Tài liệu Chuyên đề Sự hoàn thiện chính sách huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ: Lời Mở đầu
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu không huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính ”.
Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính trong việc h...
77 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Sự hoàn thiện chính sách huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở đầu
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu không huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính ”.
Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên ngân hàng là một loại hình doanh ngiệp đặc biệt kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nên kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ là một chi nhánh thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực Nông nghiệp Nông thôn. Cũng giống như các NHTM khác Chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Thấy đươch tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của Chi nhánh, trong quá trình thực và nghiên cứu hoạt động của Chi nhánh em chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1- Chính sách huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương 2-Thực trạng chính sách huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nôngthôn Chi nhánh Láng Hạ
Chương 3. Hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên những vấn đề mà Em nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ để đề tài được hoàn thiện hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn, góp phần hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo. Tiến sỹ Trần Đăng Khâm và toang thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh Láng Hạ đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Hà nội, tháng 05 năm 2004
Sinh viên: Nông Văn Thực
Chương 1.
Chính sách huy động vốn của
Ngân hàng thương mại
1.1. Các hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sản xuất phát triển dẫn đến lưu thông hàng hoá ngày càng được mở rộng, khối lượng lưu thông ngày càng lớn, không chỉ trong mỗi địa phương, trong mỗi quốc gia mà còn được lưu thông giữa các Quốc gia trong khu vực, giữa các khu vực trên toàn thế giới. Tuy nhiên ở mỗi Quốc gia lại sử dụng những đồng tiền khác nhau, với giá trị khác nhau, điều này đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình lưu thông, trao đổi hàng hoá. Trước thực tế đó một số Thương gia đã chuyển sang kinh doanh hàng hoá đặc biệt (từ bỏ kinh doanh hàng hoá thông thường), đó là đổi tiền và kinh doanh tiền tệ. Công việc của các thương gia này đã góp phần quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các đồng tiền khác nhau, giúp quá trình lưu thông hàng hoá thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho các nhà buôn, các thương gia. Mặt khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các thương gia, những người này kiêm luôn việc giữ hộ và thanh toán hộ tiền, và trong trường hợp cần thiết họ còn tiến hàng cho các nhà buôn vay tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán (với chi phí thoả thuận- hay còn gọi là lãi suất).
Ngày nay, hệ thống ngân hàng (bao gồm ngân hàng Nhà nước và hệ thống các Ngân hàng Thương mại) phát triển hiện đại hơn, có nhiều loại hình dịch vụ hơn rất nhiều so với thủa sơ khai, tuy nhiên thì một số nghiệp vụ của nó thì vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ thuận tiện hơn, tiện lợi hơn hình thức phục vụ đa dạng hơn. Hoạt động của hệ thống ngân hàng ngay từ khi ra đời đã giữ vai trò quan trọng là huyết mạch và còn thước đo sự hưng thịnh, suy thoái, hay trì trệ của một nền kinh tế.
Tóm lại, có thể thấy rằng sự ra đời của hệ thống ngân hàng là kết quả của sự phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói riêng. Sự ra đời đó có thể ví như một trong những phát kiến vĩ đại của nhân loại loài người.
Khái niệm Ngân hàng thương mại
Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay, việc đưa ra một khái niệm cụ thể về Ngân hàng thương mại thì vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi của các nhà Kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác nhau thì khái niệm lại có những thay đổi, đây lại cũng là một đặc thù của lĩnh vực ngân hàng tài chính.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế”. Theo luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X (kỳ họp tứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12 năm1997) thông qua thì “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, và các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau, tại mỗi quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhin nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại nói riêng đồng thời qua đó giúp chúng ta có hiểu rõ hơn về các hoạt độngvà những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
1.1.1.2. Các loại hình Ngân hàng thương mại
Bất kì một nền kinh tế nào cũng cần phải có các tổ chức đứng ra làm trung gian trong việc điều tiết các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu liên quan đến tài chính tiền tệ. Ngày nay không chỉ có các ngân hàng thương mại đảm nhận việc đó, mà còn có các tổ chức trung gian tài chính khác, với khả năng tài chính mạnh mẽ cũng tiến hành tham gia cung cấp vốn và các dịch vụ khác liên quan tới lĩnh vực tài chính tiền tệ.
a- Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu
Ngân hàng thương mại Quốc doanh, là loại hình ngân hàng mà sở hữu thuộc về Nhà nước, do Nhà Nước cấp ngân sách thành lậpvà trực tiếp quản lý, điều hành. Nhà nước sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm liên quan tới nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Thông thường nhà nước (Trung ương, hoặc Tỉnh) sẽ hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá cho nên ít khi các ngân hàng này bị phá sản. Tuy nhiên trong một số trường hợp do hoạt động theo sự chỉ đạo từ Nhà Nước cho nên sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại cổ phần, đây là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ sở góp vốn của các cổ đông, sự góp vốn có thể bằng hoặc không bằng nhau giữa các Cổ đông tuỳ theo thoả thuận và khả năng của các cổ đông. Theo quy định thì các cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về nghĩa vụ nợ và trách nhiệm tài sản khác tuỳ theo mức tỷ lệ cổ phần mà mình sở hữu. Do vốn hình thành theo hình thức tập trung cho nên các ngân hàng thương mại cổ phần có khả năng mở rộng quy mô và tăng nguồn vốn nhanh, do vậy đây thường là các ngân hàng lớn. Phạm vi hoạt động rất rộng, hình thức hoạt động đa năng, có nhiều Chi nhánh hoặc công ty con. Nhưng nó thường chịu mức rủi ro cao từ cơ chế quản lý phân quyền. (Giữa Tổng giám đốc và các giám đốc; giữa công ty mẹ và công ty con...).
Ngân hàng Thương mại Liên doanh, là loại hình ngân hàng thành lập trên cơ sở sự hợp tác hoặc góp vốn của bên hoặc các bên của ngân hàng nước này với bên hoặc các bên của ngân hàng quốc gia (có thể một hoặc nhiều Quốc gia cùng góp vốn) khác, để tận dụng ưu thế của nhau. Tuỳ theo thoả thuận và hiệp định ký kết giữa các bên.
Ngân hàng sở hữu tư nhân, là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của mình. Loại ngân hàng này thường có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương. Các ngân hàng này thường gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân địa phương. Chủ ngân hàng thường rất am hiểu khách hàng, vì vậy hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên vì quy mô và phạm vi nhỏ nên nó thường không đa dạng trong hoạt động, nên dễ dàng gặp tổn thất khi mà địa phương đó gặp rủi ro.
b. Ngân hàng thương mại theo tính chất hoạt động
Ngân hàng chuyên doanh và đa năng, ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh là ngân hàng chỉ cung cấp một số dịch vụ hạn chế tuỳ thuộc vào thế mạnh, cũng như điều kiện mà ngân hàng có thể hoạt động.. Tính chuyên môn hoá cao cho phép các ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại hình ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn, khi mà ngành hoặc lĩnh vực mà mình hoạt động bị xa sút. Ngân hàng chuyên doanh thường là ngân hàng có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ do tập trung chuyên sâu nên không đa dạng; hoặc là ngân hàng sở hữu của công ty. Thứ hai, ngân hàng hoạt động theo hướng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này thường là ngân hàng lớn (hoặc chủ sử hữu công ty lớn). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng trong việc tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn là ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng khác, các công ty tài chính, cho nhà nước, cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Ngân hàng bán buôn thường là ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn. Ngân hàng bán lẻ thường là các ngân hàng cung cấp dịch vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ lẻ. Ngày nay xu hướng của các ngân hàng thương mại ít ngân hàng chỉ bán lẻ hay chỉ bán buôn. Các ngân hàng nhỏ thường bán lẻ, còn ngân hàng lớn vừa bán buôn, vừa bán lẻ.
Tóm lại, có thể thấy các Ngân hàng Thương mại ngoài hoạt động chính là nhận tiền gửi, phân phối lại nguồn vốn phục vụ nhu cầu của nền kinh tế. Thì nó còn có chức năng quan trọng là chức năng tạo tiền và cung cấp các dịch vụ nhất liên quan tới lĩnh vực tiền tệ mà các trung gian tài chính khác không thể thực hiện được. Đồng thời nó cũng trực tiếp thực hiện sách tiền tệ quốc gia, theo quy định của Ngân hàng nhà nước.
c. Các trung gian tài chính
Mặc dù không phải là ngân hàng thương mại nhưng các trung gian tài chính này với tiềm lực tài chính lớn mạnh trong tay, họ cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, và hoạt động tương tự ngân hàng thương mại. Một số trung gian tài chính chủ yếu hiện nay gồm;
Công ty Tài chính, Có thể là các công ty quốc doanh, công ty cổ phần, với hoạt động chủ yếu cho vay để mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng nguồn vốn của mình. Nhận tiền gửi, phát hàng trái phiếu, tín phiếu, hoặc vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
Công ty Cho thuê Tài chính (Cho thuê tài sản), là công ty cung cấp tín dụng trung và dài hạn, thông qua các hợp động cho thuê tài sản với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hợp đồng thuê, khách hàng được mua lại với giá ưu đãi (theo hợp đồng thuê mua), hoặc cũng có thể tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã thoả thuận và điều kiện gia hạn (nếu cần thiết).
Công ty Bảo hiểm, với tiềm lực về tài chính trong tay, ngày nay các công ty Bảo Hiểm cũng hoạt động như một trung gian tài chính (một tổ chức tín dụng) đứng ra huy động tiền của những người mua bảo hiểm (tiền đóng phí của khách hàng) trên mọi lĩnh vực khác nhau, với lời hứa sẽ bù đắp thiệt hại cho những người tham gia khi họ gặp rủi ro, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, và loại hình bảo hiểm mà khách hàng tham gia. Như vậy công ty Bảo hiểm sẽ có lượng tiền tạm thời nhàn rỗi rất lớn có thể tiến hành hoạt động như một trung gian tài chính.
So với các ngân hàng thương mại thì các trung gian tài chính ngoài những nghiệp vụ mà nó hoạt động giống như một ngân hàng thương mại, thì nó có điểm khác biệt ở chỗ, nó không có chức năng tạo tiền cho nền kinh tế, không nhận tiền gửi không kỳ hạn, không cung cấp dịch vụ thanh toán và nhìn chung nó ít chịu sự ảnh hưởng hay phải thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước, hay của Chính phủ. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của các tài chính trung gian tài chính so với các ngân hàng thương mại.
1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Cùng với chiều dài lịch sử hình thành ngân hàng thương mại ngày nay khác xa so với ngân hàng thương mại thủa sơ khai, do nhu cầu kinh doanh và sự cạnh tranh quyết liệt mà hệ thống ngân hàng thương mại đã mở rộng rất nhiều loại hình dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mặc dù mộ số nghiệp vụ truyền thống vẫn không thể tách rời so với hoạt động của ngân hàng, sau đây chúng ta cùng tìm hiểu một số loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
1.1.2.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Mua bán trao đổi ngoại tệ
Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng là dịch vụ được thực hiện là trao đổi ngoại tệ, theo đó ngân hàng sẽ đứng ra mua một loại tiền tệ này đổi lấy một loại tiền tệ khác, để hưởng phí dịch vụ và hưởn chênh lệch giá. Điều này rất quan trọng đối với khách du lịch quốc tế khi di du lịch tại nước sở tại, đồng thời hiện nay các ngân hàng thương mại còn thực hiện việc huy động vốn, cho vay bằng ngoại tệ và quan trọng hơn nữa là việc thanh toán cho lĩnh vực Xuất, nhập khẩu hàng hoá cùng các hoạt động khác liên quan đến hoạt động thương mại Quốc tế.
Nhận tiền gửi
Như phần trên đã trình bày, để có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh thì các ngân hàng thương mại phải tiến hành huy động từ các thành phần trong nền kinh tế. Ngân hàng sẽ tiếp nhận tất cả các nguồn tiền gửi của dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp với mức lãi suất phù hợp được công bố. Hiện nay khi khách hàng tới gửi tiền thì Ngân hàng sẻ mở một tài khoản giúp khách hàng thuận tiện trong giao dịch và kiểm tra.
Cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu đối với các Nước đang phát triển (còn ở các Nước phát triển thì thu nhập chủ yếu lại là thu từ phí hoạt động dịch vụ), hiện nay có một số loại hình cho vay như sau:
- Cho vay Thương mại và chiết khấu thương phiếu
Nghiệp vụ này suất hiện ngay từ thời kỳ đầu thành lập ngân hàng, các ngân hàng sẽ chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nghiệp địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và mua sắm trang thiết bị sản xuất.
- Cho vay tiêu dùng
Trong lịch sử hình thành và phát triển thì hầu hết các ngân hàng thương mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ song lại có độ rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh gay gắt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành và tiềm năng. Nhiều ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đã thành lập hẳn phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho vay tiêu dùng đã trở thành loại hình tín dụng có mức tăng trưởng mạnh nhất. Mặc dù trong thời gian gần đây tốc độ có chậm lại do cạnh tranh tín dụng ngày càng lớn trong khi nền kinh tế đã phát triển với tốc độ chậm lại. Tuy nhiên người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một nguồn thu quan trọng.
- Cho vay tài trợ và đồng tài trợ dự án
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ và đồng tài trợ cho những chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoạt động lâu dài. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một hoặc nhiều công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với việc tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng còn tiến hành tài trợ cho các chương trình văn hoá xã hội, các chương trình thể thao, các chương trình phúc lợi xã hội...
Bảo quản vật có giá
Đây là nghiệp vụ có từ thời trung cổ khi mà ngân hàng đang còn ở dạng sơ khai, các ngân hàng bảo quản vật có giá của khách hàng trong các kho của mình. Một điều hấp dẫn là, các loại giấy tờ có giá này như giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền- đây chính là hình thức đầu tiên của loại hình thanh toán Séc và Thẻ sau này. Ngày nay nghiệp vụ bảo quản vật có giá thường do “phòng bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nghiệp gửi tiền và ngân hàng, họ nhận thấy các ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thay cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng, đã mở đầu cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không phải đến ngân hàng rút tiền sau đó thực hiện thao tác thanh toán, mà chỉ cần viết lệnh yêu cầu ngân hàng thanh toán thay cho mình. Hoặc cũng có thể khách hàng mang giấy (Séc, Uỷ nhiệm chi- UNC, do khách hàng khác ký phát) đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán này đã góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian giao dịch cho cả ngân hàng lẫn khách hàng, giảm thiểu chi phí, đặc biệt là ngân hàng sẽ mở rộng màng lưới của mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, một cách nhanh chóng và thuận tiện. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng và sử dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), giúp cho người gửi tiền viết Séc, uỷ nhiệm chi (UNC) để thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Việc đưa ra loại hình dịch vụ này được xem như là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng.
Quản lý ngân quỹ
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp và nhiều cá nhân khác trong nền kinh tế, các ngân hàng sẽ mở các tài khoản và giữ tiền cho họ. Do đó mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng chặt chẽ. Mặt khác ngân hàng rất có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ cho nên họ đã cung cấp dịch vụ quản lý và đồng ý quản lý việc thu chi cho khách hàng nhất là doanh nghiệp và tiến hành sử dụng phần thặng dư tiền mặt tạm thời theo mục đích của ngân hàng cho đến khi khách hàng có nhu cầu rút tiền hoặc thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Đây là một trong nhiều loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng áp dụng, bởi lẽ hoạt động của ngành ngân hàng liên quan trực tiếp tới bức tranh toàn cảnh về hoạt động của nền kinh tế. Do đó ngay từ khi thành lập các ngân hàng đã phải chịu sự quản lý và điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp của Chính phủ. Thông thương các ngân hàng phải cam kết mua một lượng trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng nguồn tiền mà nó huy động được. Các ngân hàng cam kết cho Chính phủ vay tiền, hoặc tiến hành tài trợ các dự án, chương trình của Chính phủ trong những trường hợp cần thiết.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán các thiết bị, máy móc nhất là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Khi kết thúc hợp đồng thuê, khách hàng có thể tiến hành ra hạn hợp đồng thuê tiếp, hoặc mua lại (nếu hợp đồng đó là hợp đồng thuê mua). Với tiềm lực tài chính lớn mạnh của mình các ngân hàng thương mại cũng tiến hành king doanh quyền lựa chọn thuê thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê hoặc thuê mua, trong đó ngân hàng tiến hành mua thiết bị máy móc cho khách hàng thuê, với các cam kết mà các bên thoả thuận, nhưng thông thường khách hàng phải cam kết trả 2/3 giá trị tài sản thuê. Như vậy, về thực chất đây là một hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, nó thường được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động của ngân hàng chủ yếu trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, nên ngân hàng thường tập trung các danh mục đầu tư cũng như đội ngũ chuyên gia. Khi các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp có yêu cầu thì ngân hàng tiến hành tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, chia tách doanh nghiệp, về mua bán chứng khoán. Đồng thời ngân hàng cũng tiến hành quản lý tài sản hộ khách hàng, và trong nhiều trường hợp ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho khách hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác phát hành, uỷ thác cho vay hộ.
Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
So yêu cầu của sự cạnh tranh trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại ngày càng quan tâm tói việc cung cấp càng nhiều dịch vụ cho khách hàng càng tốt. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ mua bán chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không nhờ tới các nhà kinh doanh chứng khoán. Nhiều ngân hàng hiện nay đã thành lập hẳn ra các ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Trong nhiều năm trở lại đây, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng (chủ yếu là bảo hiểm tiền gửi, hoặc bảo hiểm tín dụng), điều này đảm bảo khả năng hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng khi mà không may khách hàng gặp rủi ro ảnh hưởng tới tình mạng sức khoẻ, hay rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cung cấp dịch vụ đại lí
Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, một số ngân hàng chưa có điều kiện mở Chi nhánh, hay văn phòng đại diện tại vùng, hoặc quốc gia khác có quan hệ. Các ngân hàng thương mại lớn tiến hành cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như, đại lý thanh toán hộ, đại lý phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho đồng tài trợ dự án...
Ngoài ra một số ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ khác như, dịch vụ hưu trí, dịch vụ quỹ hỗ trợ và trợ cấp,... Điều này cho thấy xu hướng hoạt động đa năng của các ngân hàng thương mại ngày càng đa dạng, nhiều dịch vụ mới được đưa vào hoạt động kinh doanh. Sao cho có thể thu hút ngày càng nhiều khách hàng tới với ngân hàng càng tốt.
1.1.2.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Đối với ngân hàng thương mại, thì hoạt động huy động vốn luôn được quan tâm hàng đầu, bởi vì nếu huy động được nhiều vốn thì ngân hàng mới có khả năng mở rộng được hoạt động, cũng như quy mô của ngân hàng. Ngày nay, trước sức ép của cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách thu hút nguồn tiền ngày một linh hoạt, để từ đó đáp ứng cho hoạt động của ngân hàng. Các phương thức huy động vốn mà hệ thống ngân hàng thương mại thường áp dụng là;
a. Theo đối tượng huy động
Huy động từ dân cư
Trên cơ cở hoạt động của mình ngân hàng thương mại tiến hành huy động các nguồn tiền nhà rỗi trong dân cư, thông qua các hình thức tiết kiệm, gửi thanh toán, ủy thác cho ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên thì nguồn tiền gửi trong dân cư bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể (nếu không nói là chủ yếu) của ngân hàng thương mại, Nguồn này vừa có tính ổn định cao, thời hạn chủ yếu là trung và dài hạn, các khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này thường thấp về số tương đối, khách hàng mang tính ổn định cao, ít biến động, rất thuận lợi cho việc hoạch định chính sách hoạt động của ngân hàng nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng.
- Huy động từ các doanh nghiệp
Các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thông thường thì các tổ chức này, không thường xuyên gửi tiền và ngân hàng với mục đích tiết kiệm mà chủ yếu là dùng vào việc thanh toán. Trên cơ sở nắm bắt được chu kì sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chu kì hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng đề nghị, hoặc khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức gửi tiết kiệm theo một số quy định cụ thể mà hai bên thoả thuận, cũng như quy định hiện hành của pháp luật. Một số doanh nghiệp Nhà Nước (doanh nghiệp quốc doanh) không được phép gửi tiết kiệm thì họ lại gửi dưới hình thức biến tướng của tiền gửi tiết kiệm là uỷ thác đầu tư.
- Huy động từ các tổ chức tín dụng
Đối với các ngân hàng thương mại khác, chỉ áp trong trường hợp ngân hàng thương mại tạm thời thiếu hụt trong thanh toán cho khách hàng, hoặc trong trường hợp ngân hàng thiếu hụt dự trữ theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước hoặc để đáp ứng những tình huống bất khả kháng. Tỷ trọng của nguồn này thường thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các ngân hàng thương mại rất hạn chế sử dụng tới nguồn này.
b. Theo mục đích gửi tiền
Tiền gửi tiết kiệm
Hoạt động này đem lại cho ngân hàng nguồn vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn hoạt động. Thông qua tình hình thực tế của ngân hàng, các chỉ số phát triển của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn hiện tại và dự báo trong tương lai, mà các ngân hàng thương mại có chính sách huy động vốn hợp lí, thường là công cụ lãi suất nhằm gây sự quan tâm của khách hàng, từ đó thu hút khách hàng tới gửi tiền vào ngân hàng với những mục tiêu khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách gửi tiền và danh mục mà ngân hàng cung cấp.
Tiền gửi thanh toán
Nguồn tiền này chủ yếu phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên hay tiêu dùng hàng ngày của khách hàng của ngân hàng, nó có tính ổn định không cao, tuy nhiên các ngân hàng thương mại có thể dùng một phần của nguồn nay để tiến hàng sử dụng theo mục đích của mình trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của loại tiền gửi này
Tiền gửi Uỷ thác đầu tư
Nhiều khách hàng (cả các cá nhân và tổ chức) của ngân hàng có lượng tiền lớn trong tay, một là họ không có thời gian để đầu tư, hoặc là họ thiếu thông tin nhưng cũng không muốn gửi tiết kiệm vì lãi suất thấp. Họ uỷ thác cho ngân hàng đầu tư theo thoả thuận. Hoặc cũng có những doanh nghiệp không được phép gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng cho nên họ biến tường dưới hình thức uỷ thác đầu tư.
Các nguồn vốn vay khác như phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, các lhoản nhàn rỗi tàm thời chưa sử dụng...
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm chính sách huy động vốn
Ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào lượng tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn lớn đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách huy động hợp lý, nhằm từ đó thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng thương mại.
Chính sách huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu đó là những công cụ, cách thức và phương pháp, và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng. Trên cơ sở hai bên đều có lợi. Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng là một phần trong chính sách Marketing mà các ngân hàng đang sử dụng, tuy nhiên thì nó luôn được quan tâm và chịu sự giám sát chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo ngân hàng.
1.2.1.2. Các yếu tố cấu thành chính sách huy động vốn
Mỗi ngân hàng đều có chính sách huy động vốn riêng của mình tuỳ thuộc và nhu cầu và mục đích hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên thì không phải lúc nào và bao giờ ngân hàng cũng có thể thực hiện được theo đúng như yêu cầu của mình đã đặt ra, bởi lẽ hoạt động ngân hàng có liên quan trực tiếp tới hoạt động nền kinh tế, nó là thước đo “sức khoẻ” của nền kinh tế, mọi sự biến động của tình hình kinh tế xã hội đều ít nhiều tác động đến hoạt động ngân hàng. Chính vì lý do đó mà có nhiều yếu tố tác động hay cấu thành nên chính sách huy động vốn của ngân hàng.
- Tình hình thực tế của kinh tế- xã hội
Đây là một yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác huy động vốn của ngân hàng, vì tình kinh tế xã hội có ổn định, sự phát triển có bền vững thì các thành phần kinh tế mới thực sự yên tâm khi đầu tư hoặc gửi tiền vào ngân hàng. Chính vì vậy để hoạt động huy động vốn của ngân hàng thực sự có hiệu quả trong mọi trường hợp thì không thực sự đơn giản với các ngân hàng thương mại và cũng không phải ngân hàng nào cũng có thể đạt được.
- Chính sách và quy định của Ngân hàng Nhà Nước
Hệ thống ngân hàng thương mại chịu sự quản lý điều hành trực tiếp từ Ngân hàng Nhà Nước (một số quốc gia có thể do Bộ tài chính làm thay công tác của Ngân hàng Nhà Nước). Như vậy các ngân hàng thương mại đều phải tuân thủ nghiên túc các quy định mà Ngân hàng Nhà Nước đưa ra. Trên cơ sở thực tế của tình hình kinh tế xã hội, các chính sách vĩ mô của Chính phủ mà Ngân hàng Nhà Nước sẽ có những điều tiết hoạt động, buộc các ngân hàng này phải tuân thủ. Trong các chính sách điều tiết đó thì việc huy động vốn luôn được quan tâm và có sự giám sát chặt chẽ từ Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ.
- Và cuối cung là chính sách huy động vốn mà ngân hàng thương mại áp dụng
Đây là nhân tố quan trọng quyết định tới lượng vốn mà ngân hàng thương mại huy động. Căn cứ vào nhu cầu cụ thể của ngân hàng thương mại và các chính sách quy định của Ngân hàng Nhà Nước, Chính phủ mà ngân hàng thương mại sẽ đưa ra phương thức huy động hợp lý, nhằm thu hút tối đa lượng vốn mà ngân hàng có thể thực hiện.
1.2.2. Nội dung của chính sách huy động vốn
1.2.2.1. Các phương thức huy động vốn
a. Tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ tiền, tài sản và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại. Ngày nay hầu hết các ngân hàng thương mại đang dẩy mạnh huy động vốn thông qua các chính sách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả.
- Đối với tiền gửi thanh toán
Vớ mục đích giao dịch, trên cơ sở phạm vi số dư có trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả khi khách hàng có yêu cầu hoặc có sự uỷ quyền. Các khoản thu nhập của khách hàng đều có thể dễ dàng được ngân hàng nhập vào tài khoản. Hiện nay do yêu cầu của cạnh tranh, các ngân hàng đều quan tâm tới việc rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng cho nên thủ tục mở tại khoản rất đơn giản, gọn nhẹ và thuận tiện. Để thu hút khách hàng một số ngân hàng còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với cho vay (hay còn gọi là cho vay thấu chi), một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản tiền gửi thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi tương ứng này nhằm cạnh tranh với các Tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại khác.
- Tiền gửi có kỳ hạn của các Doanh nghiệp, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội nghề nghiệp
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ được chi trả trong một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho thanh toán song mức lãi suất thường rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu và khuyến khích người gửi tiền, tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn cho mình, các ngân hàng đưa ra các hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Thông thường khoản tiền gửi này không thuận tiện trong thanh toán như tiền gửi thanh toán như ở trên, khi cần tiền khách hàng phải đến ngân hàng để thực hiện rút tiền ra. Tuy nhiên để thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng thường có mức lãi suất ưu đãi tương ứng với độ dài kỳ hạn gửi mà khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố thu hút được nhiều nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tổ chức nói trên.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các tâng lớp dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm) trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, họ sẽ có thể gửi tiền nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn vốn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều các khoản tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều có gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt trong nhà thay vì gửi vào ngân hàng, bằng cách mở rộng màng lưới các Chi nhánh, các phòng giao dịch đáp ứng nhu cầu huy động. Đưa ra hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như mức lãi suất cạnh tranh với các khoảng tiền gửi thời hạn khác nhau, lãi suất giữa tiết kiệm bằng đồng nội tệ và tiết kiệm bằng đồng ngoại tệ, tiết kiệm bằng vàng,...). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm khác nhau cho mỗi kỳ hạn và cho mỗi lần gửi khác nhau. Loại hình tiền gửi này không nhằm mục đích thanh toán tiền hàng và dịch vụ song nó có thể dùng làm tài sản thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
Với mục tiêu là an toàn, thuận tiên và nhanh chóng trong thanh toán cho khách hàng, các ngân hàng thương mại không chỉ duy trì tiền tại ngân hàng của mình mà còn tiến hành gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác. Tuy nhiên thì quy mô của nó không lớn, thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.
b. Nguồn đi vay
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong những trườn hợp cần thiết các ngân hàng thương mại vẫn phải tiến hành đi vay thêm. Mặt khác tại nhiều quốc gia trên thế giới, ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa bắt buộc với nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy trong những trường hợp cần thiết, và trong các giai đoạn cụ thể nhiều ngân hàng phải tiến hành vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Các nguồn mà ngân hàng thương mại có thể vay đó là:
- Vay từ Ngân hàng Nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết công việc cấp bách trong chi trả của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) các ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Nhà Nước (NHTW). Hình thức vay chủ yếu là tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu thương phiếu. Các thương phiếu được chiết khấu hoặc tái chiết khấu thì trở thành tài sản của họ (của Ngân hàng Nhà Nước). Khi cần tiền họ lại mang các thương phiếu này đến Ngân hàng Nhà Nước để chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà Nước) tăng lên, Ngân hàng Nhà Nước điều hành vay mượn một cách chặt chẽ; Ngân hàng thương mại phải đáp ứng các điều kiện đảm bào và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà Nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà Nước trong từng thời kỳ. Trong diều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà Nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng.
- Vay từ các Tổ chức tín dụng và Ngân hàng thương mại khác
Đây là nghiệp vụ ngân hàng thương mại này đi vay ngân hàng thương mại khác và vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoặc thị trường vốn. Các ngân hàng thương mại đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc cho vay giảm sẽ sẵn sàng cho ngân hàng thương mại khác vay để hưởng lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng thương mại đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn từ các ngân hàng khác để đảm bảo khả năng thanh khoản như, đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế nguồn từ Ngân hàng Nhà Nước (NHTW). Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà Nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo bằng các chứng khoán của Kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và ngân hàng đi vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng thương mại cũng đi vay bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiều, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn. Do vậy các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải thông quan ngân hàng đại lý hoặc thông qua sự bảo lãnh của ngân hàng thương mại lớn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào tình hình phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề về chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các ngân hàng quan tâm.
c. Các nguồn khác
Nguồn uỷ thác
Đây là nghiệp vụ mà thông qua đó ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ uỷ thác như cho vay, đầu tư, uỷ thác cấp phát, giải ngân, thu ngân hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn vốn uỷ thác tại ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của các ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng màng lưới ngân hàng như là kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Và kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ đsể mở L/C,...). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền từ của các ngân hàng thành viên để chuyển về thực hiện cho vay.
- Nguồn khác, các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả, Tiền khấu hao tài sản nhưng chưa dùng,...
1.2.2.2. Nội dung chính sách huy động vốn
Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại là một trong những yếu tố quyết định tới sự thành công của công tác huy động vốn. Bởi tại mỗi thời kỳ, thậm chí tại các thời điểm khác nhau nhu cầu vốn của ngân hàng cũng có những thay đổi khác nhau. Do đó mà chính sách huy động vốn cũng thường xuyên có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình của ngân hàng thương mại. Có rất nhiều nhân tố cấu thành chính sách huy động vốn, tuy nhiên ở đây ta chỉ xem xét một số nội dung của chính sách huy động vốn:
- Chính sách thu hút khách hàng
Bất kỳ một ngân hàng nào cũng rất quan tâm tới chính sách này, nó bao gồm toàn bộ những nội dung liên quan tới hoạt động, kinh doanh của ngân hàng. Sự thành công hay thất bại của một ngân hàng được quyết định bởi khả năng thu hút khách hàng. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu phạm vi chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại mà thôi. Như đã trình bày, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại ở mỗi thời điểm có nhữ thay đổi khác nhau, nó phụ thuộc trực tiếp vào bối cảnh kinh tế xã hội, nguồn vốn và nhu cầu thực tế của ngân hàng như thời điểm đầu năm, giữa năm, cuối năm, hay tính chất mùa vụ của ngành nghề của khác hàng của ngân hàng. Tương ứng với các thời kỳ này thì của các ngân hàng thương mại cũng có những nhu cầu vốn khác nhau.
Trường hợp ngân hàng đang có nhu cầu sử dụng vồn lớn, bên cạnh các chính sách khác, ngân hàng thương mại sẽ tập trung một số biện pháp cần thiết, nhằm huy động được càng nhiều vốn càng tốt, thông qua hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư hoặc uỷ thác cho ngân hàng đầu tư. Hoặc cũng có thời kỳ, nhu cầu về vốn của ngân hàng giảm, trong khi khách hàng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng. Vì ngân hàng không được phép từ chối nhận tiền của khách hàng, khi khách hàng gửi vào ngân hàng, do đó mà ngân hàng có thể dùng công cụ lại xuất (giảm lãi suất đầu vào) để từ đó làm nản lòng khách hàng, và làm giảm lượng tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên thì không phải lúc nào ngân hàng cũng áp dụng mức lãi suất như trong trường hợp thứ hai, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của khách hàng truyền thống và chiến lược cạnh trạnh của ngân hàng do đó mà nó hiếm khi được áp dụng. Các chính sách mà ngân hàng thương mại áp dụng để phục vụ cho công tác huy động vốn nó bao gồm các chính sách như Marketing, Lãi suất, danh mục dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, cùng các chính sách khác liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
- Chính sách về lãi suất
Lãi suất được hiểu là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Như vậy lãi suất liên quan trực tiếp tới các nguồn tiền mà ngân hàng huy động.
Trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng thì, công cụ lãi suất luôn được coi là một yếu tố góp phần tạo lập nguồn vốn cho ngân hàng thông qua huy động từ nền kinh tế. Đã có những thời kỳ có ngân hàng thương mại để thu hút đươc vốn đầu tư những lĩnh vực có lợi nhuận cao mà đã đưa ra mức lãi suất kỷ lục lên đến 114%/năm. Mặc dù tại mỗi thời kỳ khác nhau thì mức lãi suất của ngân hàng đưa ra là khác nhau nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố hấp dẫn với khách hàng, vừa giữ chân khách hàng truyền thống đồng thời vừa tìm kiếm thêm khách hàng mới. Ngày nay, do yêu cầu của cạnh tranh, và quy định của luật pháp, cũng như sự ra đời của các liêm minh hiệp hội ngân hàng, thì công cụ lãi suất không còn là công cụ hữu hiệu của các ngân hàng nữa mà thay vào đó là chất lượng công tác phục vụ khách hàng, chất lượng dịch vụ ngân hàng cung cấp...
- Chính sách mở rộng màng lưới Chi nhánh
Bên cạnh 2 chính sách trên và các yếu tố khác thì chính sách mở rộng màng lưới Chi nhánh, các Phòng giao dịch của ngân hàng cũng là điều kiện không thể thiếu trong chính sách huy động vốn mà ngân hàng áp dụng. Mở rộng màng lưới không chỉ giúp ngân hàng nâng cao khả năng huy động vốn, mà còn đáp ứng nhiều mục tiêu mà ngân hàng đề ra. Mặc dù ngày nay, các dịch vụ tiện ích của ngân hàng đã được nhiều ngân hàng áp dụng, nhưng dù sao đi chăng nữa thì không thể coi trọng mở rộng màng lưới của ngân hàng. Điều đó tạo trong xã hội niềm tin và cảm giác an toàn khi đến với ngân hàng. Bên cạnh công tác mở rộng màng lưới, thì các nhà hoạch định chiến lược cũng không thể bỏ qua yếu tố vị trí địa lý, phục vụ công tác đặt Chi nhánh, phòng giao dịch cho ngân hàng của mình. Một Chi nhánh ở tại vị trí đông dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp sẽ là một môi trường lý tưởng cho mọi hoạt động của ngân hàng và nhất là công tác huy động vốn của ngân hàng. Ngược lại tại những vùng mà khả năng phát triển kinh tế, xã hội còn hạn chế, thì không phải ngân hàng sẽ bỏ qua, mà nhiều lúc ngân hàng phải chấp nhận hoạt động kinh doanh thua lỗ để từ đó dần tạo mối quan hệ, dần mở rộng thị trường.
Song song với việc mở rộng màng lưới, các phòng giao dịch, NHTM cầm phải quan tâm tới đặc điểm kinh tế xã hội tại khu vự đó, để trên cơ sở đó có sự thay đổi trong hoạt động sao cho phù hợp với thực tế như, thay đổi giờ giao dịch đối với những vùng mà hoạt động kinh tế có thời gian kết thúc muộn so với giờ hành chính, hay sáng sớm tinh mơ, chiều tối, hoặc cũng có thể làm việc cả ngày nghỉ, ngày lễ tết... Nếu làm tốt được điều này các ngân hàng thương mại không chỉ làm tốt công tác huy động vốn mà còn đáp ứng những nhu cầu, mục tiêu khác mà ngân hàng đưa ra.
- Chính sách về mở rộng quan hệ với các TCTD, các NHTM, các cá nhân, các tổ chức xã hội
Mối quan hệ với các tổ chức này giúp cho các ngân hàng thương mại trong việc hoạch định chiến lược hợp lý. Điều đặc biệt là với các tổ chức, các cá nhân, các doanh nghiệp, có mối quan hệ trực tiếp sẽ giúp các ngân hàng thương mại trong việc dự báo các luồng tiền sẽ thay đổi. Quan trọng hơn là, trên cơ sở mối quan hệ mật thiết trên mà ngân hàng sẽ có những ưu tiên hợp lý khuyến khích với từng thành phần khách hàng.
- Chính sách Marketing
Marketing được hiểu, đó là hệ thống các chiến lược, biện pháp chương trình, kế hoạch hoạt động, nhằm tác động vào toàn bộ quá trình tổ chức cung ứng dịch vụ của ngân hàng nhằm sử dụng một cách tốt nhất trong việc làm thoả mãn khàch hàng mục tiêu. Về mặt lý thuyết, hoạt động marketing bao hàm gần như tất cả các nội dung liên quan tới hoạt động của ngân hàng thương mại, trong đó có hoạt động của chính sách huy động vốn. Thông qua việc tìm hiểu, xem xét đánh giá các yếu tố của môi trường kinh tế vi mô, cũng như yếu tố vĩ mô. Các nhà hoạch định marketing sẽ đưa ra chương trình, nội dung hoạt động sao cho phù hợp. Chính sách marketing gồm sự tác động của nhiều nhân tố như; Phương pháp địng giá (xác định lãi suất), chính sách sản phẩm (cung ứng những dịch vụ mà ngân hàng có khả năng), chính sách phân phối, chính sách khuyếch trương- giao tiếp,...
- Chính sách hỗ trợ tư vấn khách hàng
Đây là hoạt động, mà thông qua đó ngân hàng sẽ hỗ trợ và tư vấn cho khách hàng về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tài chính- tiền tệ- ngân hàng và quan trọng hơn là giúp khách hàng có được danh mục đầu tư, lựa chọn các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Thông qua nghiệp vụ này ngân hàng sẽ giúp khách hàng hiểu rõ tác dụng của việc không sử dụng tiên mặt trong lưu thông và tác dụng của việc gửi tiền, tài sản vào ngân hàng hơn là cất trữ trong nhà.
-Chính sách chăm sóc khách hàng
Hoạt động của chính sách này góp phần giúp ngân hàng củng cố được mối quan hệ với khách hàng, đồng thời thông qua đó có thể mở rộng được phạm vi hoạt động. Bởi con người, ai cũng vậy rất muốn được đề cao mình và muốn dược người khác quan tâm. Vì vậy chính sách này giúp cho ngân hàng củng cố thêm mối quan hệ qua lại giữa ngân hàng và khách hàng. Một ngân hàng muốn thành công thì cần phải biết, kết hợp tổng thể mọi chính sách, và quan trọng hơn cả chính là quan tâm và chăm sóc khách hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn của ngân hàng Thương Mại
Huy động huy động vốn là một trong những nội dung hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên thì hoạt động này không phải là hoạt động độc lập, mà có mối quan hệ biện chứng với các hoạt động khác của ngân hàng thương mại. Hơn nữa với chức năng là một trung gian tài chính, vừa là nơi tập trung vốn, vừa là nơi phân phối lại tín dụng, do đó mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hưởng cuỉa rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố chủ quan lẫn nhân tố khách quan, các nhân tố này trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Nhân tố khách quan
Đây là nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng thương mại, song nó lại có tác động lớn tới hoạt động và kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại nói chung cũng như công tác huy động vốn nói riêng. Và như vậy, sẽ ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn mà ngân hàng đang thực hiện.
1.3.1.1. Tình hình kinh tế xã hội
Nền kinh tế có ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người có cao, trình độ học vấn của dân cư có cao, xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động và phát triển của ngân hàng thương mại. Bởi khi đó tiết kiệm trong xã hội sẽ cao, khả năng tin tưởng vào hoạt động của ngành ngân hàng sẽ ngày càng được nâng lên. Một hệ qủa tất yều là làm cho các thành phần kinh tế sẽ gửi tiền vào ngân hàng theo từng mục tiêu cụ thể. Và ngược lại nếu trong vùng kinh tế đó có tình hình xã hội bất ổn định, tốc độ phát triển của kinh tế còn hạn chế... Điều này làm cho tiết kiệm trong xã hội đạt mức thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa dùng tiền mặt, chưa có thái độ quan tâm thực sự tới các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, và do đó việc thực hiện chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại còn chịu những tác của các nhân tố như tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Sự suy thoái của nền kinh tế, thậm trí là cả sự phát triển “bong bóng” quá nóng của nền kinh tế. Các nhân tố này ít nhiều đều có ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại, có nhân tố ảnh hưởng rất mạnh, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.3.1.2. Hành lang Pháp lý và Chính sách vĩ mô của Nhà Nước
Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động của ngân hàng thương mại trong đó có hoạt động huy động vốn đều phải chịu sự điều tiết của các chế tài của luật pháp, và sự điều hành giám sát và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà Nước, để phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành hay Ngân hàng Nhà Nước đề ra. Các ngân hàng thương mại trong trường hợp cần thiết phải tiến hành mua trái phiếu Chính phủ do Chính phủ (mà đại diện lad Kho Bạc Nhà Nước) phát hành, theo những quy định cụ thể của Ngân hàng Nhà Nước. Với mục tiêu an toàn và an ninh tiền tệ của mỗi quốc gia mà Ngân hàng Nhà Nước có quy định mức vốn tối đa được phép huy động theo một tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại. Ngoài ra hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại còn chịu sự tác động nhiều cơ quan, nhiều chế tài pháp luật khác, tuỳ theo mức độ của mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh.
1.3.1.3. Môi trường cạnh tranh
Hoạt động của ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần trong cạnh tranh như thủa mới ra đời. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng thương mại, mà ngày nay nó còn bao gồm các Tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, và các loại hình dịch vụ mà các tổ chức khác cung cấp. Như Bảo hiểm, tiết kiệm Bưu điện, ... Các yếu tố này phần nào làm ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn của ngân hàng. Nó đòi hỏi các ngân hàng phải có những điều chỉnh sao cho phù hợp với từng thời kỳ, vừa để giữ khách hàng truyền thống, vừa có thể tìm kiếm thêm khách hàng mới.
1.3.1.4. Thói quen tiêu dùng của xã hội
Đây là một nhân tố có ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng. ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển khi mà văn minh tiền tệ phát triển thì lượng tiền mặt trong lưu thông trong nền kinh tế rất nhỏ, người dân chủ yếu dùng các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Còn ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển thì lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế lại chiếm tỷ trọng khá cao, người dân nơi này ít dùng các phương tiện thanh toán, dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp, vì vậy đã làm ảnh hưởng, và gây khó khăn trong việc thực hiện chính sách huy động vốn của ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
Là nhân tố nội tại bên trong ngân hàng, thuộc khả năng kiểm soát của ngân hàng, so với các nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới tất cả mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong các hoạt động đó có hoạt động huy động vốn và chính sách huy động vốn của ngân hàng. Mặt khác, các nhân tố này mang tính phù hợp với tình hình thực tế hoạt động của ngân hàng, nhất là chính sách huy động vốn hơn nhân tố khách quan các yếu tố cấu thành bao gồm;
1.3.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng thường phụ thuộc vào tình hình thực tế và những mục tiêu của ngân hàng, mà ngân hàng có những chiến lược kinh doanh khác nhau. Khi chiến lược thay đổi nó sẽ có tác động ngay tới chính sách huy động vốn của ngân hàng và như vậy, nó sẽ ảnh hưởng tới quy mô vốn của ngân hàng.
1.3.2.2. Nội dung chính sách huy động vốn mà ngân hàng áp dụng
Như đã phân tích nội dung của chính sách huy động vốn thường xuyên được thay đổi theo mục tiêu mà ngân hàng theo đuổi, cũng như chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Khi có nhu cầu về vốn lớn ngân hàng thương mại có thể đưa ra nhiều biện pháp, công cụ, cách thức khác nhau nhằm thu hút nhiều nguồn tiền từ nền kinh tế gửi vào ngân hàng để từ dó phục vụ cho nhu cầu về vốn của ngân hàng. Và cũng khẳng định rằng chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại không bao giờ được giữ nguyên mà nó thương xuyên thay đổi, nhưng cũng chỉ nhằm mục đích mà ngân hàng thương mại đã đề ra và tạo tiền đề cho những thời kỳ hoạt động tiếp sau.
1.3.2.3. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh nó có thể là vô hình hay hưu hình, song nó chính là bộ mặt của ngân hàng. Năng lực cạnh tranh, có vai trò quan trọng trong hoạt động của chính sách huy động vốn và đồng thời nó còn là uy tín, sức mạnh trong công cạnh tranh, là lòng tin trong dân chúng, ...
Ngày nay trước xu thế của cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tự mình khẳng định mình trong môi trường cạnh tranh, từ đó vươn lên trong hoạt động kinh doanh.
Chương 2.
Thực trạng chính sách huy động vốn của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Chi nhánh Láng Hạ
2.1. Khái quát về Chi nhánh NHNo& PTNT Láng Hạ
2.1.1. Lịch sử hình thành
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được thành lập theo nghị định số 53-HĐBT ngày 226/3/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) với tên gọi đầu tiên là ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam và qua hai lần đổi tên; lần thư nhất mang tên: Ngân hàng Nông nhiệp Việt Nam; lần thứ hai theo quyết định số 280/QĐ- NHNN đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành NHNo& PTNT (NHNo& PTNT VN) (Tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development; Viết tắt: VBA & RD); hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ (Chi nhánh Láng Hạ- CNLH) được thành lập theo quyết định số 334/QĐ-NHNo- 02 của Tổng giám đốc NHNo& PTNT Việt Nam, về việc thành lập Chi nhánh Láng Hạ. Là Chi nhánh cấp 1, trực thuộc sự quản lý trực tiếp từ NHNo& PTNT, ngày 17/03/1997 Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động, với mục đích mở rộng hoạt động của hệ thống NHNo& PTNT Việt Nam (NHNo Việt Nam) trong cả nước cũng như tìm kiếm cơ hội vươn ra thị trường bên ngoài.
Chi nhánh Láng Hạ, là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với đầy đủ tư cách pháp nhân, có con dấu, có bảng cân đối kế toán, bảng cân đối tài sản riêng. Hiện tại trụ sở chính của CNLH là ở số 24 Láng Hạ, Quận Đống Đa- Thành phố Hà Nội.
Sau hơn 6 năm thành lập và đi vào hoạt động kinh doanh, CNLH đã có những bước phát triển đáng kể, trên mọi bình diện, đáp ứng mục tiêu của NHNo Việt Nam, cũng như Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong việc mở rộng hoạt động, phát triển cả về chất lượng và quy mô cũng như các hoạt động khác của của toàn Chi nhánh.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của CNLH bao gồm Ban Giám đốc với một Giám đốc, 01 Phó Giám đốc thường trực, 01 Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh, và 8 phòng chức năng. Cơ cấu tổ chức và điều hành của Chi nhánh được thể hiện trong sơ đồ sau.
Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Láng Hạ
Phòng Tín dụng
Phòng K.hoạch Nguồn Vốn
Phòng Thanh Toán Quốc Tế
phòng TCCB& ĐT
phòng Thẩm định
CN Bách khoa
Các phòng giao dịch
Phó Giám đốc KD
Phòng Kiểm soát
Phó Giám đốc
Các phòng giao dịch
Phòng H. Chính Quản trị
Phòng kế toán
Giám đốc
Các phòng chức năng của Chi nhánh bao gồm; Phòng Kế toán- Ngân quỹ (bao gồmTổ điện toán); Phòng Hành chính- Quản trị, hai phòng này do Phó giám đốc Thường trực trực tiếp quản lý, điều hành; các phòng: Phòng Thanh toán Quốc tế; Phòng Kế hoạch- Nguồn Vốn; Phòng Tín dụng, do Phó giám đốc phụ trách kinh doanh trực tiếp điều hành và quản lý; Các phòng còn lại do Giám đốc quản lý và chỉ đạo hoạt động là: Phòng Tổ chức Cán bộ và Đào tạo; Phòng Kiểm soát và Phòng Thẩm định; CNLHcó một Chi nhánh cấp 2 trực thuộc đó là Chi nhánh Bách Khoa, và một phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh Bách Khoa đó là phòng giao dịch Lò Đúc.
Về cơ cấu tổ chức cán bộ của Chi nhánh là, tính đến hết ngày 31/12/2003 Chi nhánh có 183 Cán bộ Viên chức (CBCNV) trong đó Ban Giám đốc có 03 người; Phòng Kế toán- Ngân quỹ (gồm Tổ điện toán) 50 người; Phòng Hành chính Quản trị 13 người; Phòng Thanh toán Quốc tế 15 người; Phòng Tín dụng 25 người; Phòng Tổ chức Cán bộ và Đào tạo 05 người; Phòng Kế hoạch- Nguồn Vốn 05 người; Phòng Thẩm định 03 người;
05 Phòng giao dịch: Số 02 Ngõ Trạm 09 người; Số 03, 36 Doãn Kế Thiện 06 người; Trung Kính (Trung Hoà Cầu Giấy) 06 người; 06 Hàng Mã 06 người; 07 Đào Tấn 06 người; Chi nhánh Bách Khoa 28 người (trong đó 07 người của Phòng giao dịch phố Lò Đúc).
Bảng 1: Trình độ chuyên môn của CBCNV trong Chi nhánh
Trình độ
Số CBCNV (người)
Tỷ lệ (%)
Trên Đại học
03
1,60%
Đại học, Cao đẳng
139
75,90%
Trung, Sơ cấp
18
9,80%
Chưa qua đào tạo khác
23
12,50%
Tổng Số
183
100,00%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động Kinh năm 2003)
Trong tổng số CBCNV của Chi nhánh có tới 22,30% mới chỉ qua đào tạo trung sơ cấp và chưa qua đào tạo khác, nguyên nhân này là do Chi nhánh đã tiếp nhận số CBCNV từ Công ty In ngân hàng 31 người (năm 2001) và từ Công ty Vàng Bạc Đá quý Việt Nam 30 người (năm 2003) hầu hết mới chỉ sơ qua đào tạo; Tuy nhiên gần 80% CBCNV của Chi nhánh có trình độ Cao đẳng, Đai học và trên Đại học, do đó đây là nguồn tiềm lực rồi rào về nhân sự của Chi nhánh trong tương lai.
2.1.3. Nghiệp vụ kinh doanh của Chi nhánh Láng Hạ
Trao đổi và mua bán ngoại tệ, Một trong những nghiệp vụ ngân hàng đầu tiên là trao đổi ngoại tệ. Ngân hàng đứng ra mua bán hoặc trao đổi một loại đồng tiền này lấy một loại đồng tiền khác để hưởng chênh lệch giá hoặc thu phí dịch vụ, thực hiện thanh toán hoặc làm ngân hàng đại lý phục vụ cho hoạt động Xuất- nhập khẩu, và như trao đổi thương mại.
Nhận tiền gửi, một trong những nguồn quan trọng hình thành nên nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh là các khoản tiền gửi. Chi nhánh mở dịch vụ nhận tiền gửi của người có tiền mang tới gửi với cam kết hoàn trả đúng hạn. Khách hàng sẽ nhận được một khoản tiền lãi trên khoản tiền gửi của mình tuỳ thuộc vào hình thức và thời hạn của các khoản tiền gửi và mức lãi suất công bố, hoặc thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng.
Cho vay, bằng những khoản tiền huy động được ngân hàng sẽ cho các tổ chức kinh tế và cá nhân vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động. Ngân hàng sẽ nhận được phần chênh lệch để bù đắp những chi phí cho hoạt động và một phần lợi nhuận. Đây là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng;
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, ngân hàng mở tài khoản cho khách hàng bằng nhiều hình thức. Khách hàng sẽ nhận được séc và khi thanh toán khách hàng không cần dùng tiền mặt trực tiếp, việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện, hay cũng có thể ngân hàng sẽ thực hiện yêu cầu của khách hàng để thanh toán, chuyển tiền thông qua hệ thống mạng điện tử liên ngân hàng. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ, nên hệ thống ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng dịch vụ rút tiền tự động thông qua hệ thống máy rút tiền tự động (ATM- Automatic Teller Machine) On_line 24/24 giờ giúp khách hàng giao dịch thuận tiện với ngân hàng.
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng thực hiện chuyển tiền, nhờ thu, mở và thanh toán L/C phục vụ khách hàng trong và ngoài nước, dịch vụ ngân hàng đại lý;
Bảo quản vật có giá, ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản của ngân hàng và thu phí;
Bảo lãnh, ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh cho khách hàng về khả năng thanh toán đối với đối tác của họ nhất là đối tác nước ngoài;
Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ;
Cung cấp các dịch vụ và môi giới chứng khoán;
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm;
Cung cấp các dịch vụ ngân hàng đại lý, cho các ngân hàng thương mại khác trong cả nước, hoặc đại lý cho ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam khi mà nó chưa có Chi nhánh hay văn phòng đại diện tại Việt Nam,;
Thực hiện các chương trình, các dự án của NHNo& PTNT Việt Nam, Như Dự án nâng cấp tổng đài điện thoại của Bộ Bưu chính viễn thông Việt Nam, Cùng một số dự án khác mà có chỉ định hoặc mời tham gia.
2.1.4. Một số kết quả kinh doanh chủ yếu trong vài năm trở lại đây
2.1.4.1. Giai đoạn 1997- 2000
Trong 4 năm đầu hoạt động mặc dù gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận, chiếm lĩnh thị phần thị trường Thành thị và tìm kiếm, thu hút khách hàng nhưng Chi nhánh cũng đã đạt được những kết quả rất khả quan. Kết qủa năm sau cao hơn hẳn so với năm trước, thậm trí còn cao gấp nhiều lần.
Bảng 02: Kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm
Năm Chỉ tiêu
31/12/1997
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
Tổng nguồn vốn (tỷ đồng)
202
685
1.131
2.043
Dư nợ (tỷ đồng)
51
81
154
661
Kế toán- Ngân quỹ (ngàn tỷ)
5
27
28
53
Thanh toán Quốc tế (triệu USD)
2,5
83
96
125
Mua bán Ngoại tệ (triệu USD)
2,0
42
64
164
Nguồn: Lịch sử Chi nhánh NHNo& PTNT Láng Hạ 3/1997-3/2003
Về tổng nguồn vốn, qua bảng trên chúng ta thấy năm 1997 dù chỉ có 7 tháng hoạt động mà Chi nhánh đã có kết quả huy động vốn khá khả quan, đạt 202 tỷ đồng, sang năm 1999 đạt 685 tỷ đồng gấp hơn 3 lần năm 1997, con số này gần như tăng gần gấp đôi qua các năm 1999, 2000, là 1.131 tỷ đồng và 2.043 tỷ đồng.
Về tổng dư nợ, của Chi nhánh chiếm tỷ trọng cao so với tổng nguồn vốn hoạt động tại thời điểm 31/12 hàng năm, Con số dư nợ đạt 51 tỷ đồng năm 1997 chiếm 25,25% tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh, lên 81 tỷ đồng năm 1998 chiếm 11,82% tổng nguồn vốn, tăng58,82% so với cùng kì năm 2001; con số này là 154 tỷ đồng và 661 tỷ đồng, chiếm 13,62%; 32,35% tổng nguồn vốn hoạt động trong 2 năm 1999 và 2000, mức tăng trưởng so với năm trước là 90,12% và 329,22% ; năm 2001 con số này sang là 1.030 tỷ đồng, tăng 55,82% so với năm 2000 và chiếm tỷ trọng 39,02% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Mặc dù trong 2 năm 1999, 2000 tỷ lệ dư nợ của năm 2000 có cao hơn so với năm 1999, điều này cho thấy lượng vốn đầu tư cho trung và dài hạn của Chi nhánh ngày càng tăng, Chi nhánh đã chú trọng đầu tư vào các dự án có thời gian thu hồi vốn dài, tạo được năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Đặc biệt trong tổng dư nợ của Chi nhánh không có nợ quá hạn, nợ xấu.
Về công tác Kế toán- Ngân quỹ, tổng doanh số thanh toán qua các năm, từ 5 ngàn tỷ năm 1997, lên 27 ngàn tỷ năm 1998 (gấp 5,4 lần năm trước), năm 1998 con số này là 28 ngàn tỷ, năm 2000 là 53 ngàn tỷ. Đặc biệt, hiện nay CNLH là đầu mối thanh toán cho 30 tỉnh thành trong cả nước, riêng doanh số thanh toán bù trừ đã đạt hàng trăm tỷ một ngày, thậm trí có ngày lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Về công tác Thanh toán Quốc tế, mặc dù có nhiều khó khăn khi mới đi vào hoạt động nhưng Chi nhánh cũng đã có những kết quả đáng mừng qua các năm hoạt động và phát triển sau này. Riêng năm 1997 với con số khiêm tốn 2,5 triệu USD (các ngoại tệ quy về giá trị đồng USD); sang năm 1998 con số này tăng lên gấp 33,5 lần với tổng số là 83 triệu USD; năm 1999 là 96 triệu USD; năm 2000 là 125 triệu USD, tăng 30,21% so với năm 1999, và 50,60% so với năm 1998.
Doanh số mua bán ngoại tệ, qua các năm cũng là kết quả đáng tự hào; năm 1997 chỉ đạt 2,0 triệu USD, sang năm sau 1998 con số này tăng lên gấp 21 lần tương đương 42 triệu USD; năm 1999 tuy tốc độ tăng không cao như năm 1998 nhưng cũng đạt 64 triệu USD, năm 2000 đạt 146 triệu USD (gấp 2,8 lần năm 1999).
Với những kết quả như trên cho chúng ta thấy khả năng mở rộng quy mô hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả ngày một cao, đây sẽ là tiền đề vững chắc cho Chi nhánh thực hiện những bước đi mang tính chiến lược trong các năm đầu của thế kỷ XXI.
2.1.4.2. Giai đoạn 2001- 2003
Với kết quả đã đạt được trong gần 4 năm thành lập và đi vào hoạt động vừa qua, đã tạo ra cho CNLH một chỗ đứng vững chắc trong lòng Thủ đô Hà Nội. Với màng lưới các phòng giao dịch, Chi nhánh trực thuộc. Đội ngũ cán bộ viên chức nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong công tác. Chi nhánh đã đặt quan hệ rộng lớn với các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, tại Thủ đô Hà nội và các địa phương khác trong cả nước,... Tất cả đã tạo điều kiện cho Chi nhánh đạt được kết quả cao ngay từ những năm đầu của thế kỷ thứ XXI.
a. Hoạt động huy động vốn
Trong 3 năm 2001, 2002, 2003 CNLH không ngừng quan tâm tới công tác huy động vốn, luôn coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của Chi nhánh. Với vị trí địa lý thuận lợi, ngay giữa lòng Thủ đô, nơi mà thu nhập quốc dân bình quân đạt tỷ lệ cao so với cả nước. Chi nhánh đã không ngừng quảng cáo, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các tạp chí chuyên ngành của Ngành. Cùng với việc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng và thái độ phục vụ của Cán bộ Viên chức, Chi nhánh đã rất thành công trong hoạt động huy động vốn cũng như thực hiện chính sách huy động vốn. Kết quả cụ thể công tác huy động vốn của Chi nhánh trong các năm được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 03. Nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh Láng Hạ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Thực hiện
+/-
Bình quân
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
Nguồn vốn kinh doanh
2.630
3.812
4.037
703,5
Vốn huy động
1.930
2.962
3.137
603,5
Vay từ các TCTD, vay khác
-
-
-
-
Vốn UTĐT (trừ NHCS)
700
850
900
100
Sử dụng vốn Trung Ương
-
-
-
-
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002, 2003)
Qua bảng trên ta thấy, tính đến hết ngày 31/12/2003 tổng nguồn vốn kinh doanh của Chi nhánh là 4.037 (tỷ đồng- làm tròn số, và các loại ngoại tệ được quy về VND theo tỷ giá tại thời điểm tính) tăng 105,90% so với năm 2002, là 3.812 tỷ đồng. Tăng 153,50% so với cùng kỳ năm 2001, tương đương 2.630 (tỷ đồng). Trong tổng nguồn vốn kinh doanh thì nguồn vốn huy động là 3.138 năm 2003, chiến tỷ trọng 73,37% so với tổng nguồn vốn, tăng 105,94% so với năm 2002 (là 2.926 tỷ đồng), và bằng 162,59% của năm 2001 (1.930 tỷ đồng). Nguồn vốn uỷ thác của CNLH qua các năm cũng có sự tăng trưởng cả về số tương đối và số tuyệt đối, năm 2001 là 700 tỷ đồng, năm 2002 lên 850 tỷ đồng tăng 21,43% so với năm trước, năm 2003 con số này là 900 tỷ đồng tăng 5,88% so với năm 2002, và 28,57% so với năm 2001. Điều này khẳng định rằng uy tín của Chi nhánh ngày càng được nâng cao, hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả. Đồng thời Chi nhánh cũng nắm trong tay danh mục các dự án lớn đang và sẽ đầu tư, cho nên nhu cầu về vốn là rất lớn, thêm vào đó Chi nhánh cũng thực hiện tài trợ hoặc đồng tài trợ các dự án có quy mô vốn lớn cần sự hợp tác.
Ngoài ra trong hoạt động của mình CNLH, đã đảm bảo khả năng thanh khoản, không để tình trạnh thiếu hụt dự trữ hay mất khả năng thanh toán cho khách hàng, điều này thể hiện quan việc Chi nhánh không phải vay vốn của các tổ chức tín dụng, các NHTM, hay vay của Ngân hàng Nhà Nước để đáp ứng nhu cầu dự trữ hay thanh toán của mình
b. Hoạt động Sử dụng vốn
Cũng như các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, hoạt động của CNLH chủ yếu là hoạt động tín dụng, trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Trên một địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp Nhà Nước, và các loại hình doanh nghiệp khác, đã tạo thuận lợi cho Chi nhánh trong việc cấp tín dụng, bởi nó vừa an toàn vừa đảm bảo khả năng thu nợ, cùng các mục tiêu khác của Chi nhánh. Tình hình dư nợ của Chi nhánh qua các năm được thể hiện trong bảng số liệu sau:
Bảng 04. Hoạt động tín dụng của Chi nhánh Láng Hạ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Thực hiện
+/-
Bình quân
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
Tổng nguồn vốn kinh doanh
2.630
3.812
4.037
703,5
Theo thời hạn vay
1.030
1.466
1.515
242,5
- Ngắn hạn
197
501
642
222,5
- Trung hạn và dài hạn
833
965
873
20
Theo loại hình doanh nghiệp
1.030
1.466
1.515
242,5
-Doanh nghiệp Nhà Nước
1013
1382
1210
98,5
-DN ngoài Quốc doanh
14
67
267
126,5
-Cho vay tiêu dùng và cầm cố
3
17
38
17,5
Theo đồng tiền vay
1.030
1.466
1.515
242,5
- Nội tệ
601
1090
1005
202
-Ngoại tệ (quy về VND)
429
376
510
40,5
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Nhìn một cách tổng thể, mức tăng trưởng tín dụng của Chi nhánh qua các năm đạt tỷ lệ cao, mức tăng trưởng bình quân là 242,5 (tỷ đồng). Trong đó dư nợ trung và dài hạn có chiều hướng tăng mạnh, điều này cho chứng tỏ Chi nhánh đã tập chung có chiều sâu và các dự án có quy mô lớn, thời gian hoàn vốn dài. Đối với DNNN (Doanh nghiệp Nhà Nước) Mặc dù chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn tín dụng nhưng đang có xu hướng giảm xuống, điều này là do Chi nhánh đã quan tâm hơn tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một thị trường rộng lớn, trong tương lai thì đó là khách hàng chủ yếu của Chi nhánh nói riêng và các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại nói chung. Mặt khác cho thấy tỷ lệ cho vay bằng ngoại tệ của Chi nhánh cũng có chiều hướng tăng ngày càng cao, tuy so về số tuyệt đối còn thấp nhưng về tương đối khá cao.
Năm 2003 mức độ cho vay tăng không đáng kể 3,34% so với năm 2002, 47,08% so với năm 2002 là do trong năm có một số hợp đồng cấp tín dụng cho các dự án trung và dài hạn nhưng chưa giải ngân. Do tách Chi nhánh Bà Triệu (trực thuộc CNLH) về Chi nhánh Đông Hà Nội làm dư nợ của Chi nhánh giảm 146 (tỷ đồng).
c. Kết quả hoạt động khác
Bên cạnh các hoạt động trên, CNLH còn tiến hành nhiều hoạt động khác như hoạt động Thanh toán Quốc tế, hoạt động mua bán Ngoại tệ, Công tác Kế toán- Ngân quỹ và cuối cùng là kết quả hoạt động kinh doanh được thể hiện trên tài khoản 946A (Quỹ thu nhập). Số liệu cụ thể được trình bày ở bảng sau:
Bảng 05. Kết quả hoạt động khác của Chi nhánh Láng Hạ
Chỉ tiêu Thực hiện
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
+/-
Kết quả tài chính (tỷ đồng)
37,000
48,000
102,000
32,500
Kế toán- Ngân quỹ (tỷ đồng)
64.009
80.000
132.804
34.397
Thanh toán Quốc tế (triệu USD)
152,172
241,000
527,000
187,41
Mua bán Ngoại tệ (triệu USD)
182,000
266,000
362,000
90,000
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Qua bảng trên, qua các năm kết quả phản ánh đều có xu hướng tăng mạnh, năm sau cao hơn năm trước. Trong các chỉ tiêu trên có chỉ tiêu Thanh toán quốc tế và mua bán ngoại tệ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất. Kết quả đó là do Chi nhánh đã tiến hành thanh toán cho một số hoạt động phục vụ xuất nhập khẩu, mở rộng màng lưới thanh toán (lên 3 Chi nhánh); thứ hai là làm dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng bạn trong và ngoài nước. Từ tháng 8 năm 2001 Chi nhánh đã làm đại lý thanh toán kiều hối (đại lý cho ngân hàng ACB và Western Union- cho ngân hàng Industrial Bank và các ngân hành khác). Riêng đối với công tác kế toán ngân quỹ, do Chi nhánh làm đầu mối thanh toán cho hơn 30 ngân hàng trong cả nước (nhất là khu vực Miền bắc) cho nên doanh số thanh toán bình quân qua các năm đạt rất cao, trung bình đạt 66,51%/năm, tương đương 92.271 tỷ đồng.
2.2. Thực trạng chính sách huy động vốn của Chi nhánh NHNo& PTNT Láng Hạ
2.2.1. Tình hình chung về công tác huy động vốn
Ngân hàng Thương mại hoạt động không phải bằng nguồn vốn tự có mà chủ yếu bằng nguồn vốn huy động, do vậy mà hoạt động huy động vốn luon được coi là nhiệm vụ trọng tâm và luôn được ưu tiên hàng đầu, bởi nó quyết định đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. CNLH với vị trí địa lý thuận lợi, nằm giữa trung tâm Thủ đô Hà nội, nơi tập trung dân cư đông đúc, tập trung nhiều tổ chức, doanh nghiệp mức thu nhập bình quân đầu người và tốc độ phát triển kinh tế vào hàng nhất nhì trong cả nước. Thấy được tầm quan trọng của của mình, cũng như công tác huy động vốn CNLH đã rất quan tâm và trú trọng tới hoạt động huy động vốn, coi nguồn vốn huy động là nguồn chính của Chi nhánh (Chi nhánh không có trong tay lượng vốn chủ sơ hữu mà mình cần mình, mà phần này thuộc sự quản lý và sử dụng của NHNo Việt Nam). Trải qua gần 7 năm hoạt động và phát triển, nhất là trong các năm trở lại đây. Mặc dù còn non trẻ, song Chi nhánh đã thực hiện rất thành công công tác cũng như chính sách huy động vốn, và đã thu hút được nhiều nguồn khác nhau, giúp Chi nhánh có vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh. Năm 1997 tổng lượng vốn hoạt động kinh doanh của Chi nhánh là 202 tỷ đồng trong đó lượng vốn huy động chiếm tỷ trọng là 100%, thì sang năm 1998, tổng lượng vốn hoạt động kinh doanh lên tới 685 tỷ đồng trong đó vốn huy động chiếm 70,80%, còn lại là vốn uỷ thác, giấy tờ có giá, con số này tường ứng qua các năm 1999, 2000 là 1.131 tỷ đồng, 2000 trong đó vốn huy động chiếm 60,12%, 70,00%. Điều này khẳng định vốn huy động luôn là nguồn quan trọng bậc nhất cho hoạt động của Chi nhánh Láng Hạ.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, công tác huy động vốn của Chi nhánh đã có những bước tăng trưởng đáng kể và ổn định, năm sau cao hơn năm trước
Biểu 01: Tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh qua các năm
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Qua bảng trên ta thấy qua so với tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh thì lượng vốn huy động của Chi nhánh ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Tỷ trọng vốn huy động trong tổng vốn hoạt động của Chi nhánh là 73,38% năm 2001, tăng 37,86% so với năm 2000; năm 2002 là 77,70% tăng so với năm 2001 là 53,47%. Sang năm 2003 tăng 175 tỷ đồng tương đương 5,91% so với năm 2001 và chiếm tỷ trọng 77,71% trên tổng nguồn vốn, nếu so sáng với năm 2001 con số này là 1.207 tỷ đồng tương đương tăng 62, 54%.
2.2.2. Các chính sách huy động vốn mà Chi nhánh áp dụng
Nguồn vốn huy động, có vai trò quan trọng và luôn luôn chiếm tỷ trọng đáng caotrong tổng nguồn vốn hoạt động của mỗi NHTM nói chung và CNLH cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trải qua quá trình phát triển của mình, không phải bao giờ và lúc nào hoạt động huy động vốn và những chính sách mà ngân hàng đưa ra để huy động cung thành công. Bởi nó chịu sự tác động của ngiều nhân tố cả chủ quan lẫn khách quan. Một chính sách phù hợp cho công tác huy động vốn, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần phải có sự tổng hợp, phân tích, đánh giá tất cả mọi yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như của toàn xã hội.
Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn cũng như việc xây dựng chính sách huy động vốn. Trong những năm quan CNLH đã có rất nhiều những biện pháp, cách thức khác nhau, trong một số trường hợp Chi nhánh kết hợp với các ngân hàng bạn khác trong cùng hệ thống hoặc trực tiếp với NHNo Việt Nam thực hiện khuyếch trương, quảng cáo, nhằm thu hút khách hàng đặt quan với Chi nhánh, nhất là khách hàng đến gửi tiền, mua trái phiếu hoặc uỷ thác đầu tư cho ngân hàng.
Để phát huy và nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn, trong các năm qua CNLH đã đưa ra nhiều nội dung khác nhau chính sách huy động vốn với nhiều nội dung khác nhau, và dã đạt được những thành qủa đáng mừng, nó bao gồm các chính sách.
2.2.2.1. Chính sách thu hút khác hàng
Với vị trí đặc biệt quan trọng của mình trên địa bàn Hà nội, cũng như của ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, CNLH đã rất quan tâm tới việc thu hút khách hàng, đến giao dịch và đặt quan hệ, không chỉ là khách hàng truyền thống, mà còn cả khách hàng tiền năng, những doanh nghiệp lớn, những công ty lớn có quy mô hoạt động rộng khắp cả nước, trong đó có một số doanh nghiệp, công ty hoạt động trong lĩnh vực Xuất nhập khẩu và thương mại quốc tế. Đối với những khách hàng này, bao giờ Chi nhánh cũng có những ưu đãi trong các giao dịch tại ngân hàng như ưu đãi về lãi suất đầu vào, lãi suất đầu ra được tính toán ở mức hợp lý, khi khách hàng có nhu cầu đều được ngân hàng quan tâm và ưu tiên thực hiện. Hoặc trong một số trường hợp ngân hàng khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ và những tiện ích mà mình cung cấp, nhằm từ đó thu hút được nhiều khách hàng.
Ngoài ra CNLH còn đặt quan hệ với các Chi nhánh ngân hàng bạn trong và ngoài hệ thống để từ đó, nâng cao khả năng, và giảm thiểu những chi phí trong khả năng có thể vừa tiết kiệm cho Chi nhánh vừa tiết kiệm chi phí và thời gian giao dịch cho khách hàng, tạo cảm giác và ấn tượng tốt đẹp trong tâm trí khách hàng.
2.2.2.2. Chính sách về mở rộng màng lưới giao dịch
Ngay từ ngày đầu mới thành lập và đi vào hoạt động CNLH đã rất quan tâm tới việc mở các rộng màng lới trực thuộc và các phòng giao dịch, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Chi nhánh. Tính đế hết ngày 31/12/2003, Chi nhánh có một Chi nhánh cấp 2 trực thuộc là Chi nhánh Bách Khoa, màng lưới giao dịch gồm 05 phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh và 01 phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh Bách Khoa. Hiện Chi nhánh đang có kế hoạch mở thêm nhiều Chi nhánh, phòng giao dịch khác nữa.
Các Chi nhánh hoạt động ngày càng có hiệu quả, và tự khẳng định được sự lớn mạnh của mình cũng như khả năng tự chủ về tài chính trong hoạt động kinh doanh. Đây là điều đáng mừng đối với việc thực hiện chính sách huy động vốn của CNLH và những hoạt động của nó sẽ là cầu nối giữa khách hàng với Chi nhánh. Từ đó tăng cường mối quan hệ với Chi nhánh và dần thu hẹp khoảng cách giữa cán bộ ngân hàng với khách hàng, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chính sách huy động vốn mà Chi nhánh đề ra.
2.2.2.3. Tổ chức Cán bộ và Đào tạo
Một ngân hàng muốn hoạt động tốt, không chỉ phụ thuộc vào chính sách hợp lý (hợp đối tượng khách hàng, hợp tình hình thực tế), cũng như một màng lưới rộng khắp mà còn phụ thuộc trực tiếp và nhân tố con người. Con người có thể thực hiện những việc mà không cái gì khác có thể thay thế được, chính vì vậy mà Chi nhánh đã ngày càng quan tâm tới công tác đào tạo CBVC cũng như công tác tuyển chọn ngay từ đầu vào, hiện tại số cán bộ viên chức có trình độ đại học cao đẳng, và trên đại học chiếm tới 77,60%, trong quá trình hoạt động Chi nhánh đã thường xuyên cử cán bộ đi học các lớp nghiệp vụ, nghiệp vụcao cấp do NHNo Việt Nam hoặc Ngân hàng Nhà Nước tổ chức, để từ đó nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nhất là trình độ ngoại ngữ.
2.2.2.4. Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, Dịch vụ và Tiện ích
Đứng trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, và cùng với sự tiến bộ vượt bậc của lĩnh vực công nghệ thông tin, CNLH đã tiến hành lắp đặt mạng máy tính nội bộ (LAN) cho tất cả các phòng ban và Ban Giám đốc, và nối mạng Internet, tạo thuận lợi trong trao đổi thông tin với các đơn vị khác ngoài Chi nhánh. Ngoài ra Chi nhánh còn quan tâm tới việc mở rộng màng lới giao dịch trên cơ sở mạng diện tử Internet như tư vấn, cung cấp dịch vụ chuyển tiền điện tử liên ngân hàng với các ngân hàng trong và ngoài hệ thống. Đặc biệt, Chi nhánh cùng kết hợp với NHNo Việt Nam cung cấp dịch vụ rút tiền tự động (dùng thẻ rút tiền qua mạng ATM), do vậy đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của khách hàng, giúp ngân hàng thực hiện thành công chính sách huy động vốn.
2.2.2.5. Chính sách Marketing
Chính sách Marketing, như đã trình bày, ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm và đẩy mạnh thực hiện, mặc dù Chi nhánh chưa có phòng chức năng riêng cho công tác marketing, cho nên công tác này chủ yếu do phòng Kế hoạch- Nguồn vốn và phòng Kế toán thực hiện. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các báo chí, tạp chí chuyên ngành, Chi nhánh đã quảng bá rộng rãi hình ảnh của mình trong tâm trí khách hàng (khách hàng truyền thống và khách hàng tiền năng), cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động marketing, Chi nhánh còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Chi nhánh thông qua các hình thức tiết kiện dự thưởng, tiết kiệm bậc thang.
Tất cả những chính sách trên đã giúp cho Chi nhánh, thực hiện thành công chính sách huy động vốn, giúp Chi nhánh có lượng vốn cần tiết để tiến hành các hoạt động kinh doanh.
2.2.3. Kết quả đạt được
Cùng với các biện pháp nhăm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, việc thực hiện triệt để và đồng bộ, nhất quán các chỉ tiêu hoạt động của chính sách huy động vốn. Trong thời gian vừa qua lượng vốn mà CNLH huy động được đạt mức tăng trưởng cao cả về con số tương đối và cón số tuyệt đối ở tất cả mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân khác.
2.2.3.1. Theo nguồn huy động
Đối với ngân hàng thương mại việc xác định một cách chính xác, đầy đủ và trọng tâm các nguồn hình thành nên nguồn vốn là vô cùng quan trọng, bởi nó liên quan hàng loạt các yếu tố, nội dung của việc hoạch định chính sách huy động vốn, đặc biệt là xây dựng kế hoạch hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để từ đó có thế xác định chính xác lượng vốn mà ngân hàng có thể huy động được, thông qua việc tìm hiểu nắm bắt được các quy luật của hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các thành phần kinh tế đó. Sẽ giúp cho ngân hàng điều tiết các luồng tiền sao cho hợp lý, từ đó đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng ở mức cao nhất. Cơ cấu nguồn vốn hình thành theo nguồn huy động của CNLH được thể hiện trong bảng số 07 sau.
Bảng 06: Phân theo nguồn hình thành
(Đơn vị: tỷ đồng)
Thực hiện
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
+/-
B. quân
Số tiền
%/SNV
Số tiền
%/SNV
Số tiền
%/SNV
Nguồn vốn hoạt động {SNV=A+B}
2.630
100%
3.812
100%
4.037
100%
703,5
A. Vốn huy động {A= 1+2+3+4}
1.930
73,4%
2.962
77,7%
3.137
77,7%
603,5
1. Tiền gửi Dân cư
619
23,5%
734
19,3%
957
23,7%
169
2. Tiền gửi của tổ chức kinh tế
971
36,9%
1.362
35,7%
1.476
36,6%
252,5
3. Tiền gửi của TCTD, QHT
217
8,25%
422
11,1%
630
15,6%
206,5
4. Giấy tờ có giá
123
4,86%
444
11,6%
74
1,80%
(24,5)
B. Vốn UTĐT (trừ NHCS)
700
26,6%
850
22,3%
900
22,3%
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Trong đó: SNV: Tổng nguồn vốn hoạt động; QHT: Quỹ hỗ trợ
Qua bảng số liệu cho thấy nguồn vốn huy động của Chi nhánh liên tục tăng qua các năm, và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh. Điều này được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng của tổng nguồn vốn hoạt động qua các năm, mức tăng trưởng trung bình là 703,5 tỷ đồng/năm. Nguồn vốn huy động của Chi nhánh qua các năm cụ thể như sau, năm 2001 đạt 1.930 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 73,40% so với tổng vốn hoạt động, thì sang năm 2002, tăng lên 1.032 tỷ đồng tương đương 53,47%, năm 2003 con số này là 3.137 tỷ đồng, tăng 5,91% so với năm 2002, và bằng 1,625 lần so với cùng thời kỳ năm 2001. Mức tăng trưởng bình quân của vốn huy động của Chi nhánh là 603,5 tỷ đồng/năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 29,96%/năm.
Nhìn một cách tổng thể, trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được thì nguồn tiền gửi của các TCKT và dân cư chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên 50% tổng nguồn vốn hoạt động và thường xuyên chiếm từ 70 đến 80% so với tổng lượng vốn huy động, phần còn lại là của các TCTD, nguồn vốn uỷ thác đầu tư, và phát hành các giấy tờ có giá khác.
Ngoài các nguồn huy động và các khoản tiền gửi trên thì Chi nhánh còn huy động vốn qua hình thức phát hành các loại giấy tờ có giá, tuy không tốc độ tăng trưởng không thực sự bền vững qua các năm, năm 2001 lượng vốn này là 123 tỷ đồng chiếm 6,37% so với tổng lượng vốn mà Chi nhánh huy động, trong đó kỳ phiếu chiếm 63,41%, kỳ phiếu chiếm 65,59%. Sang năm 2002, nguồn vốn huy động này đạt con số 444 tỷ đồng (chủ yếu là kỳ phiếu), tăng so với năm 2001 là 260,98%, chiếm tỷ trọng so với tổng vốn huy động là 14,99%. Năm 2003 con số này là 74 tỷ đồng, chỉ chiếm có 2,36% so với tổng nguồn vốn huy động và chỉ bằng 16,17% so với năm 2002 (số tuyệt đối giảm 370 tỷ đồng) và bằng bằng 60,16% so với năm 2001 (tương đương giảm 49 tỷ đồng)
Bên cạnh các nguồn trên thì Chi nhánh cũng rất quan tâm tới nguồn tiền gửi của các TCTD, mặc dù đây là nguồn có tính ổn định không cao và không thường xuyên trong xuốt các thời kỳ hoạt động trong năm. Bởi đây là nguồn gửi chủ yếu nhằm mục đích thanh toán và chi trả dưới hình thức ngân hàng đại lý và dịch vụ tương ứng. Tuy nhiên qua phân tích cho thấy nguồn này chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 10% so với tổng nguồn vốn hoạt động, năm 2001 lượng tiền mà các TCTD, các NHTM, là 217 tỷ đồng chiếm 8,25% so với tổng nguồn vốn hoạt động, và bằng 11,24% so với tổng nguồn vốn kinh doanh. Năm 2002 tăng lên so với năm 2001 là 205 tỷ đồng tương đương 94,47%, chiếm 11,07% và 190,32% so với cùng kỳ năm 2001. Mức tăng trưởng bình quân là 206,5 tỷ đồng, con số tương đối là 71,80%.
Ngoài ra Chi nhánh còn tiếp nhận một lượng uỷ thác đầu tư khá lớn của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp Nhà Nước, các doanh nghiệp này tuỳ theo tính chất hoạt động và ngành nghề kinh doanh mà không được phép gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng
theo quy định của Nhà Nước, và như vậy họ biến tướng nguồn tiền nhàn rỗi thay vì gửi tiết kiệm, họ uỷ thác cho ngân hàng để đầu tư. Mức tăng trưởng của nguồn này qua các năm đạt khá cao và ổn định, năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân là 100 tỷ đồng/năm, tương đương 13,66%/năm. Tỷ trọng của nguồn này khá cao, trung bình là 23,74% so với tổng vốn hoạt động kinh doanh, và bằng 31,22% so với tổng vốn mà Chi nhánh huy động được.
Như vậy có thể thấy nguồn vốn của CNLH được hình thành từ nhiều nguồn và có cơ cấu đa dạng khác nhau, sự tăng trưởng không ngừng và của nguồn vốn huy động tại Chi nhánh cho thấy việc thực hiện đồng bộ, nhất quán các biện pháp, nghiệp vụ, và hàng loạt chính sách khác nhau nhất là chính sách huy động vốn, đã mang lại cho Chi nhánh những kết quả rất đáng mừng.
Trong các nguồn hình thành trên, thì nguồn uỷ thác đầu tư và một phần nhỏ của các doanh nghiệp, các tổ chức là ổn định hơn cả, nó vừa có tính biến động thấp, và thông thường nó mang tính chu kỳ nhất định. Điều này tạo thuận lợi lớn cho Chi nhánh trong việc đảm bảo khả năng thanh khoản. Còn các nguồn khác nhìn chung không ổn định, tính biến động cao, ngân hàng không thể dự báo chính xác chu kỳ biến động và như vậy khó có thể yên tâm sử dụng vào hoạt động kinh doanh và vào những mục đích, và với nguồn này nếu có sử dụng thì phải tiến hành dự trữ một khoản lớn (theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước, và dự trữ thanh toán của Chi nhánh- nếu cần thiết) nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Và cuối cùng, chúng ta có thể thấy rằng việc xác định cơ cấu nguồn vốn huy động của ngân hàng là vô cùng quan trọng, nó vừa giúp Chi nhánh duy trì hoạt động ổn định, xây dựng được chính xác chiến lược lâu dài, đặc biệt là xác định được đúng đối tượng khách hàng, từ đó có những chính sách hợp lý, tạo điều kiện để nâng cao hiệu hoạt động kinh doanh, cũng như việc hoạch định chính sách huy động vốn của Chi nhánh Láng Hạ.
2.2.3.2. Theo thời hạn huy động
Ngân hàng thương mại muốn hoạt động thực sự có hiệu quả, ngoài việc xác định một cách chính xác cơ cấu nguồn hình thành, thì không thể không quan tâm tới tính chất kỳ hạn của các nguồn huy động. Thời hạn của các nguồn huy động giúp ngân hàng phân tích một cách chính xác mức độ biến động, cơ cấu để từ đó có phương án sử dụng hợp lý. Nhất là việc xây dựng nguồn vốn để tài trợ cho những dự án có quy mô lớn, thời hạn hoàn vốn lâu. Cơ cấu theo thời hạn huy động của CNLH qua các năm được thể hiện trong bảng sau.
Bảng 07: Bảng cơ cấu nguồn hình thành theo thời hạn huy động
(Đơn vị: tỷ đồng- các đồng ngoại tệ quy về VND)
Thực hiện
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
+/-
b.q
Số tiền
%/SNV
Số tiền
%/SNV
Số tiền
%/SNV
Tổng nguồn vốn {A+B}
2.630
100,0%
3.812
100,0%
4.037
100,0%
703,5
A.Vốn huy động {A=1+2+3}
1.930
73,4%
2.962
77,7%
3.137
77,7%
603,5
1.Tiền gửi không kỳ hạn
468
17,80%
962
25,2%
1.046
25,9%
289
-Tiền gửi thanh toán
398
15,3%
841
22,1%
1021,5
25,3%
312
-Tiền gửi tiết kiệm
22
0,84%
20
0,50%
20,99
0,52%
(0,5)
-Tiền gửi các TCTD& KB
48
1,83%
101
2,60%
3,51
0,09%
(22,5)
2. Tiền gửi kỳ < 12 tháng
887
33,7%
863
22,7%
1.053
26,1%
83
-Kỳ hạn dưới 1 tháng
411
15,6%
324
8,50%
634
15,7%
117,5
-Kỳ hạn trên 1 tháng
476
18,1%
539
14,2%
419
10,4%
(34,5)
3.Tiền gửi kỳ > 12 tháng
575
21,9%
1.137
29,8%
1038
25,7%
231,5
-Tiết kiệm thường
483
14,6%
388
10,2%
487
12,1%
52
-Giấy tờ có giá
123
4,68%
423
11,1%
74
1,80%
(25)
-Tiết kiệm bậc thang
-
-
-
-
165
4,10%
82,5
-Tiền gửi khác
69
2,62%
326
8,50%
313
7,70%
122
B.Vốn UTĐT (trừ NHCS)
700
26,6%
850
22,3%
900
22,3%
100
(Nguồn: Phòng kế hoạch- Nguồn vốn)
Qua bảng trên cho thấy, nguồn vốn ngắn hạn tại CNLH chiến tỷ trọng lớn, tỷ trọng bình quân so với tổng số vốn hoạt động là 50,47%, và chiếm tới 66,17% so với tổng nguồn vốn huy động. Năm 2001, nguồn ngắn hạn tại Chi nhánh là 1.355 tỷ đồng chiếm 70,21% so với tổng vốn huy động, sang năm 2002 là con số này là 1.825 tỷ đồng tăng so với năm 2001 là 470 tỷ đồng tương đương 34,69%, năm 2003 đạt 2.092 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 61,61% so với tổng vốn huy động. Trong đó nguồn tiền gửi nhằm mục đích thanh toán và dưới 1 tháng chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn huy động của Chi nhánh, tỷ trọng trung bình 61,11%/năm so với tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh và 47,30%/năm so với lượng vốn huy động của Chi nhánh. Hai nguồn này có mức tăng trưởng khá nhanh, năm sau cao hơn năm trước, doanh số hàng năm đạt hàng trăm tỷ, mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 406,5 tỷ đồng. Điều này cho thấy, nguồn tiền gửi chủ yếu nhằm mục đích thanh toán qua hệ thống ngân hàng (kể cả tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dưới 1 tháng). Trên cơ sở số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng ngân hàng cung cấp một số phương tiện thanh toán như Séc, UNC, UNT, dịch vụ rút tiềt tự động qua mạng máy tính, ATM kết hợp với thái độ phục vụ nhiệt tình, tinh thông nghiệp vụ của cán bộ phòng kế toán ngân quỹ (phòng có mật độ tiếp xúc với khách hàng nhiều nhất của ngân hàng) đã gây được cảm tình và niềm tin cho khách hàng tới quan hệ và giao dịch.
Bên cạnh nguồn tiền gửi nhằm mục đích thanh toán và khoản tiết kiệm dưới 1 tháng, thì nguồn tiền tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, TCTD, Quỹ hộ trợ..., mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ từ 2-3%, nhưng nó lại có tính ổn định tương đối cao (có thể thời hạn các nguồn riêng lẻ thì ngắn nhưng nếu xét tổng thể thì nó luôn luôn có một lượng số dư nhất định) và như vậy ngân hàng có thể tính toán tỷ lệ sử dụng sao cho hợp lý nhằm thực hiện những mục đích của mình. Trong nguồn tiền gửi ngắn hạn, nguồn có thời hạn trên 1 đến 12 tháng chiếm tỷ trọng bình quân khá cao trong tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh của Chi nhánh qua các năm với tỷ trọng 14,36%/năm, nguồn này có mức biến động cao và không ổn định qua các năm. Với sự nhận thức của khách hàng ngày càng cao, việc sử dụng tiền mặt nhiều hoặc tích trữ trong nhà ngày càng hiếm, nó làm nguồn tiền gửi không kỳ hạn tăng lên đáng kể, đây là một trong những nguyên nhân quan trọng trong việc làm giảm lượng vốn có thời hạn từ 1 đến 12 tháng của Chi nhánh.
Nếu so sánh nguồn tiền gửi ngắn hạn với nguồn trung và dài hạn, thì nguồn tiền gửi trung dài hạn thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh mức trung bình là là 25,80%/năm.
Biểu 02: Cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của CNLH
Qua biểu trên cho thấy, nguồn trung và dài hạn có tốc độ tăng trưởng khá cao qua các năm, điều này là do Chi nhánh đã áp dụng các biện pháp và hình thức khác nhau như, mở loại hình tiết kiệm dự thưởng với tiền gửi trung và dài hạn (cho những món có giá trị trên 5 triệu VND, hoặc ngoại tệ trị giá tương đương 300 USD trở lên), tiết kiện bậc thang, phát hành giấy tờ có giá.
Mặc dù tình hình kinh tế chính trị trong và ngoài nước có nhiều bất ổn đã gây ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động của NHTM nói chung và CNLH nói riêng. Nếu so sánh với năm 2001 thì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn khá cao, và tương đối ổn định mức biến động nhìn chung không lớn. Mức tăng trưởng bình quân của nguồn trung và dài hạn qua các năm là 231,5 tỷ đồng. Trong đó tiền gửi tiết kiệm bậc thang có mức tăng trưởng tuyệt đối cao 165 tỷ đồng (mức trung bình là là 82,5 tỷ đồng) tiếp đến là nguồn tiền gửi khác và tiết kiệm thường vẫn chiếm vị trí cao, tương đương là 52 và 122 tỷ đồng/năm. Với giấy tờ có giá có mức tăng trưởng bình quân âm (âm 25 tỷ đong/năm) là vì năm 2003 lượng vốn này giảm rất mạnh cả về tương đối và lẫn tuyệt đối so với tổng nguồn hoạt động kinh doanh (giảm từ 423 tỷ đồng xuống còn 74 tỷ đồng năm 2003). Một lý do làm giảm đảng kể tổng nguồn vốn hoạt động cũng như huy động là do trong năm Chi nhánh Bà Triệu tách khỏi CNLH chuyển về Chi nhánh NHNo Đông Hà nội, đã làm giảm đáng kể nguồn vốn trung và dài hạn của CNLH.
Đến hết ngày 31/12/2003 tổng nguồn vốn huy động có kỳ hạn trên 12 tháng là 1.038 tỷ đồng giảm so với năm 2002 là 99 tỷ đồng (chỉ bằng 99.29% của năm 2002), chiếm 25,70% so với tổng nguồn vốn hoạt động và bằng 33,09% so với tổng lượng vốn huy động của Chi nhánh. Riêng đối với tiết kiệm thường (do áp dụng tiết kiệm dự thưởng- từ đầu năm 2003), cho nên lượng vốn thu được lại tăng mạnh hơn so với giấy tờ có giá và các loại tiền gửi khác, nó chiếm tới 46,92% trong khi giấy tờ có giá và các loại tiền gửi khác chỉ chiếm 7,03% và 30,15%, còn lại là tiết kiệm bậc thang 15,90% so với tổng số vốn trong dài hạn mà Chi nhánh huy động. Với loại hình tiết kiệm bậc thang, mặc dù mới chỉ áp dụng từ năm 2003, nhưng nó đã có những kết quả đáng mừng, với 165 tỷ đồng thu được, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh 4,09%, so với nguồn vốn huy động thì nó cũng chỉ chiếm 4,33%. Trong tương lai hình thức này chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng bởi tính linh hoạt trong việc tính lãi, và đảm bảo quyền lợi cho khàch hàng khi mà việc rút tiền của họ không ổn định như cam kết đã thoả thuận với ngân hàng. Đặc biệt là duy trì mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng của ngân hàng.
2.2.3.3. Nguồn hình thành theo cơ cấu đồng tiền gửi
Trong công tác huy động vốn của mỗi ngân hàng, việc xác định một cách chính xác về giá trị, lãi suất, tỷ trọng của các nguồn hình thành, và quan trọng hơn chính là thời hạn của các loại đồng tiền gửi khác nhau (cả VND và các ngoại tệ khác: USD, EUR, CHF, CNY,...) là rất cần thiết. Nó giúp cho các NHTM duy trì mối quan hệ với các, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, có nhu cầu sử dụng ngoại tệ thường xuyên, Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đồng tiền (các loại ngoại tệ khác đều được quy về USD sau dó quy về VND), số liệu cụ thể dược thể hiện ở bảng sau:
Bảng 08. Nguồn vốn huy động phân theo đồng tiền
(Đơn vị: tỷ đồng)
Thực hiện
Năm
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
Số tiền
%/SNV
Số tiền
%/SNV
Số tiền
%/SNV
Nguồn vốn hoạt động
2.630
100%
3.812
100%
4.037
100%
Vốn huy động
1.930
73,4%
2.962
77,7%
3.137
77,7%
Nội tệ
1.575
81,6%
2.449
64,2%
2.191
54,3%
- Ngắn hạn
1.050
39,9%
1.624
42,6%
1.453
36,0%
- Dài hạn
525
20,0%
825
21,6%
738
18,3%
Ngoại tệ (quy về VND)
355
18,4%
513
13,5%
946
23,43%
- Ngắn hạn
305
11,6%
270
7,08%
646
16,00%
- Dài hạn
50
1,90%
243
6,37%
300
7,43%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
SNV: Tổng nguồn vốn hoạt động
Qua bảng trên cho thấy tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ngoại tệ và nội tệ qua các năm khá đồng đều, mức chênh lệch không đáng kể. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn huy động, cũng như tổng nguồn vốn hoạt động. Nếu so với tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh thì năm 2001 là 18,40%, năm 2002 mặc dù số tuyệt đối tăng 158 tỷ đồng song tỷ trọng của nó lại chỉ chiếm có 13,46% giảm 0,04% so với năm 2001, năm 2003, tăng so với năm 2002 là 946 tỷ đồng tăng 433 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 23,88% trên tổng nguồn vốn.
Nếu xét một cách toàn diện thì nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao so với nguồn vốn dài hạn, năm 2001 chiếm tới 51,52%, năm 2002 là 47,88% và năm 2003 là 52,44%, tỷ trọng bình quân qua các năm (nếu không kể nguồn vốn uỷ thác) là 50,61%. Như vậy có thể thấy, mặc dù đã có nguồn vốn huy động trung và dài hạn có tăng trưởng nhưng tỷ trọng so với tổng nguồn vốn huy động vẫn không cao và chưa hợp lý, nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn vốn huy động và hoạt động của Chi nhánh. Tuy nhiên trong tổng nguồn vốn dài hạn lại chiếm tỷ trọng đáng kể, điều này cho thấy nguồn vốn mà Chi nhánh huy động chưa thực sự phong phú và đa dạng về khách hàng, nguồn huy động và như vậy sẽ khó ổn định.
Nhìn chung, qua các năm trở lại đây nguồn vốn ngoại tệ có mức tăng trưởng khá cao cả về số tương đối và tuyệt đối. Nguồn vốn dài hạn so với tổng nguồn vốn huy động cũng có chiều hướng tăng rất cao (nếu không kể nguồn vốn uỷ thác đầu tư), năm sau cao hơn năm trước. Điều này thể hiện xu hướng đầu tư trung và dài hạn và ngân hàng (tiết kiệm hoặc uỷ thác đầu tư) ngày càng được khách hàng quan tâm và thực hiện, tạo thuận lợi cho Chi nhánh trong việc hoạch định chiến lược hoạt động lâu dài. Để biết được sự biến động của các nguồn vốn chúng ta xét bảng số liệu sau:
Bảng 10: Sự biến động nguồn vốn tại CNLH
Đơn vị: tỷ đồng
Năm so sánh
Chỉ tiêu
2002 so 2001
2003 so 2001
2003 so 2002
Bình quân
Số tiền
+/-
Số tiền
+/-
Số tiền
+/-
Nguồn vốn hoạt động
1.182
144,9%
1.407
153,5%
225
105,9%
938,0
Vốn huy động
1.032
153,5%
1.207
162,5%
175
105,9%
804,7
Nội tệ
874
155,5%
616
139,1%
(258)
89,5%
410,7
- Ngắn hạn
505
148,1%
450
142,9%
(55)
96,5%
300,0
- Dài hạn
369
170,3%
166
131,6%
(203)
77,3%
110,7
Ngoại tệ (quy về VND)
158
144,5%
591
266,5%
433
184,4%
406,0
- Ngắn hạn
(35)
88,52%
341
211,8%
376
231,3%
208,0
- Dài hạn
193
486,0%
250
600,0%
57
123,5%
198,0
Nguồn: Phòng Kế hoạch- Nguồn vốn
Như vậy cơ cấu các nguồn tiền gửi tại Chi nhánh năm sau luôn cao hơn năm trước, tốc độ tăng tương đối cao và ổn định, năm 2002 so với năm 2001, do ảnh hưởng của việc cắt giảm lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mĩ (Fed) đã làm giảm đáng kể nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ, nhất là nguồn ngắn hạn. Mặt khác trong 2 năm 2001, 2002 lượng vốn ngoại tệ lại chỉ mới thông qua công cụ nhận tiền gửi, các loại giấy tờ có giá phát hành chưa được sử dụng để huy động vốn ngoại tệ. Đây là thực tế đặt ra cho Chi nhánh phải có chiến lược, chính sách hợp lý trong tương lai. Bước sang năm 2003, do tình hình kinh tế xã hội khu vực và thế giới có nhiều biến động phức tạp, cuộc chiến tranh IRAQ.
Mức tăng trưởng bình quân qua các năm nhìn chung là khá đồng đều, mức chênh lệch không cao cao. Nếu so năm 2003 với năm 2002, các nguồn đều tăng khá cao, nhưng nguồn nội tệ lại giảm đáng kể, về số tuyệt đối là âm 258 (258) tỷ đồng chỉ đạt 89,47%, bao gồm cả ngắn hạn và dài hạn. Mặc dù vậy lượng vốn ngoại tệ lại có chiều hướng tăng, mức giao động từ 42,80% đến 128,52%, so với cùng kỳ năm trước. Còn nếu so với năm 2001 thì tất cả các chỉ tiêu đều tăng mạnh và ổn định, mức tăng trưởng giao động từ khoảng 31,62% đến 594,00%. Lý do khiến nguồn vốn nội tệ năm 2003 giảm so với năm 2002 là vì Chi nhánh Bà Triệu trực thuộc CNLH được chuyển sang Chi nhánh Đông Hà nội, làm giảm đáng kể lượng vốn huy động nói riêng và các chỉ tiêu khác nói chung.
2.2.3.3. Các chi phí liên quan tới hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh
Chi phí hoạt động huy động vốn là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn, nó bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí khác. Trong đó chi phí trả lãi làbộ phận chính chiếm tỷ trọng cao nhất bao gồm chi phí trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay, trả lãi phát hành giấy tờ có giá; Các chi phí khác là chi phí phục vụ cho hoạt động huy động vốn như trả lương, khấu hao tài sản, chi phí bảo hiểm tiền gửi... Chi phí cho hoạt động này của CNLH được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 10: Tình hình chi phí huy động vốn tại Chi nhánh Láng Hạ
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Thực hiện
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
+/-
1. Tổng chi phí
148,456
159,782
183,444
163,894
- Chi phí trả lãi (CPTL)
138,234
167,469
193,404
166,369
- Tỷ trọng CPTL/ S CPHĐ
93,11%
95,41
94,85
94,46%
2. Chênh lệch lãi suất (R-V)
0,16%
0,13%
0,22%
0,170%
- Lãi suất đầu vào (V)
0,45%
0,49%
0,43%
0,467%
- Lãi suất đầu ra (R)
0,61%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH111.doc