Tài liệu Chuyên đề Tìm giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
83 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Tìm giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
2
Lời nói đầu
Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, đổi mới về cơ chế quản lý
cũng như cơ chế thị trường mở ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền
kinh tế nước nhà. Nền kinh tế nước nhà đang có những tiến bộ đáng kể, cùng
với nó là sự phát triển của các ngành sản xuất cũng như dịch vụ, ngành ngân
hàng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đất nước.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất trong khu vực cũng như trên
thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và trong đó không
thể phủ nhận chức năng,vai trò của ngành ngân hàng.Vì vậy, trong những năm
gần đây, việc cải cách hệ thống ngân hàng bao giờ cũng là điểm nóng trong
các chương trình phát triển của chính phủ và các kế hoạch hợp tác phát triển
với các nhà tài trợ quốc tế.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất, là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng
triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội đều
gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội;
là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một
phần đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các chính sách
kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong
chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung
và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã nỗ lực tìm ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây
là một lĩnh vực khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc
lộ nhiều hạn chế.
Với tư cách là sinh viên được đào tạo chuyên ngành Ngân hàng-Tài
chính taị trường đại học KTQD, xuất phát từ nhận thức trên, sau một thời gian
thực tập tại Sở giao dịchI-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam em xin
mạn phép được chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam" để làm chuyên đề thục tập với mong muốn góp phần tổng kết
và khái quát lý luận từ thực tiễn, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng tín
dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng và công cuộc
CNH-HĐH đất nước nói chung.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
3
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài gồm:
Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh
tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
4
Chương 1
vai trò của Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt nam
1.1. kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở
việt nam.
Đổi mới và cải tổ là xu thế chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Trước năm 1986, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta là xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
xây dựng quan hệ sản xuất với hai hình thức chủ yếu là kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Trên thực tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã không được thừa
nhận và làm cho nền kinh tế mất cân đối và rơi vào trạng thái trì trệ trong một
thời gian dài.
ở Việt Nam , ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã
khẳng định đường lối chính cho phát triển kinh tế - đổi mới cơ cấu kinh tế, cụ
thể là:" phát triển nền kinh tế hàng nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đường lối này tiếp tục được khẳng định và làm rõ thêm ở các Đại hội Đảng
lần thứ VII, VIII và IX. Cho đến nay, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam bao
gồm các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
nước ngoài. Các thành phần kinh tế này được chia thành 2 khu vực lớn: khu
vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước (ngoài quốc doanh,
tư nhân). Khu vực kinh tế nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế do
nhà nước trực tiếp quản lý từ trung ương tới địa phương. Đây được coi là
thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh (NQD) bao gồm các thành phần kinh tế còn lại, hoạt động bên cạnh các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường đã góp phần
quan trọng vào việc mở rộng giao lưu hàng hoá khai thác được tiềm năng sẵn
có của các vùng trong cả nước, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân.
1.1.1.Khái niệm và phân loại.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế dựa trên sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH, công ty Cổ phần, công ty liên
doanh và các đơn vị theo hình thức Hợp tác xã.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
5
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã có
sự phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách
khuyến khích và hỗ trợ hoạt động cho thành phần này, số lượng các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 mới
chỉ có 123 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã
có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng. Đến năm
2004, kinh tế ngoài quốc doanh đã có 3.820 hợp tác xã, 31.667 doanh nghiệp
tư nhân và 1.286.300 hộ kinh tế cá thể và 1.826 công ty cổ phần.
ở nước ta hiện nay,xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp,thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Công ty là loại hình doanh nghiêp hoạt động theo luật công ty,là đơn vị
kinh tế do các cá nhân bỏ vốn thành lập theo luật doanh nghiệp,trách nhiệm
quyền hạn cũng như lợi nhuận được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.Công ty có
hai loại:
*Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi
là cổ phần.
- Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là
ba và không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
quy định pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp vào
công ty.
*Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của
tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các
phần góp vốn được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát
hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các
thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho
người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của các thành viên đại
diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
*Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn
để sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên
nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi
thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
6
những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã
viên, cơ quan quản lý các hoạt động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác
xã được xã viên bầu theo luật hợp tác xã.
*Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
*Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân
hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường
xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và từng bước
hoàn thịên đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Tuy
nhiên,sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh cần sự quan tâm rất nhiều
của Đảng và Nhà nước và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp.
1.1.2.Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
- Những đặc điểm về khả năng tài chính
Trong khu vực kinh tế tư nhân, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, nguồn tài chính ban đầu chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia
đình, bạn bè. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn được huy động phần lớn
từ các nguồn: lợi nhuận gửi lại, vay của người thân, vay của khu vực thị
trường tín dụng không chính thức, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bởi tín dụng
ngân hàng. Nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười
đã có lần đề cập vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt trong phát triển kinh tế
bằng 3 chữ: “Vốn, vốn và vốn". Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD
ở Việt Nam cũng có chung quan điểm, họ cho rằng trở ngại lớn nhất đó là vấn
đề: "Tín dụng, tín dụng và tín dụng". Việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng
là rất khó khăn đối với khu vực kinh tế NQD, đặc biệt là nguồn tín dụng trung
dài hạn. Nguyên nhân chính là do các thể chế chính sách liên quan đến vấn đề
vốn như: chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản để
vay vốn chưa được hoàn chỉnh. Có thể nói vốn đang là vấn đề khó khăn nhất
đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD trong việc phát
triển hơn nữa.
- Đặc điểm về trình độ, công nghệ sản xuất.
Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ
thuật công nghệ của kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
7
thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của Viện
nghiên cứu kinh tế Trung ương năm 2003 thì chỉ có 36% doanh nghiệp và
28% số công ty sử dụng công nghệ tương đối hiện đại, 42,5% doanh nghiệp
và 31,2% công ty sử dụng công nghệ cổ truyền, 27,5% doanh nghiệp và
40,8% công ty kết hợp cả công nghệ hiện đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu
là một trong những nguyên nhân chính làm cho các sản phẩm kém sức cạnh
tranh và thị phần hàng hoá bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Tuy nhiên
đây cũng là đặc điểm chung của các doanh nghiệp nước ta, kể cả doanh
nghiệp Nhà nước phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế còn kém phát
triển,thiếu năng động,mang nặng tính thuần nông của nước ta.
-Đặc điểm về trình độ quản lý, kinh doanh, kỹ năng người lao động.
Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh có từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí
thức. Hơn nữa, kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên những
kiến thức về kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai
cũng có thể nắm bắt được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều
hành doanh nghiệp cho chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế,
vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch
cũng như phân tích dự án, các cơ hội đầu tư.Bên cạnh đó,đội ngũ người lao
động phần lớn xuất thân từ dân nghèo, nông thôn, trình độ học vấn còn nhều
hạn chế nên kĩ năng cũng như kỉ luật lao động còn thấp,chưa đáp ứng đủ nhu
cầu cho công việc.
Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong
các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh
nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Do đó, họ gặp
nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được
năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ
ràng.
-Đặc điểm về môi trường kinh doanh.
Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy
đủ, chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu
tư vốn vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn
kiện của Đảng các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công
nhận vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường
nhưng việc cụ thể hoá thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
8
môi trường thuận lợi đối với kinh tế ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều
hạn chế.
Tính ổn định của chính sách kinh tế- tài chính còn thấp, thiếu tính
kích thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc
về nguyên tắc, chế độ.
Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho thành phần kinh tế
Nhà nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc
doanh phải ngụy trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế Nhà nước hòng
mong thu được lợi nhuận cao là bằng chứng rõ ràng về sự bất bình đẳng trong
cư xử ,thể hiện ở việc ưu đãi quá mức đối với kinh tế Nhà nước.
Các chính sách Nhà nước chưa thực sự khuyến khích kinh tế ngoài
quốc doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng
cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng
của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao
động BHXH, BHYT trong thời gian làm việc, khi về già.
Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu.Tình trạng quan
liêu, cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc
doanh nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinnh
doanh.Mặt khác, môi trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm cũng gặp
nhiều khó khăn do sức cạnh tranh còn kém.
Tóm lại, các đặc điểm nói chung và môi trường kinh doanh của thành
phần kinh tế này nói riêng còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này.Do đó, cần có sự quan
tâm đúng mực của các ngành các cấp và đặc biệt là của ngành ngân hàng tạo
để điều kiện cho họ trong việc tiếp cận vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu chính
đáng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt nam.
Trong xu thế mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế ngoài
quốc doanh đã và đang chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong nền
kinh tế nước ta hiện nay.Điều này được thể hiện ở:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
9
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện
khai thác tối đa nguồn lực của đất nước.
Trải qua 15 năm đổi mới, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình
độ nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền
kinh tế còn rất lớn, kinh tế Nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết được
những tiềm năng này. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
mới có thể khai thác tốt các nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển sẽ huy động được một lượng vốn lớn
đang nằm trong dân, tạo điều kiện cho năng lực con người được giải phóng và
phát huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ chức đều cố gắng phát huy tối đa khả
năng của mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn lực vì lợi ích của chính bản
thân. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
xã hội phát triển.
1.1.3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao
động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao
động đông đảo, kinh tế Nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm
cho tất cả. Hơn nữa trải qua một giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế
tập trung, bao cấp đã bộc lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử
dụng lao động cho nên với chủ trương giảm biên chế, kinh tế ngoài quốc
doanh là đối trọng để thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước
và hành chính sự nghiệp. Bên cạnh đó, do tính đa dạng trong loại hình của
kinh tế ngoài quốc doanh, nó có mặt trong tất cả mọi nghành nghề lĩnh vực, có
mặt ở cả nông thôn và thành thị, có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân,
một gia đình, hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương
đối nhiều lao động. Do vậy, kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm
nhanh nhất, dễ dàng hơn so với kinh tế Nhà nước.
1.1.3.3. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh
ngày càng phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng lớn vào tỷ trọng
GDP của quốc gia .
Mặc dù còn lép vế hơn so với kinh tế Nhà nước song sự đóng góp vào
GDP của kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã chứng tỏ được
vai trò cần thiết của thành phần kinh tế này đối với sự phát triển của đất
nước.Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
10
Đơnvị:tỷđồng
Thành phần kinh tế Năm2002 % Năm2003 % Năm2004 %
1. Kinh tế Nhà nước
2.Kinh tế ngoài quốc
doanh
124732
231645
35
65
132624
281826
32
68
137652
353962
28
72
Tổng số 356377 100 414450 100 491614 100
Nguồn:Niên giám thống kê 2004
Như vậy tỷ trọng GDP kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần qua các năm:
65% năm 2002, 68% năm 2003 và 72% năm 2004, hoạt động của kinh tế
ngoài quốc doanh đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị
trường. Bởi lẽ,khác với kinh tế Nhà nước, thành phần kinh này phải tự thân
vận dộng để vươn lên mà không hề có một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước, do
đó, họ đã cố gắng phát huy mọi nhân tài vật lực nhằm khẳng định vị trí của
mình trên thị trường.Trong mấy năm qua, sự phát triển mạnh mẽ loại hình
kinh tế này đã góp phần làm tăng GDP, tăng ngân sách Nhà nước, qua đó thúc
đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
1.1.3.4 Kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo
ra sự phát triển sôi động của nền kinh tế.
Từ những thực tế cho ta thấy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã
làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì, kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề làm cho thị trường hàng hoá trở nên
phong phú, đa dạng, sôi động, tạo ra sự thu hút. Trước sự tồn tại và phát triển
của kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải phân
tích, hoạch định chiến lược kinh doanh cho phù hợp hơn nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình. Điều này càng khẳng định rằng việc phát triển kinh
tế ngoài quốc doanh không những không làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà
còn thúc đẩy thành phần này phát triển mạnh mẽ hơn. Thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế Nhà nước phát triển, giải
quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà kinh tế quốc doanh không đảm
nhận hết.
Kinh tế ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối
tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ
sản phẩm, cung cấp đầu vào cho kinh tế Nhà nước. Sự kết hợp sản xuất- tiêu
thụ giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
11
sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và
sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và
tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể
nói riêng phải luôn đổi mới hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Kinh tế ngoài
quốc doanh còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước
ngoài. Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát
triển mạnh, nếu không có một chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể
khai thác hết được tiềm năng của thành phần kinh tế này.
1.1.3.5 Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần vào quá trình
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến
năm 2010, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh đó cũng đặt
ra mục tiêu đến năm 2005 có khoảng 60% doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần
hoá. Như vậy với vai trò của mình, trong những năm tới kinh tế ngoài quốc
doanh sẽ được mở rộng và là nơi tập trung vốn, nhân lực vào các ngành kinh
tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin, điện tử... cũng
như có thể lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
không cần nhiều vốn, có mức lợi nhuận không cao mà các nhà đầu tư lớn ít
quan tâm tới. Đây cũng là quan điểm của Đảng ta trong quá trình Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.
1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế
ngoài quốc doanh.
1.2.1 Khái niệm Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai
đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày
nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa
trên những nguyên tắc:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như
hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản...
- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau
khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người
cho vay.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
12
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.
Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín
dụng Nhà nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển
quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng
trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả
cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định.
Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín
dụng Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với
các cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế,
Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan
hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là
người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng
nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền
gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay,
Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với
tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, còn tín dụng
Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ -
chủ yếu là bút tệ.
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy
theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là
một số cách phân loại phổ biến hiện nay:
Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12
tháng, tín dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung vốn lưu động của
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ
có giá; cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời
sống với hộ tư nhân, cá thể.
+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 12 tháng
đến 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài
sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn
nhanh.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
13
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín
dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như: xây
dựng nhà ở, các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, đầu tư
xây dựng các nhà máy, xí nghiệp.
Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các
chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá
tiêu dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng
tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài
sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả
năng hoàn trả của khoản vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay
hoặc bảo lãnh bằng uy tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng
đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ
ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín
dụng khác) để đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được
tất cả các Ngân hàng áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt
là khoản vay lớn, các khoản đầu tư trung, dài hạn.
Căn cứ vào đối tượng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu
động cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh
doanh như mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất,
cho vay để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường
được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho
vay vốn ngắn hạn thường dưới 12 tháng.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố
định. Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công
trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng.
Căn cứ vào hình thức ,tín dụng bao gồm:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
14
+Chiết khấu:Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu
một thương phiếu chưa đên hạn(hoặc một giấy nợ).Đay chỉ là hình thức trao
đổi trái quyền.
+Cho vay:Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Có
nhiều loại cho vay:
Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người
vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.Giới hạn naỳ được gọi là
hạn mức thấu chi.
Cho vay trực tiếp từng lần.
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với
các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,không có điều kiện để
được cấp hạn mức thâu chi.Mỗi lần vay,khách hàng phải làm đơn và trình
ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và
kí hợp đồng cho vay,xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,thời hạn trả
nợ,lãi suất và yeu cầu đảm bảo nếu cần.Mỗi món vay được tách biệt thành các
hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc
cuối kỳ.Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên
cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của
khách hàng.
Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.Doanh
nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng
và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận
với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng
hóa và khả năng tiêu thụ.hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một
hoặc vài năm.
Cho vay trả góp
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
15
Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho taì
sản cố định hoặc hàng lâu bền.Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ.
Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó,
ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp-là hình thức cho
vay thông qua các tổ chức trung gian.
+Bảo lãnh:là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng của mình thông qua uy tín của ngân hàng,qua đó để thu
lợi.
+Cho thuê:Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định.Sau thời gian nhất định, khác hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài
hạn.Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân
hàng phải thu gần đủ(hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi.Hết hạn
thuê,khách hàng có thể mua lạo tài sản đó.
1.2.3. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các
bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông
thường, để đảm bảo hiệu quả tín dụng thì quy trình tín dụng phải tuân theo các
bước sau:
1. Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới.
2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
3. Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
4. Ra quyết định cho vay, thông báo đến khách hàng.
5. Kiểm tra, hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh.
6. Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.
7. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án.
8. Thu hồi vốn và xử lý nợ.
9. Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng.
Thực vậy, tuân theo các bước của quy trình tín dụng, Ngân hàng sẽ tìm kiếm,
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
16
lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình
tín dụng cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ để trở thành kỹ năng,
nghệ thuật cho vay của Ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với
yêu cầu đa dạng của thị trường.
1.2.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của
kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam nói riêng.
ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế và chiến lược kinh tế - xã hội
khác nhau cho nên vai trò tín dụng Ngân hàng được thể hiện và có những định
hướng khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra
là tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói
chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng.
-Tín dụng Ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và
góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh,
kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình sản xuất
kinh doanh mới ra đời. Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào cũng có nguồn
tiền nhàn rỗi và chưa sử dụng trong mọi tổ chức, thành phần kinh tế. Tín dụng
Ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn
của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, các tổ chức kinh tế có thể mở tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng để phục vụ cho hoạt động giao dịch với các tổ chức khác và
tiền gửi trong tài khoản của các đơn vị luôn phải có số dư nhất định. Nhờ vậy
mà Ngân hàng có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá
trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế - xã hội và nguồn dự trữ
chưa dùng đến của ngân sách Nhà nước, hình thành nên nguồn vốn. Từ đó,
ngân hàng tiến hành phân phối các nguồn đó một cách có kế hoạch, đáp ứng
nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở rộng.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành
kinh tế mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả
nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài
nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
17
hội thì không thể thiếu vai trò của tài chính tiền tệ. Trong đó, tín dụng Ngân
hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông
qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư
vào các ngành, các công trình trọng điểm... Bên cạnh đó, Ngân hàng còn tập
trung tín dụng tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của
các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển
như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng...
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và
luân chuyển tiền tệ.
Bằng việc nhận và trả tiền gửi, mở tài khoản và thanh toán qua Ngân
hàng với quy mô ngày càng lớn và có tính chất thường xuyên, liên tục. Hoạt
động thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra qua hệ thống
NHTM đã làm tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.
Ngoài ra, sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đi đôi với
việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu
thông tiền tệ. Đây cũng là một trong những phương thức để kiềm chế lạm
phát.
- Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và
kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh
tế.
Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung
thống nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng Ngân
hàng thực hiện chức năng trên. Thông qua việc thực hiện phân phối lại tiền tệ
trên nguyên tắc hoàn trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng
phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích
cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng Ngân hàng là không thể tách rời
nhau trong chức năng này. Do đó, nó được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế
không thể thiếu được trong công tác quản lý tài chính, kiểm soát các quá trình
sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội thực hiện và củng cố chế độ hạch toán
kinh tế.
-Tín dung ngân hàng tham gia vào quá trình hình thành và phát
triển của khu vực kinh tế NQD
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
18
Mặc dù nguồn vốn ban đầu của các cơ sở kinh tế NQD là chủ yếu dựa
vào tích luỹ cá nhân, gia đình. Song vốn tín dụng cũng đóng góp một phần
không nhỏ, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập dựa trên
cả 2 nguồn: tích luỹ và tín dụng. Trong năm 2004, trên 14 triệu hộ gia đình
nông thôn trở thành hộ sản xuất kinh doanh được ngân hàng cho vay vốn. Đặc
biệt, tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát
triển các công ty cổ phần một bộ phận lớn trong khu vực kinh tế NQD. Trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanhcủa công ty cổ phần luôn xảy ra hiện
tượng tạm thời thiếu hoặc thừa vốn. Tình trạng này được giải quyết thông qua
quan hệ tín dụng. Việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ
phiếu cùng được thực hiện thông qua thị trường vốn, thị trường tiền tệ là các
mặt hoạt động có liên quan đến tín dụng ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
và hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế NQD.
-Tín dụng ngân hàng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp NQD
Thị trường đang trở nên cạnh tranh khốc liệt từng ngày. Để đứng vững
trong thương trường, chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn chú
trọng vào bốn lĩnh vực. Đó là: giá cả và chất lượng; sự kịp thời và bí quyết; cổ
phần và chi phối; đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế NQD ở Việt Nam thì lĩnh vực được quan nhất đó là giá cả và chất
lượng. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành hợp lý thì phải đầu
tư áp dụng khoa học công nghệ mới. ở đây khó khăn lại là vấn đề vốn. Tín
dụng ngân hàng là yếu tố hợp lý nhất để tháo gỡ vấn đề này (hợp lý cả về số
lượng, giá cả, lãi suất và thời hạn). Như vậy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện
nâng cao sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế NQD.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động
kinh doanh và đầu tư có hiệu quả
Tín dụng ngân hàng không phải rải đều bất kỳ cho khách hàng nào có
nhu cầu mà chọn lọc khách hàng làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, để tiếp cận tín
dụng ngân hàng một cách dễ dàng trước hết các doanh nghiệp phải nỗ lực
kinh doanh có hiệu quả.
Bên cạnh đó, khi cấp tín dụng cho một dự án đầu tư, thì trước đó quá trình
thẩm định khắt khe của ngân hàng phải thấy được tính khả thi, hiệu quả
của nó. Trong quá trình cho vay, ngân hàng luôn giám sát việc sử dụng
vốn vay của các doanh nghiệp. Do đó, chính tín dụng đã có khả năng loại
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
19
trừ các dự án không khả thi. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
-Tín dụng ngân hàng là cầu nối cho các thành phần kinh tế NQD
Việt Nam thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế
Ngày nay trong quan hệ kinh tế quốc tế, sự hợp tác bình đẳng, cùng có
lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh
mẽ. Trong đó đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai
lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng nhất. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên
cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng thực tế hầu hết các chủ thể của khu
vực kinh tế NQD không đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng thông qua hoạt động
tín dụng sẽ là trở thủ đắc lực cho các doanh nghiệp NQD đầu tư và kinh doanh
xuất nhập khẩu.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Với định hướng của Đảng và Nhà
nước, các NHTM đang xây dựng một chiến lược về thị trường nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, phục vụ cho sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.3.1. Chất lượng tín dụng.
chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lí của
khách hàng có lựa chọn,đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.Nói cách khác, chất lượng tín dụng
là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự
phát triển của môi trường bên ngoài,thể hịên sức mạnh cạnh tranh của ngân
hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Nói cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là chất lượng các món
vay,được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng
có mục đích,phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trả nợ
ngân hàng đúng hạn,bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân
hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế,vừa đem laị hiệu quả xã hội.
Dựa vào lợi ích các bên tham gia trong quan hệ tín dụng,có thể xem xét
khái niệm chất lượng tín dụng trên ba khía cạnh:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử
dụng của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý. Thủ tục giản đơn thu hút
được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
20
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và
lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất.
- Đối với NHTM: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với
thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn
và có lãi của tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt
động, mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt
động tín dụng.
1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
1.3.2.1.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá quy mô
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:
Vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có trên = --------------------------
tổng tài sản Có Tổng tài sản Có
-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng
và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều
chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại
bảng của ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có
tùy thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau,
phản ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng.
-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn
tự có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có
thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của
ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát
triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi
ro nhất định.
b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD.
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh
số dư nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho
vay NQD là số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế
ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
21
-Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm.
DN tín dụng = DN tín dụng + DS cho vay - DS thu nợ
NQD NQD kỳ trước NQD trong kỳ NQD trong kỳ
-Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng
thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối
với thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số.
1.3.2.1. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng có thể định
lượng
a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu)
Tỷ lệ này được đo bởi công thức:
Vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có trên = --------------------------
tổng tài sản Có Tổng tài sản Có
-Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng
và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
-Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều
chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại
bảng của ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có
tùy thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau,
phản ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng.
-.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn
tự có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có
thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của
ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát
triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi
ro nhất định.
b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD.
Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh
số dư nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho
vay NQD là số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế
ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
-Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
22
DN tín dụng = DN tín dụng + DS cho vay - DS thu nợ
NQD NQD kỳ trước NQD trong kỳ NQD trong kỳ
-Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng
thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ.
Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối
với thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số.
c)Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là khi đến thời hạn thanh
toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của
mình đối với người cho vay.Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, trước hết, nó vi phạm đặc trưng của tín dụng về tính thời
hạn,tính hoàn trả và lòng tin của người cấp tín dụng với người nhận tín dụng.
Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD được đo bởi công thức sau:
Tổng số dư nợ quá hạn NQD
Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD = ------------------------------ ------ *100%
Tổng dư nợ cho vay NQD
Về cơ bản, Tỷ lệ Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín
dụng có vấn đề - những khoản cho vay quá hạn mà ngân hàng không thu hồi
được.Mặc dù các khoản tín dụng có vấn đề là kết quả của nhiều yêú tố nhưng
cơ bản là kết quả của sự không sẵn lòng chi trả của khách hàng vay vốn, hoặc
không có khả năng thực hiện hợp đồng để giảm bớt dư nợ hay toàn bộ khoản
vay như đã thỏa thuận, cá biệt có âm mưu chiếm dụng vốn.
d)Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD.
Tỷ lệ này được đo bởi công thức sau:
Nợ quá hạn khó đòi NQD
Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD = ---------------------------------- *100%
Tổng dư nợ NQD
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn gia hạn nợ
quá hạn mà khách hàng còn nợ ngân hàng.Cùng với chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ
tiêu này thể hiện chất lượng tín dụng tốt hay xấu.Tỷ lệ này càng cao biểu hiện
cho dấu hiệu của một khoản tín dụng xấu và ngược lại.Tốt nhất, nên hạn chế
tỷ lệ này ở mức dưới 1%.
Chỉ tiêu này được đo bởi công thức:
Lợi nhuận từ tín dụng NQD
Tỷ lệ LN từ cho vay NQD =
Tổng dư nợ tín dụng NQD
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
23
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường chất
lượng tín dụng của ngân hàng.Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín
dụng NQD. Tỷ lệ này càng cao nghĩa là lợi nhuận thu được từ tín dụng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào thu nhập của ngân hàng càng lớn, thể
hiện chất lượng tín dụng đối với thành phần này càng cao.
1.3.2.2.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng không thể
định lượng.
Bên cạnh những chỉ tiêu đánh gía chất lượng có thể tính toán như
trên, còn có những tiêu chí khác để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng
không thể đo lường và tính toán cụ thể:
-Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù
hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngan hàng trong từng giai đoạn.
-Hệ thống tranh thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác
nghiệp vụ một cách thuân lợi, hiệu quả.
-Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề
nghiệp,đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của
ngân hàng.
-Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm
bảo quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,vừa thuận tiẹn với khách hàng,vừa
đảm bảo tín dụng cho ngân hàng.
-Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối
quan hệ với các khách hàng truyền thống.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
chất lượng tín dụng là hai chỉ tiêu luôn đi liền nhau. Bởi lẽ, nếu mở
rộng quy mô mà không tính đén chất lượng thì sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn. Nếu
chỉ tăng chất lượng mà không quan tâm đến quy mô tín dụng thì không đạt
hiệu quả kinh tế tối ưu. Do mối quan hệ mật thiết giữa hai chỉ tiêu này mà hầu
hết những nhân tố tác động lên chỉ tiêu này thì cũng có tác động lên chỉ tiêu
khác và ngược lại.
1.3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
a) Kinh tế
Về tổng thể, nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tín dụng. Khi đó, các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp NQD nói riêng sẽ phát triển lành
mạnh. Và như thế, quy mô và chất lượng tín dụng đều được nâng cao. Một khi
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
24
môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây
khó khăn cho hoạt động của khu vực kinh tế NQD - khu vực không có sự hỗ
trợ đặc biệt của nhà nước thì quy mô và chất lượng tín dụng cũng bị ảnh
hưởng mà trước hết là nợ quá hạn tăng sau đó là quy mô tín dụng giảm dần.
b) Nhóm xã hội
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Sự tín nhiệm là
cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng nào có uy tín cao thì sẽ thu
hút khách hàng lớn. Khách hàng nào làm ăn hiệu quả, được tín nhiệm trong
quan hệ tín dụng sẽ được vay vốn dễ dàng, được hưởng các ưu đãi của ngân
hàng. Niềm tin lẫn nhau là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và đảm bảo cho
chất lượng tín dụng.
c) Nhân tố pháp lý
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy
đủ thống nhất của các văn bản dưới luật. Đồng thời gắn liền với quá trình chấp
hành pháp luật và trình độ dân trí. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận tiện và
đạt hiệu quả cao là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp. Vì vậy nhân tố
pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung
và hoạt động tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia
quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng
mới đem lại lợi ích cho cả 2 phía, chất lượng tín dụng được đảm bảo và quy
mô tín dụng có môi trường mở rộng.
1.3.3.2. Nhân tố chủ quan
a) Về phía khách hàng
Nếu các chủ thể kinh tế NQD làm ăn có hiệu quả, uy tín thì chắc chắn
nhu cầu tín dụng của họ sẽ được ngân hàng đáp ứng đầy đủ. Ngược lại nếu
làm ăn thua lỗ, cạnh tranh không lành mạnh thì các ngân hàng không thể cho
họ vay được. Kết quả là quy mô tín dụng không được mở rộng và chất lượng
tín dụng không có cơ sở đảm bảo. Do đó, để tiếp cận nguồn tín dụng ngân
hàng, các chủ thể kinh tế NQD cần nỗ lực hoạt động kinh doanh, tạo uy tín
đối với các NHTM.
b) Về phía các NHTM
*Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
25
khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân
thủ pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước. Điều này có nghĩa là quy
mô và chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng của ngân hàng
có đúng đắn hay không.
* Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng bao gồm các quy định phải thực hiện trong quá trình
cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng có
được bảo đảm hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng
bước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng đảm bảo
vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch. Ngoài ra, việc
linh hoạt trong quy trình tín dụng cũng sẽ gây cảm tình cho khách hàng và từ
đó quy mô tín dụng có cơ sở được mở rộng.
* Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh
doanh của khách hàng, rủi ro mà khách hàng có thể gặp phải... Thông tin càng
đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro của
ngân hàng càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao. Mặt khác, một
ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể đưa ra những tư vấn hữu ích
cho khách hàng. Và đây chính là yếu tố mở rộng quy mô tín dụng.
* Hoạt động huy động vốn:
Ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc "Đi vay để cho vay", đóng
vai trò là trung gian tài chính. Vì vậy, muốn mở rộng cho vay thì trước hết
phải huy động được nguồn. Nguồn vốn càng huy động được nhiều, đa dạng
thì quy mô cho vay càng lớn. Và chất lượng của nguồn huy động cũng gián
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Công tác tổ chức của ngân hàng:
Tổ chức của ngân hàng được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong ngân hàng sẽ tạo điều
kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng quản lý sát
sao các khoản cho vay. Đây là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và tiến
hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh.
* Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất:
Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp,
marketing của người cán bộ ngân hàng. Cơ sở vật chất là máy móc, phương
tiện làm việc. Đây là hai yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự thu hút khách
hàng của ngân hàng. Đặc biệt đối với đối tượng khách hàng là khu vực kinh tế
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
26
NQD, khả năng tiếp xúc khách hàng của cán bộ công nhân viên là yếu tố
quyết định đến mở rộng quy mô tín dụng. Ngoài ra, trình độ nghiệp vụ của
cán bộ cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của khoản cho vay.
Tóm lại: Qua nghiên cứu nội dung nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và
chất lượng tín dụng ta thấy: tuỳ theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội, sự
hoàn thiện cơ sở pháp lý của từng nước cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật
chất kỹ thuật của từng NHTM mà các nhân tố này có mức độ ảnh hưởng khác
nhau. Vấn đề cơ bản đặt ra là chúng ta phải năm chắc nhóm các nhân tố này,
biết vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể, từ đó tìm ra biện pháp quản lý
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
27
Chương II
Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh tại sở giao dịch I - ngân hàng Đầu tư & PHáT TRIểN
Việt Nam
2.1. Khái quát về SGDI - nhđt&ptvn
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển .
Sở Giao dịch được thành lập theo Quyết định số 572 TCCB/ ĐT ngày
26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy
của NHĐT&PTVN và Quyết Định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của
Tổng Giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN. Theo các Quyết định này, Sở Giao
dịch là đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài
khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở
đặt tại 191 Đường Bà Triệu-Hai Bà Trưng- Hà nội .
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Sở Giao dịch trải qua hai
thời kỳ:
- Thời kỳ từ 1991 - 1995: nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát
vốn ngân sách cho đầu tư XDCB.
- Thời kỳ từ 2000 đến nay:
Năm 2000 các chỉ tiêu đề ra không còn nhưng một số dự án lớn vẫn còn
kéo dài trong đó có nhiều dự án mang tính bao cấp chỉ thị. Chỉ đến năm
2001 sở mới chính thức hạch toán độc lập.
Ngoài ra dưới sự chỉ đạo của Hội Sở Chính, SGD đã trực tiếp xây
dựng, phát triển, cũng như chia sẻ thị trường và nguồn nhân lực để thành
lập nên các chi nhánh cấp I trực thuộc Hội Sở Chính như: chi nhánh Bắc
Hà Nội (cuối 2002), chi nhánh Hà Thành(T9/2003), chi nhánh Đông
Đô(31/7/2004).
SGD là đại diện phỏp nhõn của Ngõn hàng éầu tư & Phỏt triển Việt
Nam, cú con dấu riờng, Ngày 19/01/2005 SGD chuyển về toà nhà VINCOM,
191 Bà Triệu, Hà Nội.
SGD phải làm tất cả các nhiệm vụ mà trung ương giao, cụ thể là cú
nghĩa vụ sử dụng cú hiệu quả, bảo toàn và phỏt triển vốn cựng cỏc nguồn lực
khỏc được giao để thực hiện cỏc mục tiờu kinh doanh và cỏc nhiệm vụ do
Ngõn hàng éầu tư và Phỏt triển Việt Nam giao : xây dựng kế hoạch dài hạn,
kế hoạch hàng năm về hoạt động kinh doanh phự hợp với chiến lược phastriển
của toàn ngành và của chớnh Ngõn hàng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
28
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Sở Giao Dịch:
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Sở Giao Dịch.
Theo Quyết định số 76 QĐ/TCCB, Sở Giao dịch được quản lý, sử
dụng vốn, tài sản và các nguồn lực khác của NHĐT&OPTVN và các nguồn
vốn huy động, tiếp nhận và đi vay theo quy định của pháp luật và hướng
dẫn của NHĐT&PTVN để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
+Sở Giao dịch có nghĩa vụ:
- Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tài sản và các nguồn
lực khác của NHĐT&PTVN.
- Hoàn trả đầy đủ và đúng hạn tiền vốn cho khách hàng gửi tiền theo
thoả thuận.
- Các khoản nợ, phải thu, phải trả trong Bảng tổng kết tài sản trong
phạm vi số vốn do Sở Giao dịch quản lý.
- Hoàn trả các khoản tín dụng do Sở Giao dịch trực tiếp vay hoặc thực
hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng được SGD bảo lãnh nếu khách hàng
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Là nơi thử nghiệm các sản phẩm mới của hệ thống NHĐT&PTVN
như hệ thống ATM, HomeBanking.
+ Sở giao dịch có quyền thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi
thanh toán của các tổ chức, dân cư trong nước, nước ngoài bằng đồng Việt
Nam và ngoại tệ.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu
Ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế và hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt Nam và
ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình thuộc mọi thành
phần kinh tế, theo cơ chế tín dụng của NHNN và NHĐT&PTVN.
- Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá theo quy
định của NHNN và NHĐT&PTVN.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán L/C, bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh,
kinh doanh ngoại tệ theo quy định của NHĐT&PTVN.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
29
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác như: thanh toán, chuyển
tiền trong nước và quốc tế, chi trả kiều hối, thanh toán séc và các dịch vụ
Ngân hàng khác.
- Kinh doanh vàng bạc, kim khí quý, đá quý.
- Thực hiện nguyên tắc an toàn kho quỹ, bảo hiểm tiền mặt, ngân
phiếu thanh toán và các ấn chỉ quan trọng. Đảm bảo chi trả tiền mặt, ngân
phiếu thanh toán chính xác kịp thời.
- Kinh doanh chứng khoán, làm môi giới, đại lý phát hành chứng
khoán. Cất trữ, quản lý, bảo quản, quản lý chứng khoán và các giấy tờ có
giá, các tài sản quý cho khách hàng theo quy định của NHNN và
NHĐT&PTVN.
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do NHĐT&PTVN giao.
2.1.3.Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch được trình bày qua sơ đồ sau
Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc. Đội ngũ cán bộ
tăng nhanh về số lượng, đến 31/12/2004 lên tới trên 270 người, tăng 2% so
với cuối năm trước, Số cán bộ có trình độ Cao đẳng, Đại học chiếm 68%, trên
Đại học chiếm 4,3%. Độ tuổi bình quân của các cán bộ, nhân viên là 27 tuổi
SGD có 11 phòng, được tổ chức và sắp xếp theo Quyết định số 210
QĐ/TCCT ngày 18/12/1998 của Tổng Giám đốc NHĐT&PTVN, về việc
thành lập bộ máy của Sở Giao dịch như sơ đồ trên.
Sự phân chia rõ chức năng, nhiệm vụ của từng phòng có tác dụng giới
hạn nghĩa vụ, quyền hạn trên cơ sở đó thực hiện chuyên môn hoá sâu trong
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng
nguồn
vốn
kinh
doanh
Phòng
quản
lý
khách
hàng
Phòng
tín
dụng
1;2
Phòng
thanh
toán
quốc
tế
Phòng
điện
toán
Phòng
Giao
dịch
1,2,3
Phòng
kế
toán
tài
chính
Phòng
t.chức
hành
chính
k.quỹ
Chi
nhánh
gia
lâm
Quỹ tiết
kiệm 3
Quỹ tiết
kiệm 4
Quỹ tiết
kiệm 5
Quỹ tiết
kiệm 6
6666
Quỹ tiết
kiệm 2
Quỹ tiết
kiệm số1
Quỹ tiết
kiệm 7
Phòng
kiểm
soát
nội
bộ
Phòng
giao
dịch
trung
tâ
Quỹ tiết
kiệm 8,9
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
30
một lĩnh vực hoạt động của SGD.Tuy nhiên, sự phân chia chỉ có tích chất
tương đối các phòng đều có quan hệ hữu cơ với nhau trong một tổng thể
chung, phụ trợ và tăng cường cho nhau.
Nói tóm lại, mỗi phòng trong SGD là độc lập tương đối, chuyên
môn hoá trong lĩnh vực của mình để thực hiện tham mưu cho ban Giám đốc
các hoạch và chính sách kinh doanh của từng lĩnh vực, nghiệp vụ. Các phòng
thống nhất với nhau qua mục đích chung đó là cùng đóng góp vào quá trình
tối đa hoá lợi nhuận cho Sở giao dịch và hoàn thành tốt các nhiệm vụ
NHĐT&PT VN giao.
2.1.4. Các hoạt động kinh doanh cơ bản và tình hình hoạt động kinh
doanh của Sở giao dịch NHĐT&PTVN trong thời gian qua.
2.1.4.1 Môi trường hoạt động
Năm 2004, tình hình kinh tế xã hội nước ta tiếp tục phát triển theo
chiều hướng tích cực, các mục tiêu cơ bản được hoàn thành. Hoạt động kinh
tế năm 2004 chịu nhiều ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp từ bối cảnh kinh tế-
thương mại trong và ngoài nước. Kinh tế thế giới trên đà hồi phục với sự tăng
trưởng mạnh của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc
dù vẫn song hành nhiều nhân tố bất ổn như nguy cơ khủng bố luôn đe dọa
nhiều nền kinh tế lớn, căng thảng chính trị ở Trung Đông và những dịch vụ
khác; dịch cúm gia cầm lan rộng, chưa được khống chế ở nhiều nước châu á,
thiên tai và dịch bệnh ở nhiều nơi trên thế giới. Trong nước sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ tiếp tục tăng trưởng. Hoạt động thương mại có
những nét khả quan, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 26 triệu USD, tăng
29% so với thực hiện năm 2003, đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2001 đến
nay. Mức tăng trưởng xuất khẩu cao trong năm 2004 là nhân tố quan trọng
góp phần đưa tốc độ tăng trưởng GDP lên 7,6% so với năm 2003; tình hình
nhập siêu đã bước đầu cải thiện so với năm 2003 (giảm gần 4% so với mức
nhập siêu năm 2003), góp phần ổn định cán cân thanh toán quốc gia. Tuy
nhiên, hoạt động kinh tế vẫn còn những bất cập, thị trường nước ngoài vẫn
còn rộng lớn chưa có sự tham gia rộng rãi của các doanh nghiệp Việt Nam,
tình trạng mất cân đối giữa các ngành, các vùng. Bên cạnh đó, chỉ số giá tăng
cao 9,5%, đây là mức chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhất trong 9 năm qua do
tăng giá ở nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tân dược, một số nguyên liệu
đầu vào cho sản xuất nhất là các nguyên, nhiên liệu nhập khẩu. Ngoài nguyên
nhân do giá thế giới của nhiều mặt hàng tăng, còn nguyên nhân do dịch cúm
gia cầm.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
31
Tình hình hoạt động kinh tế khả quan với lạm phát duy trì ổn định, tạo
điều kiện cho phát triển kinh tế và tăng mức sống bình quân, tỷ lệ thất nghiệp
giảm, tỷ giá hối đoái duy trì tương đối ổn định, nhờ đó hoạt động kinh doanh
ngân hàng có nhiều thuận lợi song cũng gặp không ít khó khăn. Nhu cầu vốn
cho phát triển kinh tế ngày càng tăng, hầu hết các ngân hàng có tốc độ tăng
trưởng dư nợ cao hơn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động.
Do vậy, trong năm có thời kỳ các ngân hàng đều ở trong tình trạng căng thẳng
về vốn, đặc biệt là nguồn vốn VND. Nhiều thành phần kinh tế tham gia huy
động vốn như bưu điện, bảo hiểm... với nhiều hình thức và lãi suất huy động
hấp dẫn. Để cạnh tranh , nhiều ngân hàng đã hạ lãi suất cho vay, tăng lãi suất
tiền gửi, các điều kiện cho vay cũng được nới lỏng, chênh lệch lãi suất đầu ra
và đầu vào ngày càng thu hẹp, do đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
chính bản thân ngành ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều thuận lợi như vậy, BIDV nói
chung và SGD I nói riêng cũng đạt được những thành tựu đáng kể được thể
hiện qua các chỉ tiêu đạt được trong quá trình kinh doanh.
2.1.4.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Sở giao dịch trong thời gian qua.
* Về công tác huy động vốn
Trong năm 2004 số dư huy động đạt hơn 9000 tỷ, Sở Giao Dịch đã cố
gắng duy trì và giữ vững được vốn với doanh số giao dịch lớn hàng ngày, huy
động vốn bình quân đầu người của sở lớn hơn so với toàn ngành. Không
ngừng tiếp cận, mở rộng số khách hàng có tiềm năng tiền gửi thanh toán để
khai thác kênh huy độngvốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp, ổn
định cơ cấu và hạ giá thành đầu vào. Số dư huy động vốn từ các tổ chức tính
đến 30/11 đạt 3990 tỷ tăng 230 tỷ so với đầu năm. Đây là nguồn vốn lớn, chi
phí thấp và có tính ổn định cao.
Bên cạnh công tác chủ động duy trì thị phần và mở rộng khách hàng,sở
thực hiện tốt công tác huy động chứng chỉ tiền gửi ,triển khai sản phẩm mới
nâng tổng số khách hàng lên 23000 thuộc mọi thành phần kinh tế
Bảng 1: Huy động vốn Đơn vị: tỷ đồng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
32
Nguồn báo cáo tài chinh 2003- 2004
Bảng 2: *Hoạt động tín dụng Đơn vị: tỷ đồng
*Cơ cấu tớn dụng:
Loại vay Dư nợ 2003 % Dư nợ Dư nợ 2004 % Dư nợ
Ngắn hạn 551 19.60% 708 23.55%
Trung dài hạn 2259 80.40% 2300 76.45%
1. TDH TM 2332 82.99% 2615 86.92%
2. KHNN và CĐ 478 17.01% 393 13.08%
Tổng 2810 100% 3008 100%
Chỉ tiờu Dư nợ Tỷ lệ % So với tỷ lệ KH
Kinh tế quốc doanh 2497 83.01%
Kinh tế ngoài quốc doanh 511 16.99% khụng đạt (17%)
Tổng 3008 100%
*Đỏnh giỏ chất lượng hoạt động tớn dụng:
Chỉ tiờu Nợ quỏ hạn 31/12/03 Nợ quỏ hạn 31/12/04
Tuyệt đối Tỷ lờ % Tuyệt đối Tỷ lệ %
Tổng khụng bao gồm ODA 77571 46718
Tỷ lệ nợ quỏ hạn / Tổng số dư 1.46% 0.92%
Trong đú
1. Ngắn hạn 37632 48.51% 22430 48.01%
Huy động vốn
Nhúm khỏch hàng Thực hiện 2003 Thực hiện 2004
1. Tiền gửi TCTC 1726 18.76% 1949 21.36%
2. Tiền gửi TCKT thụng thường 1938 21.07% 1745 19.12%
3. Huy động dõn cư 5536 60.17% 5432 59.52%
Tổng số 9200 9126
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
33
2. Trung dài hạn 21919 28.26% 18759 40.15%
3. KHNN 1799 2.32% 1780 3.81%
4. Chỉ định 16221 20.91% 3749 8,03%
Báo cáo tín dụng năm 2003-2004
Chất lượng tín dụng của Sở Giao Dịch là tốt vì qua các năm tỷ lệ nợ
quá hạn trên tổng dư nợ liên tục giảm và nằm trong giới hạn cho phép, cho
thấy công tác thu nợ đạt được kết quả tốt và hoàn thành kế hoạch được giao.
Trong cơ cấu tín dụng, các khoản tín dụng ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng
lớn. Cho vay theo kế hoạch của nhà nước và cho vay theo chỉ định của chính
phủ tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Xu hướng trong những năm tới cần
tiếp tục nâng cao tỷ trọng cho vay ngắn hạn và giảm thiểu các khoản cho vay
theo chỉ định của chính phủ – các khoản cho vay có độ rủi ro lớn nhưng lợi
nhuận không cao.
*Về công tác dịch vụ
Năm 2002 thu ròng từ hoạt động dịch vụ cả năm là 27,4 tỷ đạt 101,48%
kế hoạch được giao bằng 332,24% lợi nhuận trước thuế. Các dịch vụ như bảo
lãnh, thanh toán trong nước, chi trả kiều hối, kinh doanh ngoại tệ đã có tăng
trưởng và phát triển mạnh cụ thể như sau :
- Thu dịch vụ ngân hàng trong nước và ngân quỹ đạt 2,7 tỷ đồng.
- Thu dịch vụ thanh toán quốc tế 6,5 tỷ
- Thu dịch vụ bảo lãnh 9 tỷ
- Tài trợ ủy thác 2 tỷ, thu kinh doanh ngoại tệ đạt 7,2 tỷ
*Công tác bảo lãnh : công tác bảo lãnh đạt kết quả tốt. Doanh số
bảo lãnh năm 2002 đạt 1808,45 tỷ, số dư bảo quy đổi là 1964,6 tỷ tăng 80% so
với 31/12/2001, tăng 6% so với kế hoạch. Thu từ dịch vụ bảo lãnh 9 tỷ đồng
chiếm 33,33% so với tổng thu dịch vụ trong cả năm.
*Công tác thanh toán quốc tế : doanh số hoạt động thanh toán quốc
tế đạt hơn 451 triệu USD bằng 101,2% với 2001, đạt 96,09% kế hoạch năm
2002. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 233 triệu USD. Chuyển tiền đi
và chuyển tiền đến ( mậu dịch ) trong năm 2002 tăng lên 120% so với năm
2001 là 10500 món nhưng doanh số lại giảm chỉ đạt được 125,8 triệu USD.
Thu phí dịch vụ từ thanh toán quốc tế là 6,5 tỷ, bằng 148,09% năm 2001 và
đạt 116,07% kế hoạch năm.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
34
Đã soạn thảo và hoàn tất quá trình hạch toán chuyển tiền nhanh
(Western Union) đã được Ban lãnh đạo duyệt và đưa vào áp dụng.
Năm 2004 Sở không ngừng cải tiến quy trình, tác phong giao tiếp để
phục vụ khách hàng tốt nhất, phát triển các dịch vụ hiện có đồng thời mở
rộng thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, như nhờ thu hàng xuất, thanh toán
liên ngân hàng, VCB – money. Phát triển thu dịch vụ và mở rộng thị phần
cũng như uy tín trên địa bàn. Tổng thu dịch vụ 23 tỷ đạt 18,4% tổng doanh
thu toàn đơn vị.
* Công tác tiền tệ kho quỹ.
Công tác tiền tệ kho quỹ luôn đảm bảo thu chi kịp thời, không để tiền
đọng, không để khách hàng phải chờ đợi; đảm bảo việc kiểm đếm, vận
chuyển, bảo quản tiền và các chứng từ có giá, không để xảy ra mất mát, hư
hỏng, đảm bảo an toàn kho quỹ.
Hiện nay tình hình tiền giả xuất hiện nhiều đang trở thành áp lực với
công tác kiểm ngân nhưng cán bộ ngân quỹ vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
*Công tác kiểm tra-kiểm soát nội bộ.
Để đảm bảo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được an toàn, công tác kiểm
tra-kiểm soát đã được thực hiện trên tất cả các mặt nghiệp vụ của chi
nhánh với nhiều hình thức: kiểm tra thường xuyên, kiểm soát từ xa, kiểm
tra tại chỗ.
Qua công tác kiểm tra nội bộ đã phát hiện và chấn chỉnh bổ sung kịp
thời những thiếu sót trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng,
hạn chế rủi ro trong kinh doanh, góp phần tích cực vào kết quả hoạt đông
và sự phát triển của chi nhánh.
* Công tác quản trị điều hành
-Tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật cũng như các quy
định của ngành, hệ thống.
- Chấp hành đầy đủ chế độ thông tin kịp thời, chính xác.
- Thực hiện đúng chế độ phân cấp uỷ quyền.
- Hàng tháng có sơ kết đưa ra mục tiêu giải pháp cho tháng, quý
sau, phát động thi đua khen thưởng vật chất kịp thời động viên cá nhân tập thể
có thành tích suất xắc trong tháng, tổ chức các buổi hội thảo năng cao chất
lượng làm việc của CBCNV
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
35
- Thực hiện tốt quản lý tài sản, đảm báo các điều kiện làm việc
của cơ quan, thực hiện tốt công tác liên quan đến chế độ chính sách và đời
sống của CBCNV.
*Hiệu quả kinh doanh
Chênh lệch thu chi năm 2004 đạt 215 tỷ VND(trong đó 34 tỷ trích
dự phòng rủi ro),lợi nhuận trước thuế đạt 167 tỷ bằng 125% kế hoạch được
giao,tăng trưởng so với năm trước là 46,93%,trong đó tỉ trọng thu từ hoạt
động dịch vụ là 32,24%,tăng 61,17% so với 2003
-Trích dự phòng rủi ro đạt 34 tỉ, hoàn thành 106,255% kế hoạch
được giao
-ROA đạt 0,87, hoàn thành125% kế hoạch được giao.
Tóm lại, Hoạt động của SGD trong những năm vừa qua là rất khả
quan, và trong những năm tới, với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể cán bộ
công nhân viên và của những người lãnh đạo, SGD sẽ còn tiếp tục phát
triển và khẳng định vị trí trọng tâm của mình trong hệ thống Ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Việt Nam, cũng như trong hệ thống ngân hàng nói
chun
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh tại Sgd I- NHĐT& PTVN
2.2.1.Những quy định chung về tín dụng ngân hàng đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh
2.2.1.1. Nguyên tắc vay vốn.
Khách hàng vay vốn của SGD phải đảm bảo:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng.
2.2.1.2. Điều kiện vay vốn.
SGD xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều
kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
+ Pháp nhân phải có năng lực dân sự.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
36
+ Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân, Đại diện hộ gia đình, Đại
diện tổ hợp tác, Thành viên hợp danh của Công ty hợp danh phải có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và
có hiệu quả; hoặc có dự án đấu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và
phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
+ Các nhu ầu tài chính khác phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống theo quy định của NHNN.
2.2.1.3. Lãi suất cho vay.
- Mức lãi suất cho vay do SGD và khách hàng thoả thuận phù hợp với
quy định của NHNN Việt Nam.
- Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được
ưu đãi về lãi suất do Tổng giám đốc NHĐT thông báo theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của NHNN.
- Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do SGD ấn định
và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt
quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết
hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
2.2.1.4. Phương thức cho vay.
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, độ
tín nhiệm của khách hàng trong quan hệ tín dụng và khả năng kiểm tra,
giám sát việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng, Ngân hàng sẽ thoả thuận với
khách hàng về việc lựa chọn phương án cho vay theo một trong các phương
thức sau:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và SGD thực hiện thủ
tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: SGD và khách hàng xác định thoả
thuận một mức dư nợ tối đa duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
37
- Cho vay theo dự án đầu tư: SGD cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án
đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: SGD tham gia một nhóm tổ chức tín dụng cùng
cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách
hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với
các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định
của Quy chế cho vay ban hành theo quyết định số 1627/QĐ NHNN và Quy
chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: SGD cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định. SGD và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín
dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp
với quy định tại quy chế cho vay ban hành kèm theo quyết định số
1267/2001/QĐ-NHNN và điều kiện hoạt động kinh doanh của SGDI và đặc
điểm của khách hàng vay.
2.2.1.5. Các biện pháp bảo đảm tiền vay
* Cho vay có bảo đảm bằng tài sản
- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
* Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định của Chính
phủ
- Cho vay cá nhân, hộ gia đình nghèo có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể chính trị, xã hội.
2.2.2.Thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh tại SGDI - NHĐT& PTVN
Cho vay là một hình thức tín dụng và với kinh tế ngoài quốc doanh
hình thức cấp tín dụng chủ yếu của SGD cũng là cho vay. Vì vậy, việc tìm
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
38
hiểu tình hình hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD
được thực hiện thông qua hoạt động cho vay đối với thành phần này.
Để thấy được thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh tại SGD cần xem xét tình hình tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh dựa trên các con số cụ thể sau:
2.2.2.1 Tình hình cho vay NQD .
Trong những gần đây, hoạt động cho vay của SGD đối với kinh tế
ngoài quốc doanh đang tăng lên chứng tỏ SGD đã chú trọng đến thành phần
này.Tuy nhiên, sự tăng lên về doanh số cho vay không đáng kể. Có thể thấy rõ
tình hình này thông qua việc phân tích các số liệu sau:
Bảng 2: Doanh số cho vay NQD phân theo đối tượng khách hàng
Đơnvị:triệuđồng
Chỉ tiêu Năm2002 Năm2003 Năm2004
Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền %
-KTQD 6213236 95,3 7375200 94,7 8169718 93,1
-KTNQD 306424 4,7 412762 5,3 605489 6,9
+CTyTNHH 178339 58,2 262517 63,6 398412 65,8
+DNTN 65268 21,3 91220 22,1 149556 24,7
+Cácđốitượng khác 62817 20,5 59025 14,3 57521 9,5
Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004
Qua bảng 2 cho thấy, doanh số cho vay giữa KTQD và KT NQD đang
có chiều hướng thay đổi, doanh số cho vay KT NQD mặc dù chiểm tỷ trọng
thấp hơn nhiều so với KTQD nhưng tăng cả về tương đối và tuyệt đối.Cụ thể:
Tăng từ con số 306424 trđ tức 4,7% năm 2002 lên 412762 trđ năm 2003với tỷ
trọng 5,3% và đạt mức 605489 trđ tức đạt 6,9% năm 2004.
Sự tăng lên của tỷ trọng cho vay bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, năm 2003và năm 2004 là năm mà nền kinh tế Việt nam khá
ổn định, giữ vững được mức độ tăng trưởng cao. Điều đó làm cho mức sống
người dân tăng lên, chính sách kích cầu của Nhà nước đạt hiệu quả rõ rệt, nhu
cầu mua sắm, sản xuất hàng hoá và tiêu dùng tăng mạnh mẽ dẫn đến các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh bán được hàng, quay vòng vốn nhanh, tăng
khả năng thanh toán và giữ vững uy tín với SGD. Từ thực tế đó, SGD cũng
bắt đầu chú trọng hơn và ngày càng cho vay nhiều hơn đối với KTNQD.
Thứ hai, đứng trước môi trường cạnh tranh ngày càng lớn với các
NHTM trên cùng địa bàn, cùng với việc được trao quyền tự chủ, tự chịu trách
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
39
nhiệm cao nên SGD đã có những bước đột phá và mạnh dạn hơn khi cho vay
đối với KTNQD.
Bên cạnh đó, chất lượng thẩm định dự án vay vốn đạt hiệu quả cao,
chính sách kinh tế mở cửa nhưng chưa phải là tự do hoá nên các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hoạt động trong môi trường kinh tế ít biến động hơn. SGD
và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kết hợp chặt chẽ trong quá trình cho
vay và thu hồi vốn, giao trách nhiệm cho cán bộ tín dụng phải theo sát tình
hình doanh nghiệp và đôn đốc các doanh nghiệp trả nợ đúng hạn.
Tuy nhiên, xét tổng thể KTQD vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số
cho vay còn KTNQD chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn. Điều đó cho thấy
rằng, KTNQD thường có những dự án thiếu tính khả thi, khả năng quản lý yếu
kém, thị trường đầu ra bấp bênh nên SGD rất hạn chế cho vay. Bên cạnh đó
còn những vướng mắc ở thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản.
Bảng số liệu còn cho thấy cơ cấu cho vay giữa các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi rõ rệt: Doanh số cho vay đối với các
công ty TNHH luôn chiếm tỷ trọng cao nhất và tăng dần qua các năm cả về số
tương đối và tuyệt đối.Cụ thể: tăng từ con số 178339 (58,2%) năm 2002 lên
262517(63,6%) năm 2003 và 398412(65,8%) năm 2004.Còn doanh số cho
vay đối với DNTN và các đối tượng khác luôn chiếm tỷ trọng thấp hơn mặc
dù có chiều hướng gia tăng qua các năm.
Điều này có thể được lí giải do một số nguyên nhân:
Số lượng các công ty TNHH mọc lên như nấm, tính đến 31/12/2004,có
khoảng 3250 công ty được thành lập, nhu cầu sử dụng vốn lại rất cao.Mặt
khác, nước ta dang đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nên số doanh nghiệp
được cổ phần hóa ngày càng nhiều, tới gần 800 doanh nghiệp. KTNQD nước
ta càng ngày càng có nhu cầu về vốn lớn để mử rộng sản xuất, phục vụ không
những cho nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu.
Bên cạnh việc không ngừng mở rộng của KTNQD, phải kể đến một
thuận lợi của SGD do có vị trí gần với các doanh nghiệp lớn,làm ăn có hiệu
quả nêncó cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong việc tiếp cận vốn ngân hàng.
Một số khách hàng còn nợ quá hạn cho vay từ trước năm 2002 trở về
trước tập trung ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Việc SXKD của các hộ này
gặp nhiều khó khăn, một số làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ, tài sản
không phát mại được. Chính vì những lý do đó mà cho vay vốn hộ sản xuất ở
Hà nội gặp nhiều khó khăn, nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng tài
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
40
sản thế chấp không đủ tính pháp lý để có thể dùng làm tài sản đảm bảo tiền
vay hoặc dự án sản xuất kinh doanh chưa đủ sức thuyết phục. Nhu cầu vay
vốn hiện nay lớn nhưng ở Hà nội, các hộ vay vốn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, tài
sản thế chấp thì không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở
hữu nhà nên đã hạn chế việc cho vay của SGD đối với đối tượng này.
Nếu phân theo thời hạn thì có thể thấy doanh số cho vay đối với
KTNQD thông qua bảng số liệu sau:
Bảng3:Doanh số cho vay NQD phân theo thời hạn
Đơnvị: triệu đồng
2002 2003 2004 Chỉ tiêu
Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền %
Ngắn hạn 232882 76 321954 78 490446 81
Trung, dài hạn 73542 24 90808 22 115043 19
Tổng số 306424 100 412762 100 605489 100
Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004
Bảng số liệu trên cho thấy:
Doanh số cho vay ngắn hạn đối với KTNQD luôn chiếm tỷ trọng cao
và liên tục tăng qua các năm.Cụ thể:tăng từ 232882 năm 2002 (76%) lên
321954 năm 2003(78%) và 490446 năm 2004(81%).Ngược lại, doanh số cho
vay trung dài hạn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ là 24% năm 2002, năm
2003giảm còn 22% và năm 2004chỉ con19%.
Điều này dược lí giải do một số nguyên nhân sau:
Về phía KTNQD với đặc điểm là nguồn vốn nhỏ và hoạt động kinh
doanh mang tính không ổn định nên thường xuất phát vốn lưu đọng lớn.Vì
vậy, chủ yếu đi vay vốn ngắn hạn để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động cho việc
mua sắm nguyên vật liệu, trả lương công nhân viên.
Mặt khác, về phía ngân hàng, không muốn cho vay trung dài hạn do
hoạt động của KTNQD hoạt động còn nhiều bất cập, ít nhiều có ảnh hưởng
đến hoạt động của ngân hàng .Vì vậy, với ngân hàng, việc giảm thiểu cho vay
trung dài hạn đối với KTNQD luôn gắn liền với lợi ích của ngân hàng.
Điều đó không có nghĩa là kinh tế ngoài quốc doanh được "ưu ái” vay
vốn trung dài hạn mà tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh vẫn chủ yếu
là tín dụng ngắn hạn, với hạn mức được tính chung cho cả doanh nghiệp quốc
doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh như sau:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
41
HMTD = (Chi phí sản xuất cần thiết trong kỳ: Vòng quay
vốn lưu động)- Vốn tự có và coi như tự có- Các khoản huy động khác
Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần/ Tài sản lưu
động dự trữ bình quân
Qua quá trình áp dụng thực tế trong việc xác định hạn mức tín
dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn phát sinh một số vướng
mắc và dẫn đến cách tính trên có bất cập so với thực tế.
Theo công thức trên vòng quay VLĐ dựa vào trong một số yếu
tố là Tài sản lưu động dự trữ bình quân trong năm, thực tế trong kinh doanh
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phải thời điểm nào dự trữ Tài sản
lưu động cũng bằng nhau, mà có quý cao, quý thấp, nên hạn mức tín dụng ở
công thức trên chỉ là hạn mức tín dụng bình quân trong năm.
Trong khi đó mục 7 điều 3 quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng
đối với khách hàng ban hành theo quy định 284/2002/QĐ-NHNN ngày
25/8/2002 của Thống đốc Ngân hàng có nghi "Hạn mức tín dụng là mức dư
nợ vay tối đa được duy trong một thời gian nhất định mà tổ chức tín dụng và
khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng". Hoặc tại khoản 2 điều 16
quy định" cho vay theo hạn mức tín dụng là tổ chức tín dụng và khách hàng
xác định đã thoả thuận theo một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn
nhất định hoặc theo chi phí sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình thực hiện xác định hạn mức tín dụng cho khách
hàng vay vốn theo hạn mức nếu sử dụng công thức trên (hạn mức bình quân)
và quản lý hạn mức trong quy trình vay vốn thì trong những thời điểm nhất
định sẽ không đáp ứng nhu cầu vốn cho đối tượng khách hàng này buộc phải
điều chỉnh hạn mức tín dụng, đặc biệt là trong thời điểm nhu cầu vốn dự trữ
tăng cao trong năm.
2.2.2.2.Tình hình thu nợ NQD
Cùng với việc cho vay thì công tác thu nợ cũng là công việc được SGD
đặt ra một cách nghiêm túc và đạt được một số kết quả khả quan. Nhìn chung,
tình hình thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở SGD là tương đối cao.Có
thể thấy rõ tình hình này qua bảng số liệu sau:
Bảng 4:Doanh số thu nợ NQD phân theo đối tượng khách hàng
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm2002 Năm2003 Năm2004
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
42
Số Tiền % Số Tiền % ST %
-KTQD 5778482 95,4 6895812 94,6 7638686 93
-KTNQD 278627 4,6 393620 5,4 574954 7
+CtyTNHH 164390 59 252704 64,2 376595 65,5
+DNtưnhân 56840 20,4 88958 22,6 143769 25
+Đốitượngkhá
c
57397 20,6 51997 13,2 54620 9,5
Tông cộng 6057109 100 7289432 100 8213640 100
Nguồn: Báo cáo tín dụng 2002-2004
Cụ thể: Doanh số thu nợ KTNQD mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ so với
KTQD song lại tăng dần về tương đối qua các năm, tăng từ 278627
Trđ(năm2002) lên 393620 Trđ(năm 2003), và 574954 Trđ (Năm 2004).Điều
này cho thấy hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều vay trả sòng
phẳng, chỉ có một số ít phải gia hạn nợ và chủ yếu chỉ là gia hạn nợ theo từng
thời điểm bởi uy tín là tiêu chí hàng đầu để các đối tượng này tiếp cận vốn
ngân hàng nên họ phải cố gắng tối đa trong việc hoàn trả nợ ngân hàng đúng
hạn, nếu không sẽ sớm bị loại khỏi cuộc chơi.
Bảng số liệu còn cho thấy daonh số thu nợ tăng dần về tỷ trọng đối với
Cty TNHH, DN tư nhân và giảm dần với các đối tượng khác.Cụ thể:năm
2002,thu nợ đối với CTy TNHH chiếm tỷ trọng 59% thì sang năm 2003, con
số này tăng lên 64,2% và năm 2004 là 65,5%; Đối với DN tư nhân cũng
vậy,tăng từ 20,4% năm 2002 lên 22,6% năm 2003 và 25% năm 2004;Còn đối
với các đối tượng khác, giảm từ 20,6% năm 2002 xuống 13,2% năm 2003 và
chỉ còn 9,5% năm 2004.Điều này có thể được lí giải do ngân hàng có quan hệ
chủ yếu với các Cty TNHH, DN tư nhân do họ vay trả khá sòng phẳng, còn
đối với các đối tượng khác thì lại rất dè dặt do họ còn nhiều yếu kém trong
hoạt động sản xuất kinh doanh nên khả năng trả nợ ngân hàng rất kém.
Như vậy, để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế
ngoài quốc doanh thì ngân hàng trang bị đầy đủ những thông tin về các đối
tượng để kịp thời xử lí các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là trong hoạt động quản lí
các khoản vay.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
43
Nếu phân theo thời hạn, có thể thấy tình hình thu nợ đối với kinh tế
ngoài quốc doanh của SGD qua việc phân tích bảng số liệu sau:
Bảng 5: Doanh số thu nợ NQD phân theo thời hạn
2002 2003 2004 Chỉ tiêu
ST % ST % ST %
Ngắn hạn 213150 76,5 307024 78 462838 80,5
Trung, dài hạn 65477 23,5 86596 22 112116 19,5
Tổng số 278627 100 393620 100 574954 100
Nguồn:Báo cáo tín dụng 2002-2004
Bảng số liệu cho thấy doanh số thu nợ ngắn hạn tăng dần qua các năm
cả về số tương đối và tuyệt đối.Cụ thể:tăng từ con số 213150trđ tương ứng với
76,5% năm 2002 lên 307024trđ tương ứng với 78% năm 2003và lên tới
462838trđ,chiểm tỷ trọng 80,5% năm 2004.Còn doanh số thu nợ trung và dài
hạn mặc dù tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm dần về số tương đối qua các
năm.Cụ thể:Doanh số thu nợ trung-dài hạn giảm từ 23,5% năm 2002 xuống
còn 22% năm 2003 và 19,5% năm 2004.Điều này có thể được lí giải do mấy
năm qua, doanh số cho vay ngắn hạn của SGD liên tục tăng về tương đối so
với doanh số cho vay trung-dài hạn. Mặt khác, đối với kinh tế ngoài quốc
doanh thì khả năng trả nợ ngắn hạn cao hơn trung- dài hạn.
Như vậy,SGD cần có những biện pháp nhằm giữ được khách hàng, vừa
thực hiện tốt công tác thu nợ, đặc biệt là thu nợ trung-dài hạn.
2.2.2.3. Tình hình Dư nợ NQD
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, dư nợ là chỉ tiêu hàng đầu
mà bất kỳ một Ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải quan tâm.
Dư nợ phản ánh số tiền khách hàng còn nợ tại thời điểm 31/12. Hiện nay, các
Ngân hàng quốc tế nói chung và Ngân hàng Việt Nam nói riêng đều dùng chỉ
tiêu dư nợ phản ánh quy mô của tín dụng, qua đó phần nào phản ánh chất
lượng tín dụng.Có thể thấy tình hình dư nợ đối với KTNQD tại SGD qua việc
phân tích các bảng số liệu sau:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
44
Bảng 6: Tình hình dư nợ NQD phân theo thời hạn
Đơnvị:triệu đồng
31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 Dư nợ
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
169640
58065
74,5
25,5
264780
76437
77,6
22,4
410573
100726
80,3
19,7
Tổng cộng 227705 100 341217 100 511299 100
Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004
KTNQD trong những năm qua chưa phải là khách hàng chủ yếu của
SGD, tuy còn nhiều khó khăn nhưng dư nợ của thành phần này tại SGD liên
tục tăng qua các năm; trong đó, doanh số dư nợ ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng
cao hơn và tăng dần qua các năm so với dư nợ trung-dài hạn.Cụ thể: doanh số
dư nợ NQD tăng từ con số 227705 trđ thời kỳ 31/12/2002 lên 341217trđ năm
2003 và lên tới 511299trđ năm 2004; trong đó: doanh số dư nợ ngắn hạn tăng
từ 169640trđ tương ứng 74,5% năm 2002 lên 264780trđ năm 2003 tương ứng
77,6%, năm 2004 tăng lên 410573trđ tương ứng với 80,3%; Doanh số dư nợ
trung và dài hạn mặc dù có tăng tuyệt đối nhưng lại giảm tương đối qua các
năm.
Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- SGD đang trong giai đoạn đầu chuyển từ hình thức hoạt động cấp
phát theo chỉ tiêu Nhà nước sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Do vậy, SGD chưa thực sự mạnh dạn cho vay đối với kinh tế ngoài quốc
doanh. Những vướng mắc về thủ tục pháp lý cũng như những điều kiện vay
vốn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã làm cho việc cho vay vốn
đối với thành phần này mang tính rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp và
việc phát mại tài sản cũng gặp nhiều khó khăn.
- Bên cạnh đó những hạn chế này còn xuất phát từ chính bản thân kinh
tế ngoài quốc doanh mà vấn đề vướng mắc nhất là hiệu quả hoạt động kinh
doanh, tình hình tài chính, tính khả thi, hiệu quả của từng dự án của khu vực
này còn thấp chưa tạo ra được sự thuyết phục đối với Ngân hàng.
-Hơn nữa, hoạt động của KTNQD chưa đạt hiệu quả cao, đa số doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản, nợ nần chồng chất, xuất hiện nhiều công ty
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
45
“ma”. Bên cạnh đó là sự quản lý yếu kém, quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu
mang tính chất “gia đình”, việc hạch toán kế toán chưa đúng quy định, chưa
mang tính đồng bộ, khoa học. Những doanh nghiệp có đủ điều kiện thế chấp
vay vốn chẳng hạn thì khi vay được vốn họ không muốn cho cán bộ kiểm tra,
giám sát quá trình sử dụng vốn của họ. Mặt khác, các doanh nghiệp này cũng
không muốn thế chấp tài sản để vay vốn, họ chỉ muốn vay vốn dựa vào tình
hình tài chính và số tiền sẽ thu được trong tương lai của họ nhờ bán sản
phẩm.Với những vướng mắc như vậy, quan điểm của Ngân hàng và doanh
nghiệp không đồng nhất với nhau nên việc cho vay vốn càng gặp khó khăn.
-Từ nhiều năm nay, ở nước ta cho vay chủ yếu được thế chấp bằng nhà
cửa, quyền sử dụng đất đai. Cơ sở để thế chấp quyền sử dụng đất đai là giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng hiện nay việc cấp giấy chứng nhận còn
chưa rõ ràng nhất là ở nông thôn việc giao đất cho xã viên tiến hành chậm, số
hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới chỉ đạt 46%, điều đó gây
khó khăn nhiều cho người vay vốn.
-KTNQD thường chỉ được vay vốn ngắn hạn, còn vốn trung dài hạn rất
ít. Tuy nhiên, không thể phủ nhận doanh số cho vay trung dài hạn luôn chiếm
tỷ trọng cao ở SGD. Một số dự án được vay trung hạn và chiếm doanh số lớn
trong tổng doanh số cho vay của khu vực này. Là một NHTM quốc doanh có
uy tín, có quy mô tương đối lớn so với các NHTM khác nên SGD vẫn luôn
duy trì và phát huy những thế mạnh của mình. Bên cạnh cho vay bằng VNĐ,
SGD cũng đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng việc cho vay ngoại tệ ngắn hạn
và trung hạn.
Nguyên nhân dẫn đến việc cho vay dài hạn của KTNQD tại Sở giao
dịch còn kém bởi lẽ họ không đảm bảo được các điều kiện vay vốn. Tỷ lệ dự
án không được vay vốn do không đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết là không
nhỏ, một số điều kiện mà các doanh nghiệp thường không thoả mãn được là:
- Không bảo đảm vốn tự có bằng 30% tổng vốn đầu tư vào dự án
- Thiếu tài sản thế chấp với đầy đủ giấy tờ hợp lý.
- Tổ chức hạch toán không đúng theo pháp lệnh hiện hành.
-Trình độ lập dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn kém,
số liệu thiếu chính xác hơn nữa kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần
hay biến động, kinh doanh không ổn định. Do vậy, SGD cũng thận trọng
khi cho vay đối với thành phần này.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
46
2.2.3.Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh tại SGDI-Ngân hàng DDT&PTVN.
2.2.3.1.Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Như đã đề cập ở trên, tỷ lệ này phản ánh khả năng đảm bảo an toàn
cho các khoản rủi ro dự đoán của tổ chức tín dụng.Trong điều kiện hạt động
hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam,phần lớn các khoản rủi ro
dự đoán đều được tập trung chủ yếu trong hoạt động cấp tín dụng.Vì vậy, tỷ lệ
này gián tiếp cho thấy khả năng đảm bảo an toàn cho các khoản rủi ro dự kiến
hoạt động tín dụng.
Đối với SGD, tỷ lệ này năm 2002 là khoảng 2,3%,năm 2003 là 3%, đến
năm 2004, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 3,2%.Điều này phản ánh khả năng tự đảm
bảo trong khắc phục rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động
tín dụng nói riêng của SGD-NHĐT & PTVN còn hạn chế. Nguyên nhân
chính là do nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng là quá thấp và chưa tương
xứng với sự phát triển quy mô hoạt động của Ngân hàng hiện đại theo thông lệ
quốc tế(đây là tình trạng chung của các NHTM hiện nay).Đồng thời, nó cũng
cho thấy, về mặt vĩ mô, tổng thể hoạt động của ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều
rủi ro.Tuy nhiên, thực hiện quyết định 149QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ
về cơ cấu lại ngân hàng,SGD đã tiến hành rà soát và đánh giá lại các tiềm ẩn
rủi ro để xử lí dứt điểm làm trong sạch bảng tổng kết tài sản,tiến dần dến mô
hình ngân hàng hiện đại.
2.2.3.2.Tình hình nợ quá hạn
Sự phát triển của Ngân hàng được đánh giá qua việc mở rộng và nâng
cao chất lượng tín dụng. Nợ quá hạn là một chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất chất
lượng tín dụng và cơ sở để nhìn nhận và tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng
tín dụng. Tình hình nợ quá hạn của Sở giao dịch được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7:Tình hình nợ quá hạn qua các thời kỳ
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Chỉ tiêu
Số tiền Số tiền Số tiền
1.Dư nợ
-Ngắn hạn
-Trung-dài hạn
227705
169640
58065
341217
264780
76437
511299
410573
100726
2.Nợ quá hạn
-Ngắn hạn
-Trung-dài hạn
563
441
122
754
609
145
951
780
171
3.NQH/DN (%)
-Ngắn hạn
-Trung-dài hạn
0,26
0,21
0,23
0,19
0,19
0,17
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
47
Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004
Qua bảng trên cho thấy, tỷ lệ nợ quá hạn trên Tổng dư nợ của KTNQD
chiếm tỷ lệ rất thấp và giảm dần qua các năm, chủ yếu là nợ quá hạn ngắn
hạn.Cụ thể: tỷ lệ NQH/DN ngắn hạn đạt mức 0,26 % năm 2002 giảm xuống
còn 0,23 % năm 2003 và 0,19 % năm 2004; Còn NQH/DN trung-dài hạn
chiếm tỷ trọng thấp hơn, năm 2002 là 0,21%, năm 2003 giảm xuống còn
0,19% và chỉ còn 0,17% năm 2004. Điều này chứng tỏ rằng thành phần này
vay trả khá sòng phẳng, hoạt động có hiệu quả hơn.
Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
-Một phần do quan điểm của SGD cho rằng, những doanh nghiệp ngoài
quốc doanh nào có nợ quá hạn thì uy tín cho vay sẽ bị giảm sút và thời gian
tiếp theo sẽ không còn được tiếp tục vay vốn. Vì vậy, thời gian qua, các doanh
nghiệp đến vay vốn ở SGD không nhiều nhưng đó là những doanh nghiệp làm
ăn đàng hoàng, tạo được niềm tin đối với SGD.
- Cùng với chất lượng thẩm định của cán bộ ngày được nâng cao và
thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, được sự cộng tác của cả phía doanh
nghiệp cũng như các bộ phận khác trong SGD. Do đó, tỷ lệ nợ quá hạn đang
giảm dần, nợ quá hạn chỉ xảy ra ở những hộ, cá nhân vay tiêu dùng.
Đây là dấu hiệu đáng mừng thể hiện những cố gắng vượt bậc trong
công tác thu nợ đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD.
2.2.3.3.Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD.
Nếu như với Nợ quá hạn thông thường, ngân hàng có thể giúp đỡ
doanh nghiệp ổn định hoạt động bằng cách gia hạn nợ hay tài trợ tín dụng
giúp doanh nghiệp vượt qua rủi ro thì với nợ khó đòi lại gây ra rủi ro cho ngân
hàng, có thể dẫn đến trường hợp ngân hàng bị mất trắng vốn bởi nợ khó đòi có
thể do nhiều nguyên nhân như:Có thể do doanh nghiệp làm ăn yếu kém rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán, đổ vỡ phá sản do trình độ cán bộ còn
hạn chế,...
Như vậy có thể coi Nợ khó đòi là một trong những chỉ tiêu hàng đầu để
đánh giá chất lượng tín dụng là tốt hay xấu.Có thể thấy rõ chỉ tiêu này qua
việc phân tích bảng số liệu sau:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
48
Bảng 8.Tình hình Nợ khó đòi NQD qua các thời kỳ
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Chỉ tiêu
Số tiền Số tiền Số tiền
1.Dư nợ
-Ngắn hạn
-Trung-dài hạn
227705
169640
58065
341217
264780
76437
511299
410573
100726
2.Nợ khó đòi
-Ngắn hạn
-Trung-dài hạn
239
187
52
299
238
61
388
328
60
3.NKĐ/DN (%)
-Ngắn hạn
-Trung- dài hạn
0,11
0,09
0,09
0,08
0,08
0,06
Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002-2004
Qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ NKĐ/DN chiếm tỷ trọng rất thấp
và giảm dần qua các năm về tương đối, tỷ lệ này đối với tín dụng ngắn hạn lớn
hơn so với tín dụng trung-dài hạn. Cụ thể: giảm từ tỷ trọng 0,09% năm 2002
xuống còn 0,08% năm 2003 và đến năm 2004, chỉ còn 0,06% ; đối với tín
dụng ngắn hạn, năm 2002, tỷ lệ này là 0,11%, giảm dần trong năm 2003 chỉ
còn 0,09% và năm 2004 chỉ còn 0,08%.Qua đó cho thấy, mặc dù Nợ khó đòi
vẫn còn nhưng với con số rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối cũng phần nào
cho thấy tính sòng phẳng của kinh tế ngoài quốc doanh là tương đối.
Điều này có thể dược lí giải bởi một số nguyên nhân sau: Khác với kinh
tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh muốn tiếp cận với nguồn vốn ngân
hàng thì một tiêu chí hàng đầu đó là tạo dựng uy tín đối với ngân hàng thông
qua việc trả vay đúng hạn.Tuy nhiên, không thể tránh khỏi có một số doanh
nghiệp do nhièu nguyên nhân chủ quan,khách quan mà rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán .
Đứng trước thực trạng đó đồi hỏi SGD cần tìm mọi biên pháp làm giảm
tỷ lệ này xuống tới mức tối đa có thể nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng
đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Chất lượng tín dụng tại SGD không chỉ được đánh giá qua các con số
mang tính định lượng mà còn thể hiện phần nào qua các chỉ tiêu khác.Đó là
việc triển khai tốt công tác quản trị điều hành, chiến lược phát triển phù hợp,
quy trình nghiệp vụ khoa học,đảm bảo quản lí chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
49
đã tạo lập uy tín vỡi nhiều khách hàng.Tuy nhiên, ngoài những mặt đạt được,
việc hoạt động tại SGD vẫn không tránh khỏi những bất cập.Đó là sự hạn chế
về trình độ, nghiệp vụ, cũng như còn lạc hậu về cơ sở vật chất, kỹ thuật cần
phải khắc phục.
Tóm lại,thông qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng,
qua các con số cụ thể phần nào cũng đã phản ánh rõ tình hình tín dụng
cũng như chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại
SGD.Bên cạnh những thành tựu đạt được còn tồn tại một số hạn chế nhất
định cần được xem xét lại để có những giải pháp phù hợp,đúng hướng.
2.3.Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt
động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
2..3.1. Những kết quả đạt được.
Trong hai năm 2003 và 2004nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những
thành tựu vượt bậc, chặn được đà giảm sút, đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh
tế khá. Chính phủ đã từng bước có những điều chỉnh về chính sách nhằm tạo
điều kiện cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, trong đó có các Ngân
hàng thương mại và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Song bên cạnh đó,
tình hình kinh tế - xã hội vẫn bộc lộ những yếu kém làm ảnh hưởng đến hoạt
đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.pdf