Chuyên đề Nghiên cứu các kênh huy động vốn

Tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu các kênh huy động vốn: Giới thiệu chung về đề tài. 1. Tính cấp thiết của đề tài. Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng sống còn, quyết định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực của công ty càng lớn, nó tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các quyết định đầu tư, trong các dự án đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới… Với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội thì với vị trí là một công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực xây lắp điện và cung ứng các thiết bị ngành điện thì đó là một vấn đề rất quan trọng. Vì công ty mới được thành lập và đi vào hoạt động được bảy năm nên công ty gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động như thị trường của công ty còn khá nhỏ bé, trong công ty các kế hoạch sản xuất, kế hoạch chung cho cả công ty còn chưa có hay đơn thuần đó chỉ là những bản kế hoạch được xây dựng trong ngắn hạn chưa có được sự nghiên cứu tỷ mỉ… ...

docx57 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu các kênh huy động vốn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu chung về đề tài. 1. Tính cấp thiết của đề tài. Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng sống còn, quyết định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực của công ty càng lớn, nó tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các quyết định đầu tư, trong các dự án đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới… Với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội thì với vị trí là một công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực xây lắp điện và cung ứng các thiết bị ngành điện thì đó là một vấn đề rất quan trọng. Vì công ty mới được thành lập và đi vào hoạt động được bảy năm nên công ty gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động như thị trường của công ty còn khá nhỏ bé, trong công ty các kế hoạch sản xuất, kế hoạch chung cho cả công ty còn chưa có hay đơn thuần đó chỉ là những bản kế hoạch được xây dựng trong ngắn hạn chưa có được sự nghiên cứu tỷ mỉ… Hay vấn đề nhân sự trong công ty khi mà công ty chưa có được đội ngũ nhân viên có trình độ đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh… Nhưng đó chưa phải là vấn đề khó khăn nhất của công ty khi mà vấn đề khó khăn nhất của công ty chính là khả năng huy động vốn cho các hoạt động của mình. Vì nguồn vốn của công ty còn eo hẹp do vậy mà khả năng mở rộng thị trường bị hạn chế, khả năng trang bị máy móc thiết bị cũng bị giới hạn, chưa có được nguồn kinh phí cho công tác xây dựng kế hoạch… Sở dĩ công ty gặp nhiều khó khăn như vậy là do những nguyên nhân sau. Vì công ty mới đi vào hoạt động lại là công ty có quy mô nhỏ do vậy mà doanh thu và lợi nhuận của công ty còn nhỏ điều này đã hạn chế khả năng tích luỹ vốn của công ty. Vì công ty muốn tích luỹ vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì cần phải có được lợi nhuận lớn để có thể tích luỹ vốn. Trong khi đó thì lợi nhuận của công ty không phải chỉ được dùng vào việc tích luỹ vốn mà còn được dùng để chia cổ tức cho các cổ đông, lập các quỹ dự phòng… do vậy mà khả năng tích luỹ vốn từ phần lợi nhuận để lại của công ty là bị hạn chế. Mặc dù công ty cũng có các kênh huy động vốn khác như đi vay tín dụng thương mại từ các đối tác. Mặc dù đây là một kênh huy động vốn hiệu quả nhưng nó lại bị hạn chế vì phụ thuộc vào quy mô vốn của công ty nên phần vốn mà công ty có thể huy động được từ đây vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động. Một kênh huy động vốn khác mà công ty đã tiếp cận là vay tín dụng ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn có tiềm năng khi mà lượng vốn vay từ đây có thể có số lượng lớn nhưng nó lại chịu nhiều rằng buộc khi mà muốn vay được tiền từ ngân hàng hay các tổ chức tài chính thì phải đáp ứng được các điều kiện rằng buộc như có tài sản thế chấp hay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải ổn định và có hiệu quả. Do vậy mà kênh huy động vốn này công ty tuy đã tiếp cận nhưng vẫn còn có nhiều rào cản. Đó là những kênh huy động vốn mà công ty hiện nay đang tiếp cận. Mặc dù từ những kênh huy động vốn này mà công ty đã huy động được một số lượng vốn nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho các hoạt động trong công ty. Qua tìm hiểu tại công ty và các công ty khác em thấy rằng công ty còn có thể tiếp cận được với nhiều kênh huy động vốn khác hay là mở rộng kênh huy động vốn hiện tại. Do vậy mà em đi vào nghiên cứu các kênh huy động vốn khác mà công ty còn chưa tiếp cận nhằm tìm ra được kênh huy động vốn phù hợp với công ty. 2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài. Vì đề tài của tôi là nghiên cứu về các kênh khai thác huy động vốn mà công ty hiện đang tiếp cận cũng như những kênh huy động mà công ty vẫn còn bỏ ngỏ chưa tiếp cận vì vậy mà mục đích nghiên cứu chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu làm rõ những kênh huy động vốn mà công ty hiện đang tiếp cận. Để từ đó đi sâu phân tích những thuận lợi của các kênh huy động vốn này. Vai trò của từng kênh trong hoạt hoạt động khai thác vốn của công ty nói chung, xem trong các kênh huy động vốn đó thì kênh nào là quan trọng nhất, huy động được nhiều vốn nhất để từ đó sẽ tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ kênh huy động vốn đó và thêm vào đó còn tìm hiểu những khó khăn, nhược điểm của những kênh huy động hiện tại, xem các kênh huy động vốn hiện nay có những khó khăn gì trong việc huy động để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó để từ đó mà nâng cao được hiệu quả huy động vốn của các kênh huy động vốn cũng như là của hoạt động huy động huy động vốn nói chung của công ty. Thêm vào đó ngoài việc tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn mà công ty đang áp dụng thì tôi còn đi vào tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn khác mà công ty vẫn còn chưa áp dụng tìm hiểu những ưu điểm và nhược điểm của từng kênh huy động vốn cũng như là tìm hiểu kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác trong việc áp dụng những kênh huy động vốn mà doanh nghiệp chưa áp dụng từ đó phân tích xem với điều kiện hiện tại của công ty thì nên áp dụng kênh huy động vốn nào là hợp lý nhất, phù hợp với công ty nhất. Có như vậy thì sau khi nghiên cứu xong đề tài mới có thể đề xuất với công ty phương án huy động vốn từ kênh mới là hiệu quả nhất, phù hợp nhất với công ty. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này là nó có những ý nghĩa sau đây. Thứ nhất là mong tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ việc khai thác, huy động vốn của các công ty vừa và nhỏ để từ đó mà có thể tìm cách áp dụng những bài học kinh nghiệm đó vào công ty, xem kinh nghiệm nào là phù hợp với công ty nhất, là khả thi với công ty nhất, tránh thực trạng là cứ thấy một hoặc một số công ty khác áp dụng thành công một kênh huy động vốn mới, tạo ra được nhiều vốn cho công ty thì các công ty khác theo sau thấy thế mà áp dụng khi không có sự tìm hiểu nghiên cứu. Điều này là rất nguy hiểm vì điều kiện của các công ty là khác nhau, hoạt động trong những điều kiện khác nhau, trình độ của mỗi công ty là khác nhau cả về trình độ con người cũng như là trình độ công nghệ. Từ đó sẽ dẫn đến thất bại gây thiệt hại cho công ty. Vì vậy mà cần phải có những nghiên cứu tìm hiểu phân tích trước khi áp dụng. Thứ hai là tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của các kênh huy động vốn hiện tại mà công ty đang áp dụng đề từ đó có những giải pháp để khác phục hay phát huy những điểm yếu điểm mạnh đó. Vì nhiều khi việc mở ra một kênh huy động vốn mới đối với công ty là chưa cần thiết khi mà ta chưa khai thác hết tiềm năng các kênh huy động vốn hiện tại điều đó sẽ gây lãng phí cho công ty vì vậy mà ta phải xem xét kỹ càng các kênh huy động vốn hiện tại của công ty đang áp dụng xem xét tìm hiểu những kênh huy động vốn này liệu đã thực sự khai thác hết tiềm năng hay chưa. Nếu thấy tiềm năng của kênh huy động vốn vẫn còn thì tại sao không tiếp tục khai thác, hoặc tìm hiểu xem tại sao ta chưa khai thác hết tiềm năng để từ đó đề ra những giải pháp để khai thác hết tiềm năng của những kênh huy động vốn này. Còn nếu sau khi xem xét thấy rằng các kênh huy động vốn hiện tại ta đã khai thác hết tiềm năng rồi không còn có thể mở rộng hơn được nữa thì từ đó ta mới có phương án cân nhắc xem xét đến việc mở ra một kênh huy động vốn mới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Trong bài nghiên cứu này thì do tôi đang thực hiện nghiên cứu để áp dụng cho một công ty vừa và nhỏ do vậy mà đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở đây sẽ là các phương pháp huy động vốn ở các công ty vừa và nhỏ. Bao gồm các kênh huy động vốn mà họ áp dụng, giải pháp để họ có thể thực hiện đối với từng kênh huy động vốn… Thêm vào đó cũng có thể tìm hiểu phương pháp huy động vốn của một số công ty lớn. Vì khi nghiên cứu phương pháp huy động vốn của các công ty vừa và nhỏ có cùng điều kiện về quy mô như của công ty mình thì từ đó sẽ dễ dàng hơn cho việc áp dụng các kinh nghiệm của những công ty này vào cho công ty mình, nó sẽ phù hợp hơn nhiều so với việc áp dụng kinh nghiệm từ các công ty lớn. Còn việc nghiên cứu những kênh huy động vốn của các công ty lớn cũng như những giải pháp mà họ áp dụng để thực hiện ở đây chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với công ty. Phạm vi nghiên cứu ở đây là các công ty vừa và nhỏ trong khu vực thành phố Hà Nội. Vì hiện nay công ty đang hoạt động chủ yếu ở thị trường Hà Nội và một số tỉnh thành phía bắc, thêm vào đó thì do khó khăn trong quá trình nghiên cứu mà tôi chỉ tập trung nghiên cứu các công ty vừa và nhỏ trong phạm vi thành phố Hà Nội. 4. Phương pháp nghiên cứu. Ở đây do đề tài nghiên cứu là tìm hiểu về những phương thức huy động vốn, các kênh huy động vốn mà các công ty vừa và nhỏ áp dụng do vậy mà phương pháp nghiên cứu chủ yếu của tôi là. Phân tích những kênh huy động vốn mà công ty hiện nay đang áp dụng để từ đó tìm ra những thuận lợi khó khăn của những kênh huy động vốn này. Và còn phân tích những kênh huy động vốn khác mà công ty chưa áp dụng tìm ra những khó khăn thuận lợi của những kênh huy động vốn này. Từ những phân tích đó mà có những đánh giá về những kênh huy động huy động vốn này xem các kênh huy động vốn này có ưu điểm và nhược điểm gì để từ đó có thể áp dụng vào công ty hay không. Thêm vào đó còn sử dụng phương pháp điều tra thống kê những kinh nghiệm của các công ty vừa và nhỏ khác. 5. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được. Với đề tài nghiên cứu này thì tôi mong đợi kết quả dự kiến đạt được sẽ là tìm ra được một, một số kênh huy động vốn mới phù hợp với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội. Và từ đó đề xuất những giải pháp hợp lý để có thể áp dụng thành công các kênh huy động vốn mới này. 6. Bố cục đề tài. Bài viết được chia thành ba phần. Phần một: Giới thiệu chung về đề tài. Phần hai: Nội dung đề tài Chương I: Những vấn đề lý luận chung về vốn trong hoạt động của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp. Chương III: Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của doanh nghiệp. Phần ba: Kết luận và kiến nghị. Nội dung đề tài. Chương I Những vấn đề lý luận chung về vốn trong hoạt động của doanh nghiệp. 1. Khái niệm và phân loại vốn. Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay không chỉ bao gồm giá trị của tiền nói chung mà vốn ở đây còn bao gồm cả vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… Nếu hiểu theo nghĩa rộng hơn thì vốn ở đay còn có thể bao gồm cả vốn con người theo đó thì vai trò của con người ngày càng trở lên quan trọng đặc biệt là khi chúng ta sắp bước vào nền kinh tế tri thức một nền kinh tế phát triển thì theo đó chất xám con người là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và quý giá nhiều khi vốn bằng tiền tệ cũng chưa sánh được so với nguồn vốn con người, vốn tri thức. Nhưng trong đề tài này thì tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu phân tích về vồn theo nghĩa hẹp là vốn tiền tệ và vật chất. Vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp một cách đơn giản nhất thì vốn là toàn bộ giá trị của tiền và vật chất được ứng ra ban đầu và quá trình tiếp theo để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng như trên đã nói thì ở đây vốn cũng có rất nhiều loại bao gồm vốn vật chất và vốn tri thức. Hay như bên trong doanh nghiệp thì vốn cũng có bao gồm hai loại vốn chính là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hoặc cũng có thể phân thành vốn cố định và vốn lưu động. Theo cách phân loại về nguồn hình thành thì bao gồm. Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình hình thành doanh nghiệp và được tích luỹ dần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà thuộc quyền sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu này được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bản thân bên trong vốn chủ sở hữu cũng bao gồm nhiều loại như khấu hao, lợi nhuận để lại, quỹ dự phòng… Theo đó thì lợi nhuận để lại là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ đi chi phí và các khoản khác như phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay là phần lợi nhuận dùng để chia cổ tức cho các cổ đông. Phần lợi nhuận để lại này được doanh nghiệp giữ lại dùng để tiếp tục đầu tư vào quá trính sản xuất kinh doanh trong chu kỳ tiếp theo của quá trình sản xuất, nhằm làm tăng lượng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây cũng là một phần vốn rất quan trọng của doanh nghiệp. Khấu hao là phần giá trị của tài sản cố định mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá trình sản xuất nó là nhà xưởng máy móc, thiết bị, công cụ dụng cụ… phần khấu hao này chính là lượng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Còn quỹ dự phòng đây cũng chính là một phần của khoản lợi nhuận để lại của doanh nghiệp nhưng phần vốn này không được dùng để đầu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất mà thay vào đó nó được dùng trong những trường hợp đặc biệt như khi có sự sụt giá hay việc kinh doanh bị thua lỗ thì phần quỹ dự phòng này được dùng để bù đắp những thiệt hại do thua lỗ hay do trượt giá gây ra. Vốn đi vay là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ bên ngoài để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Vì không một doanh nghiệp nào có thể hoạt dọng với 100% lượng vốn tự có của mình được mà bao giờ họ cũng có những khoản vốn đi vay để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đi vay này bao gồm rất nhiều nguồn khác nhau như vốn vay tín dụng ngân hàng là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước và phải chịu lãi suất đi vay. Hay vốn vay tín dụng thương mại là lượng vốn mà doanh nghiệp vay của các đối tác kinh doanh như là mua nguyên vật liệu chịu mà chưa thanh toán ngay cho bên đối tác mà hẹn thanh toán sau có thể là sau mỗi chu kỳ kinh doanh hay sau khi bán được hàng… Hay là vốn vay từ phát hành cổ phiếu đây cũng là một hình thức đi vay khác của doanh nghiệp nhưng đây là vay một cách gián tiếp bằng cách phát hành cổ phiếu vì vậy ở đây doanh nghiệp không chỉ vay của các tổ chức tín dụng tài chính mà còn vay của các đối tác, quần chúng nhân dân các nhà đầu tư chứng khoán. Vì khi phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán thì cổ phiếu đó sẽ không chỉ được nhân dân mua, những nhà đầu tư chứng khoán mua mà nó còn có thể được các tổ chức tài chính hay là các đối tác mua. Vốn có được từ việc phát hành trái phiếu theo đó thì lượng vốn mà doanh nghiệp có được là thông qua việc phát hành trái phiếu vay nợ ra thị trường vốn để thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư. Hay là vốn có được từ liên doanh, liên kết theo đó thì doanh nghiệp sẽ có vốn khi tiến hành liên doanh liên kết với bên ngoài. Với hình thức liên doanh liên kết này thì vừa có vốn để hoạt động lại vừa có thể tham gia được vào thị trường mới hay là giảm thiểu rủi ro của doanh nghiệp khi thất bại sẽ không phải chịu tất cả thua lỗ mà có doanh nghiệp khác cùng chia sẻ. Phân loại theo tính chất hoạt động thì có vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định là lượng vốn ứng ra ban đầu để đầu tư vào tài sản cố định như nhà xưởng, máy móc… nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được khấu hao vào từng sản phẩm trong quá trình sản xuất. Vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản lưu thông nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình thường. 2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp. Có thể nói vốn đối với từng doanh nghiệp là rất quan trọng nó quyết định đến sự hoạt động suôn sẻ của doanh nghiệp.Mặc dù để có thể để doanh nghiệp hoạt động một cách suôn sẻ thì cần phải có nhiều yếu tố cùng tham gia vào trong đó vốn là quan trọng, nó được coi như là máu đối với mỗi doanh nghiệp, vì chỉ khi có vốn doanh nghiệp mới có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được. Có vốn doanh nghiệp mới có thể thực hiện các hợp đồng, ký kết các hợp đồng kinh doanh liên kết, có vốn thì doanh nghiệp mới có thể mua sắm trang thiết bị, thay thế các trang thiết bị cũ, đổi mới công nghệ sản xuất, trả lương cho công nhân… Theo đó thì vốn có vai trò quan trọng đối với các hoạt động sau. 2.1. Đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư là hoạt động rất quan trọng thông qua hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở đây có thể là đầu tư vào một dự án kinh doanh mới hay là đầu tư vào mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng nhà xưởng… Nhưng để có thể tiến hành hoạt động đầu tư thì doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn như là dòng máu mang dinh dưỡng đến nuôi cơ thể vậy. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như là hoạt động nhằm làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp, làm tăng quy mô của doanh nghiệp nhờ có hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể lớn mạnh, có thể tham gia được vào nhiều các lĩnh vực kinh doanh khác nhau… Nhưng quyết định đầu tư còn phụ thuộc vào vốn mà doanh nghiệp có. Theo đó thì vốn có những vai trò sau. Quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động sẽ quyết định đến khả năng đầu tư vào dự án kinh doanh của công ty, quyết định đến quy mô của dự án kinh doanh hay phạm vi của dự án. Vì khi công ty muốn quyết định đầu tư vào một hoạt động mới hay một dự án kinh doanh mới thì yêu cầu đầu tiên mà doanh nghiệp cần cân nhắc là lượng vốn cần phải có để đầu tư vào dự án, quy mô của vốn sẽ quyết định đến quy mô của dự án vì ta không thể đầu tư vào một dự án lớn khi mà ta không có đủ vốn cần thiết, nếu như ta cố tình đầu tư thì trong quá trình hoạt động sẽ liên tục xảy ra tình trạng thiếu vốn từ đó sẽ dẫn đến tình trạng dự án sẽ không thể hoạt động suôn sẻ, ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án thậm chí nó còn gây thiệt hại tới doanh nghiệp. Vì vậy khi quyết định đầu tư thì công ty bao giờ cũng cân nhắc tới yếu tố vốn. Thêm vào đó quy mô vốn cũng ảnh hưởng tới phạm vi của dự án. Vốn càng lớn thì dự án đầu tư sẽ có phạm vi càng rộng và ngược lại nếu mà quy mô vốn nhỏ thì phạm vi hoạt động của dự án sẽ thu hẹp từ đó mà ảnh hưởng tới sự thành công của dự án đầu tư. Vì khi mà dự án có quy mô lớn nó sẽ đem đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp có thể thu được doanh thu và lợi nhuận lớn từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp tăng trưởng nhanh hơn, tiềm lực của doanh nghiệp cũng có thể được tăng lên nhưng ngược lại khi quy mô vốn nhỏ dẫn đến quy mô dự án nhỏ không đủ bao phủ thị trường nó sẽ hạn chế khả năng của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường từ đó sẽ có sự cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp. Quy mô vốn cũng sẽ quyết định đến độ dài của dự án đầu tư. Vì có nhiều dự án đầu tư không thể chỉ có đầu tư trong một kỳ sản xuất mà nó còn có thể được đầu tư qua nhiều kỳ kinh doanh. Vì vậy cần phải có lượng vốn lớn, dự án càng lâu thì lượng vốn yêu cầu cần có để đầu tư càng lớn. Nói tóm lại thì quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động có vai trò quyết định đến các dự án đầu tư. Doanh nghiệp nào có quy mô vốn càng lớn thì dự án đầu tư càng có quy mô phạm vi lớn và ngược lại. Tiềm lực vốn mà doanh nghiệp có sẽ quyết định đến khả năng đầu tư của doanh nghiệp như để có thể tham gia vào một lĩnh vực kinh doanh mới hay là mở rộng thị trường hoạt động hiện có thì cần có vốn để có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường. Để có thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới thì doanh nghiệp cần phải tiến hành nhiều công việc như là mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng nhân công hay là tiến hành khảo sát thị trường nhưng để có thể làm được những việc đó thì doanh nghiệp cần có vốn để mua sắm máy móc thiết bị hay thuê nhân công… Đấy là trường hợp doanh nghiệp muốn tự mình tham gia thị trường mới. Hoặc doanh nghiệp có thể tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để cùng tham gia vào thị trường mới, nhưng cho dù là doanh nghiệp liên doanh này hiện đang hoạt động ở thị trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập hay là doanh nghiệp ở thị trường khác thì khi tiến hành liên doanh liên kết thì doanh nghiệp cũng cần phải có vốn đối ứng để tham gia vào liên doanh, vì nếu không có vốn đối ứng chúng ta sẽ không thể tiến hành liên doanh được, quy mô vốn góp của mỗi bên sẽ quyết định đến vai trò của doanh nghiệp trong liên doanh này, doanh nghiệp có quy mô vốn càng lớn thì càng có vai trò quyết định, vai trò lớn. Vì vậy mà tiềm lực vốn của doanh nghiệp sẽ quyết định đến khả năng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới của doanh nghiệp. Thêm vào đó thì khi doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào thì luôn muốn mở rộng thị trường hoạt động của mình vì khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô của doanh nghiệp càng lớn lên, sức mạnh của doanh nghiệp càng được củng cố… nhưng để có thể mở rộng thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải có đầu tư vào hoạt động xúc tiến thị trường, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh. Vì vậy nếu có tiềm lực vốn lớn doanh nghiệp sẽ có thể có ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường nhờ có vốn mà doanh nghiệp có thể đi trước đầu tư vào công nghệ mới để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường. Nói chung thì với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cho dù đó là đầu tư vào dự án kinh doanh hay là đầu tư để tham gia lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc mở rộng thị trường thì yếu tố vốn là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại của hoạt động đầu tư. 2.2. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn cũng có vai trò quyết định đến, vì hoạt động sản xuất kinh doanh muốn được diễn ra thì cần phải có máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân… Vì vậy cần có vốn để đầu tư vào những nhân tố sản xuất đó. Đồng thời vốn cũng có vai trò quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vòng quay của vốn sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty nếu vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả vì vòng quay của vốn ở đây chính là nói lên vòng quay của sản phẩm khi mà vốn được thu hồi càng nhanh chứng tỏ rằng sản phẩm được sản xuất ra không bị tồn kho mà được tiêu thụ trên thị trường nhờ đó mà vốn không bị ứ đọng mà luôn được luân chuyển nhờ đó sẽ tạo ra được nhiều doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng ngược lại khi mà vòng quay của vốn chậm thì nó sẽ phần nào nói lên thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nó sẽ nói lên những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mà sản phẩm sản xuất ra bị tồn kho không tiêu thụ được. Nhưng vòng quay của vốn dài hay ngắn cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đặc tính của sản phẩm. Vì có nhiều lĩnh vực hoạt động mà cần có đầu tư lớn mà vốn thu hồi có thể kéo dài qua nhiều chu kỳ kinh doanh như ngành xây dựng… thì cần phải đầu tư nhiều mà quá trình xây dựng lại diễn ra dài ngày lên vòng quay vốn của ngành sẽ dài hơn nhưng cũng có những ngành mà trong một chu kỳ sản xuất thì vốn được chu chuyển nhiều lần đặc biệt trong những ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm nên trong những ngành này vốn có vòng quay càng ngắn thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty càng cao. Nhưng nói chung dù trong ngành nào thì nếu có vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì càng có hiệu quả. Quy mô của vốn cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì nếu có quy mô vốn lớn, tiềm lực vốn mạnh thì doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện để trang bị máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nhờ đó mà có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm nhờ đó sẽ tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường cho doanh nghiệp trước các doanh nghiệp khác. Nhờ có vốn mà doanh nghiệp cũng có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn trên thị trường… Vì khi mà có sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hấp dẫn rồi thì vẫn chưa đủ mà thêm vào đó thì khâu xúc tiến thị trường là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành công của sản phẩm nó sẽ góp phần làm cho mọi người biết về sản phẩm để có thể mua sản phẩm. Nhưng để làm được những việc như tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, xúc tiến thị trường thì cần phải có vốn. Nhìn chung thì vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan trọng ngoài yếu tố con người ra thì vốn là rất quan trọng nó quyết định đến hiệu quả hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, nói lên sự hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. 2.3. Đối với việc tăng tài sản của doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp cũng chính là lượng vốn mà doanh nghiệp có, ở đây tài sản chính là biểu hiện về mặt vật chất của vốn. Số lượng tài sản mà doanh nghiệp có cũng nói lên được tiềm lực của doanh nghiệp, nói lên quy mô của doanh nghiệp và trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mà việc tăng tài sản của doanh nghiệp luôn được doanh nghiệp tiến hành qua các kỳ sản xuất kinh doanh, nó được tiến hành thường xuyên liên tục trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng việc tăng tài sản của mỗi doanh nghiệp cũng cần phải có vốn vì tài sản ở đây là trang thiết bị máy móc nhà xưởng… đều cần có vốn. Nguồn vốn sẽ quyết định đến khả năng mua sắm tài sản mới của công ty. Việc mua sắm tài sản mới sẽ góp phần làm tăng tài sản của công ty nhưng để có thể mua được tài sản mới thì công ty cần có được một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp một khi muốn mua sắm thêm tài sản mới để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì điều đầu tiên là phải cân nhắc tới số lượng vốn mà doanh nghiệp hiện có và có thể huy động để mua sắm, việc mua sắm tài sản mới này cũng như là một dự án đầu tư vậy do vậy mà yếu tố vốn có vai trò quyết định đến việc đầu tư mua sắm tài sản mới. Việc mua sắm tài sản để thay thế các tài sản cũ hỏng không thể dùng được nữa cũng thường được diễn ra trong mỗi doanh nghiệp điều này cũng làm ảnh hưởng tới nguồn vốn của doanh nghiệp vì việc mua sắm tài sản để thay thế này cũng cần có vốn để tiến hành. Nói tóm lại dù hoạt động nào trong doanh nghiệp thì cũng cần có vốn để hoạt động, vốn như là dòng máu trong cơ thể để cho công ty có thể hoạt động được suôn sẻ. Vốn có vai trò quan trọng quyết định đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp từ hoạt động đầu tư mua sắm tài sản mới hay là đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mới cũng như các hoạt động thường xuyên là hoạt động sản xuất kinh doanh. 3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Việc huy động vốn trong doanh nghiệp cũng có những khó khăn, thuận lợi nhất định. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm mà việc huy động vốn trong doanh nghiệp có thể được tiến hành thuận lợi hay không. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp. Đó là những nhân tố sau. Quy mô của doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vì thứ nhất nếu quy mô của doanh nghiệp lớn thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ vì khi doanh nghiệp có quy mô lớn điều đo đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn với quy mô lớn doanh thu hàng năm sẽ lớn từ đó dẫn đến việc lợi nhuận để lại sẽ lớn làm cho lượng vốn tíchluỹ qua các năm sẽ lớn hơn trái lại khi mà quy mô doanh nghiệp nhỏ thì ta không thể mong chờ có được một mức doanh thu và lợi nhuận cao để có được tích luỹ vốn lớn đưa vào đầu tư được. Từ đó mà khả năng huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của những doanh nghiệp lớn luon có ưu thế so với các doanh nghiệp nhỏ khác. Mặt khác là doanh nghiệp có quy mô lớn điều đó cũng đồng nghĩa với việc giá trị tài sản mà doanh nghiệp có sẽ lớn hơn so với các công ty vừa và nhỏ đây là một thuận lợi lớn cho các công ty lớn khi đi vay tín dụng ngân hàng vì khi đi vay tín dụng ngân hàng thì bao giờ ngân hàng cũng căn cứ vào giá trị tài sản mà công ty có để cho vay vốn, ta không thể vay vốn với số lượng lớn khi mà phần giá trị tài sản của công ty nhỏ bé. Vì vậy mỗi khi đi vay tín dụng ngân hàng các công ty lớn với giá trị tài sản lớn của mình có thể đem ra thế chấp đêểvay được số lượng vốn lớn cần thiết để cung cấp vốn cho những hoạt động đầu tư của mình nhưng tráilại với các công ty vừa và nhỏ thì việc vay tín dụng ngân hàng một khối lượng vốn lớn là không dễ dàng khi mà giá trị tài sản mà công ty có chưa nhiều nên chưa thể tạo được lòng tin đối với ngân hàng để cho vay. Một điểm mạnh nữa của những doanh nghiệp có quy mô lớn là doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì thường hoạt động trong nhiều lĩnh vực, hoạt động lâu trên thị trường nên có được lòng tin của khách hàng và các đối tác nên họ có thể tiến hành vay tín dụng thương mại từ các đối tác cũng trở lên dễ dàng. Họ có thể thoả thuận với bên đối tác kể cả bên cung cấp và bên phân phối cho vay những khoản vay tín dụng thương mại một cách dễ dàng hơn điều đó sẽ tạo lợi thế cho họ trong việc huy động vốn. Một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cũng có thuận lợi hơn các công ty vừa và nhỏ khác trong việc vay vốn từ kênh huy động vốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu vì muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ra thị trường thì điều đầu tiên cần phải đáp ứng được là quy mô vốn của doanh nghiệp phải đủ lớn để có thể phát hành trái phiếu nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì cũng đảm bảo lòng tin đối với những nhà đâầutư khi mà các công ty lớn định phát hành trái phiếu, rõ ràng khi phải lựa chọn giữa hai loại trái phiếu thứ nhất là của một công ty vừa và nhỏ và một bên là của một công ty lớn thì chúng ta thường có xu hướng chọn trai phiếu của doanh nghiệp có quy mô lớn tất nhiên sự lựa chọn này còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như là uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp… Với doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì nguồn quỹ dự phòng mà công ty có chắc chắn cũng sẽ lớn điều đó thuận lợi cho doanh nghiệp khi muốn huy động vốn từ nguồn này khi mà doanh nghiệp thiếu vốn họ có thể tạm thời dùng nguồn vốn của quỹ dự phòng này để bù đắp vào chỗ thiếu và đến cuối kỳ sẽ hoàn trả vào. Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới khả năng huy động vôn của doanh nghiệp chính là lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận cao, thị trường lớn và ổn định thì khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn. Đúng vậy khi mà hai doanh nghiệp có cùng quy mô thì yếu tố lĩnh vực hoạt động sẽ quyết định đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp rõ ràng là công ty nào đang hoạt động trong những ngành mà có lợi nhuận cao, những ngành hấp dẫn thì sẽ thu hút được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm từ đó mà dẫn đến khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn còn trái lại doanh nghiệp doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực mà lợi nhuận thấp, chi phí cao thì việc thu hút vốn, thu hút các nhà đầu tư thường là khó khăn hơn. Thêm vào đó thì việc hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh mới là một ưu thế lớn cho các doanh nghiệp khi thu hút đầu tư, vì khi một ngành mới xuất hiện chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia vào nên thị trường còn rất lớn do vậy mà doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếmlĩnh thị trường từ đó mà có được doanh thu và lợi nhuận lớn, dễ dàng huy động vốn từ nội bộ. Đến khi các công ty khác bắt đầu quan tâm vào lĩnh vực mới này thì doanh nghiệp đã nắm chắc được thị trường từ đó tạo được ưu thế trước các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh, dễ dàng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp hay tiến hành liên doanh góp vốn với doanh nghiệp… lĩnh vực hoạt động ở đây cũng liên quan đến thị trường hoạt động và những nhà cung ứng đối tác cho doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà một lĩnh vực hoạt động có thị trường rộng lớn, tiềm năng thì khả năng thu hút vốn đầu tư vào đó là cao hơn rất nhiều khi mà ta hoạt động trong một ngành mà thị trường nhỏ hẹp không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư nên khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Còn việc các nhà cung ứng đối tác cũng quan trọng vì nó quyết định đến các khoản vay tín dụng thương mại của doanh nghiệp. Một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp chính là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp đang hoạt động tốt, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều đối với những doanh nghiệp làm ăn đình đốn. Khi mà doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả điều đó đồng nghĩa với việc vòng quay của vốn được rút ngắn, vốn không bị ứ đọng làm cho vốn liên tục được đầu tư tiếp tục làm tăng giá trị đồng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc doanh thu và lợi nhuân của công ty sẽ lớn làm cho phần lợi nhuận để lại của công ty lớn thi fsẽ dạo được nhiều tích luỹ hơn cho doanh nghiệp, tao lên số lượng vốn chủ sở hữu được gia tăng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì uy tín của doanh nghiệp càng lớn càng thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, chú ý từ đó sẽ dễ dàng hơn khi mà kêu gọi các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, khi mà hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì việc đi vay tín dụng ngân hàng và vay tín dụng thương mại cũng trở lên dễ dàng hơn vì khi sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao tạo được lòng tin đối với những nhà cho vay từ đó mà dễ dàng huy động vốn vào để đầu tư vào những dự án kinh doanh của mình. Còn trái lại khi mà sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả, vốn bị ứ đọng không lưu thông được thì doanh nghiệp khó có khả năng huy động vốn lớn vì không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư, không tạo được niềm tin về khả năng thanh toán tới những nhà cho vay do vậy mà khó khăn hơn khi đi vay. Uy tín của doanh nghiệp cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà doanh nghiệp có được uy tín trên thị trường tạo được niềm tin đối với khách hàng và đối tác, các nhà đầu tư thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi thu hút đầu tư thu hút vốn. Uy tín của doanh nghiệp nhiều khi còn quan trọng hơn cả hiệu quả sản xuất kinh doanh hay quy mô của doanh nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là sự biểu hiện tại những thời điểm nhất định, không doanh nghiệp nào là có thể hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao trong suốt thời gian dài cả, nhưng uy tín của doanh nghiệp thì khác nó được xây dựng qua nhiều giai đoạn, phải được tạo dựng rất lâu vì vậy mà uy tín của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp huy động vốn. Khi mà doanh nghiệp có uy tín lớn thì việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu ra thị trường tài chính thì sẽ được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu tư trước những doanh nghiệp khác chưa có uy tín, hay uy tín còn chưa nhiều. Uy tín của doanh nghiệp như là một tài sản vô hình, nó được xây dựng qua thời gian, qua quá trình hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường, nó như là thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường. Một nhân tố nữa ảnh hưởng tớikhả năng huy động vốn của doanh nghiệp chính là tình hình thị trường. Rõ ràng khi mà thị trường ổn định không có biến động, khủng hoảng thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ tốt hơn nhiều khi mà tình hình thị trường biến động hay trở lên xấu đi. Khi mà tình hình thị trường phát triển ổn định thì các nhà đầu tư sẽ mở rộng đầu tư quan tâm nhiều đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp cũng như bản thân doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp sẽ dễ dàng huy động vốn từ các nhà đầu tư, kêu gọi vốn từ thị trường, vay vốn của các đối tác, nhưng mà khi thị trường diễn biến xấu đi, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp từ đó các nhà đầu tư sẽ thu hẹp đầu tư dẫn đến việc huy động vốn của doanh nghiệp sẽ không thể được diễn ra một cách dễ dàng khi mà doanh nghiệp cũng sẽ phải thu hẹp hoạt động, doanh thu và lợi nhuận giảm xuống là cho nguồn vốn nội bộ cũng sẽ giảm theo khiến cho khả năng huy động vốn bị ảnh hưởng. Một nhân tố nữa ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp đó là cớ chế chính sách của nhà nước. Khi mà nhà nước có chính sách thông thoáng, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường vốn. Vì rõ ràng dù doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hay nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nào… thì đều hoạt động trong khuôn khổ cơ chế chính sách của nhà nước vì vậy mà cơ chế chính sách của nhà nước là yếu tố rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp có thể phát triển được hay không. Mỗi một cơ chế chính sách mà nhà nước đưa ra đều có ảnh hưởng nhất định tới doanh nghiệp. Khi mà chính sách đó đưa ra hợp lý, phù hợp với thị trường, phù hợp với tiến trình phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, khuyến khích được các doanh nghiệp phát triển. Đặc biệt là những chính sách về thị trường tài chính và tiền tệ, chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp… nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới doanh nghiệp, khi mà chính sách này phù hợp nó sẽ khuyến khích được doanh nghiệp phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Nhưng khi mà những chính sách này đưa ra không phù hợp, hạn chế thị trường, hạn chế khả năng phát triển của doanh nghiệp thì nó sẽ làm cho doanh nghiệp không thể phát triển được khiến cho khả năng huy động vốn của doanh nghiệp bị hạn chế, doanh nghiệp không thể phát triển được. Nói tóm lại có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Nó có thể là nhân tố khách quan hay chủ quan nhưng cho dù nó là từ phía nào thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể mà có tác động khác nhau tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, có thể nó tạo thuận lợi trong lúc này nhưng lại gây khó khăn trong lúc khác vấn đề là doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với từng điều kiện nhất định, tận dụng những thuận lợi mà các nhân tố này mang lại vào doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà có giải pháp huy động vốn cho hiệu quả. 4. Các tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp. Có rất nhiều tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp nhưng trong bài viết này tôi xin nêu ra hai tiêu chí để đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp đó là. Khả năng thanh toán hiện hành là mối quan hệ giữa tài sản lưu động doanh nghiệp đối với nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động của công ty. Những biện pháp cơ bản nhằm cải thiện chỉ tiêu này phải nhằm vào việc gia tăng nguồn vốn ổn định (vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn) thay cho các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, đây chỉ là chỉ tiêu phản ánh một cách khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và mang tính chất hình thức. Bởi vì, một khi tài sản của công ty lớn hơn nợ ngắn hạn cũng chưa chắc tài sản lưu động của công ty đủ đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngăn hạn nếu như tài sản này luân chuyên chậm, chăng hạn như tồn kho ứ đọng không tiêu thụ được, các khoản phải thu ứ đọng không thu tiền được. Vì vậy khi phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo của tài sản lưu động ta cần phân tích chất lượng của các yếu tố tài sản lưu động của công ty qua các chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân, vòng quay hàng tồn kho. Khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ Nợ ngắn hạn Giá trị khả năng thanh toán hiện hành phải ≥ 1, nếu không thì doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, hệ số này phụ thuộc vào đặc tính của mỗi ngành. Giá trị tối ưu của tỷ số khả năng thanh toán hiện hành theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế là từ 2 – 2,5. Khả năng thanh toán nhanh là tỷ lệ được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho tổng nợ ngắn hạn. Nó cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho). Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Tồn kho Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng doanh nghiệp có thể thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn, căn cứ vào những tài sản lưu động có khả năng chuyển thành tiền một cách nhanh chóng. Không có cơ sở để yêu cầu chỉ tiêu này phải lớn hơn 1 vì trong các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ đến hạn ngay thì mới có nhu cầu thanh toán nhanh, những khoản chưa đến hạn chưa có nhu cầu thanh toán ngay. 5. Các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận. 5.1. Kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp. Có rất nhiều kênh huy động vốn cho doanh nghiệp nó có thể là từ nội bộ doanh nghiệp hay là đi vay bên ngoài nhưng cho dù nó có nguồn gốc ở đâu thì doanh nghiệp đều phải có những giải pháp để huy động sao cho hiệu quả. Trong đó kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp là một kênh huy động vốn mà được các doanh nghiệp thường xuyên áp dụng. Trong kênh huy động vốn này nó bao gồm các nguồn sau đây. 5.1.1. Lợi nhuận để lại của công ty. Lợi nhuận để lại chính là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ sản xuất, sau khi đã trừ đi phần chi phí sản xuất, thuế thu nhập doanh nghiệp, phần chia cổ tức… Đây là một trong các nguồn vốn nội bộ quan trọng nhất. Lợi nhuận để lại dùng để tái đầu tư vào việc thay thế và đầu tư mới vào máy móc thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, tuy nhiên để có nguồn vốn này các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Lợi nhuận để lại của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận để lại của doanh nghiệp có thể là lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế và lợi nhuận để lại. Tự tài trợ bằng lợi nhuận để lại là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận để lại sẽ làm giảm bớt tiền lãi cổ phần (cổ tức) của các cổ đông nhưng bù lại họ có quyền sở hữu cổ phần tăng lên của công ty. Chính vì vậy mà việc huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của công ty có những ưu điểm sau đây. Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ lợi nhuận để lại của công ty là việc huy động vốn từ phần lợi nhuận để lại của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn lợi nhuận để lại này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu… Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn lợi nhuận để lại này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ… Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì phần vốn từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp này là thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, nên khi doanh nghiệp quyết định đưa nó vào đầu tư cho quá trình sản xuất có sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, tăng tài sản cho doanh nghiệp nhờ đó sẽ làm tăng quyền sở hữu cổ phần của công ty với những công ty là công ty cổ phần. Nhưng bên cạnh những ưu điểm đó thì nguồn vốn được huy động từ lợi nhuận để lại cũng có những nhược điểm nhất định đó là. Thứ nhất là do phần lợi nhuận để lại này hay là nguồn vốn huy động từ nguồn này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do vậy mà khi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không tốt thì nguồn vốn huy động sẽ không nhiều. Bên cạnh đó nó còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì doanh thu và lợi nhuận sẽ lớn vì vậy nguồn vốn huy động được sẽ lớn còn ngược lại khi mà quy mô doanh nghiệp nhỏ thì nguồn vốn huy động từ nguồn này là không nhiều. Thứ hai là nó sẽ làm giảm lãi cổ phần chia cho các cổ đông. Vì khi mà ta quyết định dùng phần lợi nhuận để lại này để tái đầu tư vào quá trình tiếp theo nó sẽ ảnh hưởng tới lãi cổ phần của các cổ đông, phần lợi nhuận này càng được huy động nhiều vào đầu tư sẽ càng làm giảm lãi cổ phần của các cổ đông nên có thể sẽ gặp phải sự phản đối của các cổ đông. 5.1.2. Vốn dự phòng. Đây là phần vốn chủ sở hữu được tích luỹ từ lợi nhuận để chi trả các khoản thua lỗ có thể của doanh nghiệp hoặc dự phòng giảm giá tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi… Việc huy động vốn từ nguồn quỹ dự phòng này có những ưu điểm sau. Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ quỹ dự phòng của công ty là việc huy động vốn từ phần quỹ dự phòng của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn quỹ dự phòng này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu… Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn quỹ dự phòng này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ… Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm như là khối lượng huy động được từ nguồn này phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp vì doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì quỹ dự phòng sẽ nhiều trong khi với những doanh nghiệp nhỏ thì nguồn vốn này có thể không nhiều. Một nhược điểm nữa là khi dùng quỹ dự phòng vào làm vốn kinh doanh khi xảy ra giảm giá hoặc kinh doanh thua lỗ ta sẽ không có nguồn để bù đắp. 5.1.3. Khấu hao. Khấu hao là việc sử dụng tài sản cố định vào quá trình sản xuất, việc tính khấu hao tuỳ thuộc vào từng công ty. Trong đó có nhiều cách tính khấu hao như. Khấu hao đều là hình thức khấu hao bằng cách phân bổ chi phí mua sắm theo thời gian sử dụng tài sản cố định. Chi phí khấu hao được xác định bằng cách chia giá trị sổ sách của tài sản cho thời gian sử dụng tài sản cố định. Cách khấu hao này tạo ra chi phí khấu hao cố định và bình quân theo thời gian. Khấu hao nhanh có thể giúp cho doanh nghiệp sớm khôi phục tài sản cố định. Theo phương pháp này, doanh nghiệp sẽ trích khấu hao nhiều vào các năm đầu sử dụng tài sản, sau đó chi phí khấu hao giảm dần cho những năm kế tiếp. Với đặc tính đó thì việc huy động vốn từ nguồn khấu hao có những ưu điểm sau. Thứ nhất việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp sớm thu hồi được tài sản cố định. Vì khi doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nhanh thì giá trị tài sản cố định trong những năm đầu của quá trình sản xuất nhờ vậy mà trong thời gian ngắn thì doanh nghiệp có thể thu hồi được lượng vốn đã bỏ ra để mua sắm tài sản cố định, mặt khác khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được những thiệt hại do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra. Nhất là đối với máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất khi mà hiện nay khoa học công nghệ thay đổi diễn ra từng ngày thì máy móc thiết bị rất nhanh bị lạc hậu, lỗi thời và mất giá trị do vậy mà việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp không những thu hồi được tài sản cố định sớm mà còn tránh được những rủi ro từ việc thay đổi công nghệ gây ra. Một ưu điểm nữa của phương thức huy động vốn từ nguồn khấu hao này là tiết kiệm đầu tư thay thế tài sản hao mòn và đầu tư mới khác. Vì khi tài sản để lâu thì không thể tránh được những hao mòn do cả vô hình và hao mòn hữu hình gây ra vì vậy mà khi ta huy động vốn từ nguồn khấu hao tức là khấu hao nhanh sẽ giúp rút ngắn thời gian thu hồi vốn, giảm được những hao mòn vô ích do thời gian gây ra nhờ vậy mà tiết kiệm được khoản tiền đầu tư bù đắp những hao mòn. Bên cạnh những ưu điểm đó thì phương thức huy động vốn này cũng có những nhược điểm nhất định. Đó là việc tính khấu hao quá nhanh sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì khi tính khấu hao quá nhanh tức là phần giá trị của tài sản cố định khi chuyển hoá vào giá thành sản phẩm sẽ tăng lên do vậy mà làm tăng giá thành sản phẩm từ đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh về giá cho sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó mà sẽ ảnh hưởng tới thì trường và doanh thu của doanh nghiệp. 5.1.4. Tăng vốn. Tăng vốn là việc tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng cách huy động vốn từ các cổ đông cũ và mới. Việc tăng vốn này của doanh nghiệp không thể diễn ra thường xuyên được vì ta không thể lúc nào cũng kêu gọi các cổ đông đóng góp thêm vốn như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các cổ đông trong công ty. Mặt khác khi huy động thêm vốn mới từ các cổ đông mới cũng sẽ gặp phải khó khăn khi mà thêm cổ đông điều đó đồng nghĩa với việc làm giảm cổ tức của các cổ đông cũ. Tuy nhiên việc huy động vốn từ việc huy đông vốn góp của các cổ đông có những ưu điểm sau. Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ việc huy động vốn của các cổ đông cũ và mới của công ty là việc huy động vốn từ nguồn này của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn huy động thêm này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu… Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn huy động sự góp vốn của các cổ đông này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ… Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì phần vốn từ tăng vốn này là vốn của doanh nghiệp do vậy mà nó làm tăng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên nó có những nhược điểm sau. Không phải lúc nào cũng có thể huy động được vì việc huy động vốn từ các cổ đông mới không phải là dễ dàng nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố thứ nhất là cần phải có sự đồng ý của các cổ đông hiên thời của công ty. Rõ ràng khi mà kêu gọi thêm cổ đông mới gia nhập vào công ty thì sẽ có sự tranh chấp về quyền lợi giữa các cổ đông cũ và mới khi mà phải xác định phương thức chia cổ tức cho các cổ đông cũ và mới sao cho hợp lý, bên cạnh đó còn có sự xung đột về quyền lãnh đạo trong công ty giữa các cổ đông vì vậy mà việc kêu gọi thêm các cổ đông mới vào công ty cần có sự nhất trí của các cổ đông cũ. Thêm vào đó là việc muốn kêu gọi cổ đông mới gia nhập vào công ty thì ngoài sự đồng ý của hội đồng cổ đông ra còn có điều kiện nữa là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải tốt. Khi mà công ty có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt thì mới có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, họ mới có thể tham gia vào công ty. Ngược lại khi mà công ty hoạt động không tốt thì không dễ để kêu gọi đầu tư. Một nhược điểm khác của phương thức này là việc tăng vốn bằng việc kêu gọi cổ đông mới vào sẽ làm giảm lãi cổ tức chia cho các cổ đông. Thêm vào đó là việc kêu gọi các cổ đông cũ đóng góp thêm vốn không phải lúc nào cũng làm được ngay cả khi công ty đang hoạt đông tốt và có nhu cầu mở rộng. 5.2. Kênh huy động vốn từ bên ngoài. Ngoài kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì kênh huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp là rất quan trọng vì khi mà nguồn vốn từ nội bộ đã bị hạn chế, bó hẹp không thể phát triển thêm được nữa thì kênh huy động vốn từ bên ngoài này là lối thoát tốt cho mỗi doanh nghiệp khi mà muốn huy động thêm vốn đầu tư vào các dự án đầu tư của mình theo đó thì kênh huy động vốn bên ngoài này bao gồm các kênh chủ yếu sau đây. 5.2.1. Phát hành cổ phiếu. Là việc doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính. Việc phát hành cổ phiếu này có thể là doanh nghiệp mới phát hành lần đầu lên thị trường chứng khoán hoặc là phát hành thêm cổ phiếu. Khi mà nhu cầu vốn của doanh nghiệp không được đáp ứng bởi nguồn vốn nội bộ, doanh nghiệp có thể thu hút nguồn vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Điều này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Có ba loại cổ phiếu: cổ phiếu có tên, cổ phiếu ưu tiên và cổ phiếu phổ thông. Phát hành cổ phiếu sẽ làm giảm sở hữu của các cổ đông hiện tại của công ty cổ phần, do vậy việc phát hành cổ phiếu phải được sự đồng ý của các cổ đông. Việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn có những ưu điểm như là. Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ huy động được lượng vốn lớn. Vì khi mà doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ thu hút được các nhà đầu tư quan tâm mua cổ phiếu của công ty do vậy mà lượng vốn thu được từ việc phát hành cổ phiếu là tương đối lớn. Một ưu điểm nữa của việc phát hành cổ phiếu lá nó sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra bên ngoài cũng gần như việc doanh nghiệp kêu gọi thêm các cổ đông mới góp vốn vào công ty chỉ có điều kháclà những người nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công ty. Nhờ có lượng vốn lớn này mà doanh nghiệp sở hữu thêm được một lượng vốn lớn do vậy mà vốn chủ sở hữu của công ty được tăng lên. Việc phát hành cổ phiếu này vừa làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty vừa giúp cho doanh nghiệp có được vốn để đầu tư vào các dự án kinh doanh hay mua sắm tài sản cố định mới… Vừa làm giảm tranh chấp về quyền lãnh đạo khi mà những nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công ty. Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm sau. Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán dù là phát hành mới hay là phát hành thêm thì nó đều gây tốn kém và mất thời gian. Vì khi muốn phát hành cổ phiếu thì công ty phải tiến hành những khâu chuẩn bị nhất định, tiến hành xin giấy phép với nhà chức trách và cũng phải tiến hành khảo sát thị trường, xem phản ứng của các nhà đầu tư với cổ phiếu của công ty. Do vậy mà nó sẽ gây tốn kém cho công ty. Thêm vào đó nó cũng phải tiến hành lâu dài vì ta không thể tiến hành nhanh chóng được. Một nhược điểm nữa là nó sẽ làm giảm giá trị thị trường của cổ phiếu của công ty với những công ty đã tham gia thị trường chứng khoán thì khi mà phát hành thêm cổ phiếu cũng có nghĩa là làm tăng lượng cung cổ phiếu của công ty nó sẽ rất dễ dẫn đến làm cho các cổ phiếu cũ và những cổ phiếu mới lên sàn bị giảm giá từ đó mà dẫn đến làm cho uy tín của doanh nghiệp bị suy giảm nếu như tình trạng đó kéo dài. Việc phát hành cổ phiếu dù là mới hay là phát hành thêm cũng làm giảm sở hữu của các cổ đông cũ của công ty. Vì khi phát hành cổ phiếu ở đây cũng chính là phần sở hữu của các cổ đông trong công ty giảm xuống và nhường quyền sở hữu đó cho các cổ đông khác. Việc phát hành cổ phiếu thì thường có quy định về mặt pháp lý. Vì nhà nước cần có những chế tài quản lý để tránh những tình trạng các công ty phát hành quá nhiều cổ phiếu trong khi lượng vốn chủ sở hữu không đủ nó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp phải rủi ro khi đầu tư. Vì vậy việc phát hành cổ phiếu này không phải lúc nào công ty cũng có thể tiến hành được. 5.2.2. Góp vốn hiện vật. Là việc tăng vốn cho doanh nghiệp bằng việc tăng lượng vốn bằng hiện vật nhờ sự đóng góp của các cổ đông hoặc đối tác. Đó là việc góp vốn bằng hiện vật như là nhà xưởng, máy móc thiết bị… Nó cho phép doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu sử dụng vốn tức là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp nhưng nó không mang lại phương tiện tiền tệ cho doanh nghiệp. Việc góp vốn hiện vật này có ưu điểm là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải bỏ vốn ra mua. Vì khi mà việc góp vốn bằng hiện vật này là nhà góp vốn đem những tài sản của mình góp vào công ty, và công ty sẽ đánh giá xem phần tài sản đó đáng giá bao nhiêu để từ đó ghi nhận cho người góp vốn. Việc góp vốn bằng hiện vật không những làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp mà nó còn làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng có những nhược điểm là việc góp vốn bằng hiện vật này không làm tăng được vốn lưu động cho doanh nghiệp. 5.2.3. Vay tín dụng ngân hàng. Vay tín dụng ngân hàng chính là việc doanh nghiệp tiến hành đi vay vốn của các tổ chức tài chính tín dụng, mà lượng vốn vay chủ yếu ở đây là vốn lưu động dưới dạng tiền tệ. Vay ngân hàng chính là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vốn vay ngân hàng có thể là vay ngắn hạn dưới một năm thông qua thị trường tiền tệ và vay dài hạn trên một năm thông qua thị trường vốn. Việc sử dụng vốn vay ngân hàng có nhiều ưu điểm. Do các tổ chức tín dụng ngân hàng tài chính là những tổ chức chuyên cho vay tiền tệ nên họ luôn có sẵn những lượng vốn lớn trong công ty do vậy mà họ có thể sẵn sàng cho vay những khoản tiền lớn khi mà doanh nghiệp có nhu cầu chỉ cần doanh nghiệp đáp ứng được với những điều kiện mà các ngân hàng đưa ra. Do vậy đây là ưu điểm lớn nhất của hình thức này. Ưu điểm thứ hai là dễ dàng tiếp cận vì hiện nay hệ thống tài chính tín dụng khá là phát triển khi mà có rất nhiều các ngân hàng cổ phần hoạt động trên thị trường thêm vào đó là cơ chế chính sách khá là thông thoáng do vậy mà tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận kênh huy động vốn này. Với việc thủ tục vay vốn ngân hàng hiện nay đã dễ dàng hơn trước và việc thế chấp cũng dễ dàng hơn. Một ưu điểm nữa là việc vay tín dụng ngân hàng được coi như là một đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên nó có nhiều nhược điểm sau đây. Việc vay tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp phải chịu trả lãi ngân hàng. Vì các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng cũng là những công ty kinh doanh nhưng có điều khác là họ không phải kinh doanh hàng hoá dịch vụ đơn thuần mà là họ kinh doanh tiền tệ do vậy mà lãi suất cho vay chính là giá của sản phẩm mà họ cung cấp. Từ việc phải trả lãi ngân hàng này mà sẽ làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp lên từ đó sẽ làm cho giá thành sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cũng sẽ tăng lên. Vì vậy doanh nghiệp càng đi vay nhiều từ các tổ chức tín dụng ngân hàng thì sẽ không những làm tăng các khoản nợ của mình mà còn sẽ chịu thêm phần chi phí trả lãi ngân hàng từ đó làm giảm lợi nhuận của công ty. Một nhược điểm nữa là việc vay tín dụng ngân hàng này cũng phải chịu những rằng buộc nhất định của các điều kiện cho vay. Vì dù hiên nay cơ chế chính sách cho vay của các ngân hàng đã thông thoáng hơn nhưng các ngân hàng vẫn cần phải có sự đảm bảo do vậy mà khi cho vay các ngân hàng cũng phải đưa ra những điều kiện nhất định trong các khoản vay như là công ty phải trả lãi như thế nào, cơ cấu lại công ty… Một nhược điểm nữa của hình thức này là công ty khi đi vay cũng sẽ phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng. Vì ngân hàng cần có sự bảo đảm cho khoản vốn vay của mình có thể được thanh toán do vậy mà ngân hàng phải kiểm soát lượng vốn cho vay của mình đảm bảo cho số vốn được dùng hiệu quả. 5.2.4. Vay tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên thông qua việc mua bán máy móc, trang thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp. Tác động tích cực của nguồn vốn này là. Nó sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa. Vì hình thức vay tín dụng thương mại là vay của các đối tác, các nhà cung cấp hay là những nhà phân phối do vậy mà lượng vốn vay này chủ yếu là vay vốn lưu đông như là nguyên nhiên vật liệu hay hàng hoá… Ở đây có thể là mua nguyên vật liệu của nhà cung ứng nhưng chưa thanh toán ngay mà hẹn thanh toán sau đây là việc mượn vốn để kinh doanh do vậy mà nó sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa vì như vậy hàng hoá sẽ không bị tồn kho mà thay vào đó thì hàng hóa luôn được tiêu thụ. Vì vậy nó kích thích tiêu dùng hàng hoá không chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả các nhà cung ứng. Bên cạnh đó nó còn đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và lưu thông. Chính là xuất phát từ ưu điểm ở trên mà nó kéo theo ưu điểm này vì khi mà việc tiêu thụ hàng hóa được đẩy nhanh tức là quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra nhanh hơn, rõ ràng khi mà hàng hoá không tiêu thụ được bị tồn kho quá nhiều (loại trừ yếu tố dự trữ) thì quá trình tái sản xuất sẽ không thể được diễn ra nhanh được vì vốn bị ứ đọng do vậy mà quá trình lưu thông vốn cũng được đẩy nhanh khi mà quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục. Môt ưu điểm nữa là nó làm gia tăng vòng chu chuyển vốn. Rõ ràng khi mà hàng hoá được tiêu thụ một cách nhanh chóng, tiêu thụ hàng hóa được thúc đẩy thì quá trình tái sản xuất được diễn ra nhanh hơn do vậy mà việc thu hồi vốn cũng diễn ra nhanh hơn, khi mà quá trình tái sản xuất được rút ngắn đồng nghĩa với việc vòng chu chuyển vốn cũng được rút ngắn do vậy mà sẽ nâng cao được hiệu quả đồng vốn. Thêm môt ưu điểm nữa là nó sẽ nâng cao được hiệu quả đồng vốn. Vì khi mà hàng hóa được thúc đẩy tiêu thụ làm cho quá trình tái sản xuất được rút ngắn, vốn được lưu thông liên tục vòng chu chuyển vốn được rút ngắn, mà một tiêu chí để nói lên tính hiệu quả của đồng vốn chính là vòng chu chuyển vốn. Vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì hiệu quả đồng vốn càng cao và ngược lại. Tuy có nhiều ưu điểm nêu trên nhưng kênh huy động vốn này vẫn có những nhược điểm đó là. Thứ nhất việc vay tín dụng thương mại này bị hạn chế bởi quy mô vốn của doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà quy mô vốn doanh nghiệp càng lớn thì khả năng vay vốn của doanh nghiệp càng cao vì khi ta muốn đi vay thì phải có những điều kiện đảm bảo cho khoản vay đó. Do vậy mà quy mô vốn cũng chính là điều kiện đảm bảo cho việc đi vay. Đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì khoản vay này cũng không thể nhiều được. Thứ hai là kỳ hạn vay thường là kỳ hạn ngắn. Do đây là khoản vay thương mại hay nói cách khác chính là việc doanh nghiệp tiến hành mua chịu hàng hóa, nguyên vật liệu của nhà cung ứng để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của mình do vậy mà nó khác với các khoản vay tín dụng ngân hàng có kỳ hạn dài do vậy mà ta không thể chịu tiền hàng của các đối tác quá lâu được vì các đối tác cũng phải tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Nó cũng chịu sự rằng buộc bởi thời gian của vòng chu chuyển vốn. Vì vòng chu chuyển vốn nói lên vòng quay của sản phẩm, nói lên quá trình tái sản xuất của sản phẩm do vậy mà việc vay tín dụng thương mại không thể kéo dài được vì đây chủ yếu là những khoản vay nguyên vật liệu để phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất. Một nhược điểm nữa là chịu sự rằng buộc của đối tác cho vay. Nói chung thì đây cũng là một điểm chung của các khoản vay vì ta không thể vay mà không chịu sự rằng buộc của người cho vay. 5.2.5. Phát hành trái phiếu. Là việc vay vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu để vay nợ trên thị trường tài chính. Vay thông qua trái phiếu là một hình thức vay dài hạn. Thông thường lãi suất đối với trái phiếu là cố định và lãi suất được ghi trên trái phiếu, ngoài ra còn có trái phiếu với lãi suất thay đổi. Trái phiếu có lãi suất cố định là loại hình trái phiếu doanh nghiệp phổ biến nhất. Để huy động vốn trên thị trường trái phiếu các doanh nghiệp cần phải xem xét mức độ hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp. Mức độ hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp phụ thuộc vào lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu, uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp. Việc phát hành trái phiếu có những ưu điểm sau. Phát hành trái phiếu có thể huy động được lượng vốn lớn khi mà việc phát hành thành công. Vì khi mà doanh nghiệp xác định phát hành trái phiếu doanh nghiệp để vay nợ trên thị trường vốn thì số lượng vốn theo dự kiến thu được sẽ phải lớn. Một ưu điểm nữa của việc phát hành trái phiếu là thời gian vay vôn dài, nó sẽ là một thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng vốn vì không phải lo trả nợ trong quá trình sử dụng vốn và hoạt động. Sở dĩ như vậy là doanh nghiệp cần có thời gian để có thể kinh doanh đảm bảo sinh lợi. Một ưu điểm khác là lãi suất của trái phiếu thường là lãi suất cố định, kéo dài trong suốt kỳ vay do vậy mà tạo lợi thế cho doanh nghiệp khi đi vay. Song nó cũng có những nhược điểm như. Sự hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp phụ thuộc vào lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu uy tín và danh tiếng của công ty, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì việc phát hành trái phiếu có thành công hay không thì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như uy tín và danh tiếng của công ty. Do vậy mà rất khó cho những doanh nghiệp mới tham gia thị trường có thể thâm nhập vào kênh huy động vốn này. Hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả cao do vậy mà không dễ gì thực hiện thành công. Và lãi suất của trái phiếu thường phải cao vì hai lý do thứ nhất là lãi suất phải cao thì mới có thể thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm vào trái phiếu do công ty phát hành và đầu tư vào đó. Thêm nữa là lãi suất phải cao để đảm bảo có thể loại trừ các yếu tố như lạm phát, và lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp cũng thường phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng vì nếu không thì người ta thà gửi tiền vào ngân hàng vừa an toàn lại tiện lợi. Thêm vào đó kỳ hạn của trái phiếu cũng là yếu tố quan trọng nếu kỳ hạn của trái phiếu quá dài sẽ không thu hút được các nhà đầu tư quan tâm nhưng kỳ hạn quá ngắn thì lại không đủ thời gian cho doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thu hồi vốn do vậy mà xác định kỳ hạn bao lâu là hợp lý cũng không phải là vấn đề đơn giản. 5.2.6. Thuê mua. Hiện nay, để đảm bảo mở rộng nhu cầu sản xuất hoặc hiện đại hoá sản xuất, các doanh nghiệp còn có thể lựa chọn hình thức thuê mua. Đây là công cụ tài chính rất hiệu quả được sử dụng ở các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ… rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Việt Nam hình thức thuê mua chưa phổ biến. Thực chất, thuê mua là hợp đồng thuê tài sản cố định có kèm theo các điều kiện đặc biệt liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cố định tại một thời điểm nhất định. Khi hết hạn hợp đồng doanh nghiệp có thể trả lại tài sản cố định cho bên thuê hoặc mua lại tài sản cố định đó. Trong hợp đồng thuê mua thường có ba tác nhân tham gia: Bên đi thuê, ngân hàng và các công ty cho thuê. Hình thức thuê mua mặc dù không làm tăng nguồn vốn, cũng không làm tăng giá trị tài sản cố định, tuy nhiên nó cho phép doanh nghiệp thoả mãn một số nhu cầu về thay đổi năng lực sản xuất. Hình thức thuê mua này có một số ưu điểm sau. Thoả mãn được nhu cầu của công ty trong việc thay đổi năng lực sản xuất. Vì với hình thức thuê mua này thì doanh nghiệp có thể có được quyền sử dụng tài sản cố định như máy móc thiết bị, để nâng cao năng lực sản xuất, thay đổi công nghệ sản xuất từ đó mà có được năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm. Với việc không phải bỏ ra một lượng vốn lớn cùng lúc để mua sắm tài sản cố định mới thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp không phải bị động trong việc huy động vốn. Doanh nghiệp không phải bỏ lượng vốn lớn mà vẫn có được dây chuyền sản xuất mới từ đó mà nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy sản xuất phát triển. Song nó cũng có những nhược điểm là. Cho dù vậy thì mặc dù có được quyền sử dụng tài sản cố định mới này nhưng không làm tăng tổng giá trị tài sản cố định cho doanh nghiệp vì số tài sản cố định này là doanh nghiệp đi thuê. Đồng thời nó cũng không làm tăng vốn lưu động ròng cũng như nguồn vốn cho doanh nghiệp vì bản thân đây không phải là tài sản của doanh nghiệp nên không thể làm tăng nguồn vốn được. Đồng thời với việc đây là tài sản đi thuê nên hàng năm công ty phải trả lãi cho bên cho thuê do vậy mà khiến cho chi phí sản xuất tăng lên làm cho giá thành sản phẩm tăng lên khiến cho khả năng cạnh tranh bị ảnh hưởng. Chương II Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp. 1.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là một công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp các công trình điện và cung cấp các thiết bị ngành điện do vậy mà công ty có hai lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là xây lắp và thương mại. Với mỗi lĩnh vực đều có những đặc thù khác nhau do vậy mà việc phân tích đánh giá cũng khác nhau. Trong mỗi lĩnh vực có những ưu thế riêng. 1.1.Lĩnh vực xây lắp. 1.1.1. Thực trạng thoạt động. Do đặc thù của công ty là hoạt động trong lĩnh vực xây lắp các công trình điện nhưng công ty đã có những bước đi vững chắc trong quá trình hoạt động và đã có được những thành tựu nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thị trường hoạt động của công ty. Mặc dù công ty mới được thành lập từ năm 2000 và đi vào hoạt động chưa lâu nên thị trường kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn nhỏ bé. Bước đầu thị trường hoạt động chủ yếu của công ty là ở thành phố Hà Nội với những công trình điện cho các nhà cao tầng, hay hệ thống điện giao thông, hệ thống điện sinh hoạt nhưng qua từng năm hoạt động thì thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng lên rất nhiều tính đến cuối năm 2006 thì công ty đã mở rộng thị trường ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã thực hiện xây lắp những công trình điện ở các tỉnh như Hải Dương, Thái Nguyên, Bắc Giang… Do vậy mà thị trường đã được mở rộng không ngừng, tới đây công ty đang hy vọng sẽ có thể mở rộng thị trường ra các tỉnh thành phía tây bắc và bắc trung bộ. Với sự mở rông thị trường như vậy hy vọng trong tương lai sẽ có được những thành công đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội. Sở dĩ thị trường được mở rộng như vậy là do sự cố gắng nỗ lực không ngừng của toàn thể ban lãnh đạo công ty cũng như đội ngũ công nhân viên trong công ty. Với việc luôn cố gắng hoàn thành tốt nhất những công trình nhận được tạo niềm tin với khách hàng nhờ đó mà tạo được uy tín trên thị trường không chỉ về tiến độ công trình mà còn cả về chất lượng công trình luôn được đảm bảo. Nhờ có thị trường được mở rộng qua các năm lên doanh thu từ hoạt động xây lắp của công ty cũng luôn không ngừng tăng lên nếu như doanh thu của năm đầu tiên đi vào hoạt động chỉ đạt mức một tỷ đồng thì đến năm 2003 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã đạt đến bốn tỷ đồng và tính đến cuối năm 2006 thì doanh thu đã đạt đến con số 6,5 tỷ đồng. Sở dĩ doanh thu không ngừng tăng lên là do số lượng công trình mà công ty thực hiện đã không ngừng tăng lên nếu như năm đầu tiên công ty chỉ thực hiện có ba công trình lớn và hơn chục công trình nhỏ thì đến năm 2003 số lượng công trình mà công ty thực hiện đã đạt hơn 10 công trình lớn và nhiều công trình nhỏ khác. Tính đến cuối năm 2006 vừa qua thì công ty đã hoàn thành hơn mười công trình lớn và hàng chục công trình nhỏ từ đó đưa doanh thu từ hoạt động xây lắp lên gần bảy tỷ đồng. Cùng với việc doanh thu tăng lên và là lĩnh vực chiếm doanh thu cao nhất của công ty, điều này là dễ hiểu khi mà công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp điện. Cũng nhờ có doanh thu cao mà lợi nhuận từ lĩnh vực này cũng tăng lên rất nhiều chiếm phần lớn lợi nhuận trong công ty. Một phần vì doanh thu cao một phần vì trong quá trình thi công công ty đã cố gắng sáng tạo trong những hạng mục xây lắp để tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, do vậy mà công ty mới đạt được mức lợi nhuận cao. Đơn vị: triệu đồng đơn vị: triệu đồng Cùng với doanh thu và lợi nhuận cao thì số lượng vốn được huy động vào lĩnh vực này cũng không ngừng tăng lên kể cả vốn cố định cũng như vốn lưu động, vốn tự có và vốn đi vay. Việc số lượng vốn không ngừng được đẩy vào hoạt động nói lên được phần nào sức phát triển của công ty. Số lượng vốn được huy động vào lĩnh vực xây lắp tăng từ 500 triệu năm 2000 lên đến 3,5 tỷ đồng vào năm 2006. Sở dĩ công ty có thể huy động được lượng vốn lớn như vậy là do thứ nhất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty luôn ở mức cao do vậy mà tạo được thuận lợi rất lớn cho kênh huy động vốn từ phần lợi nhuận để lại, thêm vào đó doanh nghiệp cũng có quan hệ tốt đối với các nhà cung ứng do vậy mà việc vay tín dụng thương mại của công ty với các đối tác cung có phần thuận lợi và việc vay vốn ngân hàng cũng có một số điểm thuận lợi khi mà hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt tạo niềm tin cho ngân hàng. Đơn vị: Triệu đồng 1.1.2. Đánh giá. Từ thực trạng hoạt động của công ty trong những năm qua trong lĩnh vực xây lắp cho thấy một số thành tựu cũng như một số mặt chưa đạt được để từ đó có những giải pháp để phát huy điểm mạnh và khắc phục khó khăn. Thành tựu của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở lĩnh vực xây lắp là doanh thu từ hoạt động này luôn đạt ở mức cao và luôn chiếm phần lớn trong doanh thu hoạt động của công ty, phần nào tạo được niềm tin đối với tương lai của công ty nhờ có doanh thu cao mà lợi nhuận từ hoạt động cũng luôn đạt ở mức cao từ đó góp phần tích luỹ vốn cho công ty trong những năm tiếp theo. Thị trường hoạt động của công ty cũng không ngừng được phát triển, khi mà ban đầu thị trường hoạt động chủ yếu của công ty là ở Hà Nội thì đến nay thị trường đã mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc. Chất lượng các công trình mà công ty thực hiện cũng luôn được đảm bảo do vậy mà uy tín của công ty đã được nâng lên rất nhiều. Tuy nhiên công ty cũng còn những hạn chế khó khăn trong quá trình hoạt động đó là. Tuy rằng thị trường đã được mở rộng ra các tỉnh thành phía bắc song trong một lĩnh vực hoạt động là ngành xây lắp điện thì thị trường đó vẫn còn nhỏ bé do vậy mà trong thời gian tới công ty sẽ không ngừng cố gắng phấn đấu để mở rộng thị trường hoạt động, ký kết được nhiều hợp đồng xây dựng để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của công ty. Thiếu đội ngũ lao động có trình độ, đây cũng là một khó khăn cho công ty trên con đường phát triển, vì muốn phát triển thì đội ngũ lao động là rất quan trọng có đội ngũ lao động có chất lượng, có trình độ chuyên môn thì đã nắm chắc được 50% cơ hội thành công nhưng hiện nay đội ngũ này của công ty còn thiếu và yếu cần được đào tạo và bổ sung thêm cho nhu cầu phát triển của công ty.. Hiên nay nhiều hợp đồng xây lắp của công ty là những hợp đồng được thuê lại của những công ty khác đặc biệt là của những công ty nhà nước do vậy mà nó làm giảm tính chủ động của doanh nghiệp và làm giảm doanh thu của doanh nghiệp, do vậy trong thời gian tới công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội hy vọng sẽ dần có được những bản hợp đồng trực tiếp để không những quảng bá hình ảnh công ty mà còn tăng doanh thu cho công ty. 1.2. Lĩnh vực thương mại. 1.2.1. Thực trạng hoạt động. Trong lĩnh vực hoạt động thương mại thi công ty chủ yếu là cung cấp những thiết bị điện ra thị trường, đây là một lĩnh vực kinh doanh thứ hai của công ty cũng tạo được doanh thu đáng kể cho công ty. Về thị trường hoạt động thương mại của công ty thì chủ yếu là thị trường Hà Nội vì công ty vẫn chưa có điều kiện để mở rộng thị trường hoạt động ra bên ngoài, bên cạnh đó quy mô của doanh nghiệp còn nhỏ do vậy mà doanh nghiệp chưa có kinh phí cho hoạt động mở rộng thị trường và doanh nghiệp cũng thấy ở lĩnh vực hoạt động này cũng chưa cần thiết phải mở rộng thị trường. Doanh thu từ hoạt động thương mại của công ty cũng đạt được con số đáng kể, đóng góp vào thành công chung của doanh nghiệp. Nếu như năm 2000 năm đầu tiên đi vào hoạt động thì lĩnh vực này chỉ mang lại cho công ty doanh thu là 100 triệu đồng, qua quá trình phát triển đến năm 2003 công ty đã đưa doanh thu của hoạt động này lên được con số 310 triệu đồng. Và đến cuối năm 2006 thì doanh thu từ hoạt động thương mại đã đạt đến con số 1,2 triệu đồng. Để có được thành công này thì là nhờ sự cố gắng của đội ngũ nhân viên trong công ty khi đã có những hoạt động xúc tiến thị trường để quảng bá sản phẩm tới khách hàng nhờ vậy mà doanh thu của hoạt động mới đạt được mức cao như vậy. Nhờ có doanh thu cũng không nhỏ so với quy mô của công ty nên lợi nhuận từ hoạt động này cũng góp phần đáng kể vào lợi nhuận chung của toàn công ty giúp cho công ty có được thêm nguồn tích luỹ vốn. Đơn vị: triệu đồng Đơn vị: triệu đồng Số lượng vốn huy động vào lĩnh vực hoạt động thương mại này tuy không nhiều như hoạt động xây lắp nhưng nó cũng đạt được mức huy động đáng kể khi mà lượng vốn huy động đã tăng lên từ 60 triệu năm 2000 lên đến 500 triệu vào năm 2006 vừa qua. Đơn vị: triệu đồng 1.2.2. Đánh giá. Qua thực trạng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội trong lĩnh vực thương mại tôi có những đánh giá về hoạt động này như sau. Thành tựu mà lĩnh vực này mang lại cho công ty là hoạt động này đã hỗ trợ tốt cho lĩnh vực xây lắp khi mà cung cấp một phần thiết bị cho hoạt động xây lắp nhờ có sự hỗ trợ này mà hoạt động xây lắp mới đạt được những thành tựu lớn ở trên. Và nhờ có sự hỗ trợ này mà các công trình của công ty được thực hiện từ hoạt động xây lắp đã có chất lượng và tiến độ tốt. Hoạt động thương mại này cũng đóng góp vào thành tích chung của công ty khi mà đóng góp một phần doanh thu đáng kể cho công ty mặc dù so với hoạt động xây lắp thì còn ít hơn nhiều. Số lượng chủng loại các mặt hàng mà công ty cung cấp cũng đã được đa dạng hơn trước nhiều khi mà số lượng mặt hàng lên đến hàng chục loại. Bên cạnh thành công đó thì lĩnh vực hoạt động này cũng có những hạn chế nhất định đó là doanh thu của hoạt động còn nhỏ bé khi mà nó chỉ chiếm khoảng trên 10% doanh thu của toàn công ty. Vì vậy trong thời gian tới công ty sẽ cố gắng đưa doanh thu của hoạt động lên cao hơn nữa. Bên cạnh đó thì thị trường hoạt động chủ yếu của lĩnh vực này vẫn chưa được mở rộng khi mà nó vẫn chỉ chủ yếu ở trong thành phố Hà Nội. 2. Thực trạng huy động vốn của doanh nghiệp trong những năm qua. Hoạt động huy động vốn luôn được tiến hành ở mỗi doanh nghiệp thường xuyên, liên tục do vậy mà với mỗi doanh nghiệp thì đây là một hoạt động quan trọng không thể thiếu, chính vì thế cho nên với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội thì cũng không phải là một ngoại lệ. Trong những năm hoạt động vừa qua thì công ty đã sử dụng những kênh huy động vốn chủ yếu sau đây. 2.1. Trích từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp. Lợi nhuận để lại chính là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ sản xuất, sau khi đã trừ đi phần chi phí sản xuất, thuế thu nhập doanh nghiệp, phần chia cổ tức… Đây là một trong các nguồn vốn nội bộ quan trọng nhất. Lợi nhuận để lại dùng để tái đầu tư vào việc thay thế và đầu tư mới vào máy móc thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, tuy nhiên để có nguồn vốn này các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Lợi nhuận để lại của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận để lại của doanh nghiệp có thể là lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế và lợi nhuận để lại. 2.1.1. Thành tựu đạt được. Trong những năm qua nhờ sự cố gắng của công ty trong các mặt hoạt động nên doanh thu của công ty đã đạt được một con số đáng kể. Nếu như năm 2000 doanh thu của công ty chỉ đạt 1,1 tỷ đồng thì đến năm 2006 doanh thu của toàn công ty đã lên đến con số 7,7 tỷ đồng. Nhờ đó mà phần lợi nhuận để lại của công ty trong các năm qua cũng không ngừng tăng lên nhờ đó mà tạo cơ hội cho công ty trong việc tích luỹ vốn và huy động vào tái đầu tư sản xuất để nâng cao năng lực của công ty. Cụ thể qua từng năm ta thấy rằng phần vốn được tích luỹ để huy động vào đầu tư đã tăng lên không ngừng. Ngoại trừ năm đầu tiên năm 2000 khi mà doanh nghiệp mới đi vào hoạt động lên chưa có nguồn để huy động nên năm đó công ty không huy động được số vốn nào. Nhưng đến năm 2001 với kết quả bước đầu của hoạt động năm trước lên công ty đã tích luỹ được 80 triệu để đầu tư vào tái sản xuất. Nếu như trong năm đầu tiên công ty chỉ huy động được từng đó vốn từ nguồn lợi nhuận thì đến cuối năm 2006 đầu năm 2007 thì công ty đã tích luỹ được 1 tỷ đồng từ nguồn lợi nhuận để lại để tái đầu tư vào sản xuất, nâng cao năng lực của công ty. Số liệu cụ thể có thể xem ở biểu dưới đây. Đơn vị: triệu đồng 2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn. Để có được những thành công ở trên thì công ty đã phải cố gắng rất nhiều, và trong quá trình huy động thì công ty đã gặp phải những thuận lợi đó là vì đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của công ty nên công ty có thể có toàn quyền trong việc huy động và sử dụng vào những mục đích mà công ty muốn. Một thuận lợi nữa của công ty là mặc dù quy mô công ty còn nhỏ nhưng mà doanh thu và lợi nhuận của công ty qua các năm đã không ngừng được tăng lên và đạt được những con số đáng kể do vậy mà tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi mà huy động vốn từ nguồn này. Thêm một thuận lợi của công ty nữa là từ khi đi vào hoạt động thì công ty luôn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và ổn định tốc độ phát triển của công ty không ngừng tăng cao do vậy mà cũng tạo điều kiện thuận lợi khi huy động vốn kèm theo đó là hội đồng cổ đông luôn ủng hộ những quyết định của công ty trong việc trích lợi nhuận để lại vào việc tái đầu tư. Bên cạnh những thuận lợi đó thì công ty cũng gặp phải một số khó khăn như là dù công ty luôn phát triển với tốc độ cao và ổn định, doanh thu và lợi nhuận không ngừng được tăng lên nhưng mà quy mô của doanh nghiệp vẫn còn nhỏ do vậy mà lượng vốn huy động được chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển. 2.2. Vay tín dụng thương mại. Vay tín dụng thương mại là việc các doanh nghiệp vay vốn của nhau thông qua việc mua bán nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị… Với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là một công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp thì đây là một kênh huy động vốn có hiệu quả vì với đặc thù sản xuất là tương đối dài lên không thể khi mua hàng sẽ trả tiền ngay được vì vậy mà trong những năm qua công ty đã áp dụng hình thức này như là một kênh huy động vốn hiệu quả. 2.2.1. Thành tựu đạt được. Mặc dù công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là một công ty mới đi vào hoạt động nhưng công ty đã có được những thành tựu nhất định trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và kèm theo đó là trong hoạt động vay vốn từ các đối tác kinh doanh. Trong những năm qua thì công ty cũng đạt được một số thành tựu nhất định khi mà tiến hành hoạt động vay vốn từ các đối tác kinh doanh, số lượng vốn mà doanh nghiệp vay được từ kênh này đã tăng lên qua từng năm. Nếu như trong năm đầu tiên đi vào hoạt động, công ty đang gặp rất nhiều khó khăn thì công ty cũng chỉ có thể vay tín dụng thương mại được một con số khiêm tốn là 100 triệu đồng. Nhưng qua những năm sau hoạt động khi mà uy tín của doanh nghiệp đã phần nào được tạo dựng tạo được nhiều mối quan hệ giữa các đối tác kinh doanh nên công ty đã mở rộng được kênh huy động vốn này khi mà số lượng vốn mà công ty vay được của các đối tác kinh doanh trong năm 2006 là 600 triệu đồng. Chi tiết tại sơ đồ dưới đây. Đơn vị: Triệu đồng 2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn. Vì đây là một hình thức vay vốn của các đối tác kinh doanh nên nó cũng có những thuận lợi và những khó khăn nhất định. Một thuận lợi mà việc vay vốn từ tín dụng thương mại là doanh nghiệp không phải trả lãi khi đi vay. Trong những năm qua thì công ty đã vay được một số lượng vốn tương đối từ nguồn này đáp ứng được phần nào nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì trong những năm hoạt động vừa qua công ty luôn trong tình trạng kinh doanh ở hiệu quả cao nên đã tạo được lòng tin đối với các nhà đối tác vì vậy mà việc tiến hành đàm phán vay vốn tín dụng thương mại của các đối tác cũng trở lên dễ dàng hơn. Tuy nhiên do hạn chế của kênh huy động vốn này là nó phụ thuộc vào quy mô vốn của doanh nghiệp do vậy mà nó tạo rào cản đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội khi mà công ty vẫn còn có quy mô nhỏ số vốn ít lên mà số vốn huy động được từ nguồn này chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của công ty. 2.3. Vay tín dụng ngân hàng. Vay tín dụng ngân hàng chính là việc doanh nghiệp tiến hành đi vay vốn của các tổ chức tài chính tín dụng, mà lượng vốn vay chủ yếu ở đây là vốn lưu động dưới dạng tiền tệ. Vay ngân hàng chính là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vốn vay ngân hàng có thể là vay ngắn hạn dưới một năm thông qua thị trường tiền tệ và vay dài hạn trên một năm thông qua thị trường vốn. 2.3.1. Thành tựu đạt được. Trong những năm qua thì vay vốn ngân hàng như là một nguồn huy động vốn chủ yếu của công ty. Trong những năm qua cùng với kết quả khả quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thì đã tạo được một thuận lợi cho công ty trong việc huy động vốn từ nguồn vay ngân hàng khi mà trong năm đầu tiên doanh nghiệp đã vay tín dụng ngân hàng được 500 triệu đồng điều này đã là một thành công của công ty khi mà đó là năm đầu tiên đi vào hoạt động của công ty mà đã vay được một số lượng vốn không nhỏ so với quy mô của công ty. Điều đó có thể là do công ty ngay trong năm đầu tiên hoạt động đã đạt được kết quả tương đối khả quan. Tiếp tục với thành công của năm đầu tiên thì trong các năm tiếp theo công ty đã có được những thành tựu nhất định khi mà số lượng vốn cho vay của các ngân hàng cho công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội đã không ngừng tăng lên. Đến năm 2003 thì công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội đã vay được 1,2 tỷ đồng để phục vụ cho quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Và đến cuối năm 2006 thì công ty đã vay được số vốn là 1,8 tỷ đồng. Chính nhờ có những khoản vay này từ ngân hàng mà công ty đã đạt được những thành tựu trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở trên. Trong những năm qua mặc dù kinh doanh trong lĩnh vực mà các công ty nhà nước luôn có ưu thế nhưng mà công ty vẫn giành được những thành tựu khả quan khi mà doanh thu và lợi nhuận liên tục tăng và kèm theo đó là tạo được niềm tin của doanh nghiệp tới các ngân hàng cũng như các đối tác kinh doanh do vậy mà doanh nghiệp đã có được những thành tựu không nhỏ trong việc huy động vốn từ kênh huy động vốn vay tín dụng ngân hàng. Chi tiết số lượng vốn đi vay ngân hàng của công ty ở biểu dưới. Đơn vị: triệu đồng 2.3.2. Những thuận lợi và khó khăn. Mặc dù trong những năm qua công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội đã giành được thành công nhất định trong việc huy động vốn từ vay tín dụng ngân hàng. Để có được những thành công đó thì công ty đã tận dụng được những thuận lợi sau. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua không ngừng được cải thiện khi mà doanh thu và lợi nhuận hàng năm của công ty không ngừng tăng lên, thị trường hoạt động của doanh nghiệp cũng có nhiều cải thiện khi mà đã được mở rộng… nhờ có những yếu tố đó mà tạo được thuận lợi cho công ty khi đi vay các khoản vay ngân hàng. Bên cạnh đó thì thuận lợi nữa là trong những năm qua cơ chế chính sách cho vay của các ngân hàng nhà nước cũng như các ngân hàng ngoài quốc doanh đã thông thoáng hơn nhiều do vậy mà tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nói chung khi đi vay ngân hàng. Bên cạnh những thuận lợi đó thì cũng có những khó khăn nhất định khi mà công ty tiến hành đi vay các khoản vay tín dụng ngân hàng. Khó khăn lớn nhất là khi mà công ty vẫn còn trong quy mô nhỏ giá trị tài sản mà doanh nghiệp nhiều khi không đủ để cho doanh nghiệp có thể mạnh dạn vay những khoản vay lớn để có thể đầu từ mạnh mẽ vào sản xuất kinh doanh. Một khó khăn nữa là lãi suất cho vay nhiều lúc cũng là cản trở đối với các khoản vay của công ty. 3. Đánh giá thực trạng huy động vốn từ các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp đã tiếp cận. 3.1. Những thành tựu đạt được. Nói chung trong những năm qua thì công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội vận dụng ba kênh huy động vốn chủ yếu là trích từ lợi nhuận để lại của công ty, vay tín dụng thương mại và vay tín dụng ngân hàng. Trong quá trình thực hiện thì công ty đã đạt được những thành tựu nhất định đó là nguồn vốn huy động được từ các kênh này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khi mà hoạt động huy động vốn từ các nguôn đã đạt được những kết quả như sau. Hoạt động huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của công ty đã không ngừng được tăng lên khi mà trong năm đầu tiên từ nguồn này đã huy động được 80 triệu đồng thì đến năm 2003 số lượng vốn đã lên đến 300 triệu và đến năm 2006 thì đã đạt được 1 tỷ đồng. Còn số lượng vốn vay từ nguồn vay tín dụng thương mại cũng đã có những thành công nhất định khi mà trong năm đầu tiên doanh nghiệp đã vay được 100 triệu thì đến năm 2003 con số này là 450 triệu và năm 2006 là 600 triệu. Huy động vốn từ nguồn vay tín dụng ngân hàng đã đạt được những thành công nhất định khi mà số lượng vốn huy động được trong năm 2000 là 500 triệu thì đến năm 2003 là 1,2 tỷ còn đến năm 2006 là 1,8 tỷ đồng. Chính nhờ những thành công từ hoạt động huy động vốn này mà đã góp phần đưa kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đạt được những thành công, tăng được tiềm lực cho công ty, nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty, mở rộng thị trường. 3.2. Những thuận lợi khó khăn. Để có những thành công trên thì công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội đã biết tận dụng những thuận lợi là do công ty luôn có được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt do vậy mà không những tạo ra nguồn vốn nội bộ mà còn tạo niêm tin cho các đối tác kinh doanh cũng như những ngân hàng cho vay do vậy mà công ty có thể tiến hành các khoản vay tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại được thuận lợi hơn. Thêm vào đó là do hiện nay có nhiều ngân hàng tham gia hoạt động trên thị trường tài chính cùng với cơ chế chính sách đã thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp khi đi vay do vậy mà tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi đi vay… Bên cạnh những thuận lợi đó thì cũng có những khó khăn cho công ty trong quá trình hoạt động đó là quy mô doanh nghiệp còn nhỏ do vậy mà đã hạn chế các khoản vay của công ty như là vay tín dụng ngân hàng và vay tín dụng thương mại, thêm vào đó là tài sản của công ty chưa nhiều nên cũng là cản trở cho quá trình đi vay… 4. Kinh nghiệm huy động vốn của các doanh nghiệp khác. Trên thị trường hiện nay thì mỗi doanh nghiệp đều có cách thức huy động vốn khác nhau và những biện pháp để thực hiện khác nhau, do vậy mà chúng ta cần nghiên cứu để tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ những doanh nghiệp đó để tìm ra được những phương pháp phù hợp với doanh nghiệp mình để áp dụng thành công vào doanh nghiệp mình. Thứ nhất là việc huy động vốn từ việc mở rộng hội đồng cổ đông. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác cho thấy rằng việc mở rộng hội đồng cổ đông có những ưu điểm và nhược điểm nhất định và tuỳ vào từng doanh nghiệp mà có những thuận lợi và khó khăn riêng. Vì vậy cần có giải pháp để thực hiện sao cho hợp lý và hiệu quả tránh những xung đột không đáng có giữa các cổ đông trong quá trình mở rộng. Để có thể mở rộng được hội đồng cổ đông thì điều đầu tiên cần phải làm là thuyết phục được các cổ đông hiện tại của công ty để họ thấy được những lợi ích từ việc mở rộng hội đồng cổ đông như là việc mở rộng hội đồng cổ đông sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng được vốn chủ sở hữu và tăng vốn điều lệ của công ty. Nhờ đó mà quy mô và tiềm lực của công ty cũng sẽ được tăng lên. Cùng với việc nguồn vốn tăng lên công ty sẽ có nhiều cơ hội trong việc thay thế, đổi mới trang thiết bị, nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nhờ đó mà doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ được tăng lên, thúc đẩy công ty phát triển không ngừng. Mặt khác việc mở rộng hội đồng cổ đông sẽ tạo cơ hội cho thêm người mới vào ban lãnh đạo công ty nhờ đó sẽ có nhiều ý kiến hay trong việc quản lý công ty, giúp cho công ty có thể hoạt động được tốt hơn. Đồng thời với việc thuyết phục các cổ đông cũ về những lợi ích mang lại từ việc mở rộng hội đồng cổ đông thì ta cũng phải thuyết phục cho họ thấy rằng lợi ích của họ hay nói đúng hơn là cổ tức cổ phần mà họ được hưởng sẽ không bị suy giảm mà có cơ hội tăng lên. Nếu không làm được điều đó thì sẽ dẫn đến tình trạng chia rẽ trong hội đồng cổ đông khiến cho việc mở rộng bị thất bại, khi mà có thể thêm được người này nhưng lại để người khác ra đi. Điều thứ hai cần phải làm là phải lựa chọn được những cổ đông mới có đủ điều kiện để gia nhập hội đồng cổ đông. Điều này cũng quan trọng không kém điều trên khi mà đã thuyết phục được hội đồng cổ đông rồi thì ta phải lựa chọn được những người thích hợp, những người có tiềm lực vốn và có kinh nghiệm trong kinh doanh để từ đó không những tận dụng được nguồn vốn của họ mà còn có thể tận dụng kinh nghiệm của họ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc lựa chọn này rất khó khăn vì để tìm được một nhà đầu tư tiềm năng thì không phải đơn giản. Một điều nữa cần phải làm là công ty phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả và ổn định vì chỉ khi nào công ty kinh doanh có hiệu quả thì mới có thể thu hút được các nhà đầu tư quan tâm vào doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì không những thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư mới mà cũng tạo niềm tin cho hội đồng cổ đông. Điều nữa là phải chọn thời điểm kêu gọi nhà đầu tư đây cũng là khâu quan trọng khi mà kêu gọi đúng lúc doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệuquả, trong tình hình thị trường ổn định lúc đó sẽ có nhiều nhà đầu tư quan tâm và ngược lại khi mà ta kêu gọi không đúng thời điểm thì sẽ không thu hút được nhà đầu tư. Thứ hai là huy động vốn từ hình thức liên doanh, liên kết với bên ngoài. Kinh nghiệm của các công ty khác khi tiến hành liên doanh, liên kết cho thấy rằng muốn có được một liên doanh tốt thì cần phải có những điều sau đây. Doanh nghiệp phải đang kinh doanh tốt vì không một công ty muốn liên doanh với một công ty đang trong tình trạng kinh doanh đình đốn. Một doanh nghiệp có tình hình kinh doanh tốt sẽ dễ dàng khi kêu gọi một công ty khác tham gia liên doanh, đây có thể là một liên doanh để thâm nhập thị trường mới hay đơn thuần liên doanh này chỉ nhằm để tăng tiềm lực cho công ty, mở rộng thị trường hiện có. Phải tìm một đối tác liên doanh đáng tin cậy vì nếu không có được một đối tác đáng tin cậy thì liên doanh này rất dễ bị đổ vỡ. Cần phải chuẩn bị số vốn đối ứng thích hợp để liên doanh, vì khi liên doanh là hai bên cùng góp vốn do vậy mà cần chuẩn bị kỹ càng số lượng vốn cần thiết. Đàm phán các điều khoản trong liên doanh thật rõ ràng vì có như vậy trong quá trình hoạt động mới không có những xung đột về các điều khoản liên doanh, có như vậy liên doanh mới có thể có được hiệu quả. Thứ ba là huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu. Do đây là một nguồn vốn huy động khá lớn lên cần phải được quan tâm đúng mức, kinh nghiệm của các doanh nghiệp cho thấy rằng muốn phát hành trái phiếu thành công có hiệu quả thì phải làm tốt các khâu là. Xác định đúng nhu cầu số lượng vốn mà mình định huy động để từ đó xác định xem mình sẽ phát hành bao nhiêu trái phiếu. Xem xét thị trường xem nhu cầu của các nhà đầu tư như thế nào để có thể có được những phương án hợp lý. Xác định cho hợp lý mức lãi suất của trái phiếu. Vì một trong những điểm thu hút của trái phiếu với các nhà đầu tư là mức lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp. Ở đây cần xác định xem lãi suất là bao nhiêu cho phù hợp để không bị thua lỗ cho doanh nghiệp cũng như đảm bảo có lợi cho nhà đầu tư.. Xác định kỳ hạn trái phiếu doanh nghiệp mà mình định phát hành. Vì trái phiếu doanh nghiệp có kỳ hạn càng lâu thì doanh nghiệp càng có lợi nhưng mà độ rủi ro cho các nhà đầu tư càng lớn cho nên cần phải xác định cho đúng kỳ hạn của trái phiếu, phải xem với số lượng vốn mà mình thu được từ phát hành trái phiếu này sau bao lâu thì doanh nghiệp sẽ thu hồi được vốn và có lãi sau khi trả lãi. Phải tiến hành các khâu chuẩn bị cho thật cận thận vì nếu không sẽ gặp những sự cố bất ngờ khiến cho việc phát hành trái phiếu bị thất bại. Cần lựa chọn một nhà phát hành trái phiếu có uy tín để thay mặt công ty phát hành trái phiếu. Cần chọn thời gian phát hành hợp lý, đúng thời điểm. Chương III Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của doanh nghiệp. 1. Định hướng, mục tiêu và dự báo nhu cầu vốn trong tương lai của doanh nghiệp. 1.1. Định hướng hoạt động của doanh nghiệp. Với những thành tựu đã đạt được trong những năm vừa qua thì trong tương lại định hướng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội sẽ là tiếp tục duy trì những mặt hoạt động hiện tại. Thêm vào đó công ty sẽ mở rộng thị trường hoạt động ra các tỉnh thành phía bắc. Công ty sẽ tiến hành đổi mới trang thiết bị công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất của công ty. Thêm vào đó công ty sẽ mở rông thị trường hoạt động trong cả hai lĩnh vưc xây lắp và thương mại. Dần đưa doanh nghiệp ra khỏi tình trạng chỉ nhận làm những công trình được thuê lại bởi các doanh nghiệp nhà nước mà thay vào đó là các công trình mà do công ty làm chủ. Trong những năm tới đây công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội sẽ tăng vốn điều lệ của công ty lên để tạo thuận lợi cho các hoạt động sau này của công ty. 1.2. Mục tiêu của doanh nghiệp trong tương lai. Với phương hướng hoạt động đã nêu trên thì trong tương lai công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội đã đề ra những mục tiêu chính mà công ty phấn đấu cố gắng hoàn thành như sau. Mục tiêu đầu tiên là cố gắng mở rộng thị trường hoạt động cả thị trường trong lĩnh vực xây lắp cũng như thị trường trong lĩnh vực thương mại. Với thị trường trong lĩnh vực xây lắp thì công ty cố gắng mở rộng thị trường hoạt động ra tất cả các tỉnh thành phía bắc, dần dần đưa doanh nghiệp phát triển, giành được những hợp đồng xây dựng lớn, giảm dần sự phụ thuộc vào các công trình nhận thuê lại của các công ty khác. Mà thay vào đó công ty sẽ tự khai thác thị trường, tự ký kết các hợp đồng xây lắp điều này sẽ giúp cho công ty không những nâng cao được doanh thu mà còn quảng bá được hình ảnh doanh nghiệp tới sâu rộng hơn nữa trên thị trường. Với thị trường thương mại cung cấp các thiết bị trong ngành điện thì công ty cố gắng không chỉ cung cấp sẩn phẩm cho những tiêu dùng đơn lẻ mà cố gắng ký kết các hợp đồng cung cấp thiết bị cho những công trình lớn, cho những khách hàng lớn để từ đó dần đưa lĩnh vực thương mại phát triển cao hơn trong vị trí hoạt động và có doanh thu lớn hơn. Mục tiêu thứ hai của doanh nghiệp là muốn đưa doanh thu hoạt động hàng năm của công ty tăng lên mỗi năm trên 10%. Đây là một mục tiêu không hề đơn giản để có thể thực hiện được điều đó thì doanh nghiệp cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như mở rộng thị trường hoạt động, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường… Trong những năm tới đây thì công ty sẽ cố gắng mở rộng hơn nữa quy mô của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu phát triển của công ty. Trong tương lai công ty có thể sẽ tiến hành liên doanh để có thể mở ra một lĩnh vực kinh doanh mới… Một mục tiêu nữa của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là trong tương lai công ty có thể tự đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của mình từ nguồn nội bộ khoảng trên 45%... Thêm vào đó thì công ty cũng đề ra mục tiêu là sẽ tăng vốn điều lệ của công ty lên trong tương lai, theo đó số vốn điều lệ của công ty trong tương lai sẽ được tăng lên 5 tỷ đồng. 1.3. Dự báo nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Với những mục tiêu đã nêu ở trên thì đạt ra một nhiệm vụ nặng nề cho hoạt động huy động vốn để có thể huy động vốn nhằm đáp ứng tốt nhu cầu phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Để có thể có những phương án huy động vốn sao cho có hiệu quả và hợp lý thì đạt ra một yêu cầu cho các cán bộ làm công tác huy động vốn cho doanh nghiệp là phải dự báo được nhu cầu vốn trong tương lai của công ty. Vì chỉ khi nào dự báo được chính xác nhu cầu vốn trong tương lai thì chúng ta mới xây dựng được những phương án giải pháp huy động vốn để có thể huy động được số vốn mà doanh nghiệp cần, có như vậy thì những mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra mới có thể thực hiện được. Ở đây chúng ta kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKH-08.docx