cao hơn tính tiện dụng. Tính nghệ thuật thể hiện ở các đường nét hoa văn hài hoà,
mềm nuột…Bởi lẽ người ta không chỉ sử dụng nó mà còn muốn thưởng thức giá trị nghệ thuật của
s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản.pdf