Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp giải quyết ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng

Tài liệu Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp giải quyết ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng: LỜI MỞ ĐẦU Xã Hữu Bằng nằm ở phía Đông Nam huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội, cách thị trấn huyện 3km, phía Đông xã giáp xã Phùng Xá, phía Tây giáp xã Thạch Xá - xã Bình Phú, phía Bắc giáp xã Dị Nậu, phía Nam giáp xã Bình Phú, cách thủ đô Hà Nội gần 30km được nối liền bởi trục đường giao thông quan trọng Láng - Hòa Lạc bám sát hai bên đường này là một chuỗi đô thị và các khu công nghiệp, rất thuận tiện cho việc giao thông giữa huyện với thủ đô. Đó là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế của huyện Thạch Thất và địa phương trong huyện. Với đặc điểm một làng nghề có lịch sử truyền thống lâu đời, đất chật người đông. Tổng diện tích đất tự nhiên là 178,4 ha; trong đó đất ở 30 ha. Tổng dân số xã hữu bằng là 15.607 nhân khẩu, số lao động ở xã là 8.076 số lao động ở nơi khác đến làm việc trên địa bàn xã khoảng 4.000 lao động, xã có 57 doanh nghiệp và HTX, 3.276 hộ sản xuất TTCN và dịch vụ thương mại kinh tế phát triển theo hướng (CN-TTCN-DVTM). Kinh tế làng nghề ph...

doc62 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp giải quyết ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Xã Hữu Bằng nằm ở phía Đông Nam huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội, cách thị trấn huyện 3km, phía Đông xã giáp xã Phùng Xá, phía Tây giáp xã Thạch Xá - xã Bình Phú, phía Bắc giáp xã Dị Nậu, phía Nam giáp xã Bình Phú, cách thủ đô Hà Nội gần 30km được nối liền bởi trục đường giao thông quan trọng Láng - Hòa Lạc bám sát hai bên đường này là một chuỗi đô thị và các khu công nghiệp, rất thuận tiện cho việc giao thông giữa huyện với thủ đô. Đó là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế của huyện Thạch Thất và địa phương trong huyện. Với đặc điểm một làng nghề có lịch sử truyền thống lâu đời, đất chật người đông. Tổng diện tích đất tự nhiên là 178,4 ha; trong đó đất ở 30 ha. Tổng dân số xã hữu bằng là 15.607 nhân khẩu, số lao động ở xã là 8.076 số lao động ở nơi khác đến làm việc trên địa bàn xã khoảng 4.000 lao động, xã có 57 doanh nghiệp và HTX, 3.276 hộ sản xuất TTCN và dịch vụ thương mại kinh tế phát triển theo hướng (CN-TTCN-DVTM). Kinh tế làng nghề phát triển phong phú, đa dạng. Kinh tế địa phương rất phát triển nhưng cũng tạo ra rất nhiều bất cập đi kèm theo như các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, cân bằng sinh thái bị phá vỡ… Là một sinh viên, sau khi học tập, nhận được sự hướng dẫn tận tình của nhà trường, tôi xin được vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cơ sở, mà cụ thể là ( Xây dựng đề tài: thực trạng và các giải pháp giải quyết ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng ) tại địa phương Đây là đề tài tôi đã lựa chọn làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình.qua quá trình thực tập nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy chuyên đề tốt nghiệp có những yêu cầu sau: 1. sự cần thiết nghiên cứu đề tài. Xã Hữu Bằng có tổng diện tích 178.43ha,trong đó đất ở là 30ha,tổng dân số 15.607 nhân khẩu,số lao động trong xã là 8.076,số lao động ở nơi khác đến tham gia lao động trên địa bàn của xã là khoảng 4000 lao động,xã có 57 doanh nghiệp và HTX, 3.276 hộ sản xuất TTCN và DVTM kinh tế phát triển theo hướng ( CN _ TTCN _ DVTM ). kinh tế làng nghề phát triển phong phú, đa dạng.kinh tế phát triển nhưng cũng tạo ra rất nhiều bất cập đi kèm theo, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường,cân bằng sinh thái Là một làng nghề truyền thống đất trật người đông kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường trong thời kỳ đổi mới ( thời kỳ CNH _ HĐH đất nước phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ) nền kinh tế phát triển, ô nhiễm môi trường ngày càng trở lên nghiêm trọng, ngày nay ô nhiễm môi trường ở các làng nghề truyền thống, không còn xa lạ với người dân sinh sống ở các làng nghề và ô nhiễm môi trường không chỉ riêng ở các làng nghề mà đã trở thành vấn đề chung của cả xã hội,và được sự quan tâm của cả xã hội hiện tại cuộc sống của chúng ta đang bị ảnh hưởng rất lớn của sự ô nhiễm môi trường,nhất là những người dân sinh sống ở các làng nghề truyền thống. đó là sự ô nhiễm môi trường tự nhiên, ô nhiễm môi trường xã hội,môi trường đang bị huỷ hoại nghiêm trọng ,gây nguy cơ mất cân bằng sinh thái ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống và sự phát triển của con người một trong những nguyên nhân chính là sự hiểu biết về môi trường và việc bảo vệ môi trường cũng như ý thức trách nhiệm của con người đối với môi trường còn hạn chế từ đó một vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức về môi trường và công tác bảo vệ nôi trường cũng như việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch và các dự án bảo vệ môi trường môi trường và công tác bảo vệ môi trường hiện nay đối với chúng ta còn rất mới mẻ,lên mọi công việc triển khai của chính quyền các cấp cũng như đối cới người dân, còn rất bỡ ngỡ và lúng túng vì chưa có kinh nghiệm trong thực tiễn nói chung và nhất là đối với các làng nghề truyền thống hiện nay đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong công tác bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống vì lý do nêu trên lên tôi chọn nghiên cứu đề tài ( Thực trạng và các giải pháp gải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng ) đề tài mà tôi lựa chọn nghiên cứu làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp là rất phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương hiện nay vì xã Hữu Bằng là một xã làng nghề truyền thống, công tác bảo vệ môi trường tuy đã được triển khai nhưng cũng còn nhiều bất cập và lúng túng chưa đáp ứng được như mong muốn 2 . mục tiêu nghiên cứu của đề tài đề tài mà bản thân tôi đã lựa chọn làm chuyên đề thực tập tốt nghiếp sẽ làm rõ những vấn đề sau: trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thực trạng và các giải pháp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng hiện nay khái quát hoá được một số kinh nghiệm của một số làng nghề truyền thống ở các địa phương khác phân tích và đánh giá thực trạng về ô nhiễm môi trường ở xã Hữu Bằng và các giải pháp giải quyết ô nhiễm môi trường trong thời gian qua xây dựng và đề xuất các quan điểm và định hướng đưa ra các giải pháp chủ yếu để nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng 3 . đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. đối tượng nghiên cứu là môi trường làng nghề truyền thống và bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống phạm vi nghiên cứu: - vê không gian:trong địa giới hành chính xã Hữu Bằng - về thời gian: đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường giai đoạn 2006 - 2010 và các đề xuất định hướng các giải pháp giải quyết ô nhiễm môi trường giai đoạn 2011 – 2015 4 . phương pháp nghiên cứu - các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn bản, tài liệu có liên quan để tìm hiểu cơ sở lý luận cho đề tài - phương pháp quan sát: quan sát môi trường và các hoạt động môi trường,trang thiết bị cho các hoạt động môi trường,tham quan tìm hiểu môi trường và công tác môi trường của các địa phương khác, v.v nhằm rút ra những nhận xét đánh giá về môi trường và các hoạt động môi trường của xã Hữu Bằng - phương pháp điều tra: sử dụng phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin về môi trường và hoạt động môi trường xã Hữu Bằng.qua đó tham khảo thêm một số ý kiến của một số người từng làm công tác liên quan đến môi trường và hoạt động về môi trườngphương pháp chuyên gia: tiếp xúc trực tiếp với các cán bộ nhân viên giám đốc các đơn vị làm công tác môi trường, (công ty môi trường đô thị xuân mai _ HTX Thành Công….) để tìm hiểu về môi trường và các hoạt động bảo vệ môi trường - phương pháp tổng kết kinh nghiệm:tổng kết các hoạt động liên quan đến môi trường và bảo vệ môi trường,rút ra các bài học cần thiết phục vụ cho công tác môi trường ngày càng hiệu quả - phương pháp sử dụng toán thống kê để sử lý số liệu phục vụ cho việc phân tích đánh giá kết quả nghiên cứu! Tuy nhiên do trình độ bản thân còn hạn chế nên tôi không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình trình bày, vì vậy tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ đóng góp ý kiến của thầy hướng dẫn và của nhà trường, để tôi có thể hoàn thành tốt chương trình thực tập của mình. Mong rằng qua đợt thực tập này, sẽ giúp bản thân hiểu rộng hơn và vận dụng được nhiều hơn những kiến thức đã học vào thực tiễn phát triển ở địa phương trong quá trình công tác. Tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ I. KHÁI NIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1. Khái niệm: Chúng ta biết rằng: Môi trường của một sự vật hoặc của một sự kiện là tổng thể các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến sự vật và sự kiện đó. Khi nói đến môi trường thì phải nói đến môi trường của sự vật và sự kiện gì vì những đối tượng này chỉ tồn tại ở môi trường xác định vì các yếu tố bên ngoài. Chúng ta có những khái niệm về môi trường như sau: - Định nghĩa về Môi trường của Kalesnick: Môi trường là một bộ phận của Trái đất bao quanh con người mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài người có quan hệ trực tiếp với nó. - Định nghĩa về Môi trường của UNESCO: Môi trường là bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình. Trong đó con người sinh sống bằng lao động của mình để khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người. - Định nghĩa về Môi trường của Việt Nam (luật 2005): + Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau do đó nó có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại phát triển của con người và tự nhiên. + Môi trường sống là tất cả các điều kiện tự nhiên bao quanh sinh vật có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của sinh vật. - Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. - Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường. - Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm Tiêu chuẩn môi trường. Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. - Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật. - Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng. - Bảo vệ môi trường: Bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường xanh, sạch, đẹp, đồng thời phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó với sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên bảo vệ đa dạng sinh học. 2. Một số nội dung về ô nhiễm môi trường làng nghề: Khí thải: Là chất thải gây ô nhiễm môi trường ở thể khí được thải ra từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ sinh hoạt và các hoạt động khác của cộng đồng dân cư. Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi). Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia ra thành nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo. 1.2. Nguồn tự nhiên: Núi lửa: Núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói bụi giàu sunfua, mêtan và những loại khí khác. Không khí chứa bụi lan toả đi rất xa vì nó được phun lên rất cao. Cháy rừng: Các đám cháy rừng và đồng cỏ bởi các quá trình tự nhiên xảy ra do sấm chớp, cọ sát giữa thảm thực vật khô như tre, cỏ. Các đám cháy này thường lan truyền rộng, phát thải nhiều bụi và khí. Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất trồng và gió thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi và cùng với sóng biển tung bọt mang theo bụi muối lan truyền vào không khí. Các quá trình phân huỷ, thối rữa xác động, thực vật tự nhiên cũng phát thải nhiều chất khí, các phản ứng hoá học giữa những khí tự nhiên hình thành các khí sunfua, các loại muối v.v... Các loại bụi, khí này đều gây ô nhiễm không khí. 2.2. Nguồn nhân tạo: Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá thạch và hoạt động của các phương tiện giao thông. Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây ra: Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói của các nhà máy vào không khí. Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền sản xuất sản phẩm và trên các đường ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình sản xuất này cũng có thể được hút và thổi ra ngoài bằng hệ thống thông gió. Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm: nhiệt điện; vật liệu xây dựng; hoá chất và phân bón; dệt và giấy; luyện kim; thực phẩm; Các xí nghiệp cơ khí; Các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ; Giao thông vận tải; bên cạnh đó phải kể đến sinh hoạt của con người. Ví dụ: khí CO2, khí thải do khói ô tô thải ra,… - Nước thải: Là chất thải gây ô nhiễm môi trường ở thể lỏng được thải ra từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ sinh hoạt và các hoạt động khác của cộng đồng dân cư. Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã. Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng. Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: Quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vào môi trường nước. Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hoá chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý. - Rác thải: Là chất gây ô nhiễm ở thể rắn được thải ra từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và các hoạt động khác của cộng đồng dân cư. Ví dụ: túi nilon, xác động vật chết, hoa quả thối,… Chất thải rắn sinh hoạt: là những chất thải liên quan đến các hoạt động của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các trung tâm dịch vụ, thương mại. Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ, lông gà vịt, vải , giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả v.v… Theo phương diện khoa học, có thể phân biệt các loại chất thải rắn sau: - Chất thải thực phẩm bao gồm các thức ăn thừa, rau, quả… loại chất thải này mang bản chất dễ bị phân hủy sinh học, quá trình phân hủy tạo ra các chất có mùi khó chịu, đặc biệt trong điều kiện thời tiết nóng ẩm. Ngoài các loại thức ăn dư thừa từ gia đình còn có thức ăn dư thừa từ các bếp ăn tập thể, các nhà hàng, khách sạn, ký túc xá, chợ … - Chất thải trực tiếp của động vật chủ yếu là phân, bao gồm phân người và phân của các động vật khác. - Chất thải lỏng chủ yếu là bùn ga cống rãnh, là các chất thải ra từ các khu vực sinh hoạt của dân cư. - Tro và các chất dư thừa thải bỏ khác bao gồm: các loại vật liệu sau đốt cháy, các sản phẩm sau khi đun nấu bằng than , củi và các chất thải dễ cháy khác trong gia đình, trong kho của các công sở, cơ quan, xí nghiệp, các loại xỉ than. - Các chất thải rắn từ đường phố có thành phần chủ yếu là các lá cây, que, củi, nilon, vỏ bao gói… II. CÁC CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG 1.Luật bảo vệ môi trường: Luật bảo vệ môi trường năm 2005 của chính phủ quy định về công tác bảo vệ môi trường trong đó nêu rất rõ về trách nhiệm của tổ chức, các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân trong công tác bảo vệ môi trường chung, trong đó có liên quan mật thiết tới việc bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống. Theo luật này: - Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu. - Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. - Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. - Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. - Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Chính sách của nhà nước về bảo vệ môi trường: - Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường. - Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường. - Sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. - Ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư. - Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. - Ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và các sản phẩm thân thiện với môi trường; kết hợp hài hoà giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho phát triển. - Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. - Phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng cường, nâng cao năng lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy, hiện đại. 2. Các văn bản của thành phố: Quyết định số 51 của thành phố Hà Nội về việc thu phí vệ sinh môi trường thể hiện trong việc bảo vệ môi trường có Nhà nước cùng các tổ chức và cá nhân chung sức đồng lòng góp công góp sức trong công tác bảo vệ môi trường chung. 3. Các văn bản của ủy ban nhân dân huyện: Ủy ban nhân dân huyện đưa ra các văn bản hướng dẫn về công tác bảo vệ môi trường và quyết định hỗ trợ kinh phí cho việc thu gom và vận chuyển rác thải nhằm tạo điều kiện để mọi người có thể xử lí rác thải một cách có khoa học nhất. Bên cạnh đó, UBND huyện cũng cử các cán bộ về thôn xóm tuyên truyền vận động người dân cùng bảo vệ môi trường, đem lại nguồn không khí trong lành cho cuộc sống. III. TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẾN ĐỜI SỐNG DÂN CƯ: 1. Tác động đến cảnh quan: Vấn đề ô nhiễm môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến cảnh quan môi trường xung quanh một địa bàn. Việc rác thải vứt không đúng chỗ, nằm lăn lóc tứ tung sẽ làm cho mỹ quan của một ngôi làng trở nên xấu xí, thảm hại, mất đi sự trong lành sạch đẹp vốn có. 2. Tác động đến sức khỏe: Rác thải không được vứt đúng nơi quy định, sẽ gây ra ô nhiễm rất lớn, ví dụ như rác thải được vứt trên đường đi, ao hồ,… Khi nắng lên hay mưa xuống đều sẽ bốc mùi nồng nặc rất khó chịu, rác thải, túi bóng gây ắc tách dòng chảy. Mỗi khi mưa xuống, nước bẩn ở cống rãnh trào lên, len lỏi vào khu dân cư, mang theo những mầm bệnh, ổ dịch mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Những rác thải đó gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, không khí, trở thành nguy cơ tiềm ẩn, gây hại cho sức khỏe người dân. Không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm vùng họng, đau ngực, tức thở. Ô nhiễm nước gây nguy hiểm tới sức khỏe của con người, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý. Các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong thức ăn nước uống có thể gây ung thư. Dầu tràn có thể gây ngứa rộp da. Ô nhiễm tiếng ồn gây điếc, cao huyết áp, trầm cảm, và bệnh mất ngủ., gây nhiều hậu quả nghiêm trọng… 3. Tác động đến hệ sinh thái: - Điôxít lưu huỳnh và các ôxít Nitơ có thể gây mưa axít làm giảm độ pH của đất - Đất bị ô nhiễm có thể trở nên cằn cỗi, không thích hợp cho cây trồng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến các cơ thể sống khác trong lưới thức ăn. - Khói lẫn sương làm giảm ánh sáng mặt trời mà thực vật nhận được để thực hiện quá trình quang hợp. - Các loài xâm lấn có thể cạnh tranh chiếm môi trường sống và làm nguy hại cho các loài địa phương, từ đó làm giảm đa dạng sinh học. - Khí CO2 sinh ra từ các nhà máy và các phương tiện qua lại còn làm tăng hiệu ứng nhà kính. Trái Đất ngày một nóng dần lên. Phá hủy dần các khu du lịch tự nhiên mà nó sẵn có. 4. Tác động đến sản xuất kinh doanh: Vấn đề tồn đọng rác làm ách tắc dòng chảy, gây nên cản trở giao thông, làm mất mặt bằng sản xuất, gây ra các mầm bệnh làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe lao động của người dân. Từ đó gián tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả lao động của họ, và tác động đến hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp nhà máy. Hơn nữa việc tồn đọng rác sẽ dẫn tới vấn đề xử lý số rác thải tiếp theo của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến cả chất lượng sản phẩm… IV. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG: Sau đây là kinh nghiệm của một địa phương thuộc Hà Nội: 1.Kinh nghiệm từ huyện Chương Mỹ  (HNM) - Từ tháng 1 năm 2009 đến nay, tại nhiều khu dân cư ở các huyện ngoại thành Hà Nội, tình trạng rác thải lấn làng, lấn ruộng, lấn ra cả đường quốc lộ, tỉnh lộ trở nên phổ biến do công tác thu gom, xử lý rác thải bị đình trệ. Hiện mỗi ngày, khu vực ngoại thành có hàng trăm nghìn tấn rác thải sinh hoạt không được thu gom, gây ô nhiễm, mất vệ sinh. Bên cạnh đó, huyện Chương Mỹ đã bước đầu có những giải pháp thu gom xử lý rác hiệu quả. Rác nhiều, thu gom khó! Hiện nay, phần lớn rác thải do người dân đổ thành bãi ở các khu đất trống, ven các tuyến giao thông liên thôn, liên xã, các tuyến, kênh mương, ao, hồ và cả quốc lộ, tỉnh lộ. Đi qua các tuyến quốc lộ 6, 21A, 21B, các tỉnh lộ 75, 80… đâu đâu cũng đều thấy có bãi rác. Ông Nguyễn Đăng Hùng Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Chương Mỹ đưa ra minh chứng: Chương Mỹ có khoảng 290.000 dân, trung bình mỗi ngày toàn huyện đã có trên 140 tấn rác cần thu gom, chưa kể rác thải của các DN, cơ sở y tế, trường học… Sau khi xảy ra sự cố tại bể chôn lấp rác ở núi Thoong xã Tân Tiến, Công ty Môi trường đô thị (MTĐT) Xuân Mai, đơn vị thu gom rác chính trên địa bàn đã phải tạm thời tập kết rác ở những nơi công cộng, khuôn viên của Công ty… dùng biện pháp che phủ, phun hóa chất, nhưng đây chỉ là biện pháp tạm thời. Ông Hùng cho biết thêm: Từ cuối năm 2008, việc xử lý rác trên địa bàn phải nhờ "cứu viện" của Công ty cổ phần MTĐT Sơn Tây, cả bãi rác rộng 4ha, gồm 10 hố chôn lấp hiện đã có 8 hố đầy kín rác, còn lại 2 hố, theo dự tính chỉ đủ chứa rác vài tháng đầu năm 2009. Khó khăn lớn nhất trong việc xử lý thu gom rác thải ở khu vực nông thôn hiện nay chính là ý thức của nhiều người dân còn hạn chế. Ông Oanh, Công ty MTĐT Xuân Mai ví dụ: với mức thu phí vệ sinh môi trường (VSMT) ở khu vực ngoại thành, mỗi nhân khẩu chỉ có 200 đồng/người/ngày, vậy mà có những nơi mức thu chỉ đạt có 30%. Lãnh đạo một đơn vị thu gom rác khu vực ngoại thành cho hay: Có huyện với trên 400 DN sản xuất, kinh doanh nhưng cũng chỉ có 15 DN nộp phí VSMT. Bên cạnh đó, nhiều làng, xã kinh tế phát triển, hàng trăm hộ gia đình mua sắm được ô tô, nhiều hộ thu nhập hàng chục, hàng trăm triệu đồng/tháng… nhưng vẫn còn 40% số hộ chưa có hố xí hợp vệ sinh, nhiều hộ không nộp lệ phí VSMT. 2. Cách làm từ Chương Mỹ Theo điều tra mới đây của Trung tâm Tài nguyên nước và Môi trường (Viện Khoa học thủy lợi): có 32,86% số xã có người dân đổ xả rác bừa bãi ven đường. Tương tự, 30,43% lượng rác không đổ ven đường nhưng đổ lộ thiên ở bất cứ đâu mà người dân thấy tiện. Chỉ có 35,71% gia đình tự xử lý rác thải. Ngoài thu gom rác trên địa bàn 3 huyện Chương Mỹ, Quốc Oai, Thạch Thất, từ đầu năm 2009, Công ty MTĐT Xuân Mai đã mở rộng địa bàn thu gom rác thải sinh hoạt đến khu vực nông thôn ở các xã thuộc huyện Mỹ Đức. Công ty cũng đã tư vấn cho các xã, thị trấn quy hoạch các điểm tập kết và thành lập tổ thu gom rác, tổ chức thu phí vệ sinh của các hộ gia đình để trả công cho các tổ này. Để giải quyết vấn đề rác đang tồn tại rải rác ở các huyện chưa được thu gom xử lý, Công ty MTĐT Xuân Mai khẳng định: DN cùng các ngành chức năng đang gấp rút hoàn thành việc xử lý sự cố bãi rác ở núi Thoong, tháng 3-2009 sẽ hoàn thành, lúc này, rất cần sự đồng thuận, chia sẻ khó khăn của nhân dân. Hiện nay, huyện Chương Mỹ không chấp nhận phương án quy hoạch mỗi xã một bãi rác, mà 100% các xã, thị trấn nên ký hợp đồng với Công ty MTĐT Xuân Mai để thu gom, xử lý tập trung. Bởi DN sẽ có điều kiện đầu tư công nghệ xử lý rác thải tốt hơn. Hiện nay, trên địa bàn huyện Chương Mỹ đã có 13 xã, thị trấn ký hợp đồng thu gom rác thải sinh hoạt với Công ty MTĐT Xuân Mai. Kinh nghiệm thu phí VSMT thành công ở một số xã của huyện Chương Mỹ cho thấy phải có sự quan tâm, vào cuộc của chính quyền cơ sở. Nhiều xã, thị trấn đã lập được sổ nghĩa vụ công dân, trong đó coi việc hoàn thành phí VSMT là một trong những tiêu chí để giao dịch công dân và bình xét gia đình văn hóa. Một số địa phương lại giao cho các HTX NN thu phí VSMT cùng với các khoản phí khác mỗi năm 2 lần theo mùa vụ… Cả 2 cách thu này đều được nhân dân hưởng ứng, từ chỗ tỷ lệ thu phí VSMT chỉ đạt từ 30% đã lên tới 90%. Thiết nghĩ đã đến lúc các địa phương khu vực nông thôn trên địa bàn thành phố cần phải quan tâm thỏa đáng tới việc thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt nhằm giữ vệ sinh môi trường, bảo đảm sức khỏe cho cộng đồng dân cư. Trước mắt, đi đôi với việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường cho mọi người dân, các địa phương cần có cơ chế chính sách và đầu tư sắp xếp cán bộ chuyên trách về môi trường ở cơ sở. 3. Kinh nghiệm từ huyện Hoài Đức Trong xã Minh Khai, tại khu vực bãi bóng cũng tồn đọng một đống rác lớn, dù tồn tại chiếc biển đề: "Đường đi gặt, cấm đổ rác"! Cũng như bãi rác ở đoạn đường từ xã bên sang xã Minh Khai, rác ở đây đủ loại: Từ rau dưa, hoa quả thối, bẹ măng, vỏ mì tôm, quần áo rách cho đến lợn con chết, gà vịt chết... Những ngày nắng nóng, mùi bốc lên từ đống rác khiến ai qua lại cũng phải bịt mũi và chạy thật nhanh. Xã Minh Khai (huyện Hoài Đức) là một trong những làng nghề đã được UBND tỉnh Hà Tây công nhận "Làng nghề chế biến nông sản" từ năm 2001. Tuy nhiên, Minh Khai cũng phải đối mặt với thách thức rác thải không hề nhỏ. Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, làng nghề đã có từ 700 - 800 hộ chuyên chế biến sắn, đót, dong giềng ra sản phẩm bột, miến dong. Những năm gần đây, số hộ làm nghề giảm, nhưng quy mô lại mở rộng, trong khi công nghệ còn bán thủ công nên lượng rác thải lớn, không thân thiện với môi trường. Trung bình mỗi ngày trong xã Minh Khai có khoảng 2,5 tấn rác thải công nghiệp và sinh hoạt. Chưa nói, từ việc chế biến nông sản, mỗi ngày mỗi hộ còn thải ra 20m3 cặn bã/ngày. Tại xã Dương Liễu (Hoài Đức), các hộ dân chế biến sắn đót là chủ yếu, thời điểm mùa vụ (khoảng tháng 8 âm lịch) có thể thải ra tới 400 tấn rác, bã thải/ngày. Điều đáng nói, là nguồn bã thải từ làng nghề được tống thẳng ra nguồn kênh, mương chung trong khu dân cư. Nguồn thải hữu cơ khối lượng lớn, ứ đọng trong môi trường nước gây ô nhiễm nghiêm trọng. Đã từ lâu, các dòng mương tại 2 xã này đã chuyển màu đen. Cứ hễ tới gần kênh là mùi khắm lặm của nước đã xộc thẳng vào mũi. Chợ cũng là nơi tập kết rất nhiều rác thải hỗn hợp. Tại hầu hết các chợ, nhất là chợ cóc, đến cuối buổi sáng, khi chợ đã tan thì quang cảnh chợ đúng như một bãi chiến trường rác, có gọn thì người bán hàng chất thành từng đống tại chỗ, còn không họ bán hàng xong, rác thế nào thì vẫn nằm nguyên thế, họ cho rằng đã nộp tiền chợ thì sẽ có người phải dọn. Mà rác tại chợ thường đến chiều mới được dọn, thu gom lại để chuyển đến nơi tập kết rác, do vậy trong khoảng thời gian từ cuối giờ sáng đến chiều thì người dân sống quanh đây phải hứng chịu đủ thứ mùi bốc lên khó chịu, mùi hôi thối, bẩn thỉu bốc lên từ cống rãnh, từ mặt đất nhờn nhợt nước và đủ thứ rác rưởi trộn lẫn với các mùi thực phẩm sống, chín. Đây là nguyên nhân gây ra bệnh dịch và gây ô nhiễm môi trường nghiệm trọng Những chiếc xe đựng rác không đảm bảo an toàn vệ sinh là nơi phát tán những nguồn lây bệnh nguy hiểm cho người đi đường. Những ổ vi trùng này nằm ở khắp các khu chung cư, các đường phố đến các ngõ hẽm,… Thường cứ vào khoảng 5 - 6h chiều, tại nhiều nơi ở các khu vực, đường phố, ngõ hẽm lại nồng nặc mũi hôi thối. Nguyên nhân là do rác được tập kết để chờ xe ép rác đến xử lý tại chỗ. Việc xử lý rác tại chỗ chỉ diễn ra khoảng 10-15 phút nhưng nhiều chỗ đường hẹp nên mùi hôi thối từ công đoạn mở nắp thùng rác, đổ vào xe ép đã tra tấn người đi đường. 4. bài học kinh nghiệm từ các địa phương rút ra cho xã Hữu Bằng. Xã Hữu Bằng là một trong những làng nghề đã được UBND tỉnh Hà Tây công nhận "Làng nghề MỘC – MAY – KIM CƠ KHÍ" từ năm 2001. Tuy nhiên, Hữu Bằng cũng phải đối mặt với thách thức rác thải không hề nhỏ. Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, làng nghề đã có từ 3000 - 4000 hộ chuyên sản xuất đồ mộc gia dụng và hàng dệt may cùng song song có 50 – 60 doanh nghiệp được thành lập với lượng công nhân lên đến hàng ngìn Những năm gần đây, số hộ làm nghề tăng, và quy mô lại mở rộng, trong khi công nghệ còn bán thủ công nên lượng rác thải lớn, không thân thiện với môi trường. Ngoài ra còn số hộ làm (DVTM ) cũng tăng theo lên trung bình mỗi ngày trong xã Hữu Bằng có khoảng từ 8 - 11,5 tấn rác thải công nghiệp và sinh hoạt. Chưa nói, từ việc các dòng chảy bị ách tắc, do rác thải, mỗi ngày mỗi hộ còn thải ra 0,05m3 cặn bã/ngày. Tại xã Hữu Bằng các hộ dân sản xuất đồ mộc gia dụng chủ yếu, thời điểm mùa vụ (khoảng tháng 9 – 12 âm lịch) có thể thải ra tới 40 tấn rác thải là các loại bã tiện và mạt cưa mỗi ngày. Điều đáng nói, là nguồn bã thải từ làng nghề được tống thẳng ra nguồn kênh, mương chung trong khu dân cư. Nguồn thải hữu cơ khối lượng lớn, ứ đọng trong môi trường nước gây ô nhiễm nghiêm trọng. Đã từ lâu, các dòng mương tại xã này đã chuyển màu đen. Cứ hễ tới gần kênh là mùi hôi thối của nước đã xộc thẳng vào mũi. Chợ cũng là nơi tập kết rất nhiều rác thải hỗn hợp. Tại hầu hết các chợ, nhất là chợ cóc, đến cuối buổi sáng, khi chợ đã tan thì quang cảnh chợ đúng như một bãi chiến trường rác, có gọn thì người bán hàng chất thành từng đống tại chỗ, còn không họ bán hàng xong, rác thế nào thì vẫn nằm nguyên thế, họ cho rằng đã nộp tiền chợ thì sẽ có người phải dọn. Mà rác tại chợ thường đến chiều mới được dọn, thu gom lại để chuyển đến nơi tập kết rác, do vậy trong khoảng thời gian từ cuối giờ sáng đến chiều thì người dân sống quanh đây phải hứng chịu đủ thứ mùi bốc lên khó chịu, mùi hôi thối, bẩn thỉu bốc lên từ cống rãnh, từ mặt đất nhờn nhợt nước và đủ thứ rác rưởi trộn lẫn với các mùi thực phẩm sống, chín. Đây là nguyên nhân gây ra bệnh dịch và gây ô nhiễm môi trường nghiệm trọng Những chiếc xe đựng rác không đảm bảo an toàn vệ sinh là nơi phát tán những nguồn lây bệnh nguy hiểm cho người đi đường. Những ổ vi trùng này nằm ở khắp các khu chung cư, các đường phố đến các ngõ hẽm,… Thường cứ vào khoảng 5 - 6h chiều, tại nhiều nơi ở các khu vực, đường phố, ngõ hẽm lại nồng nặc mũi hôi thối. Nguyên nhân là do rác được tập kết để chờ xe ép rác đến xử lý tại chỗ. Việc xử lý rác tại chỗ chỉ diễn ra khoảng 10-15 phút nhưng nhiều chỗ đường hẹp nên mùi hôi thối từ công đoạn mở nắp thùng rác, đổ vào xe ép đã tra tấn người đi đường Chính quyền địa phương từ những năm đầu thập kỷ 90 cũng đã quan tâm tổ chức cho thu gom nhưng số lượng lúc đó lhông nhiều và chỉ một đến hai người làm công tác thu gom,rác được thu gom được đổ ra cac khoảng đất thùng đào thùng đấu và các rãnh hoang của xã,rác được thu gom cơ bản là rác ở các chợ thải còn rác của hộ gia đình lúc đó rất ít Vào cuối những năm 90 và đầu những năm 2000 nền kinh tế đất nước phát triển dần theo nền kinh tế thị trường, hoà nhịp cùng phát triển kinh tế địa phương cũng ngày càng phát triển.kinh tế kéo theo lượng rác thải cũng nhiều ra nơi đổ rác càng ngày càng bị thu hẹp số người đi thu gom rác thải ngày càng không đáp ứng được yêu cầu đặt ra Năm 2001 – 2003 UBND xã Hữu Bằng đã thành lập tổ thu gom rác thải gồm 5 người tổ chức đi thu gom rác thải trong toàn xã với phương châm tự thu tự chi phục vụ cho công tác thu gom rác thải nhưng vấn đề đặt ra là rác thu gom chuyển đi đâu Năm 2006 – 2009 khi UBND huyện Thạch Thất ký hợp đồng vận chuyển và sử lý rác thải với công ty môi trường đô thị Xuân Mai,UBND xã Hữu Bằng là xã đầu tiên đứng ký hợp đồng vận chuyển và sử lý rác thải với công ty môi trường đô thị Xuân Mai nhưng khối lượng vận chuyển của công ty môi trường đô thị Xuân Mai không đáp ứng được nhu cầu, mà hiện tại lúc đó trên địa bàn xã cũng không có bãi tậo kết rác thải,lên lượng rác tồn đọng ngày càng nhiều từ thực tế nêu trên và kinh nghiệm của một số địa phương,UBND xã đã đặt ra mục tiêu kế hoạch cho các doanh nghiệp tham gia vào công tác thu gom và vận chuyển rác thải. đồng thời cho quy hoạch bãi tập kết rác thải, đối với công ty môi trường đô thị Xuân Mai do không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển và sử lý rác thải lên UBND xã đã ký hợp đồng vận chuyển và sử lý rác thải với HTX Thành Công, ngoài ra UBND xã thực hiện tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân tổ chức khơi thông cống rãnh ,khơi thông dòng chảy,phát tờ rơi tuyên truyền giáo dục về môi trường và luật bảo vệ môi trường cho người dân thông và hiểu để có ý thức về môi trường Chương II: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở LÀNG NGHỀ HỮU BẰNG Nói đến Hữu Bằng là nói đến một xã giàu nhất của huyện Thạch Thất - Hà Nội nhưng cũng là một điểm bức xúc nhất về ô nhiễm môi trường. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về làng nghề này: I.KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI XÃ HỮU BẰNG: 1. Điều kiện tự nhiên: Xã Hữu Bằng nằm ở phía Đông Nam huyện Thạch Thất, cách thị trấn 3km, ở ngoại thành Hà Nội. Phía Đông giáp xã Phùng Xá Phía Nam giáp xã Bình Phú Phía Tây giáp xã Bình Phú và xã Thạch Xá Phía Bắc giáp xã Dị Nậu Tổng diện tích 178.4 ha đất: trong đó, 30ha được sử dụng làm đất ở, 32ha là đất chuyên dùng, còn lại là đất nông nghiệp. Tổng dân số của xã là 15607 người, số lao động chính lá 8976 người, ngoài ra còn có khoảng 4000 dân lao động của các xã lân cận đến làm ăn sinh sống tại xã. 2. Đặc điểm về kinh tế: Hữu Bằng là một xã dân cư đông đúc, có nghề truyền thống. Sự phát triển kinh tế của địa phương cơ bản là phát triển theo hướng sản xuất tiểu thủ công nghiệp dịch vụ và thương mại. Về nông nghiệp, tỷ trọng chiếm một phần rất ít trong nền kinh tế địa phương. Trong điều kiện cơ chế chính sách mở cửa hiện nay của Đảng và Nhà nước, nhất là khi nước ta vừa gia nhập WTO, thì tốc độ phát triển kinh tế của làng nghề ngày càng tăng lên. Huyện Thạch Thất gồm 22 xã và 01 thị trấn. Hệ thống giao thông chính có quốc lộ 32 (phía Bắc), quốc lộ 21 (phía Tây), đường cao tốc Láng - Hoà Lạc (phía Nam), tỉnh lộ 419, 420 chạy qua huyện đã tạo ra mạng lưới giao thông thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của huyện, là một huyện được nhà nước quy hoạch các dự án lớn như Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khu Công nghệ cao Hoà Lạc, Khu Công nghiệp Bắc Phú Cát và nằm trong chuỗi đô thị Miếu Môn, Xuân Mai, Hoà Lạc, là huyện có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế, nhất là kinh tế công nghiệp - TTCN và thương mại, dịch vụ. Các làng nghề truyền thống như: Cơ kim khí Phùng Xá; Mây tre đan Bình Phú; Mộc, May Hữu Bằng; Mộc Chàng Sơn ngày càng phát triển mạnh, khai thác tốt những tiềm năng, lợi thế của làng tạo nên nhịp độ sản xuất sôi động và có xu hướng phát triển. Hiện nay giá trị sản xuất Công nghiệp - TTCN của 9 làng nghề chiểm trên 70% giá trị sản xuất Công nghiệp - TTCN của huyện.      Làng nghề cơ kim khí ở Phùng Xá có tổng số 1350 hộ, dân số 5660 người, trong đó có 2547 lao động . Trên địa bàn xã hiện có 101 doanh nghiệp cơ kim khí với 1935 lao động làng nghề, chiếm 76% tổng số lao động. Với những sản phẩm được sản xuất đa dạng về mẫu mã mặt hàng và chủng loại, thiết bị dây chuyền sản xuất hiện đại, năng suất lao động ở làng nghề Phùng Xá ngày càng cao, sản phẩm sản xuất tiêu thụ ở thị trường rộng lớn, thu hút được nhiều lao động ở trong và ngoài địa phương tham gia với mức thu nhập bình quân là 1.700.000 đồng/1người/ 1tháng. Xã Bình Phú  nổi tiếng với những sản phẩm mây giang đan xuất khẩu. Bình Phú có 3 làng nghề là  Phú Hòa, Thái Hòa và Bình Xá. Hiện nay trên địa bàn xã có 16 doanh nghiệp mây giang đan, thu hút 890 lao động trên tổng số 1952 lao động, chiếm 45,6%. Các sản phẩm mây giang đan đa dạng về mẫu mã, mặt hàng, nguồn nguyên liệu được khai thác rất thuận lợi, lao động tập trung đông, tận dụng được hết thời gian nhàn rỗi, tạo được nguồn thu nhập đồng đều, trung bình 1.100.000 đồng/1 người/1tháng. Sản phẩm chế biến lâm sản, sản xuất đồ gỗ, trang trí nội thất ở Chàng Sơn, Thạch Xá, Bình Phú, Canh Nậu, Hữu Bằng, Dị Nậu, Hương Ngải. Nguyên liệu gỗ được nhập về Hữu Bằng, Chàng Sơn, Thạch Xá từ đó được chế biến thành sản phẩm thô và được sản xuất thành sản phẩm đồ gỗ, đồ trang trí nội thất ở các làng nghề, sản phẩm sản xuất ra đa dạng phong phú được tiêu thụ ở thị trường nội địa rộng lớn. Nghề mộc dân dụng ở Thạch Thất thu hút nhiều lao động nhất trong các nghề truyền thống. Hiện có tổng số 72 doanh nghiệp sản xuất mộc dân dụng trên địa bàn các xã Canh Nậu, Dị Nậu, Chàng Sơn trong đó Canh Nậu có 18 doanh nghiệp, thu hút 2700 lao động trên tổng số 5931 lao động, chiếm 46,7%; Dị Nậu có 11 doanh nghiệp với 1100 lao động trong nghề mộc dân dụng chiếm 37% tổng số lao động; Chàng Sơn có 43 doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ, trang trí nội thất thu hút 1700 lao động trên tổng số 3922 lao động, chiếm 43,3%. Thu nhập bình quân của lao động làm nghề mộc dân dụng khoảng từ 1.200.000 đồng đến 1.400.000 đồng/1 người/ 1tháng. Sản phẩm chè lam - đặc sản Thạch Thất -  là sản phẩm của làng nghề Thạch Xá. Chè lam được sản xuất với những bí quyết riêng tạo nên hương vị đặc trưng, được tiêu thụ trên thị trường rộng lớn ở miền Bắc. Trên địa bàn xã có 12 doanh nghiệp sản xuất chè lam với 570 lao động trên tổng số 1035 lao động.Thu nhập bình quân của lao động làng nghề chè lam Thạch Xá khoảng 1.100.000 đồng/1 người/ 1 tháng. Sản phẩm mây tre giang đan song mây ở Hạ Bằng, Cần Kiệm, Chàng Sơn và một số sản phẩm phụ ở các xã Lại Thượng, Bình Yên, Thạch Hoà cũng đã có bước phát triển.  Nhắc đến các làng nghề trên thì không thể không nhắc đến Hữu Bằng. Hữu Bằng là một làng nghề tiêu biểu của huyện Thạch Thất với các sản phẩm mộc dân dụng và dệt may. Trên địa bàn xã hiện có 50 doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ, trang trí nội thất và dệt may công nghiệp thu hút số lượng lớn lao động, khoảng 4950 lao động chiếm 73,4% tổng số lao động. Thu nhập bình quân của lao động làng nghề ở xã Hữu Bằng khoảng 1.500.000 đồng/1 người/1 tháng. Ngày trước, Hữu Bằng có HTX dệt vải; đến khi HTX dệt giải tán, người dân chuyển sang nghề làm đồ gỗ chuyên phục vụ thị trường trong nước. Vì thế, họ luôn luôn có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vừa qua không bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Bây giờ càng có điều kiện phát triển trong phong trào “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Điều đáng quan tâm là, cho đến nay không có người Hữu Bằng nào di cư làm ăn ở nơi khác, mà tất cả vẫn sinh sống, sản xuất, kinh doanh tại làng xã mình. Các cửa hàng buôn bán đồ gỗ ở phố Đại La (nội thành Hà Nội) về làng Hữu Bằng mua sản phẩm mang ra bán. Trên cơ sở sản xuất, kinh doanh ổn định và phát triển, người dân Hữu Bằng không vay tiền ngân hàng, tự đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng đường sá, chợ búa, xây dựng các dãy phố có qui hoạch khang trang, đầy đủ tiện nghi hiện đại, xây dựng nhiều xưởng sản xuất, phát triển ngành nghề dịch vụ, ngay trong làng cũng có cửa hàng sản xuất bánh gatô mừng sinh nhật... Điều này cho thấy, rõ ràng người dân xã Hữu Bằng không cần “ly nông, ly hương” để kiếm sống. Mà họ vẫn trụ vững trên mảnh đất quê hương, vẫn phát triển nông nghiệp, phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng thành công NTM theo định hướng XHCN. Họ cũng không cần chờ đợi quy hoạch để đô thị hóa làng quê mình. Mặt khác đáng suy nghĩ nữa là, Hữu Bằng không trông chờ vào sự giúp đỡ của nước ngoài, và cũng không có tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước. Riêng ở Hà Nội đã có hàng chục xã tương tự Hữu Bằng, chẳng hạn như La Phù, Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ, Bát Tràng... Như vậy cho thấy, tính năng động của người dân có ở nhiều nơi. 3. Sự phát triển kinh tế liên quan đến môi trường: 1.3, Sản xuất hàng hóa: Hữu Bằng là một làng nghề truyền thống (mộc - may - kim cơ khí), hàng hóa chủ yếu là đồ gỗ gia dụng, quần áo may sẵn và các phụ kiện máy móc gia công. Vì vậy các chất thải khi sản xuất chủ yếu là chất thải rắn. Ngoài ra, trong nghề mộc còn có các chất thải như mùn gỗ, các chất khí rất đọc hại xuất hiện khi tổ chức phun sơn, và một số chất thải ở thể lỏng. 2.3, Bán hàng và sinh hoạt: Trong bán hàng thì không thể tránh khỏi tiếng ồn và bụi, bên cạnh đó có thải ra các chất thải rắn là chủ yếu. Trong sinh hoạt thì người dân nhiều khi chưa ý thức được hành động của mình, các hoa quả thối, xác động vật chết, túi nilon,… vẫn bị vứt không đúng nơi quy định gây ô nhiễm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, nguồn nước thải sinh hoạt là chất thải ở thể lỏng cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân làng nghề. 3.3, Văn hóa xã hội, y tế giáo dục: Xã Hữu Bằng có 9 thôn nhưng hầu như chưa một thôn nào có trụ sở, chưa một thôn nào có nhà văn hóa. Nói "hầu như" là vì gần đây đã có một thôn duy nhất có trụ sở là thôn Miễu. Nói là trụ sở cho oai, thực ra chỉ là một phòng khoảng 10m vuông, trước vốn là nhà để sập đám ma, nay không dùng nữa nên thôn tạm lấy làm nơi họp hành. UBND xã vốn là dinh thự của quan lại trước cách mạng Trường mầm non bán công xã Hữu Bằng có 19 lớp với tổng số 18 phòng, học tại 2 điểm. Điểm chính của trường gồm 14 phòng, học nhờ trên đất của Khu di tích Đình Chùa. 14 phòng này vốn là một HTX dệt thủ công được cải tạo lại. Đó là những dãy nhà cấp 4, năm nào cũng phải đảo ngói vì dột. Vì vốn là các phòng dệt nên diện tích phòng không đồng đều. Phòng lớn có khi rộng đến 60m vuông nhưng phòng nhỏ lại chỉ hơn 20. Trường không có nhà vệ sinh theo đúng nghĩa cho cả học sinh và giáo viên, chỉ có một diện tích rất nhỏ cho các cháu đi tiểu. Cháu nào có nhu cầu "đi nặng", các cô sẽ đặt túi bóng vào trong bô để các cháu "đi" vào, sau đó bọc lại cẩn thận rồi vứt vào thùng rác riêng. Các cô phải cố gắng và rất vất vả nhưng việc mất vệ sinh là khó tránh khỏi. Đã thế nguồn nước sạch lại thiếu trầm trọng. Trước kia, nước được chở đến trường bằng xe ô tô, nhưng thời gian gần đây, do đường sá đi lại không thuận tiện nên ô tô không chở nước vào được nữa. Nhà trường buộc phải mua nước của tư nhân "dùng tạm", độ an toàn không được đảm bảo. Với nước uống, nhà trường phải mua nước tinh khiết rồi đun lên cho các cháu dùng. Vấn đề ô nhiễm nặng nề ở làng nghề này kéo theo khá nhiều dịch bệnh, làm giảm sút sức khỏe của người dân một cách nghiêm trọng. Việc tuyên truyền vận động người dân thường xuyên làm công tác vệ sinh môi trường, giữ gìn vệ sinh chung trong khu vực, vất rác đúng nơi quy định là việc cần làm ngay. Bởi vệ sinh phải được giữ gìn bắt đầu từ ý thức của người dân thì mới đem lại hiệu quả được. II. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ XÃ HỮU BẰNG: Thời gian trước đây, vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở khu vực nông thôn chưa được quan tâm. Chỉ đến khi những tranh chấp, xung đột về môi trường ngày càng trở nên bức xúc và gia tăng cùng với sự lên tiếng cảnh báo của một số chuyên gia về môi trường thì ai nấy mới giật mình nhìn lại. Nghịch lý là trong khi đời sống của người dân ở khu vực nông thôn nâng lên (biểu hiện ở chỗ tiện nghi sinh hoạt đầy đủ hơn, người dân ăn ngon, mặc đẹp hơn; giao thông, thương mại, giao lưu văn hoá phát triển mạnh; thông tin được cập nhật hằng ngày) thì vệ sinh môi trường ở khu vực này lại có biểu hiện đi xuống rõ rệt. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng rác thải phân tán ở khu vực nông thôn. Đi đến bất kỳ đâu cũng dễ dàng bắt gặp những đống rác, bãi rác nhất là ven đường liên thôn, liên xã thậm chí có nơi nghĩa địa cũng trở thành bãi rác. Ao hồ, thùng vũng, cống rãnh lầy lội, đen ngòm do bị biến thành nơi chứa rác thải, chất thải sinh hoạt, chăn nuôi. Mức độ ô nhiễm trầm trọng hơn cả là ở các làng nghề (kể cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới hình thành). Lượng chất thải khó phân huỷ ở khu vực nông thôn ngày càng tăng. Rác thải, đặc biệt là nhựa phế liệu, đang trở thành gánh nặng cho xã hội. Ai cũng biết rác là chất thải, là thứ bỏ đi. Nhưng không phải ai cũng biết, rác thải ngày càng nhiều và là hiểm hoạ đối đối với con người và nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các bãi rác không hợp vệ sinh, đúng quy cách, đặc biệt là các bãi lộ thiên có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước ngầm và gây nguy hiểm đến sức khoẻ con người. Rác xuất hiện ở khắp mọi nơi, chỗ nào cũng có thể thấy rác, từ quán ăn, chợ, trên đường, tại các trường học, ký túc xá, bệnh viện đến các sông hồ... Hầu hết trên các tuyến đường, tại các khu phố và các khu chung cư đều có khẩu hiệu với nội dung vận động, khuyến khích người dân thực hiện nếp sống văn minh đô thị, trong đó có việc đổ rác đúng nơi quy định, không vứt rác bừa bãi… Phần lớn người dân đã nghiêm túc chấp hành, nhưng thực tế vẫn còn những đống rác nằm ngổn ngang, nhiều người vẫn vô tư xả rác trên đường,… Tại các ao, hồ rác chủ yếu do người dân sống hai bên bờ và những người buôn bán tiện tay vứt xuống. Kinh khủng nhất vẫn là rác tại các chợ. 1. Ô nhiễm không khí, tiếng ồn: Hữu Bằng là một làng nghề truyền thống lâu đời với tổng số dân là 15067 khẩu. Số lao động trong xã là 8076 cộng với số lao động ở các xã bạn lân cận đến làm việc tại địa phương khoảng 4000 lao động. Trong xã có 57 doanh nghiệp và HTX toàn xã có 3276 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại, kinh tế phát triển theo hướng (CN - TTCN - DVTM). Trong sản xuất hàng hóa hiện nay cơ bản là dùng máy móc trang thiết bị hiện đại. Làng nghề Hữu Bằng nổi tiếng với nghề mộc, do đó thường sử dụng các máy móc như máy cưa, máy bào, máy tiện, máy ép phun sơn, máy phay công nghiệp, ngoài ra còn có máy cắt quần áo và máy phát điện dùng cho phục vụ cho sản xuất khi mất điện lưới. nghề mộc gia dụng và nghành may phát triển lên các dịch vụ kèm theo cũng phát triển trong xã hiện nay có hơn 200 xe ô tô các loại trong số ô tô đó có hơn 150 chiéc là xe tải lớn nhỏ Khi các máy móc này hoạt động sẽ gây ra tiếng ồn rất lớn, hơn nữa bụi đường và bụi mùn và phun sơn, chất xăng funtin cũng gây ô nhiễm nặng nề cho không khí. Theo số liệu thống kê mới nhất: Bảng 1: số liệu thống kê số nhà xưởng, máy móc thiết bị xã Hữu Bằng Năm Số nhà xưởng Loại máy móc thiết bị Số lượng 2006 100 Máy cưa xẻ 20 Máy cưa tay 200 Máy cưa bàn 70 Máy quay giấy giáp 200 Máy phun sơn 20 Tổng số máy móc trang thiết bị 510 2007 150 Máy cưa xẻ 20 Máy cưa tay 250 Máy cưa bàn 125 Máy quay giấy giáp 250 Máy phun sơn 25 Tổng số máy móc trang thiết bị 670 2008 150 Máy cưa xẻ 20 Máy cưa tay 250 Máy cưa bàn 200 Máy quay giấy giáp 300 Máy phun sơn 30 Máy nổ 30 Tổng số máy móc trang thiết bị 830 2009 500 Máy cưa xẻ 25 Máy cưa tay 400 Máy cưa bàn 300 Máy quay giấy giáp 600 Máy phun sơn 70 Máy nổ 60 Tổng số máy móc trang thiết bị 1555 2010 600 Máy cưa xẻ 25 Máy cưa tay 500 Máy cưa bàn 350 Máy quay giấy giáp 800 Máy phun sơn 100 Máy nổ 70 Tổng số máy móc trang thiết bị 1845 Theo nguồn số liệu thống kê năm 2006 đến 2010 của xã Hữu Bằng Hình 1: Số lượng máy móc thiết bị xã Hữu Bằng qua 1 số năm 2008 2009 2010 Năm Máy móc thiết bị 1845 1555 830 Ảnh 4: Hoạt động phun sơn một hộ sản xuất của xã (Theo nguồn….. thay hoặc chụp lại ảnh trên) Kế tiếp phải kể đến là tiếng ồn ở Hữu Bằng. Ta có thể thấy rõ sự biến động đáng cảnh báo của nó qua biểu đồ sau: dBA 2006 2008 2009 Năm 92.6 72.3 31.5 0 Hình 2: tiếng ồn qua các năm 2. Ô nhiễm rác thải. Hàng ngàn tấn rác đang tồn đọng trong các khu dân cư sau sự cố bãi rác Núi Thoong phải đóng cửa, tình trạng đáng báo động của vệ sinh môi trường nơi đây là vấn đề cấp thiết. Đặc biệt, trận ngập lụt lịch sử vừa qua, nhiều khu vực trong xã biến thành "ao tù, nước đọng" người dân sống trên bèo rác và nước bẩn, nguy cơ bùng nổ dịch bệnh rất khó kiểm soát. Ảnh 5: Ao sen, nằm gần UBND xã Hữu Bằng ngập rác Nguồn…… Qua tìm hiểu thực tế, nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiếm môi trường ở xã Hữu Bằng xuất phát từ những hạn chế trong vấn đề quy hoạch, quản lý hạ tầng đến trình độ quản lý của chính quyền xã Hữu Bằng và ý thức yếu kém của người dân. Theo phân tích của ông Trịnh Duy Ưng, Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Thạch Thất, vấn đề vệ sinh môi trường ở xã Hữu Bằng có những yếu tố liên quan đến tình hình dịch bệnh, đó là: nước sinh hoạt không đầy đủ, rác thải sinh hoạt phát sinh hàng ngày rất lớn nhưng không được xử lý triệt để, ô nhiễm, bụi, tiếng ồn từ làng nghề, nhiều hộ gia đình không có hố xí hợp vệ sinh, ý thức bảo vệ môi trường của người dân còn kém. Bên cạnh đó, xã Hữu Bằng không có quy hoạch tổng thể, cống rãnh ao hồ lộn xộn, cả xã chỉ còn một cái ao. Ta có thể thấy rõ lượng rác thải lớn của xã Hữu Bằng qua bảng số liệu sau: Bảng 2: số lượng rác thải xã Hữu Bằng qua các năm Năm Khối lượng rác thải (tấn) 2005 1800 2006 2000 2007 2520 2008 2880 2009 3600 Hình 3: Khối lượng rác thải xã Hữu Bằng qua 1 số năm 1800 2000 2520 2880 3600 Khối lượng rác thải (tấn) 2005 2006 2007 2008 2009 Năm Nguồn theo số liệu thống kê năm 2009 của UBND xã Hữu Bằng Ngoài ra chúng ta có thể so sánh lượng rác thải xã Hữu Bằng với lượng rác thải các xã của Huyện Thạch Thất thông qua các số liệu sau: Bảng 3: Lượng rác thải ở các xã của huyện Thạch Thất Tên xã Khối lượng rác thải ( tấn) Chàng Sơn 1354 Hữu Bằng 3128 Phùng Xá 2248 Hạ Bằng 1620 620 1354 3128 2248 0 Khối lượng rác(tấn) Hữu Bằng Hạ Bằng Phùng Xá Chàng Sơn Xã Hình 4: Lượng rác thải các xã của Huyện Thạch Thất Chàng Sơn Phùng Xá Hạ Bằng Hữu Bằng Khối lượng rác (kg) 0 2248 1354 620 Theo báo cáo của lãnh đạo xã Hữu Bằng, trước đây, xã Hữu Bằng có 20 mẫu ao hồ nhưng nay bị lấn chiếm hết chỉ còn một cái ao duy nhất là ao Sen trước cửa đình làng. Tuy nhiên giờ đây, do xã buông lỏng quản lý, người dân lấn chiếm làm nhà cửa, công trình phụ xả nước thải thẳng xuống ao Sen biến nơi đây thành nơi chứa nước thải, ô nhiễm trầm trọng. Năm ngoái xã đã tiến hành giải tỏa các hộ dân lấn chiếm mặt ao và 23 công trình phụ xung quanh ao; đồng thời đầu tư 500 triệu đồng nạo vét bùn đất và 900 triệu đồng để làm đường dạo, ghế đá trồng cây xanh... xung quanh ao. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống thoát nước của xã hiện nay đã quá cũ kỹ và xuống cấp, trong khi đó ngân sách xã không đủ để đầu tư cải tạo nên cứ mưa xuống là nhiều tuyến đường trong xã có nơi ngập sâu gần 1m. Hữu Bằng là xã đi tiên phong của huyện Thạch Thất trong phát triển làng nghề và kinh doanh buôn bán nhưng ý thức vệ sinh môi trường của người dân Hữu Bằng rất hạn chế. Cả xã có 4178 hộ dân với tổng số 16.000 nhân khẩu, trong đó 90% số hộ gia đình có nghề mộc, kinh doanh dịch vụ buôn bán đồ dân dụng, gia dụng. So với các xã của huyện Thạch Thất, đời sống của người dân ở đây gần như khá nhất. Không còn đất làm nông nghiệp, người dân phát triển mạnh sản xuất đồ mộc, thu nhập bình quân cao, nhiều hộ thu nhập hàng chục, hàng trăm triệu đồng/tháng. Giàu có như vậy nhưng trong xã vẫn còn 40% số hộ chưa có hố xí hợp vệ sinh, nhiều gia đình không chịu nộp lệ phí thu gom rác thải. Hai vấn đề nan giải nhất hiện nay của xã Hữu Bằng là vấn đề thu gom, xử lý rác thải và nước sạch. Hữu Bằng là 1 trong 7 xã của huyện Thạch Thất được huyện ký hợp đồng với Công ty Môi trường Đô thị Xuân Mai thu gom rác thải trung bình 250-270 tấn rác/tháng, trong đó kinh phí huyện cấp 50%, 50% còn lại xã thu của dân với mức quy định 2000 đồng/người/tháng và huy động xã hội hóa thêm 2000 đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do việc tuyên truyền chưa được sâu sát, người dân chưa có ý thức đóng góp đầy đủ nên việc thu tiền còn gặp khó khăn. Anh Nguyễn Văn Bảy, Tổ trưởng tổ thu gom rác phàn nàn: Có tới trên ½ số hộ dân không chịu đóng tiền lệ phí thu gom rác. Lệ phí không thu được của dân nên việc duy trì thu gom rác là rất khó khăn. Xã không có chế tài, người dân không tự giác đóng góp, điển hình như thôn Ba Mác cả thôn không chịu nộp tiền, kể cả trưởng thôn, người dân vứt rác bừa bãi ra đường. Môi trường xã Hữu Bằng đang ô nhiễm nghiêm trọng (Ảnh: Tienphong.vn) Sau sự cố bãi rác Núi thoong phải đóng cửa, gần 1.000 tấn rác tồn đọng trong xã, tổ thu gom phải đưa ra bãi tập kết để đốt. Đặc biệt trong đợt ngập lụt vừa qua, rác trở thành nỗi ám ảnh của người dân nơi đây. Hiện tại, HTX Thành Công đã tiến hành thu gom trở lại nhưng lãnh đạo xã Hữu Bằng vẫn canh cánh nỗi lo rác thải. Phó Chủ tịch UBND xã Nguyễn Văn Cát khi trao đổi với phóng viên tha thiết đề nghị HTX Thành Công “châm chước” vấn đề nếu có chậm kinh phí vẫn tiếp tục thu gom rác thải cho xã. Đối với vấn đề nước sạch, xã đã có một trạm cấp nước mới cung cấp được cho khoảng 50% số hộ dân, số hộ còn lại sử dụng nước giếng khoan và nước mưa. Vào lúc nắng hạn, kể cả giếng khoan cũng cạn nước, nhiều hộ phải mua nước giá 30.000 đồng/m3 về đổ xuống giếng để sử dụng. Trước những vấn đề bức xúc như vậy, bằng nguồn kinh phí của thành phố, huyện và của doanh nghiệp, huyện Thạch Thất đã có dự án đầu tư xây dựng một nhà máy nước sạch và một nhà máy xử lý rác thải. Tuy nhiên, dự án xây dựng nhà máy nước đã khởi công từ đầu năm nhưng đến nay vẫn chưa có mặt bằng xây bể lắng, bể lọc. Người dân lấn chiếm làm lán trại còn chính quyền xã thì bất lực không giải tỏa được. Để giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường ở xã Hữu Bằng cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền huyện Thạch Thất và các ngành chức năng nhằm tạo chuyển biến về nhận thức cũng như hành vi cho người dân trong công tác bảo vệ môi trường; đồng thời đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án hạ tầng đô thị phục vụ nhu cầu cấp thiết cho người dân địa phương. Xã Hữu Bằng (huyện Thạch Thất) là một trong những làng nghề đã được UBND tỉnh Hà Tây công nhận "Làng nghề mộc - may - kim cơ khí" từ năm 2001. Tuy nhiên, Hữu Bằng cũng phải đối mặt với thách thức rác thải không hề nhỏ. Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, làng nghề đã có từ 700 - 800 hộ chuyên sản xuất đồ mộc gia dụng và cắt may quần áo hàng. Những năm gần đây, số hộ làm nghề tăng, nhưng quy mô lại mở rộng, trong khi công nghệ còn bán thủ công nên lượng rác thải lớn, không thân thiện với môi trường. Trung bình mỗi ngày trong xã Hữu Bằng có khoảng 11 đến 12,5 tấn rác thải công nghiệp và sinh hoạt. Chưa nói mỗi ngày mỗi hộ còn thải ra không kiểm tra kiểm soát được. Có những nơi bây giờ, người ta phải tính kế vượt những đống rác thải khổng lồ để vào làng! Dòng sông, con kênh, ao làng vốn thơ mộng trong những câu chuyện cổ cũng bị ngập thở với cơ man rác rưởi…. Có người dân giật mình tự hỏi: Rác ở đâu mà nhiều thế? Nhiều tới mức, cứ đi ngoài ngõ là đụng phải rác! Rác đủ loại, từ rơm rạ, bã rau cho tới túi nylon, chai lọ, có nhiều thứ phải mất hàng trăm năm mới làm cho nó biến mất được. Rác tồn đọng lâu ngày, bao vây làng xóm, đe doạ sức khoẻ của chính người dân. Hơn 100m đoạn đường từ thôn Giếng, xã Hữu Bằng sang thôn Thái Hoà, xã Bình Phú (huyện Thạch Thất) từ nhiều năm nay đã trở thành bãi rác của hai thôn. Tại đây, người dân gom rác vào các bao tải, túi nylon rồi ném ra đường ngay giữa ban ngày. Rác ngập hai bên vệ đường, tràn cả xuống lòng đường, khiến con đường rộng chừng 6m giờ chỉ còn 2m! Các phương tiện giao thông kêu trời vì phải cẩn thận tránh nhau trên lòng đường hẹp; còn người dân sống kề bãi rác thì bức xúc. Ông Nguyễn Đình Quyền xã Hữu Bằng - nói: "Nhà tôi ở gần bãi rác, phải lãnh đủ mùi hôi thối và khói đốt. Nhiều gia đình gần kề bãi rác đã nhiều lần phản ánh, kiến nghị với xã mong chính quyền xã bố trí một bãi rác chung, nằm xa khu dân cư mà chờ mỏi mắt vẫn chẳng thấy". Chị Nguyễn Thị Hạnh - một người dân khác trong thôn - than thở: "Lo nhất là trẻ con vào những ngày thời tiết nắng nóng". Cách đây hơn 2 tháng, khi ông Nguyễn Văn Vọng lên nhậm chức Trưởng thôn , đã cho cắm biển: "Cấm đổ rác" tại khu vực này. Chỉ được hai hôm, cái biển đã không cánh mà bay! Và bãi rác bất đắc dĩ vẫn tiếp tục mặc nhiên tồn tại; người dân liền kề đống rác vẫn tiếp tục phải chịu đựng cảnh sống chung với mùi thối và khói đốt rác. Điều đáng nói ở đây nhiều điểm trung chuyển rác thường lại nằm ở những nơi đông dân cư, đường đi lại, ngay tại lòng đường,…nhiều khi đứng xa vài chục mét vẫn còn ngửi mùi rất khó chịu. 3. Ô nhiễm nước thải. Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất. Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven ao hồ Các hệ thống tiêu thoát nước ở các trục đường ven làng là nơi chứa rác thải và nước thải, mỗi khi mưa xuống là mùi xú uế theo dòng nước chảy bốc lên quấn theo rác thải tồn đọng lâu ngày gây nên nhiều phiền hà và nguy cơ dịch bệnh. Các chất làm ô nhiễm nguồn nước: pH của nước thải pH của nước thải có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình xử lý. Các công trình xử lý nước thải áp dụng các quá trình sinh học làm việc tốt khi pH nằm trong giới hạn từ 7 ¸ 7,6. Như chúng ta đã biết môi trường thuận lợi nhất để vi khuẩn phát triển là môi trường có pH từ 7 ¸ 8. Các nhóm vi khuẩn khác nhau có giới hạn pH hoạt động khác nhau. Ví dụ vi khuẩn nitrit phát triển thuận lợi nhất với pH từ 4,8 ¸ 8,8, còn vi khuẩn nitrat với pH từ 6,5 ¸ 9,3. Vi khuẩn lưu huỳnh có thể tồn tại trong môi trường có pH từ 1 ¸ 4. Ngoài ra pH còn ảnh hưởng đến quá trình tạo bông cặn của các bể lắng bằng cách tạo bông cặn bằng phèn nhôm. Nước thải sinh hoạt có pH = 7,2 ¸ 7,6. Nước thải công nghiệp có pH rất khác nhau phụ thuộc từng loại công nghiệp. Các xí nghiệp sản xuất có thể thải ra nước thải có tính acid hoặc kiềm rất cao chẳng những làm cho nguồn nước không còn hữu dụng đối với các hoạt động giải trí như bơi lội, chèo thuyền mà còn làm ảnh hưởng đến hệ thủy sinh vật. Nồng độ axit sunfuric cao làm ảnh hưởng đến mắt của những người bơi lội ở nguồn nước này, ăn mòn thân tàu thuyền, hư hại lưới đánh cá nhanh hơn. Nguồn nước lân cận một số xí nghiệp có thể có pH thấp đến 2 hoặc cao đến 11; trong khi cá chỉ có thể tồn tại trong môi trường có 4,5 < pH < 9,5. Hàm lượng NaOH cao thường phát hiện trong nước thải ở các xí nghiệp sản xuất bột giặt, thuộc da, nhuộm vải sợi... NaOH ở nồng độ 25 ppm đã có thể làm chết cá 2.3 Các loại muối Nhiều loại xí nghiệp có nước thải chứa hàm lượng muối khá cao; ngoài ra ở các nước ôn đới người ta còn dùng muối để rãi lên mặt đường vào mùa đông và muối bị rửa trôi vào hệ thống cống rãnh. Hàm lượng muối cao sẽ làm cho nguồn nước không còn hữu dụng cho mục đích cấp nước hay tưới tiêu, làm hoa màu bị thiệt hại và đất bị ô nhiễm. Các loại muối khóang Ca, Mg còn làm cho nguồn nước bị "cứng", đóng cặn trong các đường ống gây thất thoát áp lực trên đường ống. Nước cứng làm ảnh hưởng đến việc nhuộm vải sợi, sản xuất bia và chất lượng của các sản phẩm đóng hộp. Nước cứng còn gây đóng vẩy trong các đường ống của lò hơi làm giảm khả năng truyền nhiệt. Magnesium sulfate gây xổ nhẹ ở người, ion chloride làm tăng độ dẫn điện của giấy cách điện, ion sắt gây các vết bẩn trên vải sợi và giấy, carbonat tạo vẩy cứng đóng trên đậu Hà Lan trong quá trình chế biến và đóng hộp chúng. Các loại muối có chứa Nitrogen và phosphorus làm cho tảo phát triển nhanh gây hiện tượng tảo nở hoa, làm ảnh hưởng đến hệ thủy sinh vật và mất mỹ quan. 3.3 Các kim loại độc và các chất hữu cơ độc Nước chảy tràn ở khu vực sản xuất nông nghiệp có chứa dư lượng thuốc trừ sâu và thuốc trừ cỏ, trong khi nước chảy tràn ở các khu đô thị chứa chì và kẽm (chì từ khói xe ô tô, kẽm từ việc bào mòn các lớp xe). Nhiều ngành công nghiệp thải ra các loại kim loại và chất hữu cơ độc khác. Các chất này có khả năng tích tụ và khuếch đại trong chuỗi thức ăn, do đó cần phải được quản lý tốt. Hàm lượng chloride 4000 ppm gây độc cho cá nước ngọt, Cr6+ gây độc cho cá ở nồng độ 5 ppm. Đồng ở hàm lượng 0,1 ¸ 0,5% đã gây độc cho vi khuẩn và một số sinh vật khác. P2O5 ở nồng độ 0,5 ppm gây trở ngại cho quá trình tạo bông cặn và lắng trong các nhà máy nước. Phenol ở nồng độ 1 ppb đã gây nên vấn đề cho các nguồn nước. Hữu Bằng - làng nghề mộc - may - kim cơ khí chất thải trực tiếp ra nguồn nước có chứa sắt, chì, kẽm. Sản xuất không ngừng phát triển, nguồn nước không ngừng tăng nồng độ chì, kẽm trong nước gây ô nhiễm nguồn nước. 4.3 Nhiệt Các nước thải từ nhà máy nhiệt điện và lò hơi của một số ngành công nghiệp có nhiệt độ rất cao. Khi thải ra môi trường, nó làm tăng nhiệt độ của các thủy vực ảnh hưởng đến một số thủy sinh vật và làm suy giảm oxy hòa tan trong nguồn nước (do khả năng bão hòa oxy trong nước nóng thấp hơn và vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ sẽ hoạt động mạnh hơn). Tính đến năm 2010 thì xã Hữu Bằng có 600 nhà xưởng đang hoạt động, nhiệt độ tăng lên là khó tránh khỏi ảnh hưởng đến oxy trong nước. Là nguyên nhân trực tiếp gây lên ô nhiễm nguồn nước 5.3. Màu (color) Các nước thải từ nhà máy dệt, giấy, thuộc da, lò mổ... có độ màu rất cao. Nó có thể làm cản trở khả năng khuếch tán của ánh sáng vào nguồn nước gây ảnh hưởng đến khả năng quang hợp của hệ thủy sinh thực vật. Nó còn làm mất vẽ mỹ quan của nguồn nước nên rất dễ bị sự phản ứng của cộng đồng lân cận. Mà may mặc, dệt vải là một trong những ngành nghề truyền thống của xã Hữu Bằng nên lượng lớn nước thải chứa màu nhuộm là rất cao. 6.3 Các chất tạo bọt (foam-producing matter) Các nước thải từ nhà máy dệt, giấy, các nhà máy hóa chất có chưá các chất tạo bọt, đây là một dạng ô nhiễm dễ phát hiện và gây phản ứng mạnh của cộng đồng lân cận. Vấn đề vệ sinh môi trường và phòng chống ô nhiễm ở làng nghề xã Hữu Bằng hiện tại là một vấn đề hết sức cấp thiết. Nguyên nhân: Do kinh tế phát triển, việc sản xuất hàng hóa tăng nhanh, người dân thiếu mặt bằng sản xuất, dẫn đến việc lấn chiếm ao hồ, lòng mương và ra cả ruộng để dựng lán xưởng sản xuất, biết là vi phạm nhưng không còn cách nào khác, vì nhu cầu sản xuất và sinh sống. Những vấn đề đó dẫn đến phá vỡ quy hoạch của địa phương, làm ách tắc dòng chảy. Sản xuất nhiều thì chất thải nhiều, chất thải từ sản xuất, chất thải từ sinh hoạt, chất thải từ các dịch vụ phục vụ cho sản xuất… là nhiều vô kể. Trữ lượng rác thải là chất thải rắn của xã Hữu Bằng bình quân mỗi ngày từ 9 đến 11 tấn, là một khối lượng rác khổng lồ. Trong khi địa phương chưa quy hoạch được bãi tập kết rác, nên rác được vứt ra ven đường, cống rãnh, gây ô nhiễm môi trường nặng nề, mất cảnh quan và ách tắc dòng chảy. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG Ô NHIỄN MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ: 1. Các kết quả đạt được: Từ những năm 1990 - 1995 xã Hữu Bằng đã nhận thấy việc ô nhiễm môi trường làng nghề là không tránh khỏi. Trong thời gian đó, cơ chế và chính sách về bảo vệ môi trường, nhất là môi trường làng nghề chưa được rộng khắp. Ủy ban nhân dân xã Hữu Bằng đã có nhiều cuộc họp bàn về việc giải quyết ô nhiễm môi trường, tổ chức thu gom rác thải, chuyển ra khỏi khu vực dân cư. Tuy nhiên, lượng rác thải quá nhiều, vì vậy việc tiến hành chưa được thực hiện triệt để. Sau năm 1995 đến năm 2002, xã đã thành lập tổ thu gom rác thải gồm một tổ trưởng và năm tổ viên tổ chức đi thu gom rác thải trong làng đổ ra nơi quy định. Kinh phí do người dân đóng góp, tổ sẽ đúng ra tổ chức đi thu. Từ năm 2003 đến nay, với cơ chế mở, thực hiện chính sách của Nhà nước là Nhà nước và nhân dân cùng làm, UBND xã đã tổ chức cho các tổ chức hoặc cá nhân có khả năng đảm đương ra đăng ký nhận thầu việc thu gom rác thải để tập kết ra bãi rác của xã để vận chuyển đi nơi khác. Đối với UBND xã, đã tiến hành xây dựng quy hoạch lại bãi tập kết rác và ký hợp đồng vận chuyển với công ty đô thị Xuân Mai để vận chuyển rác đi nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ thu gom rác của xã trong việc thu tiền đóng góp của người dân, tạo bãi tập kết rác thuận lợi cho việc tập kết rác thải và vận chuyển. 2. Những yếu kém còn tồn tại: 2.1 Về cải tạo dòng chảy. Những năm gần đây ý thức về công tác bảo vệ môi trường của người dân còn rất hạn chế trong chấp hành luật đất đai và luật bảo vệ môi trường, làm nhà xưởng tràn lan phá vỡ quy hoạch làm ách tắc dòng chảy, không những thế còn thiếu ý thức vứt rác bừa bãi ra đường ra các dòng chảy ao hồ không có ý thức khơi thông dòng chảy mà biến các dòng chảy và các ao hồ thành nơi chứa rác thải, mỗi khi mưa xuống mùi xú uế theo dòng chảy bốc lên cuốn theo rác thải lâu ngày gây phiền hà và còn kéo theo dịch bệnh. Đây cũng là thể hiện sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương. 2.2 Công tác thu gom và vận chuyển rác thải. Đối với ủy ban nhân dân xã, hiện nay vẫn chưa có bãi tập kết rác hoàn chỉnh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến việc thu gom và xúc vận chuyển. Quá trình tuyên truyền vận động để người dân có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường chưa triệt để vì vậy hiệu quả đem lại không cao. Đối với tổ thu gom: Tiến hành không thường xuyên và việc phân chia khu vực thu gom chưa hợp lý. Nhiều khu vực có khi bốn năm ngày mới vào thu gom một lần, gây mất lòng tin, ảnh hưởng đến việc thu tiền đóng góp của người dân đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thu gom. Đối với người dân, ý thức giữ gìn vệ sinh chung là chưa cao, việc đóng góp kinh phí cho tổ chức thu gom rác chưa được chấp hành triệt để, ý thức về việc vứt rác đung nơi quy định còn chưa có. 2.3 Bố trí địa điểm sản xuất. Do kinh tế phát triển, việc sản xuất hàng hóa tăng nhanh, người dân thiếu mặt bằng sản xuất, dẫn đến việc lấn chiếm ao hồ, lòng mương và ra cả ruộng để dựng lán xưởng sản xuất, biết là vi phạm nhưng không còn cách nào khác, vì nhu cầu sản xuất và sinh sống. Những vấn đề đó dẫn đến phá vỡ quy hoạch của địa phương, làm ách tắc dòng chảy. Trong khi người dân rất cần mặt bằng để sản xuất thì chính quyền địa phương lại không đáp ứng được không xây dựng được quy hoạch chung và không tổ chức thực hiện được các kế hoạch sử dụng đất để tạo mặt bằng cho sản xuất của người dân. Xã Hữu Bằng với nhiều làng nghề truyền thống sản xuất đan xen nhau, phân tán. Sản xuất trong khu dân cư, nhiều hộ gia đình mở các xưởng sản xuất gỗ, may dệt, cơ khí nhưng lại sinh hoạt gia đình ngay tại xưởng. Sinh sống, sản xuất, sinh hoạt cùng một nơi sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân. Nhìn chung thì xã Hữu Bằng sản xuất thiếu quy hoạch, chưa quy hoạch một khu vực, một mặt bằng riêng cho sản suất. 2.4 Hoạt động tuyên truyền vận động,, tổ chức nhân rộng Các cơ quan chính quyền xã Hữu Bằng đã ra sức tuyên truyền vận động nhân dân nhưng thiếu hiệu quả do việc tuyên truyền không thường xuyên, thiếu các phương tiện tuyên truyền đến quần chúng. Việc tuyên truyền không cụ thể, không bám sát với từng hộ trong xã. Hệ thống loa truyền thanh của xã đã cũ kỹ lạc hậu không phủ song được khắp lên các chủ trương đường nối của đảng và nhà nước không tới được với người dân. Trong khi kinh phí để cải tạo lại hệ thống truyền thanh của xã không có đối với cán bộ phong trào chưa sâu sát với dân, chưa thực sự gần dân nên không nắm bắt kịp thời đối với sự mong đợi của nhân dân và người dân cũng chưa ý thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường. Việc tuyên truyền vận động còn phải kết hợp với việc tổ chức nhân rộng. Không những tuyên truyền vận động công tác bảo vệ môi trường ở khu vực từng thôn mà nhân rộng ra cả xã và lớn hơn là các xã trong huyện Thạch Thất. Có thế , việc bảo vệ môi trường đi vào trách nhiệm của từng người dân, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường. Chương III: CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT Ô NHIỄM, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ XÃ HỮU BẰNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 I. DỰ BÁO CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ XÃ HỮU BẰNG DẾN NĂM 2015. 1. Các cơ chế chính sách của Nhà nước. a. Các cơ chế chính sách của thành phố. Trong điều kiện hiện nay, rác thải và sử lý rác thải rất được thành phố đặc biệt quan tâm cũng là điều kiện thuận lợi cho các xã làng nghề truyền thống. Quyết định số 51 QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội về thu phí cho công tác thu gom và vận chuyển rác thải cho xã và hỗ trợ 50% kinh phí vận chuyển. Đó cũng là nhân tố ảnh hưởng thuận lợi cho công tác bảo vệ môi trường của các xã làng nghề truyền thống. Xây dựng khu xử lý rác thải tập trung tại các huyện ngoại thành là giải pháp được UBND thành phố Hà Nội đưa ra để giải quyết vấn đề rác thải đang ngày càng trở nên bức xúc tại các địa phương thuộc địa bàn mới sáp nhập. Được chọn là đơn vị thí điểm để giải quyết vấn đề rác thải, huyện Thạch Thất đang khẩn trương tìm địa điểm để tiến hành lập dự án trong quý 3/2009. Huyện Thạch Thất có tốc độ phát triển công nghiệp hóa cao, nhiều làng nghề, dân số đông. Hàng năm, lượng rác thải phát sinh trên địa bàn huyện khoảng 25.000 tấn. Hiện nay, huyện mới giải quyết được lượng rác thải phát sinh hàng ngày, còn lượng rác thải tồn đọng hàng chục nghìn tấn chưa được xử lý. Năm 2008, chỉ có 28% lượng rác thải được thu gom, xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường, còn lại 77% được tập kết về các điểm tập kết rác của xã hoặc vứt bừa bãi ra đầu làng, ven đường, ao hồ... Tại các xã Canh Nậu, Hữu Bằng, Bình Phú, Phú Kim, rác thải không được thu gom tràn ngập trong các đường làng, ngõ xóm, người dân phải "sống chung" với rác thải, ô nhiễm. Huyện có tới 57 làng nghề mộc, xây dựng, cơ kim khí, mây giang đan hàng ngày sản sinh ra lượng rác thải khổng lồ. Các làng nghề đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng, bức xúc nhất là một số làng nghề cơ kim khí, sơn, sản xuất đồ mộc như Phùng Xá, Chàng Sơn, Hữu Bằng... Rác thải của các làng nghề, một phần được tái sử dụng như mùn cưa, gỗ vụn, bán sắt vụn... còn lại trôi nổi cùng với rác thải sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa bàn huyện có trên 400 cơ sở sản xuất kinh doanh, 2 khu công nghiệp (khu công nghiệp Thạch Thất- Quốc Oai và khu công nghệ cao Hòa Lạc), 2 cụm công nghiệp, 7 điểm công nghiệp, 1 bệnh viện huyện, các trạm xá và phòng khám tư nhân cũng phát sinh một lượng rác đáng kể, trong đó có nhiều rác thải độc hại. Việc xử lý lượng rác thải công nghiệp hiện được các công ty xây dựng phương án xử lý hoặc hợp đồng với các đơn vị chuyên thu gom, xử lý rác thải công nghiệp; rác thải y tế độc hại của bệnh viện huyện được xử lý bằng phương pháp tiêu hủy, còn lượng rác thải sinh hoạt của các cơ sở này được thu gom về các điểm tập kết rác chung của xã. Tuy nhiên, do sự cố tại bãi rác huyện Chương Mỹ và sự quá tải ở bãi rác Sơn Tây, hiện nay, một lượng lớn rác thải sinh hoạt ở các điểm tập kết của các xã vẫn chưa được vận chuyển đi xử lý, tồn đọng gây ô nhiễm môi trường... Để giải quyết vấn đề xử lý rác thải của các huyện ngoại thành, mới đây, UBND Thành phố đã giao cho các Sở: Xây dựng, Quy hoạch - Kiến trúc, Tài nguyên - Môi trường và các huyện khẩn trương trình địa điểm xây dựng nhà máy xử lý rác thải và công nghệ xử lý tại các huyện Thạch Thất, Chương Mỹ, Phú Xuyên...; giao cho huyện Thạch Thất thí điểm chọn nhà đầu tư xây dựng nhà máy xử lý rác thải theo phương thức xã hội hóa (có cơ chế ưu đãi, giúp nhà đầu tư thu hồi vốn). Thành phố yêu cầu các Sở, ngành hướng dẫn huyện tháo gỡ những vướng mắc, loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thành phố đã đồng ý cho huyện Thạch Thất dừng dự án xây dựng nhà máy xử lý rác tại xã Hữu Bằng để tìm địa điểm mới thuận lợi hơn. Hiện nay, huyện đã lựa chọn được địa điểm xây dựng khu xử lý rác tập trung tại xã Lại Thượng, diện tích từ 10-15 ha để giải quyết nhu cầu bức xúc trước mắt. Còn về lâu dài, dự kiến sẽ xây dựng trên địa bàn huyện một nhà máy xử lý rác thải hiện đại tại xã Yên Trung. b. Các cơ chế chính sách của huyện Căn cứ quyết định số 51QĐ - UB của UBND thành phố Hà Nội, UBND huyện Thạch có quyết định số 158QĐ - UBND huyện Thạch Thất hỗ trợ kinh phí thu gom xúc vận chuyển rác thải trên địa bàn các xã trong huyện tạo điều kiện thuận lợi cho công việc thu gom và hợp đồng xúc vận chuyển của các địa phương UBND huyện còn ký hợp đồng với HTX thành công vận chuyển đi đến nơi xử lý Hiện nay, huyện đã chỉ đạo các xã, thị trấn thành lập các tổ vệ sinh thu gom rác thải, triển khai ký hợp đồng với các công ty Môi trường Đô thị để xử lý, trong đó ngân sách huyện hỗ trợ 50% kinh phí và ngân sách xã chi trả 50%. Các đợt tổng vệ sinh môi trường, thu gom rác thải được huyện hỗ trợ 100% kinh phí. Ngoài ra huyện còn phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường xây dựng mô hình phân loại, xử lý rác tại nguồn tại xã Cẩm Yên, tiến tới sẽ nhân rộng mô hình này trên địa bàn toàn huyện; xây dựng đề án thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải làng nghề với việc thành lập các tổ vệ sinh ở 100% số xã, mỗi xã xây dựng từ 1- 3 điểm tập kết rác thải, tổ chức thu phí vệ sinh và hợp đồng với các công ty Môi trường Đô thị để xử lý. Đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào hoạt động thu gom, xử lý chất thải, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức chính trị xã hội và người dân cùng tham gia phong trào bảo vệ môi trường xanh- sạch- đẹp, hướng tới chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. 2. Sự phát triển sản xuất kinh doanh Sản xuất phát triển là một điều mong muốn của bao người sản xuất phát triển tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa tạo sự công ăn việc làm cho nhiều lao động. Sản xuất phát triển tạo ra nhiều của cải vật chất xã hội đời sống của người dân được nâng cao. Nhưng đồng thời sản xuất phát triển cũng tạo ra nhiều rác thải và cũng tạo ra ô nhiễm môi trường, ô nhiễm rác thải, ô nhiễm khí thải, ô nhiễm tiếng ồn. Sản xuất phát triển thì kinh doanh cũng phát triển để đáp ứng kịp thời với tốc độ phát triển sản xuất và phục vụ đắc lực cho sản xuất. Các mặt hàng do sản xuất ra cần tiêu thụ ngay tại chỗ có mặt hàng tiêu thụ đi các nơi . Hữu Bằng là xã có nhiều làng nghề truyền thống, sản xuất kinh doanh đa dạng bằng nhiều ngành nghề. Ngày trước, Hữu Bằng có HTX dệt vải; đến khi HTX dệt giải tán, người dân chuyển sang nghề làm đồ gỗ chuyên phục vụ thị trường trong nước. Vì thế, họ luôn luôn có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vừa qua không bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Bây giờ càng có điều kiện phát triển trong phong trào “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Trên cơ sở sản xuất, kinh doanh ổn định và phát triển, người dân Hữu Bằng không vay tiền ngân hàng, tự đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng đường sá, chợ búa, xây dựng các dãy phố có qui hoạch khang trang, đầy đủ tiện nghi hiện đại, xây dựng nhiều xưởng sản xuất, phát triển ngành nghề dịch vụ, ngay trong làng cũng có cửa hàng sản xuất bánh gatô mừng sinh nhật... Hữu Bằng là một làng nghề tiêu biểu của huyện Thạch Thất với các sản phẩm mộc dân dụng và dệt may. Trên địa bàn xã hiện có 50 doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ, trang trí nội thất và dệt may công nghiệp thu hút số lượng lớn lao động, khoảng 4950 lao động chiếm 73,4% tổng số lao động. Thu nhập bình quân của lao động làng nghề ở xã Hữu Bằng khoảng 1.500.000 đồng/1 người/1 tháng. 3. Ý thức của người dân về ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường. Trong nhận thức của một số bộ phận người dân về ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường còn hạn chế nên nhiều lúc nhiều nơi và nhiều hộ dân vẫn vứt rác ra đường, xuống các dòng chảy không hợp tác tốt với tổ thu gom vận chuyển rác thải. Như không ủng hộ, không để rác đúng nơi quy định, không chịu nộp phí vệ sinh môi trường theo quy định. Theo tốc độ phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh mở rộng, thì giai đoạn 2011-2015 vấn đề ô nhiễm môi trường là vấn đề nóng của Hữu Bằng. Việc bảo vệ môi trường đánh vào ý thức của từng người dân. Mỗi cá nhân, mỗi gia đình đều có trách nhiệm bảo vệ môi trường vì sự sống còn của chính mình và vì sự phát triển chung của cộng đồng. Để giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường ở xã Hữu Bằng cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền huyện Thạch Thất và các ngành chức năng nhằm tạo chuyển biến về nhận thức cũng như hành vi cho người dân trong công tác bảo vệ môi trường; đồng thời đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án hạ tầng đô thị phục vụ nhu cầu cấp thiết cho người dân địa phương. II. CÁC GIẢI PHÁP CĂN BẢN. 1. Cải tạo dòng chảy. Kinh tế phát triển hay sản xuất kinh doanh thương mại trên địa bàn xã phát triển cũng có nghĩa là vấn đề rác thải và ô nhiêm môi trường cũng phát triển theo. Trong sự tồn đọng rác thải gây ra ô nhiễm môi trường có sự đóng góp phần không nhỏ của những dòng chảy. Dòng chảy bị ách tắc do việc vi phạm của một bộ phận người dân, dòng chảy bị ách tắc do không được thường xuyên khơi thông và chính nhất là dòng chảy đã từ lâu đời không còn phù hợp với thực tại. Năm ngoái xã đã tiến hành giải tỏa các hộ dân lấn chiếm mặt ao và 23 công trình phụ xung quanh ao; đồng thời đầu tư 500 triệu đồng nạo vét bùn đất và 900 triệu đồng để làm đường dạo, ghế đá trồng cây xanh... xung quanh ao. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống thoát nước của xã hiện nay đã quá cũ kỹ và xuống cấp, trong khi đó ngân sách xã không đủ để đầu tư cải tạo nên cứ mưa xuống là nhiều tuyến đường trong xã có nơi ngập sâu gần 1m. Để dòng chảy được thông thoáng trước hết UBND xã phải quy hoạch lại hệ thống tiêu thoát nước của xã và của thôn xóm đồng thời cho cải tạo lại hoặc nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước song song với nó phát động phong trào toàn dân khơi thông cống rãnh trong thôn xóm và trong toàn xã. Bằng nguồn kinh phí của thành phố, huyện và của doanh nghiệp, huyện Thạch Thất đã có dự án đầu tư xây dựng một nhà máy nước sạch và một nhà máy xử lý rác thải. Trên hệ thống sông ngòi của xã, đối với các cửa xả lớn, tùy theo lưu lượng nước tại các cửa xả sẽ thiết kế các trạm xử lý nước thải công suất nhỏ cho từng cửa xả, kết hợp với hệ thống thu gom phù hợp với diện tích đất trồng còn lại hai bên bờ sông. Đối với các cửa xả trung bình, có đường kính từ 300 đến 1.500mm sẽ thu gom tập trung từng đoạn chuyển về trạm xử lý kết hợp với hệ thống thu gom để xử lý nước thải như các cửa xả lớn. Xã cũng cần ra cơ chế khuyến khích các hộ gia đình sử dụng chế phẩm vi sinh, hóa sinh. 2. Tổ chức thu gom rác thải. Rác thải và ô nhiễm môi trường là vấn đề nhức nhối hiện nay giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường và xử lý rác thải là việc rất mới mẻ nhưng rất phức tạp, khó khăn và vô cùng cấp thiết của toàn dân. Thực hiện khẩu hiệu (nhà nước và nhân dân cùng làm) UBND xã thành lập tổ thu gom và vận chuyển rác thải, tổ thu gom có nhiệm vụ thu gom rác thải trong dân và trong toàn địa bàn xã trở về bãi tập kết. Đồng thời thực hiện việc thu phí vệ sinh theo quy định. UBND xã quy hoạch bãi tập kết và ký hợp đồng vận chuyển xử lý rác thải với HTX thành công không để rác tồn đọng, hỗ trợ và đôn đốc tổ thu gom vận chuyển không được để rác tồn đọng mà phải đưa hết rác ra khu vực tập kết. Củng cố lại tổ chức hoạt động của các Hợp tác xã thu gom rác phải chú trọng đến việc nâng cao công tác quản trị điều hành của Ban Chủ nhiệm, mở rộng dần qui mô, nâng cao năng lực để đảm nhiệm cả việc vận chuyển rác, tiến tới có thể tham gia đấu thầu thực hiện công tác vệ sinh môi trường trên một khu vực dân cư. Thực hiện các biện pháp tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, khuyến khích các chủ đường rác có qui mô hoạt động lớn thành lập doanh nghiệp tư nhân thực hiện dịch vụ vệ sinh môi trường, hoạt động theo luật doanh nghiệp năm 2005. Xây dựng và sớm ban hành qui chế quản lý hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt, trong qui chế cần qui định rõ các nội dung sau: - Phân cấp cho UBND xã trực tiếp quản lý nhà nước hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt trên địa bàn. - Qui định các loại hình tổ chức thu gom rác sinh hoạt được phép hoạt động (công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác…) và phải đăng ký hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt với UBND xã. - Tiêu chuẩn phương tiện thu gom rác (đáp ứng yêu cầu về vệ sinh, mỹ quan, phù hợp với công nghệ vận chuyển, yêu cầu phân loại rác tại nguồn…) - Các qui định bảo đảm vệ sinh trong quá trình thu gom rác (không để rơi vãi, chảy nước dơ, bốc mùi hôi…). - Các qui định về xử lý vi phạm về vệ sinh môi trường đối với người dân và các tổ chức cung ứng dịch vụ vệ sinh. - Qui định cơ quan chức năng kiểm tra giám sát và xử lý vi phạm về vệ sinh môi trường. - Cơ chế phối hợp giữa các đơn vị thực hiện thu gom rác, phối hợp gữa khâu thu gom và vận chuyển… - Qui định việc thu phí và mức thu phí thu gom rác thải sinh hoạt… Giám sát việc thực hiện Hợp đồng thu gom rác sinh hoạt giữa các tổ chức thu gom rác và các chủ nguồn thải: - Ban hành và hướng dẫn thực hiện Hợp đồng thu gom rác sinh hoạt giữa các tổ chức thu gom rác và các chủ nguồn thải - Giám sát việc đóng tiền và xử lý vi phạm về vệ sinh môi trường của các chủ nguồn thải rác trên địa bàn - Giám sát hoạt động thu gom rác sinh hoạt trên địa bàn và xử lý vi phạm 3. Phát triển khu vực sản xuất tập trung Là một làng nghề truyền thống sự phát triển kinh tế của địa phương chủ yếu là sản xuất kinh doanh - dịch vụ thương mại, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp so với nền kinh tế địa phương. Cả xã có 178 hộ dân với tổng số 16.000 nhân khẩu, trong đó 90% số hộ gia đình có nghề mộc, kinh doanh dịch vụ buôn bán đồ dân dụng, gia dụng. Sản xuất phát triển nhưng khu vực sản xuất tập trung chưa có, cả xã như một công xưởng sản xuất, nơi sản xuất của các hộ dân cũng chính là nơi ở (vừa sản xuất vừa ở). Tình trạng nơi sản xuất chật hẹp ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và năng xuất lao động các loại chất thải do sản xuất kinh doanh không có chỗ chứa. Để giải quyết được vấn đề này không còn cách nào khác UBND xã phải xây dựng quy hoạch cơ sở hạ tầng, các đề án phát triển khu vực sản xuất tập trung, để đưa khu sản xuất ra ngoài khu dân cư tạo đà cho sự phát triển sản xuất kinh doanh, giảm thiểu sự ô nhiễm trong khu dân cư. Việc quy hoạch mặt bằng, bố trí địa điểm sản xuất phải tập trung, tránh xa hoặc tạo một khoảng cách an toàn cách khu dân cư sinh sống, đảm bảo không ảnh hưởng đến môi trường nước, không khí, môi trường sống của nhân dân. 4. Tuyên truyền vận động Rác thải và ô nhiễm môi trường ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sức khỏe của nhân dân cũng như đời sống tinh thần và cảnh quan. Để toàn thể nhân dân thấy rõ tác hại của rác thải và ô nhiễm môi trường, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước phải: Tuyên truyền phổ biến kiến thức để nhân dân hiểu rõ tác hại của rác thải và ô nhiễm môi trường. Tuyên truyền sâu rộng trên các phương diện thông tin đại chúng nhằm nâng cao ý thức của như người dân nơi đây trong vấn đề bảo vệ môi trường. Vận động người dân ý thức được trách nhiệm của mình đối với rác thải và ô nhiễm môi trường trong khu vực mình đang sinh sống. Xác định rõ trách nhiệm của toàn xã hội trong việc thu gom rác thải Trách nhiệm của các chủ nguồn thải rác trong việc đóng góp phí rác thải. Trách nhiệm của toàn xã hội trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường. Đồng thời phát động phong trào toàn dân thực hiện nếp sống mới luân giữ cho môi trường luôn xanh - sạch - đẹp. Việc tuyên truyền phải thường xuyên trên đầy đủ các phương tiện truyền thông, việc tuyrn truyền phải cụ thể, bám sát đến từng hộ dân trong xã. 5. Tổ chức nhân rộng mô hình Bảo vệ môi trường. Trong công tác bảo vệ môi trường của địa phương hàng tháng hàng quý phải có sự kiểm tra đánh giá kết quả, rút ra những kinh nghiệm để triển khai tiếp được tốt hơn. Vì công việc rất là mới mẻ ta vừa làm đồng thời vừa rút kinh nghiệm, những thôn nào làm tốt đạt kết quả cao, và những phương pháp hiệu quả nhất ta sẽ lấy đó để nhân rộng ra các thôn khác và ra toàn xã. Khi thấy được hiệu quả của những biện pháp cải tạo môi trường, chúng ta sẽ tích cực vận động và tuyên truyền tới các thôn khác, để từ đó không chỉ bảo vệ môi trường của riêng xã Hữu Bằng mà nhân rộng ra các xã khác trong huyện Thạch Thất nói riêng và cả thành phố Hà Nội nói chung, đem lại môi trường sinh sống an toàn cho bộ phận dân cư. PHẦN KIẾN NGHỊ Công tác bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân đối với nước ta rất mới mẻ một số chính sách ban hành. Đối với một số nơi sau khi có chính sách ban hành áp dụng vào địa phương chưa thực sự phù hợp, chưa sát với thực trạng nên chưa đáp ứng được công việc. Bố trí cán bộ phụ trách theo dõi đánh giá còn thiếu chưa phù hợp nhất là chính sách hỗ trợ cho sự nghiệp bảo vệ môi trường nói chung và công tác xử lý rác thải bảo vệ môi trường các làng nghề truyền thống nói riêng. Trong cơ chế thị trường hiện hành nền kinh tế nước ta đang có nhiều khởi sắc đời sống nhân dân ngày một được nâng cao đời sống tinh thần, đời sống sản xuất của người của người dân làng nghề cũng được nâng theo. Sản xuất kinh doanh phát triển tạo ra nhiều sản phẩm và đồng thời tạo ra nhiều rác thải và tăng ô nhiễm môi trường. Vì vậy đối với các làng nghề truyền thống rất cần đến sự hỗ trợ của nhà nước về mặt chính sách cũng như về kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống nói riêng. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm làm đầu mối, phối hợp với các cấp, cơ quan chính quyền huyện, thành phố, các tổ chức doanh nghiệp ở địa phương quản lý hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt nhằm thống nhất quản lý từ thành phố đến quận - huyện, phường-xã, thôn-xóm. Trong đó phân cấp quản lý nhà nước hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt cho UBND cấp phường xã. - Tăng cường nguồn nhân lực cho UBND phường xã để tổ chức quản lý vệ sinh môi trường trên địa bàn. - Việc tổ chức lại hoạt động thu gom rác sinh hoạt phải đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động, đặc biệt là quyền khai thác đường dây rác mà họ đang nắm giữ và thu nhập của người lao động thu gom rác. - Cho phép các Hợp tác xã và Doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh môi trường được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, cụ thể: miễn thuế bốn năm đầu khi thành lập và áp dụng thuế suất 5% trong chín năm tiếp theo theo qui định ở điều 14, chương III của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (số 14/2008/QH12). - Ủy ban nhân dân xã giao trách nhiệm cho các cơ quan truyền thông, phát thanh xã tuyên truyền vận động người dân về ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, tuyên truyền các hình thức xử lý vi phạm về vệ sinh môi trườ PHẦN KẾT LUẬN. Quá trình cải tạo nhằm thay đổi môi trường tại xã Hữu Bằng đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành. Trong giai đoạn phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, nhóm các tác nhân tác động đến sự ô nhiễm môi trường là rất lớn nhưng đồng thời việc ứng dụng các thành tựu khoa học nhằm làm giảm những tác hại đó đến môi trường cũng có rất nhiều khả năng mang tính khả thi. Trên cơ sở thu thập tài liệu và phân tích, đề án đã cho thấy rằng những mặt hạn chế, tồn đọng trong vấn đề bảo vệ môi trường tại xã Hữu Bằng đồng thời đề xuất các giải pháp mang tính đồng bộ và khả thi từng bước góp phần thay đổi và cải tạo môi trường tại đây. Điều đó đồng nghĩa trong tương lai làng nghề tại đây sẽ là nơi sản xuất ra các mặt hàng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng với những điều kiện và chất lượng bảo đảm. Đề tài có nội dung được thể hiện cụ thể trong các chương có sự liên kết chặt chẽ. Đã nêu được những thực trạng môi trường bị ô nhiễm và đề ra giải pháp thiết thực trong vấn đề bảo vệ môi trường tại đây, tình trạng môi trường cũng như nguyên nhân của sự ô nhiễm đó. Mặt khác bằng những tài liệu cụ thể đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin, đề tài đã khái quát lại những vấn đề môi trường tại đây đang được sự quan tâm của các cấp, các ngành các đơn vị khác nhau. Bằng cách đi sâu vào phân tích thực trạng, đề tài đã khẳng định mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường với sự phát triển làng nghề. Đồng thời tạo ra những bước mới trong việc đề xuất các giải pháp cũng như điều kiện, mặt hạn chế, ưu điểm của các giải pháp đó. Với các giải pháp đủ, các cơ quan chủ thể quản lý và xây dựng có cơ sở và căn cứ nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và xây dựng các công trình phục vụ cho việc bảo vệ và phát triển làng nghề tại xã Hữu Bằng. Với mong muốn góp một phần vào công tác bảo vệ môi trường tại làng nghề xã Hữu Bằng, tôi thực hiện đề tài hy vọng rằng đề tài này sẽ thực sự có ích đối với việc cải tạo và bảo vệ môi trường tại đó và làng nghề xã Hữu Bằng là nơi tổ chức sản xuất tập trung an toàn, đảm bảo vệ sinh môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Tạp chí KTPT số 20/2003 2. Tạp chí KTMT số 9/2002 3. Văn hoá và MT làng nghề- NXB Thống kê 4. Môi trường trong mối quan hệ với làng nghề - NXB Thống kê tháng 12/1995 6. Báo Hà Tây số 12/99 Số 40/2003 7. Báo ANTĐ tháng 10/2003 8. Tintuc.xalo.vn MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương I: Cơ sở lý luận về vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề 2 I. Khái niệm bảo vệ môi trường 2 1. Khái niệm 2 2. Một số nội dung về ô nhiễm môi trường làng nghề 3 II. Các chính sách bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống 6 1. Luật bảo vệ môi trường 6 2. Các văn bản của thành phố 8 3. Các văn bản của UBND huyện 8 III. Tác động của ô nhiễm môi trường đến đời sống dân cư 8 1. Tác động đến cảnh quan 8 2. Tác động đến sức khỏe 8 3. Tác động đến hệ sinh thái 9 4. Tác động đến sản xuất kinh doanh 9 IV. Kinh nghiệm một số địa phương trong bảo vệ MT làng nghề truyền thống.....10 1. Tổ chức khơi thông dòng chảy 10 2. Tổ chức thu gom rác thải 10 3. Tổ chức sản xuất tập trung 10 4. Tổ chức vệ sinh thôn xóm 10 5. Tuyên truyền vận động 10 Chương II: Thực trạng ô nhiễm môi trường ở làng nghề Hữu Bằng ..............12 I. Khái quát tình hình phát triển kinh tế xã hội xã Hữu Bằng 13 1. Điều kiện tự nhiên 13 2. Đặc điểm kinh tế 13 3. Sự phát triển kinh tế liên quan đến môi trường 16 II. Thực trạng ô nhiễm môi trường làng nghề xã Hữu Bằng 17 1. Ô nhiễm không khí tiếng ồn 17 2. Ô nhiễm rác thải, nước thải 17 III. Đánh giá chung thực trạng ô nhiễm làng nghề 23 1. Các kết quả đạt được 23 2. Các tồn tại yếu kém 24 Chương III: Các giải pháp giải quyết ô nhiễm MT, bảo vệ MT làng nghề giai Đoạn (2011 - 2015) 25 I. Dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề ô nhiễm môi trường xã Hữu Bằng 25 2. Các cơ chế chính sách của nhà nước 25 a. Các cơ chế chính sách của thành phố 25 b. Các cơ chế chính sách của huyện 26 2. Sự phát triển sản xuất kinh doanh 27 3. Ý thức của người dân về ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường 28 II. Các giả pháp cơ bản 28 1. Cải tạo dòng chảy 28 2. Tổ chức thu gom 29 3. Phát triển khu vực sản xuất tập trung 31 4. Tuyên truyền vận động 31 5. Tổ chức nhân rộng 32 III. Kiến nghị 33 Phần kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_da_sua_nhu_5247.doc