Tài liệu Chuyên đề Quan điểm và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong ASEAN: CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
“QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
VIỆT NAM TRONG TIẾN HÀNH TỰ DO
HÓA THƯƠNG MẠI TRONG ASEAN.”
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I :Tình hình thu hút FDI,vai trò của nó đối với nền
kinh tế Việt Nam
1. Sự cần thiết phảo thu hút FDI.
2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam .
3. Vai trò tác động của đầu tư trực tiếp .
Chương II : Đặc điểm FDI hiện nay và các tác động của tự do
hoá thương mại ASEAN đến quá trình thu hút FDI tại Việt
Nam
1. Quá trình tự do hoá thương mại quốc tế va ASEAN
2. Những đặc điểm mới của FDI trong sự tác động của tư do hoá thương
mại tại Việt Nam
3. Sự tác động của tự do hoá thương mại ASEAN đến dòng lưu chuyển
FDI tại Việt Nam
Chương III : Định hướng và các giải pháp tăng cường thu hút
FDI vào Việt Nam trong điêù kiện thực hiện AFTA
1. Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam
2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điêù kiên
thực hiên ...
41 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Quan điểm và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong ASEAN, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
“QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
VIỆT NAM TRONG TIẾN HÀNH TỰ DO
HÓA THƯƠNG MẠI TRONG ASEAN.”
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I :Tình hình thu hút FDI,vai trò của nó đối với nền
kinh tế Việt Nam
1. Sự cần thiết phảo thu hút FDI.
2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam .
3. Vai trò tác động của đầu tư trực tiếp .
Chương II : Đặc điểm FDI hiện nay và các tác động của tự do
hoá thương mại ASEAN đến quá trình thu hút FDI tại Việt
Nam
1. Quá trình tự do hoá thương mại quốc tế va ASEAN
2. Những đặc điểm mới của FDI trong sự tác động của tư do hoá thương
mại tại Việt Nam
3. Sự tác động của tự do hoá thương mại ASEAN đến dòng lưu chuyển
FDI tại Việt Nam
Chương III : Định hướng và các giải pháp tăng cường thu hút
FDI vào Việt Nam trong điêù kiện thực hiện AFTA
1. Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam
2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điêù kiên
thực hiên AFTA
Lời kết
Danh mục tài liệu tham khảo
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, thế giới đã biết đến Việt Nam và Việt Nam cũng bắt đầu đi
ra thế giới. Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển, là điều
kiện thuận lợi để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Bắt
nhịp được xu thế này 12/1987 Nhà nước ta chính thức ban hành luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp ngoài đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay trong sự tác
động của tự do hóa thương mại ASEAN có đạt được nhiều thành tựu to lớn
nhưng do những biến động thất thường của nền kinh tế khu vực cũng như thế
giới Việt Nam gặp phải những biến động thăng trầm, phức tạp tác động không
tốt tới nền kinh tế Việt Nam.
Xuất phát từ đó tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Quan điểm và giải pháp
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa
thương mại trong ASEAN”.
3
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH THU HÚT FDI ,VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Sự cần thiết phải thu hút FDI
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoàI ngày càng được nhiêu f nước
thừa nhận là một nhân tố quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của mỗi
quốc gia ,đặc biệt là phát triển kinh tế.
Nước ta ,kể từ khi luật đầu tư nước ngoàI được ban hành và thực hiện,
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoàI được Đảng và Nhà nước ta khẳng định
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng
xă hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các nguồn lực trong
nước. Sự xuất hiện của FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đem lại cho chung
ta những tác động tích cực về kinh tế xã hội thể hiện qua các khía cạnh sau :
FDI đóng góp đối với tổng vốn đầu tư toàn xã hội .
FDI làm tăng khả năng huy động các nguồn vốn khác
FDI góp phần làm chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá ,hiện đại hoá .
Tăng thu ngân sách nhà nước .
Tăng việc làm và thu nhập cho người lao động.
Tăng cường xuất khẩu.
FDI góp phần chuyển giao công nghệ một cách thuận lợi và nhanh
chóng.
NgoàI các hoạt động trên ,FDI còn góp phần tích cực vào phát triển lực
lượng sản xuất. FDI tập chung chủ yếu vào ngành công nghiệp và hiện
chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp , tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
trên 20% ,góp phần đưa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cả
nước bình quân trong những năm gần đây đạt trên 10%. Đầu tư nước
ngòai trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng ,khu công nghiệp , bưu chính viễn
thông , y tế , đào tạo nguồn nhân lực tăng nhanh , Đầu tư nước ngoàI đã
4
đem lại nhưng mô hình quản lý tiên tiến nhưng phương thức kinh doanh
hiện đại cho nền kinh tế ,thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới
công nghệ , nâng cao chất lương sản phẩm và sức cạnh tranh của các sản
phẩm trên thị trường trong và ngoàI nước .Đầu tư trực tiếp nước ngoàI đã
tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới.
2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Sau năm 1975, nước ta đã ban hành những điều lệ quy định về đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam để điều tiết hoạt động của các dự án đầu tư chủ yếu
từ các nước XHCN như Liên Xô, Trung Quốc. Các dự án đầu tư lúc bấy giờ
dựa trên nền tảng hợp tác giúp đỡ Việt Nam khôi phục nền kinh tế bị tàn phá
sau chiến tranh.
Cùng với chính sách đổi mới đất nước, tháng 12/1987, Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành. Tính đến ngày 31/12/2003, cả
nước thu hút khoảng 5236 dự án đầu tư, trong đó còn khoảng 4324 dự án
đang hoạt động với vốn đăng ký 40,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 24,6 tỷ
USD (bằng 60,3% vốn đăng ký), đưa Việt Nam trở thành nước đứng vị trí thứ
5 ở khu vực Đông Nam Á, 11 ở Châu Á và 34 trên thế giới về thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Bảng 1: Đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép giai đoạn 1988-2003
Năm
Số dự
án
Vốn đăng ký
(triệu USD)
Vốn thực hiện
(triệu USD)
Vốn bình quân 1
dự án (triêu USD)
1988-1998 1611 18477 8254 11,5
1996 325 8497,3 2914 26,1
1997 345 4649,1 3215 13,5
1998 275 3897,0 2369 14,2
1999 311 1568,0 2535 5,0
2000 371 2012,4 2450 5,4
2001 523 2535,5 2591 4,8
5
2002 754 1557,7 1250 2,1
2003 721 1915,8 2650 2,7
Nguồn: Tổng cục Thống kê
* Về cơ cấu ngành: Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp và xâydựng với 2885 dự án, vốn đăng ký
23213,71 triệu USD (chiếm 66,7% số dự án, 56,9% tổng số vốn đăng ký);
nông nghiệp 596 dự án với vốn đăng ký 2893,34 triệu USD (chiếm 13,8% dự
án; 7,1% vốn đăng ký); dịch vụ 843 dự án với vốn đăng ký 14682,7 triệu
USD (chiếm 20,41% số dự án; 36% vốn đăng ký.
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành đối với những
dự án còn hiệu lực giai đoạn 1988- 2003
Ngành Số dự án
Tổng vốn đầu
tư (tr.USD)
Vốn pháp
định (tr.USD)
Vốn thực
hiện (tr.USD)
Công nghiệp 2885 23213,7 40583,2 16725,3
Dầu khí 27 1891,6 1389,6 4420,9
Công nghiệp nhẹ 1174 6105,8 2808,8 273,9
Công nghiệp nặng 1207 9499,0 3952,1 5890,4
Công nghiệp thực phẩm 212 2585,0 1228,0 1779,4
Xây dựng 265 3132,1 1204,6 1860,6
Nông, lâm nghiệp 596 2898,35 1282,4 1562,2
Nông-lâm nghiệp 500 2635,0 1159,7 1435,1
Thuỷ sản 96 263,3 112,7 127,1
Dịch vụ 843 14682,8 6687,5 6313,7
GTVT – Bưu điện 118 2594,5 2034,5 1039,3
Khách sạn – Du lịch 143 3302,7 1120,8 2036,0
Tài chính – Ngân hàng 46 596,0 577,0 598,1
Văn hóa – Y tế – Giáo dục 147 628,0 278,9 230,2
Xây dựng khu đô thị mới 3 2466,7 675,2 6294,6
Xây dựng văn phòng, căn hộ 99 3460,5 1205,8 1598,5
Xây dựng KCN, KCX 19 895,6 403,4 524,2
6
Dịch vụ khác 268 738,7 391,8 280,9
Tổng 4324 40794,8 16553,1 24601,1
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
* Về phân bổ dự án: hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước đều có dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng tập trung chủ yếu vào một số địa
phương có điều kiện thuận lợi như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Những địa phương này
chiếm tới 74,8% tổng số dứan và 74,7% tổng số vốn đầu tư của cả nước.
Bảng 3: Một số địa phương dẫn đầu về thu hút FDI (tính đến ngày31/12/2003)
Địa phương Số dự án
Vốn đăng
ký
(tr.USD)
Địa
phương
Số dự
án
Vốn đăng
ký
(tr.USD)
TP.Hồ Chí Minh 1581 11208,4 Bà Rịa-
Vũng Tàu
140 3569,8
Bình Dương 748 3028,4 Hà Nội 634 8223,7
Đồng Nai 579 4617,9 Hải Phòng 170 1659,2
Nguồn: - Niên giám thống kê 2002
- Kinh tế Việt Nam và thế giới 2003-2004, Thời báo kinh tế Việt Nam
* Về đối tác đầu tư: Đến nay đã có hơn 75 nước và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam, nhưng các nhà đầu tư lớn chủ yếu đến từ các nước Châu Á
như: Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công, Nhật Bản, Singapo. Những nước này
chiếm tới 60,12% số dự án và 58,41% số vốn đầu tư.
* Về hình thức đầu tư: hình thức liên doanh chiếm 51% vốn đăng ký
và 30% số dự án, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm36% vốn đăng
ký và 66% số dự án, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và BOT chiếm
13% vốn đăng ký và 4% số dự án.
2. Vai trò tác động của đầu tư trực tiếp
2.1 . Tác động tích cực
7
Bảng 4. Số dự án FDI vào Việt Nam (1991-2002)
Năm Số dự án Vốn đăng
ký(triệu USD)
Quy mô(triệu
USD/dự án)
1991 151 132,0 80,79
1992 197 2165,0 10,0
1993 269 2900,0 10,78
1994 343 3765,6 10,98
1995 370 6530,8 17,65
1996 325 8497,3 26,15
1997 345 4649,1 13,48
1998 275 3897,0 14,17
1999 311 1568,0 5,04
2000 371 2012,4 5,42
2001 461 2436,0 5,28
2002 4447 43194 678,9
Tổng 7765 81747,2 878,64
Nguồn : niên giám thống kê 2000, NXB thống kê,HN 2001 thời báo
kinh tế Việt Nam,kinh tế 2001_ 2002 Việt Nam ,thế giới.
a. Đối với nước nhận giao vốn
Chuyển giao vốn
Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong và ngoàI
nước.Đối với nước lạc hậu,sản xuất ở trình độ thập , nguồn vốn tích luỹ còn
hạn hẹp thì vốn ĐTNN đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh
tế , ở các nước này có nhiều tiềm năng lao động và tàI nguyên thiên nhiên
nhưng trình độ sản xuất còn thập kém ,cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu
nên chưa co điêù kiện để khai thác những tiềm năng đó . Các nước này muốn
thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo nên đã tăng cường đầu tư phát
triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định . Để thực việc
này các nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư. Trong điêù kiện
8
này ,khi mà một số nước cần nắm giữ một khối lượng lớn vốn và có nhu cầu
đầu tư ra nuóc ngoài, thì đó là cơ hội tốt nhất cho các nước đang phát triển có
thể tranht hủ nguồn vốn ĐTNN vào việc phát triển kinh tế .
Tại nhiều nước đang phát triển ,vốn FDI chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng
vốn đầu tưcủa toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước hoàn toàn dựa
vào vốn ĐTNN ,đặc biệt là giai đoạn đâu tư phát triển kinh tế . Một số
nước đã thực hiện khá thành công chiến lược thu hút FDI và có ý nghĩa
quyết định đến tăng trưởng kinh tế các nước này như Indonexia
(FDI/GDP-2001 =10,9%); Malaysia (FDI/GDP –2001 =26,6%) ;
Singapore (FDI/GDP –2001 =65,3%).
Tại Việt Nam , nhưng con số ở bảng 4 cho thấy chúng ta khá thành
công trong việc thu hút FDI ,tuy nhiên so với các nước trong khu vực vẫn
còn thập (FDI/GDP-2001 =13,1%).
Đối với các nước công nghiệp phát triển FDI vẫn là nguồn vốn bổ sung
quan trọng có ý nghĩa lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Bằng chứng là
các nước công nghiệp phát triển đã thu hút trên 80% FDI toàn thế giới vào
nước họ . Khác vơí các nước đang phát triển ,không phảI là họ thiếu vốn
đầu tư, cũng không phảI trình độ thập kém mà các nước công nghiệp phát
triển cần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế thì các nước phát
triển đầu tư ra nước ngoàI nhiều nhất ,nhưng cũng thu hút phần lớn
ĐTTTNN . Theo báo cáo đầu tư của LIên Hợp Quốc 1994 các nươcs phát
triển đầu tư ra nước ngoàI khoảng 189 ty USD , chiếm 85% tổng vốn FDI
trên toàn cầu , nhưng ngược lại họ đã thu hút vào 135 tỷ USD chiếm 60%
tổng vốn FDI toàn thế giới.
FDI có vai trò quan trọng trong việc khuến khích tiết kiệm trong nước
,đIũu này có thể giảI thích như sau ; khi có ĐTTTNN có thể tạo thêm
nhiều việc làm ,tăng thu nhạp quốc dân do đó có thể tăng phần tiết kiệm o
nước nhận vốn đầu tư.
9
Khi FDI nhảy vào một nước ,nó có thể làm giảm cán cân vãng lai, nó
cũng có thể làm triệt tiêu khoản thâm hụt đó qua thời gian ,khi các công ty
nước ngoàI thu được nhưng khoản xuất khấu ròng, Thêm nữa , khi những
lợi thế của nền sản xuất nước ngoàI được đưa vào nước chủ nhà như công
nghệ ,kỹ năng sản xuất … chúng làm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của
các hãng trong nước ,có thể làm tăng xuất khẩu ,góp phần tạo ra ngoại tệ
cảI thiện cán cân thương mại .
Chuyển giao công nghệ
Khi đầu tư vào một nước nào đó ,chủ đầu tư không chỉ mang vào nước
đó vốn băng tiền ,ma còn chuyển vốn băng hiện vật như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu ,công nghệ ,năng lực thị trường. Thông qua hoạt động FDI;
quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện một cách nhanh chóng và
thuận tiện cho cả hai bên .
Một trở ngại lớn trên đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước
đang phát triển là trình độ kỹ thuật ,công nghệ lạc hậu .Trong thời đại khoa
hoc công nghệ phát triển như hiện nay ,việc tự nghiên cứu khoa học kỹ thuật ,
công nghệ và trình độ sản xuất của các nước đang phát triển là phảI biết tận
dụng những thanh tựu khoa học tiên tiến của nước ngoàI thông qua chuyển
giao công nghệ, Tiệp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang
phát triển có thể tiêp thu được trình độ khoa học công nghệ hiên đại trên thê
giới , tuy nhiên mức độ hiện đại tơI đâu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác,
nhưng dù thế nào đây cũng là lợi ích căn bản của các nước khi tiệp nhân FDI.
Trong đIũu kiện này , trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác
nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoàI va thực hien chuyển giao công nghệ
cho nước tiêp nhận đầu tư . Đây là cơ hội tốt cho các nước đang phát triển có
thể tiệp nhận công nghệ hiện đại mà không phải trả một khoản phí nào .
Các nước phát triển mặc dù có trình độ sản xuất hiện đại ,khoa học kỹ
thuật tiên tiến nhưng không thể nào toàn diện được, để đạt được kết quả cao,
mỗi nước chỉ tập chung vào một số lĩnh vực nào đó mà họ có lợi thế , ngược
10
lại chính sự tập trung đó càng củng cố hơn địa vị và quyền lợi trên thế giới
của nước đó . Xu hướng phát triển phân công lao động xã hội cũng la quá
trình chuyên môn hoá và liên kết chặt chẽ vơI nhau, phụ thuộc lẫn nhau .Hoạt
động FDI là kết quả của qúa trình trên.
Chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa
học . Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật ,công nghệ mới cần tìm
cho mình một nơI thảI kỹ thuật công nghệ cũ . Việc thảI công nghệ cũ dễ
dàng đuợc nhiều nơI châp nhận ,đặc biệt lad các nước đang phat triển ,chính
sự lan toả nhưng thành tựu khoa học ,công nghệ , kỹ thuật của nhân loại
thường xuyên như thế này , đã tạo ra môI trường thuận lợi cho sự tiệp nhận và
phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoàI , các nước đang phat triển
muốn sử dụng nó vào mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế . Đây cũng là đIúm nút để các nước đang phát triển thoát ra vòng luẩn
quẩn đói nghèo . Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy quốc gia
nào thực hiệ chiến lược phát triển kinh tế mở với bên ngoàI, biết tranh thủ và
phát huy các nhân tố bên ngoàI biến nó thành nhân tố bên trong , thì quỗc gia
đó có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Mức tăng trưởng kinh tế ở những nướ đang phát triển thường do nhân
tố đầu tư la chủ yếu , nhờ đó các nhân tó khác như lao động được sử dụng
,năng suất lao động được tăng lên . Vì vậy , thông qua đầu tư có thể đánh giá
một cách tương đối mức tăng trưởng kinh tế của mỗi nước.
Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
FDI là bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại ,thông qua
đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào phân công lao động quốc tế
để hôị nhập vào nền kinh tế thế giới ,đòi hỏi mỗi quốc gia phảI thay đổi cơ
cấu kinh tế cho phù hợp với sự phân công lao động cua quốc tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình đọ phát triển chung
11
trên thế giới sẽ tạo điêù kiện thuận lợi cho hoạt động FDI .Ngược lại chính
FDI lại góp phần vào đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bởi vì :
+ Thông qua ĐTTTNN đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực ,ngành
kinh tế mới ở nước nhận đầu tư.
+ ĐTTTNN giúp cho sự phát triển nhanh chóng về trnhf độ kỹ
thuật cộng nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng
suất và làm tăng tỷ phần đóng góp của nó cho nền kinh tế.
+Một số ngành nghề được kích thích phát triển bởi ĐTTTNN ,
bên cạnh đó cũng có một số ngành bị mai một rồi đI đến xoá sổ.
NgoàI những tác động trên , FDI còn có một số tac động khác
như sau :
Góp phần tăng thu ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế
của các đơn vị ĐTNN và phần thu từ tiền cho thuê đất … Cùng với khả
năng sản xuất , nhập khẩu hàng hoá , FDI còn giúp mở rộng thị trường
cả trong nước và quốc tế. Đa số các dự án FDI đều có phương án bao
tiêu sản phẩm. Đây là hiệ tượng hai chiều đang trở nên khá phổ biến ở
nhiều nước đang phát triể hiện nay. Về mặt xã hội , FDI đã tạo ra nhiều
chỗ làm mới ,thu hút đơn vị có vốn ĐTNN. ĐIều này góp phần đáng kể
vào việc giảm bớt nạn thất nghiệp ,vốn là tình trạng nan giảI của nhiều
quốc gia, đặc biệt đối với nhiều quốc gia đang phát triển.
b. Đối với nước đi đầu tư
Có thể nói đầu tư cũng là hình thức mở rộng thụi trường cho một
quốc gia hay một tập đoàn kinh tế. Việc mở rộng này có ý nghĩa nhiều
mặt đối với nước đI đầu tư. ĐIều này được thể hiện qua những mặt sau
:
Đứng trên góc độ vĩ mô :
Thông qua hoạt động FDI , các nước có thể mỏ rộng và nâng cao
mối quan hệ với nhau, đôI bên cùng có lợi .Hoạt động FDI cũng làm
cho lưu thông kinh tế giữa các nước dễ dàng hơn , uy tín của các nước
12
đó cũng được nâng cao trên thị trường quốc tế . Giữa các quốc gia tồn
tại một vấn đề cơ bản là : có những nước thừa nhận mặt hàng này,
nhưng cũng mặt hàng đó lại thiếu ở nước khác. Các nhà đầu tư chủ
động đIều này và họ có thể tiêu thụ những mặt hàng cũ,lạc hậu hoặc
nhu cầu đã giảm ở nước họ .
NgoàI ra , hoạt động FDI còn mang về cho nước đI đầu tư những
khoản lợi nhuận ,những nguyên liệu mà trong nước họ không có hoặc
đã cạn kiệt … các nước đI đầu tư dễ dàng kiếm lợi nhuận do được
hưởng những ưu đãI về thuế , khai thác được nguồn tàI nguyên thiên
nhiên và lao động rẻ ,lợi dụng được những kẽ hở của pháp luật và trình
độ quản lý kém ..
Đứng trên góc độ vi mô :
Đối với bất kỳ doanh nghiêp nào ,mục đích cuối cùng là tối đa
hoá lợi nhuận, khi thị trường trong nước trở nên nhỏ bé ,thì bắt buộc họ
phảI đầu tư ra nuớc ngoài, để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của
mình . Thông qua đầu tư các hãng không chỉ kiếm được lợi nhuận ,mà
họ có thể thấy những nguồn hàng ,nguồng tàI nguyên …mà nước mình
khan hiếm .
Phần lớn nhưng nước tiệp nhận đầu tư là các nước đang phát
triển ,nghèo nàn về mọi mặt. Vì thế khi đI đầu tư khả năng sử dụng vốn
của các doanh nghiệp sẽ linh hoạt ,dễ dàng hơn. chi phí đầu tư nhỏ hơn
trong nước vì những chính sách ưu đãI ,họ có thể sử dụng lại những
máy móc thiết bị đã lạc hậu không còn sử được ở nước họ .
Cũng nhờ hoạt động đâù tư mà một công ty có chi nhánh ở nhiều
nước ,vì thế uy tín và sức cạnh tranh được nâng cao trên thị trường
quốc tế.
2.2 . Một ssố ảnh hưởng tiêu cục của hoạt động FDI
13
Cùng với những gì gặt hái được, hoạt động FDI nói riêng và chủ trương
mở cửa nói chung cũng tạo ra những mặt tráI cho xã hội .
ĐTTTNN được thực hiện chủ yếu do các công ty đa quốc gia ,đã làm nảy
sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế vào
vốn,kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của các công ty này . Vởy nền
kinh tế càng dựa vào FDI thì nền kinh tế càng phụ thuộc vào nền kinh tế lớn,
do vạy sự phát triển của nó không bền vững ,mỗi sự biến động của nền kinh
tế lớn ,đều có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế. Trong vấn đề chuyển giao
công nghệ hoạt động của FDI,do trình độ công nghệ hạn chế mà nước nhận
đầu tư có thể tiệp nhận những công nghệ không phù hợp . Các công ty nước
ngoàI thường chuyển vào những công nghệ lạc hậu , nhưng máy móc đã cũ
và đánh giá nó cao hơn mức bình thường. Khi tiến hành dự án liên doanh
,các đối tác nước ngoàI thường góp vốn bằng máy móc ,thiết bị vật tư , lợi
dụng sự non yếu về khả năng công nghệ của đối tác, họ có thẻ chuyển vào
những thiết bị máy móc đã đến thời hạn thanh lý . Họ chuyển vào và tiếp tục
khai thác các máy móc thiết bị này . Tuy rằng nó cóthể hiện đại hơn nhưng
thiết bị đang sử dụng ,nhưng lại trở thành bãI thảI lớn cho các công ty đa
quốc gia , đây là một thiệt hại lớn cho các nước nhận đầu tư.
Một trong nhưng lo ngại lơn khi tiệp nhận FDI là có sự can thiệp bất lợi
của phia nước ngoàI vào nền chính trị thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau .
Nhiều ý kiến khác còn cho rằng khi tiếp nhận FDI có xu hướng đẩy
các doanh nghiệp trong nước đi đến phá sản ,do các công ty đa quốc gia co
tiềm lực tàI chính, kỹ thuật, đôI khi còn được hưởng những ưu đãI hơn cả
doanh nghiệp trong nước .
Một bộ phận trong xã hội bị tha hoá do bị kích thích về vật chất ,lối
sống chạy theo đồng tiền ,coi thường những chuản mực đạo đức trở nên phỏ
biến ,tệ nạn xã hội tăng nhanh . Lợi dụng chính sách mở cửa của nhà nước,
các thế lực thù địch tìm cách chống phá. Nếu mất cảnh giác những luồng gió
độc có thể trà trộn vào không khí đầu tư.
14
Đó là những mặt trái không thể tránh khỏi , gây nhiều thắc mắc , những
dư luận xã hội không tốt cho hợp tác đầu tư, nhất là khi có những vấp váp xảy
ra . Do đó cần có sự thống nhất của toàn Đảng ,toàn dân , giữa các cấp ,các
ngành giữ cho môi trường đầu tư trong sạch, cương quyết bàI trừ tệ nạn xã
hội, đề cao cảnh giác với các thế lực thù địch .
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM FDI HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HOÁ
THƯƠNG MẠI ASEAN ĐẾN QUÁ TRÌNH THU HÚT FDI TẠI
VIỆTNAM
1. Quá trình tự do hoá thương mại quốc tế và ASEAN
Nền thương mại thế giới trong nhiều thập kỷ qua đã có sự tăng trưởng
rất lớn về quy mô trao đổi, phạm vi hoạt động, các hình thức tiến hành và số
quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế cũng ngày một lớn hơn, theo chiều
hướng cởi mở hơn.
Tính đến năm 1990, đã có tới 127 quốc gia tham gia vào vòng đàm phá
Uruguay so với con số 24 quốc gia hồi sau đại chiến thế giới thứ 2. “Mức thuế
quan trung bình đã giảm từ 40% còn 5% trong quan hệ thương mại giữa các
quốc gia công nghiệp phát triển, và trong tương lai, mức thuế suất này còn
tiếp tục được giảm hơn nữa.
Nhờ những thành công của GATT, và nhờ vào những thành công trong
hoạt động đầu tư quốc tế mà mức trao đổi thương mại quốc tế đã có sự tăng
trưởng nhảy vọt tới13 lần kể từ năm 1950 đến 1990.
Như vậy nền thương mại thế giới đang ngày càng có những bước phát
triển mạnh mẽ , nó đươc coi là xu thế không thể đảo ngược trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế . Thế kỷ 20 cũng chưng kiến một sự phục hồi nhanh
chóng của nền kinh tế thế giới từ sau sự tàn phá khốc liệt của đại chiến thế
giới thứ 2, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và đồng thời đó
là sự nổi nên cuả 3 trung tâm kinh tế thế giới đó là Mỹ , Nhật va Tây Âu.
Cùng với quá trình đó , thế giới cũng được chưng kiến sự hình thành và phát
15
triển của các loại hình liên kết kinh tế quốc tế như một xu thế tất yếu trong
quá trình hội nhập và phát triển của các quốc gia.
Xu hướng tự do hóa thương mại bắt nguồn từ qúa trình quốc tế hóa đời
sống kinh tế thế giới với những cấp độ toàn cầu hóa và khu vực hóa, lực
lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia,
sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của
các Công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang
xây dựng mô hình “kinh tế mở” với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế
so sánh của mỗi nước. Thế giới ngày nay là một chỉnh thể thống nhất, trong
đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc nhau về
kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồng từ
những yếu tố khách quan : do đIều kiện địa lý ,do sự phân bố không đồng đều
tàI nguyên thiên nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ trên thế giới …
Lịch sử thế giới chứng minh rằng không có quốc gia nào có thể phát
triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ
tăng trưởng cao đều là các nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế
trong nước phát triển, biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ để hiện đại hóa nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực
nước ngoài để phát huy các nguồn lực trong nước.
Trước đây, nền kinh tế các nước tuy có kiên hệ là giao lưu nhưng chỉ
dụa trên quan hệ là song phương la chính , chưa hợp thành một chỉnh thể toàn
cầu . Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX , việc quốc tế hoá đời sống kinh tế
bước vào giai đoạn mới . Nền kinh tế các nước không chỉ liên hệ giao lưu lẫn
nhau mà còn đan dệt vào nhau ,dung hợp lẫn nhau để hình thành một nền kinh
tế toàn cầu trên cơ sỏ phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học công nghệ và
vai trò then chốt của các công ty xuyên quốc gia.
Qúa trình tự do hóa thương mại được thể hiện rõ nét qua việc hình
thành các liên kết kinh tế quốc tế như các khối mậu dịch tự do, đồng minh
16
thuế quan, liên minh kinh tế , liên minh tiền tệ… và các tổ chức kinh tế quốc
tế. Hiện nay đã có mấy chục khu vực kinh tế khác nhau về cấp độ, qui mô, nội
dung. Tây Âu, Bắc Mũ, Châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông, Châu Phi,
Mỹ La Tinh đều có các khu vực kinh tế và thương mại tự do. Tiêu biểu như
Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA),
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)… góp phần vào
thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới, theo thống kê của tổ chức
thương mại (WTO), cho đến nay trên thế giới có tới 144 tổ chức kinh tế mang
tính chất khu vực. Các tổ chức kinh tế – tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)… có vai trò toàncầu,
thúc đẩy tự do hóa thương mại phát triển mạnh mẽ. Trong các tổ chứcnày,
quan trọng nhất là tổ chức thương mại thế giới được coi là “Liên hiệp quốc về
thương mại” với hơn 140 thành viên, chiếm hơn 90% giá trị thương mại thế
giới, đang là tổ chức thúc đẩy các quốc gia phối hợp các chính sách kinh tế ,
thực hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư, tài chính, tiền tệ để tăng
cường các quan hệ kinh tế quốc tế. Với việc các nước thamgia ngày càng
nhiều vào các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình hội nhập quốc
tế và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu gần đây đều có xu hướng muốn
đẩy nhanh tốc độ, rút ngắn thời hạn thực hiện các cam kết để đẩy nhanh quá
trình tự do hóa kinh tế giữa các nước thành viên đã khiến cho quá trình quốc
tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, với tốc độ ngày càng
tăng.
Đóng góp cho sự phát triển của tự do hóa thương mại và đầu tư trực
tiếp nước ngoài, người ta không thể không nói đến vai trò của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, vốn là nhân công đã đẩy mạnh sự phát triển của
lực lượng sản xuất thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ nửa cuối thế kỷ XX đã làm cho khoa học công nghệ trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Cơ sở kỹ thuật của các quốc gia, đặc biệt là các
17
quốc gia công nghiệp phát triển, đã có sự thay đổi về chất, nền sản xuất đạt
được năng suất lao động cao chưa từng thấy và đã tạo ra một khối lượng của
cải khổng lồ với hàm lượng tri thức cao. Khoa học công nghệ đã góp phần tới
50-60% vào tăng trưởng kinh tế , trong đó 60% là do tăng năng suất lao động
trên cơ sở những thành tựu khoa học công nghệ.
Cuộc cách mạng kỹ thuật đặc biệt là cách mạng về thông tin đã hình
thành hệ thống mạng thông tin trên khắp toàn cầu . Việc xây dựng mạng
Intểnt và siêu lộ thông tin xuyên quốc gia đã làm cho vô tuyến, đIện thoại ,
máy tính liên kết thành một khối ,thế giới rộng lớn trở nên nhỏ bé, Các
phương tiện vận tảI ,thông tin liên lạc hiện đại phá vỡ bức tường ngăn cách
không gian và thời gian giữa các khu vực trên khắp hành tinh , tạo sự xích lại
gần nhau giữa các quốc gia , giữa mọi người trên thế giới . Các sản phẩm trở
thành sản phẩm mang tính quốc tế của nhiều hãng khác nhau do các quốc gia
đều có thể phát huy ưu thế kỹ thuật lao động . Cũng do sự phát triển kỹ thuật
thông tin nên người quản lýcó thể nắm được tình hình thị trường ở nhiều nơI
trên thế giới và tinh toán cần thiết để tìm ra cơ hội thuận lợi trong việc bố trí
sắp xếp nguồn lực sao cho có lợi nhất . Chính do sự phát triển của khoa học
công nghệ mà nhu cầu về tự do hoá thương mại trở nên mạnh mẽ hơn và bức
thiết hơn.
Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, sự phát triển không đồng đều về
kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia đòi hỏi họ phải mở rộng phạm vi
hợp tác và trao đổi. Điều đó đã khiến cho phân công lao động phát triển. Nhu
cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và
chủng loại nên việc một vài quốc gia đơn lẻ có thể sản xuất hàng hóa để cung
ứng cho thị trường trở nên không còn thiết thực. Việc phân công lao động trên
bề rộng, giữa các quốc gia sẽ đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao hơn, tỷ lệ
thuận với nhu cầu của người tiêu dùng. Những chuyển biến quan trọng mà
trong đó vai trò của lực lượng sản xuất là một trong những yếu tố quyết định
nền sản xuất thế giới đã được cơ cấu lại theo hướng linh hoạt hóa trên cơ sở
18
chu chuyển tư bản xuyên quốc gia được thực hiện dễ dàng và linh hoạt. Điều
này đã làm nảy sinh và đẩy mạnh thương mại xuyên quốc gia, khiến cho
thương mại thế giới về hàng hóa và dịch vụ tăng vọt, tự do hóa thương mại
phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Phân công lao động quốc tế làm đối tượng và phạm vi tham gia vào
việc trao đổi quốc tế được mở rộng, đồng thời lợi thế so sánh của các quốc gia
được khai thác triệt để, đã thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ phát triển
dẫn đến đòi hỏi bức thiết về tự do hóa thưoưng mại và đầu tư lẫn nhau giữa
các quốc gia.
Như vậy, qua những phân tích và đánh giá trên có thể nhận thấy một
điều rằng, ngày nay, tự do hóa thương mại đang ngày càng phát triển mạnh
mẽ. Tự do hóa thương mại vừađem lại lợi ích to lớn cho các quốc gia, vừa tạo
ra những thách thức lớn trên con đường hội nhập của các quốc gia vào nền
kinh tế thế giới. Chính những cơ hội và thách thức đó đã đẩy các quốc gia lại
gần nhau hơn, nó đã thúc dục các quốc gia có những sự tương đồng về địa lý,
văn hóa, lợi ích kinh tế … tập hợp lại trong những tổ chức kinh tế khu vực và
toàn cầu, hợp tác với nhau để hình thành các liên kết mang tầm khu vực và
quốc tế. Các liên kết kinh tế khu vực được hình thành, một mặt tạo điều kiện
đẩy nhanh qúa trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới trên cơ sở việc giải
quyết nhanh những bất đồng tồn tại giữa các quốc gia có nhiều sự tương
đồng. Mặt khác, liên kết kinh tế quốc tế trên một giác độ nào đó cũng có thể
được coi như là một phản ứng tự nhiên của các quốc gia mà theo đó họ tập
hợp lại trong một khối kinh tế lớn hơn để đề kháng lại những tác động được
coi là tiêu cực với các quốc gia trước sự bành trướng quá nhanh của xu hướng
toàn cầu hóa về kinh tế. Quá trình này, tuy vậy lại đẩy nhanh hơn tự do hóa
thương mại trong nội bộ các quốc gia thuộc khối liên kết. Về lâu dài, đó sẽ là
cơ sở vững chắc cho tự do hóa thương mại và đầu tư toàn cầu.
2. Những đặc điểm mới của FDI trong sự tác động của tự do hoá
thương mại tại Việt Nam
19
Từ những phân tích trên ,có thể thấy nguồn FDI vào Việt Nam trong thời gian
tới có thể có những đặc điểm sau đây :
Thứ nhất, sẽ có sự chuyển dịch trong cơ chế FDI đổ vào Việt Nam theo
sơ đồ phân công sản xuất toàn khu vực. Dưới tác động của AFTA, có thể có
những biến động trong cơ cấu FDI mà cụ thể là sự gia tăng lượng FDI vào
những ngành mà Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực (dệt may,
da giầy, chế biến nông lâm sản,…). Đồng thời sẽ là sự giảm sút FDI đổ vào
những ngành mà Việt Nam không có lợi thế so với các nước ASEAN khác. Ở
đây cũng cần lưu ý tớimột số ngành mà lợi thế so sánh của từng nước chưa
thể hiện sự vượt trội của bất kỳ quốc gia ASEAN nào - đó là mà lợi thế so
sánh hiện còn thể hiện dưới dạng tiềm năng ở từng quốc gia. Nguồn FDI đổ
vào những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng sẽ phụ thuộc nhiều vào những
chính sách, thủ tục và sự thuận lợi mang tính chủ quan mà từng nước ASEAN
tạo ra cho các nhà đầu tư.
Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA với sự
cắt giảm thuế quan vào năm 2006 sẽ làm cho hàng hóa của các nước trong
khối thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với nhau hơn. Nếu như Việt Nam
không có một môi trường đầu tư có hiệu quả thì sẽ dẫn đến các nhà đầu tư
chuyển sang đầu tư tại những nơi thuận lợi hơn rồi chuyển hàng vào tiêu thụ ở
Việt Nam.
Một yếu tố khác có thể tác động không nhỏ đến việc giảm sút đầu tư
vào Việt Nam đó chính là ảnh hưởng của khủng hoảng sẽ làm cho các nhà
đầu tư của Mỹ và Châu Âu dừng hoạt động lại để xem xét tình hình đầu tư lâu
dài. Do khủng hoảng mà một số nhà đầu tư đánh giá khu vực này chứa đựng
nhiều yếu tố rủi ro… Do đó mà trong những năm tới đầu tư vào Việt Nam
không tránh khỏi những khó khăn chung này.
Thứ ba, đầu tư của các nước Châu Á vào Việt Nam bị hạn chế bởi
những quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN gặp nhiều khó
20
khăn tại chính quốc gia họ, dẫn đến những nhà đầu tư của những nước ngày
phải tạm dừng hoạt động làm ăn cầm chừng, xin rút giấy phép đầu tư.
Thứ tư, hiện nay các nước trong khu vực đang trong tình trạng phục hồi
nền kinh tế dẫn tới họ sẽ áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi để thu hút vốn đầu
tư. Chính điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam do phải cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực. Bởi Việt Nam
có rất nhiều điểm tương đồng về lợi thế và điều kiện so với những nước như:
Trung Quốc hoặc những nước trong khu vực Đông Nam Á.
Trên đây là những yếu tố mang tính chất khách quan tác động vào hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới. Bên cạnh đó, các yếu tố
như cơ cấu đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý, điển hình là những đối tác trên
thế giới có vị thế chưa xứng đáng trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, lĩnh
vực sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý dẫn đến có nhiều ngành
còn nhỏ lẻ, hình thức đầu tư chưa thực sự đa dạng.
3. Sự tác động của tư do hoá thương mại ASEAN đến dòng lưu
chuyển FDI vào Việt Nam
Việc tham gia vào AFTA sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư trực tiệp nước
ngoài vào Việt Nam. Đối với các nhà đầu tư ngoài AFTA , Việt Nam có nhiều
lợi thế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đồng thời , nguyên tắc xuất
xứ hàng hoá của AFTA có yêu cầu thập hơn so với yêu cầu của các khu vực
mậu dich tự do khác cho nên tham gia vào AFTA còn tạo điêù kiện để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư sản xuất ở các nước trong AFTA và tiêu
thụ sản phẩm ở các nước khác sẽ tạo động lực thu hút mạnh hơn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài . Các nhà đầu tư trong AFTA sẽ chú ý nhiều hơn đến
viêc di chuyển một số ngành sản xuất sang Việt Nam do các nước này đang
mất dần lợi thế và lao động rẻ. Đồng thời Việt Nam đang có mục tiêu tạo
nhiều việc làm cho người lao động ,do đó , việc di chuyển các cơ sở sản xuất
từ các nước sang Việt Nam sử dụng nhiều lao động rất phù hợp voứi chiến
lược phát triển của Việt Nam .
21
Hơn nữa, thế mạnh của các nước trong viêc đầu tư ra nước ngoài không
phải ở các ngành công nghiệp có công nghệ cao , thậm chí cũng không phảI
ở lĩnh vực công nghệ chế biên quy mô lớn .Các nước này cũng đang cạnh
tranh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Vì vậy , hoạt động đầu tư của các
nước trong AFTA sang Viêt Nam sẽ tiếp tục tăng ở các hoạt động dịch vụ ,
thương mại ,công nghệ chế biến vừa và nhỏ .
Ngoài ra, việc tham gia vào AFTA còn tác động đến việc hình thành và
phát triển thị trường tài chính –tiền tệ , mở rộng các hoạt động dịch vụ và
nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước.
22
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI
VÀO VIỆT NAM TRONG ĐIÊU KIỆN THỰC HIỆN AFTA
1. Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam
Để xác định phương hướng cho hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam
trong thời gian tới, bên cạnh những khó khăn, thuận lợi do tự do hóa thương
mại trong ASEAN đem lại, tình hình thế giới cũng cho thấy lượng FDI trên
thế giới sẽ có sự suy giảm lớn, đặc biệt khó khăn hơn cho Việt Nam là hầu hết
các dự báo đều cho thấy rằng luồng FDI trên thế giới vẫn chưa coi ASEAN
nói chung và Việt Nam nói riêng là một điểm đến trên quy mô lớn như
ASEAN đã từng được xem xét như vậy từ trước cuộc khủng hoảng năm 1997.
Trước tình hình như vậy, việc tìm ra những giải pháp tăng cường thu hút FDI
vào Việt Nam đòi hỏi phải phát huy nhiều yếu tố tích cực, hạn chế đến mức
tối đa mọi sự cản trở, đồng thời cần phải kêu gọi sự nỗ lực từ nhiều ngành,
nhiều cấp, nhiều thành phần trong việc đẩy mạnh thu hút FDI vào Việt Nam
trong những năm tới đây.
Trong tiến trình tự do hóa thương mại ASEAN, kết hợp với những
nhận định về sự di chuyển của dòng FDI trên thế giới, có thể thấy việc thu hút
FDI vào Việt Nam sẽ phải được xem xét, ưu tiên phân tách theo 2 nguồn: FDI
từ các nước ASEAN và FDI từ các nước ngoài ASEAN để từ đó có các đối
sách thích hợp với mỗi nguồn FDI, và cũng trên cơ sở đó tìm ra những quan
điểm mới, hiệu quả trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam không
chỉ với các nước ASEAN mà còn đối với cả các nước ngoài ASEAN.
Đối với luồng vốn từ ASEAN đổ vào Việt Nam, theo như những phân
tích trước, dựa trên thế lợi so sánh sẵn có, Việt Nam có thể định hướng và kêu
gọi các nhà đầu tư ASEAN chuyển giao công nghệ và đầu tư vào các lĩnh vực
nông nghiệp, chế biến nông lâm, hải sản. Với vị trí địa lý và nguồn lực về lao
động, tự nhiên dồi dào, Việt Nam có đủ cơ sở để hướng nguồn FDI trong
ASEAN vào Việt Nam, biến Việt Nam trở thành quốc gia cung cấp các sản
23
phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản cho khu vực cũng như cho thế giới. Điều
này là hoàn toàn có cơ sở bởi vì các nước ASEAN phát triển hơn như
Singapore, Malaysia, Thái Lan hiện đang có chiến lược thay đổi cơ cấu sản
xuất lớn. Họ muốn tập trung nhiều hơn cho hệ thống tài chính, công nghiệp
nặng và các ngành công nghệ cao. Chính vì vậy, Việt Nam có thể định hướng
thu hút FDI vào những ngành công nghiệp chế biến và có sử dụng nhiều lao
động.
Trong tương quan về lợi thế so sánh, hoạt động thương mại và đầu tư
của Việt Nam với các quốc gia trong ASEAN, Việt Nam có thể định hướng
luồng FDI ngoài ASEAN vào Việt Nam trong một số lĩnh vực như: công
nghiệp dệt may – kể cả việc thiết kế mẫu mốt; công nghiệp vật liệu mới – mặc
dù là lĩnh vực công nghệ cao, song đây cũng là lĩnh vực mới đối với ASEAN.
Hơn nữa, Việt Nam cũng đã có một đội ngũ các nhà khoa học – kỹ thuật cơ
bản cũng như ứng dụng được đào tạo khá tốt từ Liên Xô vào Đông Âu trước
kia và hiện nay có thể đáp ứng cho ngành công nghiệp chế tạo vật liệu mới.
Thành công trong lĩnh vực này, giá trị gia tăng sẽ rất cao, vì vậy chính phủ
nên có ưu đãi đặc biệt cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, các ngành thép, cao su… phục vụ cho công nghiệp sản xuất
ôtô, xe máy… cũng có thể tính đến trong định hướng thu hút FDI vào Việt
Nam. Bởi đây là những ngành có thể phát huy thế mạnh của Việt Nam đồng
thời có khả năng đem lại giá trị gia tăng cao cho Việt Nam. Mặc dù hiện tại,
trình độ sản xuất cũng như cơ sở cho phát triển của ngành công nghiệp ôtô -
xe máy của Thái Lan, Malaysia hơn Việt Nam. Song thị trường ASEAN còn
lớn, bên cạnh đó Việt Nam còn có thể tính đến thị trường Trung Quốc với
những lợi thế về địa lý và hệ thống giao thông. Và trên hết là lộ trình AFTA
cho ngành này còn dài, Việt Nam còn có đủ thời gian chuẩn bị để có thể hy
vọng là một cực quan trọng trong sản xuất ôtô - xe máy cho thị trường
ASEAN. Tuy nhiên để đạt được những thành công như mong muốn thì Việt
Nam rất cần có những chính sách và giải pháp thích hợp để không biến những
24
trợ cấp thành gánh nặng, thành sức ỳ và cản trở sự phát triển của ngành công
nghiệp này.
Trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam rất
quan tâm tới lĩnh vực điện tử – tin học. Cũng giống như ngành công nghiệp
ôtô - xe máy, Việt Nam đi sau các nước ASEAN phát triển khác. Tuy nhiên
đây là lĩnh vực công nghệ cao, sự thành công phụ thuộc rất nhiều vào những
nghiên cứu mới có tính đột phá và yếu tố con người ở đây rất quan trọng. Yếu
tố con người (cả khía cạnh quản lý) ở đây đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng. Xét về khía cạnh này Việt Nam có đầy đủ khả năng để sánh vai với các
quốc gia trong khu vực. Thực tế trong năm 2002 Việt Nam đã đạt nhiều giải
thưởng trong lĩnh vực này tại các cuộc thi quốc tế và khu vực. Việt Nam có
thể tính đếnmột chiến lược hợp tác với các quốc gia phát triển, và có thể với
cả các quốc gia đang phát triển nhưng rất thành công trong lĩnh vực này
(Trung Quốc, Ấn Độ) thì những hy vọng về hiện tượng “sao đổi ngôi” là hoàn
toàn có thể tin cậy để các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên. Muốn vậy, cần
nghiên cứu những chính sách đặc biệt cho thu hút FDI vào lĩnh vực này.
Trên cơ sở những định hướng thu hút FDI đã đề cập ở trên, đồng thời
với những đánh giá về những tác động của AFTA đối với luồng FDI tại Việt
Nam và tình hình thực tế của các luồng đầu tư trên thế giới, nội dung tiếp theo
đây của luận án cố gắng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút
FDI vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực.
Các giải pháp đưa ra thường xuất phát từ những yếu kém tổng thể của
môi trường thu hút FDI vào Việt Nam và những tác động của AFTA đối với
luồng FDI này. Do vậy, các giải pháp đã được sắp xếp theo hai nhóm: nhóm
giải pháp liên quan đến chính sách theo đòi hỏi của AFTA và nhóm giải pháp
nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện Việt
Nam thực hiện AFTA.
Trong định hướng thu hút FDI vào Việt Nam, cũng cần xem xét đến
những nghị định và tuyên bố gần đây của chính phủ liên quan đến các vấn đề
25
thu hút FDI vào Việt Nam. Ngày 28/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết 09/2001/NQ-CP về việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu
tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Song song với đó là chỉ thị 19/2001/CT-
TTg về thực hiện nghị quyết này. Ngày 17/5/2002 Thủ tướng chính phủ ra
quyết định 62/2002/QĐ-TTg ban hành Danh mục các dự án này bao gồm các
dự án trọng điểm cần gọi vốn đầu tư nước ngoài cho các lĩnh vực kinh tế để
triển khai thực hiện cả trong thời kỳ này và thời kỳ tiếp theo. Đây là những dự
án đầu tư trong bước đi ban đầu hướng tới mục tiêu: năm 2020 Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp. Trong đó, công nghiệp dầu khí có 5 dự
án; Công nghiệp khai khoáng có 15 dự án; công nghiệp hóa chất – phân bón
có 29 dự án, phần lớn dự án cần vốn đầu tư từ 100 USD trở lên; công nghiệp
thép có 5 dự án, mỗi dự án cần đầu tư hàng trăm triệu USD; công nghiệp cơ
khí có 29 dự án; công nghiệp điện - điện tử có 12 dự án; công nghiệp giấy có
3 dự án; công nghiệp vật liệu xây dựng có 10 dự án; công nghiệp may 15 dự
án; công nghiệp da giầy 2 dự án và một số dự án ở các ngành công nghiệp
khác.
Chỉ điểm qua từng ấy dự án, phần lớn đều là những dự án có quy mô
vốn đầu tư khá lớn, chưa nói tới hàng trăm dự án trong các ngành nông – lâm
– thuỷ sản và chế biến thực phẩm, giao thông vận tải, viễn thông, xây dựng,
cơ sở hạ tầng, văn hóa – y tế- giáo dục và du lịch dịch vụ … ta đã thấy số vốn
FDI cần huy động là rất lớn. Trên thực tế 2 năm 2001, 2002 Việt Nam mới
chỉ thu hút được hơn 3,8 tỷ USD vốn đăng ký mới. Đặc biệt đáng quan tâm là
chỉ có một con số nhỏ dự án “trung đích” của danh mục đã nêu. Rõ ràng là
nhiệm vụ thu hút FDI trong thời gian tới là rất nặng nề.
Cuối năm 2002, Bộ kế hoạch và đầu tư đã trình Chính phủ một đề án về
đẩy mạnh thu hút FDI thời kỳ 2002-2005. Nội dung chính của đề án đề cập
đến việc tăng cường thu hút FDI để Việt Nam trở thành một trong những
trung tâm của khu vực về sản xuất điện tử, cơ khí chế tạo và kiến nghị chính
phủ xem xét khả năng nới lỏng các điều kiện và mở rộng lĩnh vực thu hút đầu
26
tư, trước hết là mở rộng lĩnh vực được khuyến khích và ưu đãi đầu tư. Ngoài
việc đưa ra quan điểm chính thức đối với các lĩnh vực hiện đang tạm dừng hoặc
hạn chế cấp giấy phép, Đề án còn cung cấp các giải pháp để thúc đẩy đầu tư
nước ngoài tham gia vào thị trường bất động sản, vui chơi giải trí, kinh doanh
siêu thị, nới lỏng một số lĩnh vực đầu tư có điều kiện như dự án trồng rừng, du
lịch lữ hành, văn hóa, dịch vụ phân phối, mở rộng thêm một số lĩnh vực khuyến
khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư.
Trong hội nghị doanh nghiệp Châu á thường niên lần thứ 13 tại Hà Nội,
Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải cho biết: ưu tiên hàng đầu của Việt
Nam là tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của Nhà nước chuyển mạnh
từ kiểm soát và cấp phép sang trợ giúp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tạo
lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch và an toàn để các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài đều tìm được cơ hội và thu lợi xứng đáng. Đó là
những thông điệp tốt lành cho một cơ chế thông thoáng và thuận lợi cho việc
thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI thời gian tới.
2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điều
kiện thực hiện AFTA
2.1. Nhóm giải pháp thích ứng với đòi hỏi của AFTA
2.1.1. Cải thiện môi trường pháp luật và thủ tục hành chính
Tham gia AFTA cũng có nghĩa là các quốc gia ASEAN phải tạo thuận
lợi hóa cho hoạt động thươngmại. Chỉ riêng khía cạnh này thôi thì các quy
định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng đã phải có sự điều chỉnh cho
phù hợp và thống nhất trong toàn khu vực và đơn giản hóa thủ tục cho lưu
chuyển hàng hóa trong khu vực. Theo đòi hỏi trên, thì những quy định về luật
pháp và thủ tục hành chính cũng sẽ phải điều chỉnh, tạo thuận lợi tối đa cho
các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh đồng bộ rõ ràng vừamang tính ổn định vừa mang tính linh hoạt
27
trong thời gian dài để nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư cả trong nước
cũng như nước ngoài, bổ sung các luật mới như luật về cạnh tranh, bảo hiểm,
thị trường chứng khoán… tạo môi trường bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài.
Như vậy Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và thủ tục
cấp giấy phép đầu tư để tránh phiền hà, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho nhà
đầu tư. Tạo chủ trương “một cửa, một dấu” chứ không phải là “một cửa,
nhiều khóa”. Thêm vào đó cần phải xóa bỏ các ràng buộc các nhà đầu tư về
việc phải xác định rõ một địa điểm đầu tư nhất định ngay từ đầu, mà cứ xét
duyệt dự án sau đó để nhà đầu tư tự tìm địa điểm xây dựng, triển khai và báo
cáo lại. Các cơ quan quản lý Nhà nứoc chỉ nên cần báo cáo lại chứ không nhất
thiết phải phê duyệt lại mỗi khi dự án có thay đổi. Như đã phân tích ở trên
việc liên doanh của Việt Nam lại chủ yếu với doanh nghiệp Nhà nước và có
sự phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, do đó cần thiết phải đa dạng hóa và
khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia hợp tác liên doanh liên
kết với các đối tác nước ngoài và tiến tới cho phép các khu vực kinh tế được
bình đẳng khi tham gia liên doanh, làm ăn với nước ngoài.
Việc hoàn thiện luật pháp và cải cách các thủ tục hành chính được nhấn
mạnh – mặc dù đây không còn là một vấn đề mới đối với Việt Nam và các
nhà nghiên cứu, song nó có tầm quan trọng bởi:
Thứ nhất, nó giải quyết những bất cập trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra
một môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng và thuận lợi tối đa cho các nhà
đầu tư. Bởi như đã phân tích, do cạnh tranh trong thu hút FDI thời gian tới là
rất lớn, đồng thời với những khó khăn và thách thức lớn trong quá trình tham
gia AFTA, nếu chính phủ không có những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực
này thì sẽ cónguy cơ luồng FDI chuyển sang các nước khác trong ASEAN.
Kinh nghiệm này ở trong nước thời gian qua đã cho một kiểm chứng rất rõ
ràng. Khi mà thị trường trong nước là thống nhất với các doanh nghiệp ở tất
cả các tỉnh thành thì địa phong nào trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư, địa
28
phương nào đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện tối đa cho các nhà đầu tư thì
địa phương đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Từ thực tế trong nước
cũng sẽ thấy ngay khi hội nhập AFTA thì vấn đề môi trường luật pháp và thủ
tục hành chính là quan trọng đến mức nào.
Thứ hai, việc cải cách thủ tục hành chính và môi trường luật pháp cũng
là một điều kiện cần thiết chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế - thương
mại trong khu vực, nhằm tạo ra sự đồng nhất và thuận lợi cho các nhà doanh
nghiệp Việt Nam cũng như các nhà doanh nghiệp đến từ ASEAN. Trên cơ sở
đó, sẽ tăng cường và củng cố thêm các quan hệ thương mại và đầu tư nội bộ
ASEAN, phát huy những điểm mạnh về tính thống nhất trong cùng một khu
vực mậu dịch tự do.
2.1.2. Hỗ trợ những ngành có tiềm năng phát triển và chịu sức ép
của AFTA
Theo phân tích trong những nội dung trên, Việt Nam sẽ có một số
ngành mà lợi thế so sánh hiện ẫn chỉ ở dạng tiềm năng, song khi thực thi
AFTA thì sẽ có nguy cơ chuyển sang các nước khác trong ASEAN theo sơ đồ
chuyên môn hóa sản xuất trong khu vực dưới tác động của AFTA. Đặc biệt
Việt Nam phải hết sức chú trọng tới một số ngành mà hiện Chính phủ đang
rất mong muốn phát triển trong chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước như một số ngành: điện tử tin học; thép; ngành cơ khí… Những
ngành này, nếu Chính phủ không có những giải pháp hỗ trợ tích cực và hiệu
quả thì sẽ rất khó có thê thu hút thêm FDI để phát triển. Bởi thời gian được
bảo hộ của những ngànhnày không còn nhiều. Lợi thế duy nhất của Việt Nam
trong những ngành này hiện nay dường như vẫn chỉ là lực lượng lao động rồi
rào, rẻ và tiếp thu nhanh công nghệ mới. Song các nước trong khu vực, đặc
biệt là ASEAN 4 đã đi trước Việt Nam trong những ngành này và hiện nay họ
đang có ưu thế về tài chính, khả năng quản lý, và đặc biệt là công nghệ sản
xuất.
29
Ví dụ: trong ngành điện tử tin học, hiện Việt Nam chủ yếu là thực hiện
các công đoạn lắp ráp. Trong khi đó, các nước ASEAN 4 đã tiến hành sản
xuất được khá nhiều linh kiện cho ngành này. Như vậy, rõ ràng là họ có ưu
thế hơn Việt Nam trong việc hướng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sang
nước họ để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất linh kiện tiến tới sản xuất toàn bộ các
sản phẩm này tại đất nước họ. Và nếu điều kiện này thực sự xảy ra thì Việt
Nam kể như đã mất cơ hội để phát triển toàn diện một ngành sản xuất quan
trọng đối với đất nước không chỉ về mặt hiệu quả kinh tế mà ngành này đem
lại, mà còn là những vấn đề về công nghệ, an ninh,… Cũng với những lập
luận như vậy, thì e rằng Việt Nam nếu cố gắng như hiện nay, may ra cũng chỉ
được tiếp tục thực hiện các công việc lắp ráp sản phẩm.
Bởi vậy, ngay từ bây giờ, Chính phủ cần nhanh chóng có những giai
pháp mạnh mẽ hơn nữa nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây
dựng những cơ sở ban đầu cho những ngành này, đồng thời biến nhưng lợi
thế tiềm năng thành hiện thực để có thể tiếp tục thu hút FDI vào những ngành
này ngay cả sau khi đã kết thúc lịch trình thực hiện CEPT. Muốn vậy, cần
thiết phải huy động nỗ lực của nhiều ngành, nhiều cấp để cùng hỗ trợ về
chính sách, tài chính, tổ chức và cả việc xúc tiến đầu tư, … để nhanh chóng
phát triển những ngành mà nguy cơ Việt Nam sẽ để mất trong sơ đồ phân bổ
sản xuất trong khu vực các nước ASEAN.
Đối với một số ngành sản xuát sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao,
giá rẻ, Việt Nam có thể tính tới những chính sách mạnh dạn trong việc
khuyến khích các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam. Bởi hiện nay
Trung Quốc đang rất có lợi thế trong việc sản xuất những sản phẩm này. Mặt
khác, xét về mặt địa lý, giao thông, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một
trung tâm sản xuất mang tính “bàn đạp” để các nhà đầu tư Trung Quốc thâm
nhập thị trường ASEAN khi mà quá trình tự do hóa thương mại ASEAN –
Trung Quốc còn có một đội trễ nhất định so với AFTA. Tuy nhiên, để chớp
được thời cơ thì vấn đề là các chính sách phải được thực hiện nhanh và thật
30
mạnh dạn. Bởi một số nước ASEAN phát triển hơn đang có xu hướng đẩy
nhanh quá trình tự do hóa thương mại với việc thực hiện mở cửa thị trường
theo các hiệp định song phương bên cạnh các hiệp định đa phương – thường
có thời gian và tốc độ mở cửa chậm hơn. Trên thực tế thì Việt Nam vì là nước
kém phát triển trong khối nên hay đòi hỏi thời gian mở cửa thị trường chậm
hơn các nước khác. Và nếu như các hiệp định song phương hay đa phương
hẹp (ASEAN + Trung Quốc) được thực hiện trước thì Việt Nam sẽ mất cơ hội
thu hút FDI phục vụ cho việc tăng cường phát triển những ngành sản xuất phù
hợp với chiến lược công nghiệp hóa của đất nước.
2.2 Nhóm giải pháp tăng cường cạnh tranh thu hút FDI
Trong các nội dung trước ,luân án đã phan tích và khẳng định,hội nhập
AFTA, Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn trong cạnh tranh thu hút FDI so với
các nước ASEAN phát triển khác , đặc biệt là sự thu hút FDI vào kĩnh vực
công nghiệp chủ chốt . Vì vậy , đẻ đẩy mạnh thu hút FDI trong thời gian tới ,
khi Việt Nam đã chính thức hội nhập hoàn toàn với AFTA, thì rất cần đẩy
mạnh một số giảI pháp tăng cường cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam.
2.2.1 Cải cách thị trường tài chính
Để thu hút nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả cả vốn trong nước và
vốn nước ngoài thì một điều cần thiết là phải tạo ra được một thị trường vốn
ổn định, một hệ thống ngân hàng hoàn chỉnh. Muốn vậy, Nhà nước phải
nhanh chóng phát huy vai trò của thị trường chứng khoán, lành mạnh hóa hệ
thống tài chính góp phần chu chuyển vốn từ nước ngoài vào trong nước và
ngược lại được thuận tiện. Như vậy, Nhà nước cần phải soạn thảo và đưa ra
luật thị trường chứng khoán, đào tạo con người có đủ khả năng và trình độ
hoạt động tốt trên thị trường và hệ thống tài chính, nhanh chóng có biện pháp
đẩy nhanh cổ phần hóa các doanh nghiệp. Ngoài ra Chính phủ không nên để
hình thức đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chỉ
trên cơ sở công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này tự lựa chọn
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này tự lựa chọn
31
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay theo hình thức công ty cổ phần.
Như vậy vừa tạo điều kiện tốt cho thị trường chứng khoán ra đời, vừa tăng
thêm vốn bổ sung của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài khi
tham gia đóng gops cổ phần, đồng thời tạo thuận lợi và mở rộng thêm một
kênh nữa cho thu hút FDI. Bởi nếu tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước
ngoài bị khống chế khi mua cổ phần thì thứ nhất nó sẽ hạn chế nguồn đầu tư
của họ, và thứ hai là hình thức này chỉ được coi là đầu tư gián tiếp. Còn nếu
tỷ lệ sở hữu vốn của họ trong các Công ty cổ phần đạt mức khống chế thì họ
sẽ trở thành nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và quyền lợi, trách nhiệm của họ
có thể được thi hành theo luật đầu tư trực tiếo nước ngoài. Như vậy, mức độ
ổn định của đồng vốn có thể sẽ cao hơn, đồng thời đây cũng là một giải pháp
biến các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước trở thành một doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài một cách nhanh chóng. Như vậy thì dòng FDI đổ
vào trong nước lại có nhiều thuận tiện hơn, ít thủ tục rườm rà hơn do họ được
đầu tư qua kênh thị trường chứng khoán – một kênh đầu tư có nhiều triển
vọng thuận lợi, nhanh chóng hơn cách làm “truyền thống”. Bởi các nhà đầu tư
sẽ không phải bận tâm nhiều đến các thủ tục thành lập Công ty, thuê đất, giải
phóng mặt bằng,… những thủ tục mà hiện được coi là gây lãng phí khá nhiều
tiền bạc và thời gian của các nhà đầu tư. Không những thế nó còn ảnh hưởng
đến hình ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam và gây ức chế cho các nhà
đầu tư. Điều này chắc chắn sẽ không có lợi cho Việt Nam nếu tiếp tục kéo
dài. Về mặt tài chính Việt Nam cần có biện pháp để các nhà đầu tư tiếp cận
một cách dễ dàng với nguồn ngoại hối hơn vì ngoại hối chính là dòng máu
nuôi sống hoạt động đầu tư mà một khi khó khăn trong việc tiếp cận sẽ làm
cho dự án không thể hoạt động trong thời gian lâu dài được.
Thêm vào đó là cần xóa bỏ những quy định về việc trả lương cho lao
động Việt Nam bằng ngoại tệ điều đó sẽ làm cho nhà đầu tư giảm được chi
phí, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động. Từ
32
khủng hoảng kinh tế khu vực đã cho thấy cần phải thực hiện một chính sách
về tỷ giá hối đoái sao cho có hiệu quả.
2.2.2. Hoàn thiện hơn các loại hình dịch vụ tư vấn đầu tư
Các nhà đầu tư vẫn phàn nàn về chi phí kinh doanh ở Việt Nam cao,
tiến độ hoạt động trong khu công nghiệp – khu chế xuất còn quá thấp. Do
vậy, Nhà nước nên xem xét và giải quyết những thắc mắc của nhà đầu tư.
Thêm vào đó Nhà nước nên giảm một số lệ phí cũng như tiền thuê đất, mặt
nước, mặt biển, để tăng việc sử dụng diện tích trong các khu công nghiệp –
khu chế xuất để giảm giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trong nước và nước ngoài.
Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan… về các dịch vụ tư vấn đầu tư thiết nghĩ Việt Nam nên hoàn
thiện các loại hình dịch vụ này để tham gia tư vấn cho các nhà đầu tư nước
ngoài cũng như trong nước biết các thông tin về đầu tư như: lĩnh vực nào Nhà
nước cho phép đầu tư, lĩnh vực nào hạn chế và lĩnh vực nào không cho phép
đầu tư. Ngoài ra, còn cung cấp cho các nhà đầu tư biết hiện tại lĩnh vực nào
đang có lợi nhuận, hoặc các thông tin khác về tài chính, thuế, phí… kinh
nghiệm cho thấy các loại hình dịch vụ này ở các nước làm ăn rất hiệu quả,
thúc đẩy hoạt động thu hút đầu tư, cũng như hiệu quả của những đồng vốn bỏ
ra.
Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư thì dịch vụ tư vấn
cần được tổ chức để tăng cường phục vụ thông tin cho các bên hợp doanh cho
Nhà nước để từ đó giảm tối thiểu mức thiệt hại do việc nâng giá công nghệ nâng
giá đất… làm được như vậy sẽ tránh được phần nào tình trạng “lỗ giả, lãi thật”
hiện nay của một bộ phận các doanh nghiệp liên doanh.
Mặt khác, các dịch vụ này cũng sẽ giúp giảm được chi phí cho các nhà
đầu tư, thông qua đó cũng tăng thêm tính hấp dẫn trong thu hút FDI của Việt
Nam.
33
2.2.3. Tạo thuận lợi cho quá trình chuyển quyền sở hữu doanh
nghiệp
Theo báo cáo về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp liên doanh, có rất nhiều
doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ nặng, hoạt động theo kiểu hợp doanh
không có hiệu quả. Vì thế, Nhà nước nên cho phép các doanh nghiệp này
chuyển sang thành các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để tránh hai bên
gìm nhau dẫn đến vốn đầu tư vào không hiệu quả. Thậm chí, nếu có thể, cần
nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp lý cho việc cổ phần hóa các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, trên thế giới hiện tượng xáp nhập, chia tách, mua bán các
công ty là hoạt động bình thường diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Nhờ có
những hoạt động mua bán, chuyển quyền sở hữu này thông qua sự hoạt động
hoàn thiện của thị trường tài chính mằ các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển
nguồn vốn của họ sang lĩnh vực mà họ đã lựa chọn. Nếu Việt Nam không tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc chuyển quyền sở hữu doanh
nghiệp thì ngoài những khó khăn do trục trặc trong quan hệ đối tác giữa các
bên trong liên doanh, sự khó khăn trong chuyển quyền sở hữu vốn sẽ tạo tâm
lý không yên tâm và thoải mái cho các nhà đầu tư khi đem vốn vào Việt Nam.
Điều này sẽ dẫn đến những hệ quả là môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ trở
nên kém hấp dẫn hơn, kém an toàn hơn.
Trong điều kiện của tự do hóa thương mại và đầu tư trong ASEAN,
những khó khăn như trên sẽ là một bất lợi đối với Việt Nam trong cạnh tranh
thu hút FDI đối với các quốc gia trong khu vực. Do vậy, việc thuận lợi hóa
cho các nhà đầu tư chuyển quyền sở hữu vốn cần thực hiện nhanh chóng.
Theo tôi điều này không quá khó và không nên chậm trễ.
2..2.4. Nâng cấp các trục giao thông xuyên quốc gia và châu lục
Ngay nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam bị đánh giá là tồi tàn, yếu kém.
Một số nơi cơ sở hạ tầng được nâng cấp thì sinh ra nhiều khoản phí dẫn đến
34
các nhà đầu tư cảm thấy “nản lòng” không muốn đầu tư. Việc đầu tư cho lĩnh
vực cơ sở hạ tầng là cần thiết cho hoạt động thu hút đầu tư nhưng lại đòi hỏi
một lượng vốn lớn mà chỉ có Nhà nước mới làm được. Do đó, Nhà nước cần
phải tập trung xây dựng và tăng cường việc cho phép bên nước ngoài sử dụng
các hình thức BOT, BTO, BT.. để ngày càn hoàn thiện và xây dựng các công
trình cơ sở hạ tầng mới giúp ích cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt trong điều kiện tự do hóa thương mại, nếu Việt Nam phát huy
lợi thế vị trí địa lý trung tâm, đồng thời với việc nâng cấp các tuyến đường
giao thông quan trọng nối thông với các nước trong khu vực thì sẽ là một tiền
đề tốt để các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn Việt Nam như một cứ điểm sản
xuất và hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Nếu làm được việc này thì Việt Nam
không chỉ là quốc gia cung cấp sản phẩm cuối cùng cho các quốc gia ASEAN
mà còn cho cả các tỉnh phía nam Trung Quốc nữa. Như vậy rõ ràng Việt Nam
lúc này đã trở thànhmột cầu nối cho hàng hóa của ASEAN xuất sang Trung
Quốc. Điều này lại một lần nữa nâng cao vị thế của Việt Nam trong lợi thế
thu hút FDI. Bởi các nhà đầu tư nước ngoài, không chỉ tính đến một thị
trường ASEAN với 500 triệu dân, mà còn cộng thêm với cả hàng triệu dân
vùng Vân Nam Trung Quốc. Rõ ràng giao thông với các tuyến đường xuyên
lục địa sẽ phát huy vai trò địa lý trung tâm của Việt Nam trong khu vực, và
nếu Việt Nam tận dụng được điều đó cho thu hút FDI trong sơ đồ cơ cấu
chuyên môn hóa khu vực với việc thu hút những ngành công nghiệp hoàn
thiện sản phẩm cuối cùng và chế tạo thì Việt Nam sẽ có thể vươn lên như là
một trung tâm kinh tế trong khu vực.
2..2.5. Đài tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức quan trọng trong điều kiện Việt
Nam thực hiện hội nhập khu vực và tiến hành thu hút FDI. Nguồn lao động rẻ
của Việt Nam nếu thực sự khống chế được mức lương thấp so với các quốc gia
trong khu vực thì cũng chỉ nên xem đó chỉ là những lợi thế trước mắt. Những lợi
thế này sẽ nhanh chóng mất đi khi kinh tế Việt Nam phát triển.
35
Mặt khác, các doanh nghiệp FDI đổ vào Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực
sản xuất công nghiệp và công nghệ cao thì nguồn nhân lực được đào tạo tốt
và có tay nghề mới là điều quan trọng. Nếu thiếu đội ngũ lao động được đào
tạo nghề thì việc phát triển các khu công nghiệp quy mô lớn của Việt Nam sẽ
gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt quan trọng hơn, Việt Nam vốn được xem là có
ít lợi thế so với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các quốc gia ASEAN phát
triển hơn trong việc thu hút FDI vào những ngành sản xuất công nghiệp, thì
những khó khăn về nguồn lao động được đào tạo sẽ cản trở lớn đến việc nâng
cao tính cạnh tranh trong thu hút FDI vào Việt Nam.
Giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần tổ chức thêm nhiều loại hình đào
tạo khác nhau để có khả năng đào tạo được một đội ngũ cán bộ có trình độ
cao, có đạo đức kinh doanh gửi vào các doanh nghiệp để tham gia liên doanh
với đối tác nước ngoài. Mặt khác, vấn đề lao động kỹ thuật cũng là một thách
thức cho Việt Nam. Để giảm bớt chi phí đào tạo cũng như những khó khăn
cho các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ nên tìm giải pháp hỗ trợ cho đào
tạo nghề, nhằm cung cấp kịp thời nguồn lao động kỹ thuật, chi phí thấp cho
các doanh nghiệp. Có như vậy, mới tăng thêm tính hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài đến với Việt Nam.
Cũng cần phải lưu ý thêm rằng, đào tạo nguồn lao động có trình độ cao
– sự nghiệp trồng người là một công việc có tính lâu dài, liên tục và kết quả
chỉ đến sau một quá trình đầu tư cho giáo dục, đào tạo trong nhiều năm. Do
vậy, các chương trình đào tạo cần có sự chuẩn bị tốt về nội dung, cơ sở vật
chất phục vụ đào tạo và cần phải được thực hiện khẩn trương nếu Việt Nam
không muốn để mất thêm thời gian hơn nữa cho việc thúc đẩy thu hút FDI,
tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn đối với các quốc gia trong khu vực.
2.2.6. Tăng cường hướng dẫn các doanh nghiệp tìm đối tác
Việc thu hút đầu tư và hiệu quả đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào khả
năng của các doanh nghiệp cũng như hiêụ quả của từng dự án cụ thể. Sự yếu
kém của các doanh nghiệp Việt Nam là nguyên nhân giảm hiệu quả đầu tư
36
cũng như hạn chế vai trò của phía Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Chính vì
vậy, từng doanh nghiệp cần có những giải pháp riêng ở tầm vi mô. Đồng thời
chính phủ cần có sự trợ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm các đối tác một cách
an toàn và thuận lợi.
Trên giác độ của các doanh nghiệp, để có thể tìm được những đối tác
tốt và sẵn sàng đầu tư thì vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tự thể hiện
mình như là một đối tác trong nước đáng tin cậy.
Một vấn đề cần thiết là làm thế nào để tăng tiềm lực của các doanh
nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, trong quá trình cải cách, Việt Nam đã chú ý
đến vấn đề này, tuy vậy vẫn còn không ít những khó khăn đặt ra như: chủ
trương thành lập các tổng Công ty để tăng tiềm lực thực tế của doanh nghiệp
Việt Nam nhưng rõ ràng tổng Công ty không phải là một phương thức màu
nhiệm. Bởi lẽ đó mới chỉ là sự tập hợp lại của một hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước có vốn chưa phải là mạnh, mà vốn này chủ yếu do Nhà nước “rót”
xuống nó chưa chứng minh được hiệu ủa hoạt động thực sự của các tổng
Công ty này. Mặt khác, cơ chế quản lý và vấn đề chịu trách nhiệm, liên quan
đến quyền và lợi ích của người quản lý tổng Công ty còn chưa rõ ràng và
không đủ cao, do vậy khó có thể mong đợi một kết quả hoạt động hiệu quả có
tính đột biến đối với các Tổng Công ty này.
Công việc đầu tiên là các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị sẵn cho
mình một đội ngũ lao động am hiểu về các hoạt động của hợp tác kinh doanh
quốc tế. Sẵn sàng và có đầy đủ tự tin cũng như năng lực trong hợp tác với các
đối tác nước ngoài.
Thứ hai, các doanh nghiệp khi tiếp xúc và tìm đối tác, kêu gọi đầu tư
thì cần chuẩn bị và nghiên cứu sẵn các phương án hợp tác cũng như xây dựng
các dựán để kêu gọi đầu tư và tìm đối tác. Có như vậy, các doanh nghiệp mới
có thể tạo được lòng tin từ phía các đối tác cũng như đẩy nhanh tiến độ hợp
tác và góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện hội
nhập AFTA và cạnh tranh trong thu hút FDI, chiếm lợi thế trong quá trình phân
37
bố sản xuất trên toàn khu vực ASEAN thì bất kỳ một nỗ lực nào, dù là nhỏ nhất
cũng đều là đáng quý, đó có thể sẽ là những điểm mấu chốt, những đòn quyết
định để các doanh nghiệp Việt Nam có thể lôi kéo đối tác về phía mình và tăng
thêm lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam.
Thứ ba, trong điều kiện hội nhập AFTA, khi mà các điều kiện về kinh
doanh và đầu tư được tạo thuận lợi, thì ngoài việc chú ý, cạnh tranh trong thu
hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngoài khu vực đổ vào trong nước thì ans
đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải cócác phương án tìm hiểu và hợp
tácnhằm thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư từ chính các doanh nghiệp trong
ASEAN đổ vào Việt Nam. Bởi thời gian qua cho thấy, chính các doanh
nghiệp ASEAN mới là những doanh nghiệp có nhiều dự án và vốn đầu tư đổ
vào Việt Nam nhiêù nhất. Một vài năm gần đây, do những khó khăn nhất thời
của khủng hoảng tài chính - kinh tế trong khu vực gây ra nên nguồn FDI từ
khu vực này đổ vào Việt Nam có phần giảm sút. Song trong tương lai thì
nguồn FDI từ khu vực này vẫn sẽ là quan trọng đối với Việt Nam. Mặt khác,
khi hợp tác với các doanh nghiệp trong khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn, bởi nhờ những thuận lợi ở tầm vĩ mô được
tạo ra nhờ quá trình hội nhập trong khu vực đem lại, thì các chi phí cần có cho
việc xúc tiến hợp tác như chi phí giao thông, liên lạc,… cũng sẽ rẻ hơn so với
việc tìm kiếm đối tác tại những thị trường xa xôi. Một lợi thế nữa cũng có thể
kể đến đó là các doanh nghiệp ASEAN dễ hội nhập với môi trường kinh doanh
tại Việt Nam hơn nhờ sự gần gũi về văn hóa – xã hội, đây cũng có thể được
xem như một yếu tố thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam tính đến trong
việc tìm kiếm đối tác thu hút FDI.
Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam có thể liên doanh, hợp tác cùng với
các tập đoàn lớn của ASEAN để cùng đàm phán phân chia việc lựa chọn các
địa điểm đầu tư sản xuất trong sơ đồ phân bố chuyên môn hóa trong khu vực.
Thông qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể cùng chia sẻ “miếng bánh”
FDI với các doanh nghiệp khác trong ASEAN. Ví dụ: trong công nghiệp chế
38
tạo ôtô, Việt Nam khong nhất thiết phải đầu tư phát triển bằng được các công
đoạn từ A đến Z cho sản xuất ôtô. Đây là một vấn đề cực kỳ khó khăn bởi dù
ít hay nhiều Việt Nam cũng đi sau các quốc gia ASEAN phát triển khác như
Thái Lan, Malaysia, … Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ tập
trung nguồn lực, chuyên sâu vào sản xuất một số chi tiết cho ôtô, biến ngành
công nghiệp ôtô trở thành một ngành công nghiệp mang tầm cỡ ASEAN chứ
không chỉ là ở tầm quốc gia. Có như vậy, mới phát huy hết tác dụng của tự do
hóa thương mại trong khu vực và nâng cao hiệu quả của đầu tư, sản xuất
trong những ngành mà đòi hỏi cả vốn đầu tư cũng như thị trường đều lớn.
39
KẾT LUẬN
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành biện pháp quan trọng
trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước
nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia. Nhu cầu đầu tư càng trở nên bức
thiết trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế
hiện nay. Sẽ không có sự hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bảm và công
nghệ giữa các nước trong khu vực và thế giới. Đối với các nước đang phát
triển đó có Việt Nam thì đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế.
Việt Nam tiến hành xây dựng CNXH xuất phát từ điểm rất thấp, nền
kinh tế trong tình trạng lạc hậu, thu nhập quốc dân theo đầu người vào dạng
thấp nhất thế giới.
Do đó việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bên cạnh
những thuận lợi thì vẫn còn những khó khăn, việc này đòi hỏi Đảng và Nhà
nước ta phải có những biện pháp hết sức cụ thể để đưa con tàu Việt Nam đi
đúng hướng phù hợp với xu thế và bắt kịp với sự phát triển chung của toàn
thế giới.
40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vụ quản lý các dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Adam Smith (1997) của cải của các dân tộc. NXB Giáo dục
3. Thuý Anh (2000) tự do hóa thương mại và những vấn đề đặt ra.
Tạp chí Thông tin lý luận số 8 /2000
4. Bộ Kế hoạch và đầu tự Vụ quản lý dự án Tổng hợp đầu tư nước ngoài
ngày 7/1/2003.
5. Chỉ thị 19/2001/CT-TTg về thực hiện nghị quyết 9/01/NQ-CP
6. Tập san đặc biệt thời báo kinh tế 2002 – 2003.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000). Định hướng phát triển kinh tế xã hội 5
năm (2001-2005) Hà Nội.
8. Tạp chí Thông tin Kinh tế – Xã hội tháng 1/2004.
9. Tạp chí Kinh tế và dự báo số10/2004
10. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 315 tháng 8/2004.
11. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay 3/1998
12. Đầu tư trựctiếp của các Công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển
HVQHQT – CTQG96.
13. Công ty xuyên Quốc gia của các nền kinh tế chuyên nghiệp mới ở Châu Á.
Hoàng Thị Bích Lan CTQG 2002.
14. Quan hệ kinh tế Đại học Luật
15. Hỏi đáp kinh tế ASEAN Trần Thanh Hải
NXB TG Hà Nội 2000
16. Hội nhập AFTA
17. Liên kết kinh tế ASEAN Tạp chí Cộng sản số 31/2003.
18. Thực trạng Liên kết kinh tế ASEAN
Tạp chí cộng sản số 34/2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Quan điểm và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong ASEAN.pdf