Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa - Hà Nội

Tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa - Hà Nội: Lời mở đầu. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại có tác động sâu sắc đối với đời sống kinh tế- xã hội. Trong các nước phát triển hầu như không có công dân nào không có quan hệ với ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng ngỏ ngách của nền kinh tế và đời sống của con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay tiền hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Từ lâu ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính quen thuộc, song cho đến nay ở Việt Nam Ngân hàng thương mại vẫn còn là phạm trù còn được ít người biết đến, là một khái niệm chứa đầy bí ẩn chưa được khám phá. So với lịch sử phát triển hàng trăm năm của các Ngân hàng thương mại trên thế giới thì quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại Việt Nam là ngắn ngủi nhưng không phải vì thế mà nó ...

doc71 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1062 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa - Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại có tác động sâu sắc đối với đời sống kinh tế- xã hội. Trong các nước phát triển hầu như không có công dân nào không có quan hệ với ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng ngỏ ngách của nền kinh tế và đời sống của con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay tiền hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Từ lâu ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính quen thuộc, song cho đến nay ở Việt Nam Ngân hàng thương mại vẫn còn là phạm trù còn được ít người biết đến, là một khái niệm chứa đầy bí ẩn chưa được khám phá. So với lịch sử phát triển hàng trăm năm của các Ngân hàng thương mại trên thế giới thì quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại Việt Nam là ngắn ngủi nhưng không phải vì thế mà nó mất đi vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, ngành ngân hàng ngày càng tỏ rõ vị trí quan trọng hàng đầu của mình đối với sự phát triển của đất nước. Thực tế những năm qua, trong sự đổi mới của bộ mặt đất nước hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng được coi không chỉ là điều kiện mà còn là động lực đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới. Để đạt được điều đó là do có sự đóng góp một phần không nhỏ của kế toán ngân hàng và kế toán ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết, tổ chức tốt công tác kế toán ngân hàng là đòn bẩy không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng, tạo ra một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt, có hiệu quả nhờ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể nói vai trò của kế toán ngân hàng là không thể thiếu được trong việc phục vụ cho việc chỉ đạo các mặt nghiệp vụ ngân hàng và chỉ đạo hoạt động của nền kinh tế. Trong đó kế toán cho vay là một mảng vô cùng quan trọng bởi vì chúng ta đều biết nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ quan trọng hàng đầu mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, nó là cơ sở, là nền tảng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của từng ngân hàng, đồng thời vừa là công cụ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhận thức được vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của công tác kế toán cho vay, trong những năm gần đây các ngân hàng đã chú trọng đến việc cải tiến và hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng và thuận tiện cho việc quản lý của ngân hàng. Tuy nhiên, kế toán cho vay là một khâu rất phức tạp cho nên vẫn còn một số vướng mắc, tồn tại chưa được hoàn thiện. Sau thời gian học tập và nghiên cứu thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội, em đã mạnh dạn lựa chọn và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa - Hà Nội". Do tính chất phức tạp của nghiệp vụ, thời gian nghiên cứu có hạn, tài liệu thu thập chưa thực sự đầy đủ, sự hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, cán bộ ngân hàng và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của Học viện Ngân hàng và các cán bộ ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã cung cấp những tài liệu cần thiết và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Hà Nội, ngày 15/04/2004. Sinh viên thực hiện: Văn Thị Phúc. Chương I Lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng và kế toán cho vay trong hoạt động kinh doanh ngân hàng I/ Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế 1)Khái niệm tín dụng ngân hàng. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, xuất phát từ nhu cầu cho vay và đi vay của những người thiếu vốn và những người thừa vốn trong cùng một thời điểm đã hình thành nên quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội và trên cơ sở đó hoạt động tín dụng ra đời. Thuật ngữ "Tín dụng" xuất phát từ gốc Latinh Creditium có nghĩa là một sự tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở coa hoàn trả cả gốc và lãi. Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có ba nội dung chủ yếu đó là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng đựơc biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình đó thể hiện qua ba giai đoạn sau: -Thứ nhất: Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay, ở giai đoạn này giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận giá trị và cũng chỉ có một bên nhượng đi giá trị. -Thứ hai: sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi nhận được vốn tín dụng, họ được chuyển sử dụng giá trị đó để thoã mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên người đi vay chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định mà không được quyền sở hữu giá trị đó. -Thứ ba: đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thanh một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay. Những hành vi tín dụng có thể được diễn ra trực tiếp giữa người thừa vốn cần đầu tư với người cần vốn để sử dụng.Nhưng thực tế hai người này khó có thể phù hợp với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn; hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm, nên để thoã được nhu cầu của hai người thì cần thiết phải có một người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, cần đầu tư kiếm lãi.Trên cơ sở số vốn tập trung được phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai khác chính là tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các Ngân hàng thương mại- người môi giới tài chính trên thị trường tài chính. Việc các Ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay gọi là tín dụng ngân hàng. Thực hiện chức năng làm trung gian tín dụng trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại đã góp phần không nhỏ để giải quyết thoả đáng những băn khoăn của người có vốn và đáp ứng tốt mọi nhu cầu của người cần vốn. 2) Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế Trong những năm vừa qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đang chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Vì vậy ngân hàng là ngành kinh tế chủ chốt quan trọng, chi phối và có sự ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Nhận thức được vị trí và vai trò của mình, các Ngân hàng thương mại ở nước ta đang từng bước khẳng định sự lớn mạnh của mình trong mọi phương diện hoạt động, đặc biệt là hoạt động tín dụng nhằm phục vụ đắc lực cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. 2.1) Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thường xuyên có một số các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp như: tiền khấu hao tài sản cố định để tái tạo lại tài sản cố định nhưng chưa mua vì có sự chênh lệch về thời gian giữa việc bán sản phẩm và việc mua nguyên vật liệu; tiền trả lương cho người lao động nhưng chưa đến hạn trả; khoản tiền tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhưng chưa đủ điều kiện để đầu tư.... Các khoản tiền tệ trên đây luôn được các doanh nghiệp tìm cách đầu tư kiếm lời. Ngoài ra còn có các khoản tiền để dành của dân cư, khi chưa có nhu cầu sử dụng, họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong khi đó có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình; một số cá nhân trong xã hội cần vốn để cải thiện sinh hoạt hoặc đối phó với những rủi ro trong cuộc sống; Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt, Nhà nước cần vốn để bù đắp sự thâm hụt đó đảm bảo cân đối thu chi cho nền kinh tế. Như vậy, ta thẩy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau, hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời. Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại đã thoả mãn những lo lắng của những người có vốn và đáp ứng nhu cầu của người cần vốn, có nghĩa là các ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian nhận tiền gửi từ tất cả các thành phần kinh tế và cho vay lại các đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế. Hay nói cách khác: "tín dụng ngân hàng là chiếc cầu nối để những người có vốn và những người cần vốn gặp nhau" 2.2)Tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tập trung và điều hoà vốn trong nền kinh tế. Như trên đã trình bày, thông qua hoạt động "đi vay để cho vay" tín dụng ngân hàng đã làm nhiệm vụ đưa vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu. Điều này được thể hiện ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay đầu tư phát triển kinh tế. Bằng các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và phong phú cúng với việc thoả mãn thích đáng nhu cầu lợi ích, nhu cầu tiền đột xuất của người gửi tiên fma các Ngân hàng thương mại đã thu hút được hầu hết các nguồn tiền nhàn rỗi dù là rất nhỏ từ trong dân chúng tập trung về tay mình và từ đó đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày càng tăng của nền kinh tế, hay nói cách khác hoạt động tín dụng đã làm nhiệm vụ thông đòng để vốn chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc thực hiện hoạt động đi vay và cho vay. Nhờ đó đã góp phần cung ứng và điều hoà vốn trong từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được tiến hành một cách trôi chảy đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cố định, vốn lưu động, bổ sung tăng cường củng cố tài sản cố định làm cho quá trình sản xuất được tuần hoàn, thúc đẩy sản xuất lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triền bền vững. Vì vậy có thể nói tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập trung và điều hoà vốn trong nền kinh tế. 2.3) Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, củng cố chế độ hạch toán kế toán. Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở có hoàn trả và có lợi tức (gốc+lãi). Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi thành phần kinh tế và cho vay khi họ tạm thời thiếu vốn. Các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng ngoài việc được cung ứng vốn một cách kịp thời đầy đủ còn được ngân hàng hỗ trợ trong quá trình sử dụng vốn thông qua những ý kiến tư vấn khi lập phương án sản xuất kinh doanh hoặc chọn đối tác ký kết hợp đồng...Mặt khác, trong khi sử dụng vốn vay, khách hàng có quan hệ ràng buộc với ngân hàng bởi trách nhiệm hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải cân nhắc làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả nhất, giảm thiểu chi phí, tăng vòng quay của vốn đảm bảo kinh doanh có hiệu quả cho doanh nghiệp, đồng thời tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng.Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông qua các hoạt động của mình mà một trong các hoạt động khá quan trọng là việc hạch toán kế toán nhằm giám sát mọi hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy thông qua hoạt động tín dụng mà cụ thể là cho vay, ngân hàng có thể kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho người vay càng có ý thức hơn trong cơ chế quản lý tài chính, quản lý đồng vốn, qua đó tăng cường củng cố chế độ hạch toán kế toán thêm vững chắc. 2.4)Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm phát. Thông qua hoạt động tín dụng, khối lượng tiền trong lưu thông sẽ tăng lên khi thực hiện hoạt động cho vay và ngược lại sẽ giảm xuống khi thực hiện hoạt động thu nợ, do đó sẽ góp phần điều tiết khối lượng tiền trong toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng sử dụng công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng để làm thay đổi khối lượng tiền vay, từ đó điều tiết được khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiểm soát được lạm phát, bởi vì tín dụng ngân hàng khi điều tiết được khối lượng tiền tức là khống chế được khối lượng tiền cần thiết cho nhu cầu trao đổi và lưu thông hàng hoá, nhờ kiểm soát được giá cả. Hay nói cách khác ,việc đưa tiền vào lưu thông qua tín dụng ngân hàng là con đường hữu hiệu nhất bởi vì khối lượng tiền này đã được đảm bảo bằng một lượng giá trị vật tư hàng hoá và tránh được lạm phát tiền tệ. Mặt khác, chúng ta cũng biết rằng Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý vĩ mô đối với các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, có nhiệm vụ kiểm tra, khảo sát mọi hoạt động của các tổ chức này nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động an toàn và có hiệu quả. Thông qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung ương có thể biết được phạm vi, phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư vào cá ngành kinh tế từ đó có chính sách tiền tệ thích hợp. Nếu nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng, hiệu quả đầu tư vào cá ngành trong nền kinh tế cao thì Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tức là bơm thêm tiền vào lưu thông. Ngược lại, nếu nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái thì Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là rút bớt tiền từ lưu thông về. Như vậy bằng các công cụ như hạn mức tín dụng, lãi suất tín dụng Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát, điều tiết lưu thông tiền tệ đảm bảo khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhằm ổn định giá trị đồng tiền, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. 2.5) Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế với các nước. Mỗi một quốc gia muốn phát triển nền kinh tế của mình thì không thể chỉ dựa vào tiềm năng của đất nước mà còn phải mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài, tham gia vào nền kinh tế thế giới, bởi lẽ không có một nước nào lại có thể hội tụ đầy đủ các tiềm năng để phát triển kinh tế mọi mặt, mà các nước đều chỉ có lợi thế so sánh của mình, do đó nó thường phát sinh quan hệ vay mượn lẫn nhau mà chủ yếu là vốn đầu tư. Vì vậy, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Thông qua các hình thức như nhận uỷ thác đầu tư, mở và thanh toán thư tín dụng, bảo lãnh hàng hoá xuất nhập khẩu, chuyển tiền nhanh đi các nơi...tín dụng ngân hàng đã trực tiếp tham gia trong quan hệ thanh toán quốc tế, các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, tài trợ cho các hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu tư chiều sâu, đôi rmới công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong nước thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhằm phục vụ tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu góp phần tăng trưởng kinh tế và mở ra sự giao lưu giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Ngoài ra với việc tín dụng ngân hàng nhận các nguồn tài trợ như ODA, ESAF...từ các nước cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng quốc tế với mục đích tài trợ cho nền kinh tế đã mang lại những kết quả to lớn về kinh tế xã hội đồng thời tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa nước ta với các nước trên thế giới. Tóm lại, tín dụng ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế đất nước.Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn để giải quyết nhu cầu này thoả đáng trong mối quan hệ này, từ đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững, thông qua tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh. II/ Vai trò và nhiệm vụ của kế toán trong việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. 1) Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của kế toán ngân hàng. 1.1)Khái niệm. Kế toán ngân hàng là khoa học và cũng là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp và giải thích các nghiệp vụ tác động đến tình hình tài chính của các ngân hàng bằng thước đo tiền tệ nhằm cung cấp thông tin về tình hình và kết quả hoạt động của ngân hàng, làm cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế liên quan đến mục tiêu quản lý kinh doanh và đánh giá hoạt động của ngân hàng. 1.2)Vai trò. Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế vì nó có tác dụng to lớn trong việc kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, việc sử dụng vốn tiền tệ, bảo vệ an toàn tài sản, củng cố và tăng cường chế độ hạch toán kinh tế. Kế toán ngân hàng là một bộ phận trong hệ thống kế toán của nền kinh tế nên nó cũng phát huy vai trò của kế toán nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động ngân hàng nên vai trò của kế toán ngân hàng có khác với vai trò của các ngành khác. + Cung cấp thông tin tổng hợp để phục vụ quản lý nền kinh tế: kế toán ngân hàng có quan hệ mật thiết với hoạt động của nền kinh tế. Mọi hoạt động về kinh tế, tài chính của doanh nghiệp đều được phản ánh thông qua các tài khoản mở tại ngân hàng. Vì vậy số liệu ghi chép của kế toán vừa phản ánh được hoạt động nghiệp vụ của ngành, vừa phản ánh được hoạt động của các ngành khác về tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động của vật tư, lao động, tiền vốn,thu nhập, chi phí, lợi nhuận...từ đó các đơn vị có đầy đủ thông tin để ra quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quẩn xuất kinh doanh. Mặt khác, các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, kế toán, thống kê cũng cần được cung cấp thông tin kế toán ngân hàng để xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, xây dựng chế độ quản lý tài chính. Do khái niệm phản ánh một cách tổng hợp nên kế toán ngân hàng đã giúp Đảng và Nhà nước nắm được tình hình hoạt động của nền kinh tế, từ đó đề ra được phương hướng phát triển nền kinh tế một cách sát thực và đúng đắn. + Bảo vệ an toàn tài sản: bảo vệ tài sản là trách nhiệm chung của kế toán bất kỳ ngành nào, song kế toán ngân hàng có vai trò quan trọng hơn vì ngoại việc bảo vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng còn phải bảo vệ tài sản của Nhà nước, của khách hàng gửi tại ngân hàng. Do đó, kế toán ngân hàng phải ghi chép, kiểm soát một cách chặt chẽ mọi loại tài sản để tránh mất mát, thiếu hụt về mặt số lượng và nâng cao hiệu quả mọi tài sản trong quá trình sử dụng. + Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị ngân hàng: kế toán được tiến hành trên cơ sở hoạt động của các mặt nghiệp vụ như: nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng, thanh toán...do vậy số liệu của kế toán đã phản ánh được kết quả các mặt hoạt động nghiệp vụ của từng đơn vị cũng như của toàn ngành ngân hàng. Qua hệ thống số liệu này có thể chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những tồn tại trong quá trình hoạt động, từ đó các nhà lãnh đạo sử dụng nó như là một công cụ hữu hiệu để chỉ đạo, điều hành, quản trị ngân hàng có hiệu quả. Như vậy, vai trò to lớn của kế toán ngân hàng là không thể phủ nhận được. Thông qua các hoạt động của mình, kế toán ngân hàng giúp cho các giao dịch trong nền kinh tế được tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời hơn. Những số liệu so kế toán ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu thông tin kinh tế quan trọng giúp cho việc chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như làm căn cứ cho việc hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và chỉ đạo toàn bộ hạot đọng của nền kinh tế, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. 1.3)Nhiệm vụ của kế toán ngân hàng. Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán ngân hàng phải thực hiện được các nhiệm vụ chính sau đây: +Kế toán ngân hàng phải ghi nhận, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong ngân hàng về các hoạt động : hoạt động nguồn vốn, sử dụng vốn và các dịch vụ ngân hàng khác theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước và các thể lệ chế độ kế toán ngân hàng quy định. Trên cơ sở đó để bảo vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng cũng như tài sản của toàn xã hộ bảo quản tại ngân hàng. +Kế toán ngân hàng phải phân loại nghiệp vụ, tổng hợp số liệu theo đúng phương pháp kế toán và theo những chỉ tiêu nhất định nhằm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời nhất để phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo hoạt động kinh doanh ngân hàng và thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. +Kế toán ngân hang giám phải giám sát quá trình sử dụng tài sản (vốn) nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các loại tài sản thông qua kiểm soát trước (tiền kiểm) các nghiệp vụ bên nợ và nghiệp vụ bên có của bảng tổng kết tài sản ở từng đơn vị ngân hàng cũng như toàn hệ thống. Từ đó góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, củng cố chế độ hạch toán kế toán của ngân hàng cũng như của nền kinh tế. +Kế toán ngân hàng phải có trách nhiệm tổ chức tốt công tác kế toán nói chung và kế toán tài chính nòi riêng ở từng đơn vị cũng như toàn hệ thống. Đồng thời, kế toán ngân hàng phải tổ chức giao dịch, phục vụ khách hàng một cách khoa học, văn minh, lịch sự, giúp khách hàng nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ kế toán nói riêng, góp phần thực hiện chiến lược khách hàng của ngân hàng. 2/Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của kế toán cho vay. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí quản lý kinh doanh và chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. Tuy nhiên, cho vay của ngân hàng thương mại là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên cập nhật theo những biến chuyển của môi trường kinh tế. Vì thế, việc theo dõi, quản lý, phân tích sô liệu tài chính- kế toán có liên quan đến nghiệp vụ cho vay góp phần quan trọng cho chính sách tín dụng của ngân hàng. Kế toán cho vay giữ vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của ngân hàng vì kế toán cho vay tham gia trực tiếp vào quá trình vay vốn, mà đây là nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 2.1)Khái niệm. Kế toán cho vay là công việc ghi chép, phản ánh một cách đầy đủ, chính xác các khoản cho vay, thu nợ, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng, trên cơ sở đó cung cấp thông tin phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý tín dụng đạt kết quả cao à bảo vệ an toàn tài sản của ngân hàng. 2.2)Vai trò của kế toán cho vay. Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và đối với nghiệp vụ tín dụng nói riêng thì kế toán cho vay có vai trò rất quan trọng, thể hiện là: +Kế toán cho vay cung cấp cho ngân hàng và các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân có quan hệ tín dụng với ngân hàng những thông tin có liên quan đến quá trình cho vay, thu nợ, thu lãi, thời hạn hoàn trả...một cách kịp thời, chính xác. Qua đó giúp cho lãnh đạo ngan hàng nắm được tình hình cho vay, dư nợ, doanh số cho vay, thu nợ, thu lãi, và tình hình nợ quá hạn...từ đó có biện pháp xử lý, chỉ đạo điều hành cho phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra: an toàn, lợi nhuận và lành mạnh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. +Kế toán cho vay phản ánh tình hình đầu tư vốn vào các ngành kinh tế đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có đủ vốn để sản xuất kinh doanh và mở rộng giao lưu hàng hoá. Thông qua kế toán cho vay ngân hàng có thể biết được phạm vi hoạt động, phương hướng đầu tư của các nhà đầu tư, theo dõi được hiệu quả sử dụng vốn vay của những nhà đầu tư...để từ đó có chiến lược đầu tư phù hợp, hiệu quả. Đồng thời, bạn hàng của doanh nghiệp đánh giá được tình hình tài chính cũng như khả năng hấp thụ vốn vay của doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn, vòng quay vốn của các doanh nghiệp để từ đó đánh giá xu thế vận động của các doanh nghiệp để trên cơ sở đó đề ra những chính sách phù hợp. +Kế toán cho vay là công cụ để đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng, đồng thời hạn chế rủi ro góp phần ổn định thu nhập của ngân hàng. +Thông qua nghiệp vụ kế toán cho vay, ngân hàng đã đưa ra một khối lượng vốn lớn ra lưu thông phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, luân chuyển hàng hoá cho toàn bộ nền kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và phát triển nền kinh tế của đất nước. +Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong việc chỉ đạo chấp hành chính sách tín dụng tiền tệ của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, với cơ chế tín dụng như hiện nay. Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách tiện tệ, ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất đối với các thành phần có vốn hoạt động, phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh kịp thời. Thực hiện tốt công tác kế toán cho vay, làm tham mưu đắc lực cho công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế cũng như giám đốc bằng đồng tiền đối với toàn bộ hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy, xuất phát từ vị trí quan trọng của kế toán cho vay, kế toán cho vay sử dụng các phương thức cho vay, loại cho vay, thời hạn vay...đều liên quan đến việc mở tài khoản cho vay thích ứng với từng khách hàng. Kế toán cho vay không những quan trọng đối với công tác tín dụng mà còn có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác của ngân hàng. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu tín dụng trong giai đoạn hiện nay thì kế toán cho vay là nghiệp vụ không thể thiếu được của nghiệp vụ kế toán Ngân hàng thương mại. 2.3)Nhiệm vụ của kế toán cho vay. Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán cho vay cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây: +Kế toán cho vay phải xác lập các hồ sơ, chứng từ cho vay một cách hợp pháp hợp lệ. Kiểm soát để đảm bảo tính hợp lệ của chứng từ kế toán cho vay, để đảm bảo các khoản cho vay ra có khả năng thu hồi ngay từ khâu phát tiền vay. Giám sát tình hình cho vay và thu nợ chặt chẽ, từ đó phản ánh vào sổ sách thích hợp tình hình cho vay và thu nợ, qua đó giúp cho lãnh đạo ngân hàng có kế hoạch và phương hướng đầu tư tín dụng ngày càng có hiệu quả. +Tổ chức ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác các số liệu cho vay để đảm bảo vốn sản xuất kinh doanh cho các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn tín dụng. Mặt khác, cần theo dõi chặt chẽ kỳ hạn nợ để hạch toán thu nợ, thu lãi hoặc chuyển nợ quá hạn kịp thời đảm bảo an toàn tài sản và nâng cao hiệu quả tín dụng, từ đó đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và quyền lợi chính đáng của ngân hàng. +)Quản lý hồ sơ, chứng từ cho vay chặt chẽ, khoa học để đảm bảo thu hồi nợ kịp thời nhằm bảo vệ an toàn tài sản cho ngân hàng. Bởi vì, ngân hàng đầu tư một khối lượng vốn tín dụng lớn vào các ngành kinh tế, do đó để theo dõi chặt chẽ kế toán cho vay phải kiểm soát chặt chẽ, kỹ lưỡng các chứng từ có liên quan đến cho vay, thu nợ nhằm hạch toán kịp thời, đầy đủ tránh thất thoát vốn của ngân hàng. Đồng thời cũng nhờ vậy mà tạo được hình ảnh cho ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. +)Làm tham mưu cho hoạt động tín dụng để nâng cao hiệu quả và mở rộng hoạt động tín dụng. Tham mưu cho cán bộ tín dụng và kết hợp với cán bộ tín dụng trong việc giám sát sử dụng vốn vay, trong việc thẩm định các khoản vay và đôn đốc thu hồi nợ hoặc chuyển nợ quá hạn đúng chế độ làm cho đồng vốn vay đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại, kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán ngân hàng khác giúp ngân hàng vừa cung ứng được vốn cho nền kinh tế. Với vai trò và nhiệm vụ hết sức quan trọng đó đòi hỏi hệ thống kế toán ngân hàng nói chung và nghiệp vụ kế toán cho vay nói riêng cần phải hoàn thịên và cải tiến không ngừng đáp ứng nhu cầu thanh toán và lưu chuyển tiền tệ trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế. III/Các phương thức cho vay và quy trình hạch toán các phương thức cho vay chủ yếu. 1/Các phương thức cho vay. Phương thức cho vay là tổng hợp các cách tính toán cho vay, thu nợ dựa vào tính chất và cách xác định đối tượng cho vay. Việc áp dụng phương thức cho vay nào là phụ thuộc và đặc điểm kinh doanh và nhu cầu về vốn của đồi tượng xin vay. Một phương thức cho vay khoa học phải đảm bảo được nguyên tắc tín dụng, đồng thời phải theo dõi sát quy trình chu chuyển của vốn vay. Trên thế giới hiện nay, các tổ chức tín dụng sử dụng rất nhiều phương thức cho vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quản lý các tổ chức.ở Vịêt Nam, các phương thức cho vay được quy định trong quyết định số 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành: "Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng". Trong quyết định này có quy định về một số phương thức cho vay của các tổ chức tín dụng như sau: - Cho vay từng lần - Cho vay theo hạn mức tín dụng - Cho vay theo dự án đầu tư. - Cho vay trả góp - Cho vay hợp vốn. - Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng. - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. - Các phương thức cho vay khác. 1.1) Phương thức cho vay từng lần: Phương thức cho vay từng lần là phương thức cho vay mà ngân hàng căn cứ vào từng kế hoạch, phương án kinh doanh, từng khâu hoặc từng loại vật tư cụ thể để cho vay. Phương thức cho vay từng lần được áp dụng khi cho vay để bổ sung nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt trong sản xuất, đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh không ổn định, nhu cầu vay trả không thường xuyên, có nhu cầu đề nghị vay vốn từng lần hoặc những khách hàng không có tín nhiệm cao đối với ngân hàng trong quan hệ tín dụng mà ngân hàng nhận thấy cần phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay chặt chẽ, an toàn. Phương thức cho vay từng lần được áp dụng phổ biến trong cho vay ngắn hạn cũng như cho vay trung dài hạn. Việc cho vay đối với từng khoản vay riêng biệt không có sự liên hệ, phụ thuộc giữa các món vay của một khách hàng. Đặc trưng của hình thức cho vay này là mỗi lần vay khách hàng phải ký kết một hợp đồng tín dụng riêng trong đó có các nội dung như số tiền vay, lãi suất, thời hạn...Đặc điểm của phương thức cho vay này là việc cho vay và thu nợ được phân định ranh giới một cách rõ ràng, dễ nhận biết được lúc nao cho vay, lúc nào thu nợ. Việc cho vay và thu nợ được phân định ranh giới một cách rõ ràng, dễ nhận biết được lúc nào cho vay, lúc nào thu nợ. Ưu điểm của phương thức cho vay này là giúp cho ngân hàng mở rộng kinh doanh ,tìm kiếm thu nhập ,phục vụ mọi đối tượng khách hàng ,đồng thời đảm bảo an toàn vốn vay và tạo thế chủ động cho cả ngân hàng và khách hàng .Với mức phát tiền vay cụ thể ,hạn trả nợ cụ thể nên ngân hàng có thể tính toán được hiệu quả kinh tế của khoản cho vay ,từ đó có thể lên kế hoạch cho vay các khoản tiếp theo một cách hợp lí tránh ứ đọng vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn .Mặt khác ,việc tính toán thu nợ ,thu lãi của kế toán cho vay được thực hiện đơn giản căn cứ vào số tiền cho vay ,lãi suất cho vay và thời hạn vay trên hợp đồng tín dụng . Tuy nhiên ,phương thức cho vay này còn có nhiều nhược điểm đối với cả ngân hàng và khách hàng .Với khách hàng ,đây là một hình thức vay phức tạp bởi thủ tục vay rườm rà ,mỗi lần muốn vay khách hàng phải lập hồ sơ vay vốn ,tốn kém thời gian ,công sức gây khó khăn trong việc vay vốn làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng ,thậm chí mất cơ hội trong kinh doanh nếu không có vốn kịp thời .Còn đối với ngân hàng thì phải tiến hành theo dõi từng món vay tại các thời điểm khác nhau để thu nợ gốc và lãi nên chi phí trong kinh doanh cao mà lợi nhuận tìm kiếm trên một lần vốn đầu tư thấp .Hơn nữa ,việc định kỳ hạn nợ đối với các món vay đôi khi còn mang tính chủ quan của con người ,đặc biệt là khi đối tượng cho vay là các thiết bị vật tư ,hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại ,cho nên nếu không phù hợp sẽ dẫn tới vòng quay vốn lưu động của khách hàng lớn hơn vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng ,dẫn tới tình trạng ngân hàng bị khách hàng chiếm dụng vốn hoặc nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong kế hoạch về nguồn vốn ,do đó ngân hàng phải kiểm soát chạt chẽ những khách hàng của mình trong việc sử dụng vốn vay của ngân hàng . 1.2) Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Phưong thức cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay ma việc cho vay và thu nợ căn cứ vào quá trình nhập, xuất vật tư hàng hoá, ngân hàng cho vay khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn phát sinh để nhập vật tư hàng hóa và ngân hàng thu nợ khi doanh nghiệp có thu nhập từ việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Theo phương thức cho vay này khách hàng được ngân hàng xác định cho một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định để làm căn cứ cho việc phát tiền vay. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường áp dụng cho các doanh nghiệp mà trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh họ thường xuyên có nhu cầu vay trả, tốc độ luân chuyển vốn tín dụng nhanh, có tín nhiệm với ngân hàng trong quan hệ tín dụng, tức là vay vốn và trả nợ sòng phẳng. Với phương thức cho vay này, khách hàng và ngân hàng thoả thuận với nhau căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn giá trị tài sản thế chấp, nguồn vốn ngân hàng có thể đáp ứng...để xác định một hạn mức tín dụng trong một thời kỳ nhất định, đồng thời xác định các tài khoản vay, trả và mức lãi suất từng lần nhận tiền vay. Việc thoả thuận nay phải được ký kết trong hợp đồng tín dụng. Khi có nhu cầu, khách hàng chỉ cần lập uỷ nhiệm chi, séc rút tiền mặt để rút tiền nhưng không được rút vượt quá hạn mức tín dụng. Căn cứ vào các chứng từ của khách hàng, trong phạm vi hạn mức tín dụng cho phép,nếu thấy đủ điều kiện để thực hiện phát tiền vay thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay. Ngân hàng không ấn dịnh thời hạn trả nợ cho từng khoản vay mà việc trả nợ được thực hiện trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể trả nợ nhiều lần trên cơ sở kỳ luân chuyển vốn của mình. Đặc điểm của phương thức cho vay này là việc cho vay và thu nợ đan xen nhau không phân định ranh giới, thời điểm cụ thể lúc nào cho vay và lúc nào thu nợ. Việc cho vay thu nợ được thực hiện thông qua tài khoản cho vay luân chuyển ( bên nợ của tài khoản này phản ánh các khoản tiền vay của khách hàng và bên có của tài khoản này phản ánh các khonả phải trả nợ của khách hàng). +Ưu điểm : Đây là phương thức cho vay năng động, linh hoạt đáp ứng được kịp thời nhu cầu của người vay bởi thủ tục vay vốn đơn giản, thuận tiện. Khách hàng chỉ cần làm thủ tục vay vốn lần đầu còn các lần sau họ chỉ cần gửi đến ngân hàng những chứng từ hoá đơn thích hợp, phù hợp với mục đích sử dụng tiền vay trong hợp đồng tín dụng đã ký kết để nhận tiền vay. Do đó khách hàng hoàn toàn chủ động trong việc vay và trả nợ vay. Về phía ngân hàng, có thể tận thu triệt để những khoản thu mà khách hàng có, kiểm soát được thu nhập của khách hàng, từ đó nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là khả năng tài chính của họ, qua đó coa thể tăng cường quá trình sử dụng vốn của khách hàng và có được những quyết định đúng đắn, kịp thời trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Một ưu điểm nữa của phương thức cho vay này là mặc dù việc cho vay và trả nợ được thực hiện đan xen nhau nhưng vẫn có thể phạt nợ quá hạn đối với đơn vị khi họ không đạt được vòng quay vốn tín dụng như kế hoạch đề ra. +Nhược điểm: theo phương thức cho vay này, ngân hàng và khách hàng ký kết một hợp đồng tín dụng trong đó ngân hàng xác định một hạn mức tín dụng cho khách hàng và được duy trì trong một thời hạn nhất định , tức là ngân hàng phải luôn duy trì một lượng vốn nhất định để sẵn sàng đáp ứng cho nhu cầu vay vốn của khách hàng, điều này dễ làm cho ngân hàng mất thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh, gây nên tình trạng ứ đọng vốn nếu khách hàng không sử dụng hết hạn mức tín dụng. Hơn nữa, việc tính toán thu nợ, thu lãi rất phức tạp, phải thực hiện trên nhiều giấy tờ và có thể mỗi loại lại có mức lãi suất khác nhau. Về phía khách hàng thì không phải lúc nao họ cũng thích sự giám sát rất chặt chẽ của ngân hàng đối với các khoản thu nhập của họ, nhất là trong những trường hợp họ cần dùng nó vào những mục đích tạm thời nào đó. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn về tư liệu sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý, nguồn tài nguyên, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, các donh nghiệp sản xuất kinh doanh chưa ổn định...Do đó, các doanh nghiệp phần lớn không đủ khả năng để thoả mãn các điều kiện mà phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đưa ra. Vì vậy, hiện nay các ngân hàng thương mại chủ yếu áp dụng phương thức chi vay từng lần mà không áp dụng nhiều theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. 2/ Chứng từ và tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay. 2.1) Chứng từ trong kế toán cho vay. Chứng từ dùng trong ké toán cho vay là những loại giấy tờ có giá trị về mặt páhp lý để xác định số tiền ngân hàng cho vay và người vay nhận nợ với ngân hàng, nên từ khâu lập đến khâu kiểm soát, tổ chức bảo quản phải đảm bảo đúng chế độ. Khi thực hiện kế toán máy thì không thuần tuý dùng chứng từ điện tử thay thế mà vẫn phải có chứng từ giấy lưu lại. Mọi sự tranh chấp về các khoản cho vay hay thu nợ đều được giải quyết trên cơ sở các chứng từ kế toán cho vay. Chứng từ kế toán cho vay bao gồm hai loại: chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ. + Chứng từ gốc: là chứng từ được lập trực tiếp khi phát sinh các nghiệp vụ kinh tế. Chứng từ gốc là căn cứ pháp lý cho phép nghiệp vụ kinh tế được thực hiện, Chứng từ gốc được sử dụng trong kế toán cho vay bao gồm: - Giấy đề nghị vay vốn: là chứng từ do khách hàng lập để xin vay vốn ngân hàng trong đó trình bày rõ mục đích vay, số tiền vay. Đây là căn cứ ban đầu để ngân hàng xem xét cho vay. - Hợp đồng tín dụng: là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp nếu có xảy ra giữa khách hàng và ngân hàn - Một số loại giấy tờ khác theo quy chế cho vay, thu nợ, gia hạn nợ...lập trên cơ sở của chứng từ gốc và phải có chứng từ gốc đính kèm. Các loại chứng từ ghi sổ được sử dụgn trong kế toán cho vay bao gồm: - Chứng từ cho vay: nếu cho vay bằng tiền mặt thì chứng từ là séc lĩnh tiền mặt,giấy lĩnh tiền, phiếu chi...còn nếu cho vay bằng chuyển khoản thì dùng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán. - Chứng từ thu nợ: nếu thu bằng tiền mặt thì chứng từ là giấy nộp tiền mặt, séc lĩnh tiền mặt... còn trong trường hợp ngân hàng chủ động trích tài khoản của người vay để thu nợ, thu lãi thì dùng phiếu chuyển khoản và bảng kê tính lãi hàng tháng. Các giấy tờ trong quan hệ tín dụng đòi hỏi phải có đầy đủ tính pháp lý được thể hiện trong chứng từ kế toán cho vay, đó chính là các yếu tố xác định quyền chủ thể cho vay của ngân hàng, chỉ rõ người chịu trách nhiệm nhận nợ và người cam kết trả nợ gốc và lãi theo đúng hạn cho ngân hàng. Cán bộ kế toán cho vay là người chịu trách nhiệm thực hiện các công việc: kiểm tra hồ sơ cho vay theo danh mục quy định và pháp lý của hồ sơ, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục mở tài khoản tiền vay, thủ tục phát tiền vay theo lệnh của giám đốc hoặc người được uỷ quyền, hạch toán các khoản cho vay, thu nợ, thu lãi, chuyển nợ quá hạn theo chế độ quy định cho từng loại vay đồng thời lưu giữ hồ sơ, chứng từ theo quy định. 2.2) Tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay. Tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay là những tài khoản phản ánh toàn bộ số tài sản của ngân hàng cho các đơn vị, tổ chức kinh tế cá nhân vay.Số tài sản này chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản có của ngân hàng nên bộ phận tài khoản này có vị trí quan trọng trong bảng cân đối kế toán ngân hàng. Cụ thể với tài khoản nội bảng. - Tài khoản 20: "Tín dụng đối với các tổ chức tín dụng trong nước" - Tài khoản 21: "Cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước" - Tài khoản 22: "Chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn" - Tài khoản 23: "Cho thuê tài chính" - Tài khoản 24: "Bảo lãnh" - Tài khoản 25: "Cho vay bằng vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư. - Tài khoản 26: "Cầm đồ" - Tài khoản 27: "Tín dụng khác đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước" - Tài khoản 28: "Nợ khoanh" Ngoài ra, kế toán cho vay còn sử dụng những tài khoản khác có liên quan khác trong hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng như: tài khoản tiền lãi cộng dồn dự thu, tài khoản nợ quá hạn, tài khoản dự phòng phải thu khó đòi, các tài khoản ngoại bảng.. +Tài khoản nợ trong hạn: Bên Nợ :phản ánh số tiền ngân hàng cấp cho khách hàng Bên Có: phản ánh số iền ngân hàng thu nợ khách hàng Dư Nợ: phản ánh số tiền khách hàng còn nợ ngân hàng. +Tài khảổn nợ quá hạn: Bên Nợ: phản ánh số tiền mà ngân hàng cấp tín dụng bị chuyển sang quá hạn. Bên Có: phản ánh số tiền mà ngân hàng thu nợ được. Dư Nợ: phản ánh số nợ quá hạn chưa thu hồi được. Cụ thể với tài khoản ngoại bảng. - Tài khoản 921: "Bảo lãnh" - Tài khoản 94: "Lãi chưa thu được" - Tài khoản 95: "Tài sản cho thuê tài chính" - Tài khoản 97: "Nợ khó đòi đã xử lý" - Tài khoản 99: "Tài sản thế chấp cầm cố" 3/ Quy trình hạch toán các phương thức cho vay chủ yếu. 3.1.Hạch toán phương thức cho vay từng lần - Kế toán giai đoạn vay: Căn cứ vào đơn xin vay và các tài liệu của khách hàng nộp vào, ngân hàng tiến hành xem xét nếu quyết định cho vay thì sẽ hạch toán như sau: Nợ: Tài khoản cho vay khách hàng Có: Tài khoản thích hợp. - Kế toán giai đoạn tính lãi cho vay. Ngân hàng có thể hạch toán theo phương pháp lãi cộng dồn dự thu hoặc theo phương pháp thực thu, thường thì theo phương pháp dự thu(hàng tháng) Dư nợ cho vay x Lãi suất cho vay x Số ngày vay Số lãi phải thu = 30 + Nếu áp dụng phương pháp dự thu thì hạch toán: Nợ:Tài khoản lãi cộng dồn dự thu đối với khoản vay đó Có:Thu lãi nợ cho vay Khi khách hàng trả lãi thì hạch toán: Nợ: Tài khoản thích hợp Có:Tài khoản lãi cộng dồn dự thu. Nếu đến thời hạn theo quy định mà khách hàng không trả nợ được thì phải thoái thu lãi cộng dồn và hạch toán ngoại bảng. Nợ: Tài khoản thu lãi cho vay Có: Tài khoản lãi cộng dồn dự thu. Khi khách hàng trả nợ thì ghi xuất tài khoản lãi chưa thu được. + Nếu áp dụng phương pháp thực thu. Căn cứ số lãi thu được nếu khách hàng trả đúng hạn thì ghi. Nợ: Tài khoản thích hợp Có:Tài khoản thu lãi cho vay. Nếu khách hàng không trả đúng hạn thì ghi nhập tài khoản lãi chưa thu được. Khi thu được thì ghi xuất tài khoản 941 và hạch toán: Nợ: Tài khoản thích hợp Có: Tài khoản lãi cho vay. - Kế toán giai đoạn thu nợ. Nếu khách hàng trả nợ đúng hạn thì hạch toán: Nợ: Tài khoản thích hợp Có: Tài khoản cho vay của khách hàng. Nếu khách hàng không trả đúng hạn đã cam kết thì hạch toán: Nợ: Tài khoản nợ quá hạn khách hàng Có: Tài khoản cho vay khách hàng. 3.2) Hạch toán phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. - Kế toán giai đoạn cho vay: Căn cứ chứng từ giải ngân. Nợ:Tài khoản cho vay khách hàng. Có:Tài khoản thích hợp. - Kế toán giai đoạn thu lãi. Hàng tháng ngân hàng tính và thu lãi vào một ngày cố định nào đó, ta có công thức tính như sau: Tích số dư nợ x Lãi suất cho vay trong tháng theo tháng Số lãi phải thu trong tháng = 30 Nếu thu được lãi thì hạch toán: Nợ: Tài khoản tiền gửi của khách hàng. Có:Tài khoản thu lãi cho vay. Nếu khách hàng không trả đúng hạn thì hạch toán vào tài khoản ngoại bảng: Ghi nhập tài khoản lãi chưa thu được. - Kế toán giai đoạn thu nợ: Khi khách hàng trả nợ thì hạch toán: Nợ: Tài khoản thích hợp Có: Tài khoản cho vay khách hàng. 3.3/ Hạch toán các phương thức cho vay khác. Ngoài hai phương thức trên thì tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng có thể sử dụng các phương thức cho vay thích hợp khác nhau và ta có thể hạch toán các phương thức đó như sau: Nợ: Tài khoản cho vay khách hàng. Có: Tài khoản thích hợp. Chương II thực trạng nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh ngân hàng công thương đống đa-hà nội. I/ Đặc điểm hoạt động kinh dOAnh của ngân hàng công thương đống đa- hà nội. 1/ Khái quát môi trường kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội. Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế- chính trị- văn hoá- xã hội của cả nước, nằm trong khu vực tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng- Quảng Ninh; bao quanh là các tỉnh lân cận gồm Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên...; nối liền với hệ thống giao thông vận tải dày đặc nên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của thủ đô. Với đặc thù nền kinh tế Hà Nội chủ yếu là công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ trong đó có sự hỗ trợ đắc lực của nông nghiệp, cho nên quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng, công nghệ khá cao, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ tương đối tốt, khả năng cạnh tranh trên thị trường ngày càng tăng, mặt khác, sự phát triển kinh tế không chỉ tập trung ở đô thị mà còn phân tán ở các huyện thị để tăng thêm nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế chung. Do vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh, giải quyết được phần nào công ăn việc làm cho người lao động, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện đáng kể. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phát triển rất nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế xã hội của thủ đô, dần dần trở thành một ngành không thể thiếu được cho sự phát kinh tế của thủ đô. Trước đó vào những năm 90 ngành ngân hàng đã trải qua thời kỳ đổi mới tuy không dài nhưng đó là thời gian cần thiết và đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng. Đến giai đoạn 91-96 nền kinh tế Hà Nội đã đi vào giai đoạn tăng trưởng và ổn định theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các ngân hàng thương mại quốc doanh đặt trụ sở tại Hà Nội để điều hành hệ thống của minh và điều hoà vốn cho các cơ sở, thực hiện giao dịch quốc tế, boả lãnh vay vốn nước ngoài, kinh doanh ngoại hối, mở rộng huy động vốn, cho vay và đầu tư khác. Các ngân hàng thương mại quận huyện cũng không ngừng mở rộng các phòng giao dịch và làm công tác huy động vốn, cho vay, thu đổi ngoại tệ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, khơi dậy tính năng động, sáng tạo của từng chi nhánh. Tuy nhiên trong thời kỳ 97-98 các ngân hàng thương mại trên địa bàn đã phải gánh chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và khu vực, rồi đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ này 11/9/2001, tuy hậu quả không nặng nề nhưng phần nào cũng tác động đến chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, tiếp đến là sau khi nước ta ký hiệp định thương mại Việt- Mỹ vào năm 2003 có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng vì lúc này các ngân hàng sẽ có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn.Mặc dù vậy sau hơn 10 năm đổi mới, hoạt động của ngành ngân hàng Hà Nội đã giành được những thành tựu hết sức to lớn, tạo đà cho những bước phát triển mới trong những giai đoạn tiếp theo, góp phần dáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế thủ đô nói riêng và của đất nước nói chung. Nhìn chung kinh tế của quận Đống Đa tăng trưởng mạnh vào năm 2001 và tiếo tục tăng trưởng vào năm 2002 cũng như năm 2003 ở tất cả các thành phần kinh tế cá thể, tập thể, hợp tác xã...tuy nhiên ở các doanh nghiệp Nhà nước thì có phần những lại, hiệu quả kinh doanh chưa cao. Ngoài ra, trên địa bàn quận còn tập trung nhiều tổ chức tín dụng như ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng người nghèo...cùng các hoạt động ngày càng mở rộng của các tổ chức Bưu điện, Bảo hiểm, Quỹ tiết kiệm nhà ở...Đây là những tổ chức đang cạnh tranh gay gắt với chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, tốc độ tăng trưởng nhanh là tiền đề để mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là cơ sở để mở rộng nguồn vốn cũng như mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Trước bối cảnh đó, trong những năm qua tại cho nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội các nguồn vốn huy động từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế Nhà nước, tư nhân...đã không ngừng gia tăng năm sau cao hơn năm trước. Từ nguồn vốn huy động, các hoạt động cho vay và các dịch vụ ngân hàng khác như dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, uỷ thác đầu tư, đại lý...cũng không ngừng đổi mới và phát triển. Những hoạt động của ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội trong thời gian qua đã có tác động tích cực không chỉ đến các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn tác động đến các mặt chính trị, văn hoá xã hội của quận Đống Đa và của thành phố Hà Nội. Có thể nói, Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế quận phát triển. 2/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội. 2.1/ Mô hình tổ chức bộ máy của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội. Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thuộc hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam nằm trên địa bàn quận Đống Đa, được thành lập theo quyết định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng. Tuy nhiên, trước đó khá lâu vào năm 1955 nó đã được manh nha hình thành ban đầu là một phòng thương nghiệp thuộc Đống Đa. Năm 1957 đổi thành chi điểm Ngân hàng Nhà nước khu Đống Đa, năm 1987 được chuyển thnàh chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Đống Đa và cuối cùng đến năm 1988 mới chính thức được gọi là chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội. So với nhiều Ngân hàng thương mại khác, có thể bề dày kinh nghiệm của ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội có phần khiêm tốn, nhưng khoảng thời gian gần 15 năm hoạt động cũng đủ dài để khẳng định hướng đi đúng đắn cũng như vai trò vị trí của ngân hàng trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Với phương châm "nhanh chóng - chính xác- an toàn- hiệu quả" trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí và với phong cách phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội ngày càng tạo được uy tín đối với khách hàng. Đối với Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội, ngoài mục tiêu chủ yếu là doanh lợi như bao Ngân hàng khác còn chú trọng đến lợi ích phát triển kinh tế xã hội, thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Là chi nhánh loại 1 của Ngân hàng công thương Việt Nam một chi nhánh lớn trên địa bàn thành phố Hà Nội cả về quy mô và phạm vi hoạt động, mô hình bộ máy tổ chức của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội bao gồm: - Một trụ sở chính đặt tại số 187 phố Tây Sơn- Đống Đa- Hà Nội. - Hai phòng giao dịch Kim Liên và Cát Linh đặt tại phường Kim Liên và phố Cát Linh. - Hệ thống các bàn tiết kiệm đặt rải rác trên địa bàn quận. Chức năng hoạt động cụ thể của các phòng ban được khái quát như sau: + Phòng nguồn vốn: thực hiện huy động vốn từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế...trên địa bàn quận mà chủ yếu là huy động vốn từ các tầng lớp dân cư (chiếm 67%) với sự hỗ trợ của quỹ tiết kiệm đặt rải rác trên toàn bộ địa bàn quận nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. + Phòng kinh doanh: là một trong những phòng quan trọng, tập trung những hoạt động chính của ngân hàng, nó quyết định phần lớn kết quả kinh doanh của ngân hàng, thực hiện cho vay đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân... đồng thời cung cấp thông tin giúp giám đốc điều hành hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Phòng kinh doanh được chia làm ba bộ phận: tín dụng thương nghiệp quốc doanh, tín dụng công nghiệp quốc doanh, tín dụng ngoài quốc doanh. + Phòng kinh doanh đối ngoại: phụ trách những hoạt động liên quan đến đối ngoại tại ngân hàng như thực hiện mua bán ngoại hối, thanh toán ngoại tệ với khách hàng, nhận tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức mở tài khoản. + Phòng kế toán tài chính: thực hiện các công việc liên quan đến thanh toán qua ngân hàng như mở tài khoản tiền gửi, thanh toán các loại séc, ngân phiếu...thực hiện thanh toán nội bộ, thanh toán qua hệ thống điện tử và thanh toán bù trừ. Đồng thời thực hiện hạch toán tất cả các chứng từ liên quan đến tiền như cho vay, nhờ thu, thanh toán liên hàng, hạch toán và quản lý tài sản, các khoản thu chi bằng tiền của ngân hàng, chi tiêu mua sắm tài sản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Ngoài ra, còn phải quản lý các loại chứng từ liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ việc tiếp nhận, xử lý cho đến khâu bảo quản, luân chuyển và lưu giữ. Trưởng phòng kế toán phải chịu trách nhiệm trước giám đốc về việc kiểm soát tính hợp lệ hợp pháp của các chứng từ thanh toán, về các quyết định chuyển tiền đi và chuyển tiền đến cũng như việc hạch toán vào các tài khoản thích hợp đảm bảo theo đúng chế độ và thể lệ kế toán quy định. + Phòng tiền tệ kho quỹ: đảm nhận nhiệm vụ thu chi tiền mặt đối với các nghiệp vụ ngân hàng phát sinh, lưu giữ, bảo quản các loại giấy tờ có giá như séc, giấy tờ thế chấp tài sản, ngân phiếu thanh toán và các loại giấy tờ có giá khác, điều hoà lượng tiền mặt trong lưu thông theo chỉ thị của cấp trên. + Phòng tổ chức hành chính: thực hiện nhiệm vụ quản lý hồ sơ, lý lịch của cán bộ, sắp xếp tuyển dụng nhân viên, đề bạt nâng lương, thưởng cán bộ công nhân viên. + Phòng thông tin điẹn toán: nhận truyền thông tin kịp thời, cung cấp số liệu nhanh chóng, chính xác, kịp thời và đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi cho ban lãnh đạo trong công tác quản lý điều hành dạt hiệu quả cao. + Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ: có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của ngân hàng hàng ngày và báo cáo về trung ương. + Hai phòng giao dịch Kim Liên và Cát Linh: hoạt động tương tự như hoạt động tại trụ sở chính, thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng. Với bộ máy được tổ chức một cách khoa học như trên đã nâng cao được chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội hoạt động trên lĩnh vực công thương nghiệp là chủ yếu nên đối tượng khách hàng tập trung vào các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong những ngành nghề chủ chốt như xây dựng, thương mại, công nghiệp, chế biến nông nghiệp...Là thành viên của hệ thống tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) nên Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng và các yêu cầu về dịch vụ ngân hàng quốc tế một cách nhanh chóng, chính xác, thuận tiện và có hiệu quả nhất với các phương tiện công nghệ ngân hàng hiện đại và tinh thần phục vụ nhiệt tình chu đáo. 2.2/ Kết quả kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội. Với phương châm "Sự thành bại của khách hàng cũng chính là sự thành bại của ngân hàng" sau nhiều năm hoạt động thì ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế, góp phần quan trọng trong việc xây dựng thủ đô, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh. Trong suốt quá trình hoạt động Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao và an toàn, được đánh giá là một trong những ngân hàng hàng đầu trong hệ thống ngân hàng công thương về tổ chức cũng như kinh doanh. Bước sang thế kỷ XXI cùng với sự chuyển mình của đất nước trong tiến trình hội nhập xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội ngày càng nhận thức được vai trò to lớn của mình, vì vậy Ngân hàng đã và đang từng bước đa dạng hóa các nghiệp vụ tín dụng và đầu tư đảm bảo tăng trưởng tín dụng phù hợp với tăng trưởng kinh tế, từ đó góp phần tích cực vào việc phục vụ đắc lực cho chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng của Đảng và Nhà nước. 2.2.1/ Về hoạt động huy động vốn. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh được đều phải có vốn, vốn phản ánh quy mô hoạt động và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Riêng đối với các Ngân hàng thương mại thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng, vốn là cơ sở để các ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, vốn quyết định quy mô hoạt động, uy tín khả năng thanh toán và khả năng cạnh tranh trên thị trường của các ngân hàng. Có thể nói nguồn vốn quyết định đến quy mô hoạt động nói chung, quy mô hoạt động tín dụng nói riêng và là tiền đề để mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng của mỗi ngân hàng, ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh lớn sẽ có ưu thế trên thị trường. Trong các loại nguồn vốn thì huy động vốn là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại, nó giữ vai trò quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Đây là nguồn vốn mà ngân hàng huy động từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau như tièn gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu...hoặc qua các nghiệp vụ thị trường khác. Vốn huy động thực chất là tài sản nợ mà ngân hàng huy động được từ các chủ thể khác trong nền kinh tế, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Nghiệp vụ huy động vốn đóng vai trò rất quan trọng và là cơ sở để cho nghiệp cụ tín dụng tồn tại và phát triển. Xuất phát từ yêu cầu và tình hình thực tế nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động, trong những năm qua ngân hàng đã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công tác huy động vốn dưới mọi hình thức khác nhau như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, phát hành kỳ phiếu có mụ đích trả lãi trước, trả lãi sau, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế để đảm bảo quy mô nguồn vốn không ngừng tăng trưởng. Thực hiện tốt các chính sách về khách hàng, về lãi suất và phí dịch vụ hấp dẫn để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và dân cư trên đại bàn. Đồng thời, ngân hàng chú trọng hoàn thiện dịch vụ kiểm ngân, thu hộ, chi hộ cho những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường quốc tế để thu hút tiền gửi ngoại tệ. Đổi mới phong cách giao dịch với thái độ lịch sự, chu đáo và làm tốt công tác tiếp thị nên chi nhánh đã tạo được uy tín đối với khách hàng, không ngừng thu hút thêm nguồn vốn cho ngân hàng. Mặt khác, để hấp dẫn khách hàng đến gửi tiền ngân hàng còn đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, xây dựng hệ thống giao dịch thuận tiện, cơ sở vật chất khang trang... Chính vì thế, trong những năm gần đây nguồn vốn của ngân hàng đã có sự tăng trưởng đáng kể thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. ĐVT: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 ST % ST % ST % 1/ Tiền gửi tiết kiệm -Không kỳ hạn -Có kỳ hạn 2/Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 3/Kỳ phiếu 1230 25 1205 750 30 61,19 1,24 59,95 37,31 1,49 1360 20 1340 800 160 58,62 0,86 57,76 34,48 6,89 1700 25 1675 900 106 62,2 0,92 61,9 33,26 3,91 Cộng 2010 100 2320 100 2706 100 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. Năm 2002 tổng nguồn vốn huy động đạt 2320 tỷ đồng tăng 310 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 15,4% so với năm 2001, năm 2003 tổng nguồn vốn huy động đạt 2706 tỷ đồng tăng 386 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 16,6% so với năm 2002. Trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thì nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư chiếm tỷ trọng cao nhất: 61,19% (năm 2001); 58,62% (năm 2002); 62,82% (năm 2003). Đây là nguồn vốn có lãi suất và tốc độ tăng trưởng vững chắc, ổn đinh mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên chi phí trả lãi suất cho loại tiền gửi này rất cao cho nên ngân hàng phải có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý để tránh ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn tiền gửi này chia làm hai loại: -Tiền gửi không kỳ hạn: đây là loại tiền gửi trả lãi thấp do nhu cầu tiền gửi vào và rút ra của khách hàng là thường xuyên và ngân hàng không kế hoạch đựơc. Trong rổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất thấp, chỉ khoảng 1%. -Tiền gửi có kỳ hạn: nguồn tiền gửi này ngân hàng phải trả lãi cao nên số lượng huy động được là rất lớn và ngày càng tăng qua các năm: năm 2001 là 1205 tỷ đồng, năm 2002 là 1340 tỷ đồng, năm 2003 là 1675 tỷ đồng. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay trung, dài hạn vì tính chất ổng định của nó. Bên cạnh đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi của tổ chức kinh tế tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng lại giữ vị trí rất quan trọng, vì đây là nguồn vốn có quy mô thường rất lớn, chi phí trả lãi lại thấp hơn nhiều so với các loại tiền gửi khác. Trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã nỗ lực rất nhiều trong việc khơi tăng laọi tiền gửi này để giảm lãi suất đầu vào, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể năm 2001 tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm 37,31%, năm 2002 chiếm 34,48%, năm 2003 chiếm 33,26%. Sở dĩ có sự thay đổi này là do xu hướng mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng. -Việc phát hành các loại kỳ phiếu cũng có sự biến động đáng kể qua các năm: năm 2001 là 30 tỷ đồng chiếm 1,49% tổng nguồn vốn huy động, năm 2002 là 160 tỷ đồng chiếm 6,89%, năm 2003 là 106 tỷ đồng chiếm 3,91%. Có sự biến động này có thể là do: + Đây là cách huy động vốn mà chủ yếu là vốn trung dài hạn với chi phí huy động cao nên khi lượng tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi trong thanh toán đã đáp ứng được nhu cầu huy động vốn ngắn hạn và một phần vốn trung dài hạn thì ngân hàng hạn chế bớt số lượng phát hành. + Nhu cầu mua của người dân giảm xuống sau một thời gian lãi suất kỳ phiếu ngân hàng tăng lên liên tục để bù đắp sự thiếu hụt vốn của các ngân hàng thì nay đã ổn định. Tóm lại trong những năm qua chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã thực hiện tốt công tác huy động vốn, nguồn vốn tăng lên liên tục và ổn định trong thời gian dài, đáp ứng thoả mãn nhu cầu hoạt động đầu tư của ngân hàng, ngoài ra còn thường xuyên vượt kế hoạch điều chuyển vốn về Ngân hàng Công thương Việt Nam để điều hoà vốn trong toàn hệ thống và số vốn điều hoà được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2: Vốn điều chuyển đi của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. ĐVT: Tỷ đồng Năm Kế hoạch Thực hiện 2001 2002 2003 231 185 600 435 250 690 Nguồn: Báo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. 2.2.2/ Về hoạt động sử dụng vốn Song song với nghiệp vụ về huy động vốn thì nhu cầu về sử dụng vốn đóng vai trò quyết định trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, những sai lầm trong công tác sử dụng vốn sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường, thậm chí có thể làm phá sản một ngân hàng và ảnh hưởng không nhỏ đến toàn hệ thống. Tình hình sử dụng vốn hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng đầy khó khăn và được các ngân hàng rât quan tâm, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội cũng không ngoại lệ. Ngân hàng luôn coi trọng gnhiệp vụ sử dụng vốn, đặt công tác tín dụng lên hàng đầu, thực hiện đúng các chủ trương của Nhà nước và của ngành, trong những năm qua Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã tập trung vốn huy động để thực hiện đầu tư có trọng điểm và cho vay đối với kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện giúp đỡ kinh tế quốc doanh giữ vững vai trò chủ đạo của mình đồng thời cũng tích cực mở rộng hoạt động tín dụng tới tất cả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thực hiện đa dạng hóa các hình thức cho vay. Ngoài cho vay ngắn hạn ngân hàng còn thẩm định và đầu tư cho vay trung dài hạn đáp ứng chương trình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn quận. Trong những năm qua với sự quyết tâm nỗ lực, bằng nhiều giải pháp tích cực, sáng tạo nên hoạt động cho vay của chi nhánh đã vượt qua những khó khăn, giữ vững ổn định và tiếp tục phát triển cả về tốc độ tăng trưởng và chất lượng đầu tư. Kết quả hoạt động cho vay đáng được ghi nhận, dư nợ tín dụng tăng trưởng lành mạnh và vững chắc. Điều đó được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. ĐVT: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 ST % ST % ST % 1/ Doanh số cho vay -Ngắn hạn- Trung dài hạn 2/Doanh số thu nợ -Ngắn hạn -Trung dài hạn 3/Dư nợ -Ngắn hạn -Trung dài hạn 4/ Nợ quá hạn -Ngắn hạn -Trung dài hạn 1740 1495 245 1100 1040 60 1490 905 585 11 11 0 100 85,92 14,08 63,22 59,77 3,45 100 60,74 39,26 1763 1560 203 1583 1546 37 1670 909 751 10 10 0 100 88,48 11,51 89,79 87,69 2,1 100 54,43 44,97 2400 2130 270 2628 2533 95 2042 1116 926 8 8 0 100 88,75 11,25 109,5 105,54 3,96 100 54,65 45,35 Nguồn: Báo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. Qua bảng số liệu trên ta thấy, doanh số cho vay của ngân hàng năm sau đều cao hơn năm trước: năm 2001 thu được 1100 tỷ đồng đạt tỷ trọng 63,22%, năm 2002 thu được 1583 tỷ đồng đạt tỷ trọng 89,79%, năm 2003 thu được 2628 tỷ đồng đạt 109,5% vượt kế hoạch. Nhưng bên cạnh đó thì dư nợ tín dụng cũng tăng lên năm 2001 là 1490 tỷ đồng, năm 2002 là 1670 tỷ đồng, năm 2003 là 2042 tỷ đồng. Song tình hình nợ quá hạn của ngân hàng lại giảm đi qua các năm, năm 2002 giảm từ 11 tỷ xuống 10 tỷ và năm 2003 giảm từ 10 tỷ xuống 8 tỷ đồng, điều đó chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng ngày càng được cải thiện, lành mạnh các khoản tín dụng, phòng tránh rủi ro trong kinh doanh. Nếu xét theo thời hạn cho vay thì cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng doanh số cho vay và có xu hướng phát triển trong những năm gần đây, năm 2001 là 1495 tỷ đồng chiếm 85,92%; năm 2002 là 1560 tỷ đồng chiếm 88,48%; năm 2003 là 2130 tỷ đồng chiếm 88,75%; cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm từ năm 2001 đến năm 2002, nhưng lại tăng ở năm 2003, cụ thể: năm 2001 là 245 tỷ đồng chiếm 14,08%; năm 2002 là 203 tỷ đồng chiếm 11,51%; năm 2003 là 270 tỷ đồng chiếm 11,25%. Dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn và tăng dần qua các năm gần đây nhưng do tốc độ tăng của dư nợ ngắn hạn nhỏ so với tốc độ tăng của tổng dư nợ nên tỷ lệ này lại có xu hướng giảm. Bên cạnh đó thì ta thấy năm 2003 chi nhánh luôn chú trọng đầu tư cho vay trugn dài hạn giúp các doanh nghiệp đổi mới dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Tỷ lệ dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm 45% trong tổng dư nợ: - Đầu tư cho tổng công ty công trình giao thông 8 thi công dự án đường vành đai 3 đoạn Mai Dịch- Pháp Vân thành phố Hà Nội, đây là dự án trọng điểm đã được Chính phủ phê duyệt, tổng trị giá vốn Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội đầu tư 120 tỷ đồng. - Dự án đầu tư bổ xung Lò đúc kéo đồng , lò cán nhôm liên tục và dự án hoàn thiện thiết bị cộng nghệ sản xuất dây và cáp nhôm, dây vá cáp đồng, dây đồng mền bọc nhựa PVC của Công ty cơ điện Trần Phú. - Đầu tư cho Tổng công ty Bưu chính viễn thông nâng cấp mạng phủ sóng Vinaphone tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khác. Có thể nói đầy là hướng đi đúng đắn của ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội thể hiện tầm nhìn xa rộng của ban lãnh đạo nếu thực hiện tốt chiến lược này thì chắc chắn đây là điều kiện thụân lợi để ngân hàng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường, bởi đây là nguồn vốn có đầu vào thấp đó sẽ là cơ hội để tăng lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên cho vay trung dài hạn rủi ro lớn vì sự biến động của thời thế và chính sách vì vậy đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thận trọng hơn đối với những món cho vay loại này. Đạt được kết quả như trên là do sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội nói chung và cán bộ phụ trách mang công việc này nói riêng, họ đã thực hiện nghiêm túc quá trình cho vay thẩm định kỹ phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng để có những biện pháp xử lý kịp thời, đúng đắn. Đồng thời ngân hàng đã đi sâu vào việc chấn chỉnh công tác tín dụng, thường xuyên kiểm tra rà soát và xử lý kịp thời những tồn tại, thiếu sót trong hạot động tín dụng để dảm bảo an toàn, lành mạnh trong hoạt động của mình. 2.2.3/ Về công tác kế toán và thanh toán. Công tác kế toán và thanh toán cũng được chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội chú trọng và thực hiện tốt, tổ chức hạch toán đầy đủ, kịp thời, chính xác, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh hàng ngày trong ngân hàng, chấp hành đúng chế độ hạch toán kế toán, thu chi tài chính, thực hiện tốt các tỷ lệ an toàn đảm bảo được kế haọch cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, an toàn chi trả, đảm bảo khả năng thanh toán trong toàn chi nhánh. Công tác kế toán chi tiêu nội bộ chấp hành tốt chế độ quản lý vốn về đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản cố định, trích nộp các khoản phải nộp theo đúng quy định, hạch toán đầy đủ , rõ ràng, chính xác các khoản chi tiêu nội bộ. Công tác kế toán thanh toán thực hiện tốt đảm bảo an toàn nhanh chóng chính xác. Mọi chứng từ kế toán đều được kiểm soát chặt chẽ, nhìn chung đều chấp hành đúng chế độ chứng từ, đảm bảo tính pháp lý và hạch toán đúng chế độ, những sai sót nhỏ được phát hiện hịp thời và có biện pháp chấn chỉnh ngay. Bên cạnh đó, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội cũng đã thực hiện tốt có hiệu quả các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, chuyển tiền nhanh , thanh toán liên hàng và thanh toán bù trừ qua Ngân hàng Nhà nước...Có được thành tích trên là do Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã thực hiện tốt việc chỉ đạo của các cấp vĩ mô, biết đầu tư đúng hướng, từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhất là trong khâu thanh toán. Nhờ áp dụng thành tựu tin học vào các lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng đã đạt được những kết quả tích cực vừa thu hút mở rộng chiến lược khách hàng, vừa thúc đẩy các mặt nghiệp vụ ngân hàng khác cùng phát triển. 2.2.4/ Về kết quả tài chính. Do có những bước tiến đáng kể trong hoạt động kinh doanh ngân hàng mà lợi nhuận của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã ngày càng tăng lên, điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 4: Kết quả tài chính của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội ĐVT: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 ST % ST % ST % Tổng thu nhập 130 100 147 100 180 100 -Lãi tiền gửi -Lãi tiền vay -Lãi khác 35 93 2 26,92 71,54 1,54 20 120 7 13,6 81,63 4,77 40 137 3 22,22 76,11 1,67 Tổng chi phí 105 100 108 100 142 100 -Lãi tiền gửi -Lãi tiền vay -Lãi khác 17 78 10 16,2 74,28 9,52 20 70 18 18,52 64,81 16,67 35 77 30 24,65 54,22 21,13 Tổng lãi 25 39 38 Nguồn: Báo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. Qua bảng số liệu ta thấy cơ cấu thu nhập- chi phí của ngân hàng đã có sự thay đổi đáng kể trong những năm gần đây, cụ thể là tỷ trọng lãi tiền gửi, lãi tiền vay, lãi khác đều có xu hướng tăng lên ở năm 2002, nhưng lại có xu hướng giảm ở năm 2003. Sự tăng giảm biến động này là do lãi khác trong tổng thu nhập của năm 2003 giảm so với năm 2002 trong khi đó lãi khác trong tổng chi phí năm 2003 lại tăng lên rất nhiều. Như vậy nguyên nhân chính là do lãi khác trong tổng thu nhập năm 2003 giảm từ 4,77% xuống 1,67%; còn tỷ lãi khác trong tổng chi phí lại tăng từ 16,67% lên 21,13%. Có thể nói trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh tièn tệ tín dụng chịu ảnh hưởng của nhièu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và nhiều yếu tố tác động của nền kinh tế nước ta, nhiều lần thay đổi lãi suất huy động, lãi suất cho vay làm ảnh hưởng đến kết quả tài chính của ngân hàng, song nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của các cấp có thẩm quyền và ban lãnh đạo của ngân hàng mà kết quả hoạt động kinh doanh củ ngân hàng được đảm bảo và ngày càng gia tăng, nhờ vậy đã tạo cho ngân hàng một thế đứng vững chắc trong cơ chế thị trường, nâng cao sức cạnh tranh, tạo được ấn tượng tốt đẹp cho khách hàng và do đó mà khách hàng đã chọn và đến với ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nôị. 2.2.5/ Về các mặt hoạt động khác. Để thich sứng hơn nữa với cơ chế thị trường, ngân hàng đáp ứng được tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của khách hàng, bên cạnh đó hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội còn mở rộng thêm các hoạt động khác, một mặt vừa tạo thêm thu nhập cho ngân hàng mặt khác vừa giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Về thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại: hoạt động mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hối, phát hành L/C, thanh toán L/C ngày càng phát triển. Với mục tiêu phuạc vụ khách hàng là chính, đảm bảo có lãi và an toàn ngoại hối, trong những năm qua Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đã đáp ứng kịp thời nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng và làm tăng thêm thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Cụ thể thu phí hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm 2003 là 3tỷ 928 triệu đồng, mở L/C nhập khẩu 357 món trị giá là 41,394,647 USD, thanh toán hàng nhập khẩu là 1258 món trị giá 50,500,894 USD. Mặt khác do đặc điểm trên địa bàn có ít doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu chủ yếu khách hàng là những đơn vị sản xuất thường xuyên nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, vì vậy nghiệp vụ thị trường quốc tế tại chi nhánh chủ yếu phục vụ cho mở L/C nhập khẩu, thanh toán chuyển tiền và nhờ thu nhập khẩu. Ngoài ra dịch vụ chi trả kiều hối được tổ chức bố trí các bộ phận hợp lý nhằm đảm bảo an toàn, nhanh chóng và tiện lợi, cụ thể doanh số chi trả kiều hối trong năm 2003 là 491 món với trị giá 1,199,330 USD. Với phương châm luôn đề cao việc đào tạo đội ngũ cán bộ, coi con người là yếu tố quyết định cho mọi sự thành bại, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội rất chú ý đến việc bố trí sắp xếp cán bộ công nhân viên có kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng nghiệp cụ đáp ứng yêu cầu củ từng nghiệp vụ chuyên môn. Tổ chức tuyển dụng thực hiện việc đề bạt, điều động, nâng bậc lương ... Tóm lại, trong điều kiện thị trường có nhiều biến động tạo không ít khó khăn cho hoạt động của ngân hàng nhưng nhìn chung trong những năm qua hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất ổn định, phát triển khá và đạt hiệu quả cao, giải quyết đủ việc làm và tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, đồng thời thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước. Có được kết quả đó là do sự quan tâm của ban lãnh đạo và sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan khác. Ngoài ra còn do sự cố gắng nỗ lực của ban giám đốc, các trưởng phòng ban cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngân hàng. Đó cũng chính là những nhân tố chủ yếu để Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội co thể thực hiện tốt những nhiệm vụ của năm 2003. II/ Thực trạng nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng công thương đống đa- hà nội. 1/Tài khoản và chứng từ sử dụng 1.1/Tài khoản sử dụng. Để hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát dinh khi thực hiện hoạt động cho vay Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội cũng sử dụng các tài khoản cho vay thông thường theo quy định, ví dụ như các tài khoản loại 2 tài khoản nợ quá hạn, tài khoản ngoại bảng...và được mở chi tiết cho từng đối tượng khách hàng theo các chỉ tiêu nhất định về thời hạn vay hay các phương thưc cho vay khác nhau. 1.2/ Chứng từ sử dụng. - Chứng từ gốc: gồm có hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản và các loại giấy tờ liên quan khác. Đây là những chứng từ có giá trị pháp lý cao về khoản tiền ngân hàng đã cho khách hàng vay, đồng thời cũng là căn cứ để kế toán hạch toán cho vay, thu nợ cho ngân hàng. Nội dung và hình thức của các chứng từ này đã được quy định và được in sẵn theo mẫu, trong đó có đầy đủ tất cả các yêu tố cần thiết, kế toán có trách nhiệm giúp khách hàng lập và phải tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các chứng từ đó mỗi khi khách hàng có nhu cầu vay vốn. Nếu các chứng từ này đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì khách hàng sẽ được nhận tiền vay. Khách hàng và ngân hàng đều phải tôn trọng tất cả các điều khoản đã ghi trong các giấy tờ này. - Chứng từ ghi sổ: là những chứng từ mà kế toán căn cứ vào đó để phản ánh vào tài khoản nội bảng hay ngoại bảng. Chứng từ ghi sổ mà Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội sử dụng bao gồm:giấy lĩnh tiền mặt, ngân phiếu thanh toán, uỷ nhiệm chi, séc thanh toán...Nhìn chung, các loại chứng từ ghi sổ được sử dụng tại Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội rất phong phú và đa dạng phù hợp với từng mặt nghiệp vụ, từng loại vốn vay, từng hình thức thanh toán. Các chứng từ này cũng được lập và in theo mẫu của ngân hàng, kế toán phải tiến hành kiểm tra, kiểm soát kỹ lưỡng nếu đúng thì kế toán cho vay sẽ mở sổ chi tiết cho khách hàng. 2/Về điều kiện cho vay. Thực hiện theo quyết định 1267/QĐ - NHNN ban hành ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành "Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng" Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau: - Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, cụ thể là: + Pháp nhân phải có đủ các điều kiện được công nhận là pháp nhân và phải có năng lực pháp luật dân sự. + Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. + Đại diện hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. + Đại diện tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết: + Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh. + Kinh doanh phải có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng đối với ngân hàng. + Đối với pháp nhân và doanh nghịêp tư nhân phải có năng lực tài chính lành mạnh và phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. + Đối với các khách hàng vay vốn phục vụ đời sống phải có nguồn thu nhập ổn định để trả nợ ngân hàng. - Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của thành phố, phù hợp với điều lệ, kế hoạch và giấy phép kinh doanh, phù hợp với mục đích được giao, thuê, khoán quyền sử dụng đất, mặt nước. - Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo khi phương án trả nợ khả thi. - Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. 3/ Về thời hạn cho vay Khách hàng và ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội sẽ thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại cho vay ngắn hạn hoặc cho vay trung dài hạn. - Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Thường là các thời hạn: 3 tháng, 6 tháng , 9 tháng hay 12 tháng. - Cho vay trung dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của ngân hàng. +Thời hạn cho vay trung hạn: từ 12 tháng đến 60 tháng +Thời hạn cho vay dài hạn: từ trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống. 4/Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay luôn là vấn đề nóng bỏng không chỉ được ngành ngân hàng mà rộng rãi các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế rất quan tâm, bởi vì nó là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ, các mâu thuẫn liên quan trực tiếp đến lợi ích vật chất. Một mặt, nếu lãi suất được sử dụng đúng đắn, uyển chuyển linh hoạt phù hợp với những điều kiện tình hình thực tế từng thời kỳ nhất định có tác dụng trực tiếp và rất quan trọng đến việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cũng như có tác dụng kích thích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó tạo thêm việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung. Nhưng mặt khác, nếu sử dụng lãi suất một cách cố định cứng nhắc thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này nhưng chuyển sang thời kỳ khác với những thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội lại trở thành vật cản kìm hãm trói buộc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Việc xác định mức lãi suất cho vay do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định chung của Ngân hàng nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết, lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước.Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn heo mức quy định của Thống đốc ngân hàng nhà nước tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng( thường thì lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay thông thường) Hiện nay, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đang áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau đối với từng loại hình cho vay, từng đối tượng khách hàng vay...trong khung lãi suất quy định của Ngân hàng Nhà nước nhằm thu hút mọi đối tượng khách hàng và giữ được khách hàng.Cụ thể: Bảng 5: Lãi suất cho vay tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. Chỉ tiêu Thực hiện 1.Lãi suất VND (% tháng) - Cho vay ngắn hạn. - Cho vay trung hạn - Cho vay dài hạn 0,65%-0,8% 0,65%-0,8% 0,65%-0,8% 2. Lãi suất USD (% năm) - Cho vay ngắn hạn - Cho vay trung hạn - Cho vay dài hạn 4,7%-6,2% 5,4%-6,8% 5,3%-6,9% Nguồn: Báo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. 5/Về thủ tục và hồ sơ cho vay. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn họ phải lập hồ sơ tín dụng và các tài liệu liên quan khác gửi tới ngân hàng. Trên cơ sở thẩm định của cán bộ tín dụng, nếu đủ điều kiện sẽ đồng ý cho vay và tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản, nếu không đồng ý thì phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản.Bộ phận kế toán khi nhận được hồ sơ tín dụng và các chứng từ phát tiền vay do bộ phận tín dụng chuyển đến thì phải kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của các chứng từ, các yếu tố ghi trên hợp đồng tín dụng như dấu, chữ ký của khách hàng và ngân hàng xem có khớp với mẫu không . Tuỳ theo từng loại khách hàng, phương thức cho vay mà bộ hồ sơ cho vay bao gồm các loại giấy tờ khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản bộ hồ sơ cho vay bao gồm: - Hồ sơ do khách hàng lập và cung cấp: Khi có nhu cầu vay vốn khách hàng phải gửi tới ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội các giấy tờ sau: +Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp +Điều lệ doanh nghiệp ( trừ doanh nghiệp tư nhân) +Quyết định bổ nhiệm giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, công nhận ban quản trị và chủ nhiệm hợp tác xã. +Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh +Giấy phép hành nghề +Giấy phép đầu tư (đối với công ty liên doanh) +Hợp đồng liên doanh +Hồ sơ dự án đối với cho vay trung dài hạn. +Kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ. +Bảng cân đối kế toán, bảng tổng kết tài sản, kết quả hoạt đông kinh doanh kỳ trước. +Báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh kỳ trước. +Các giấy tờ cần thiết khác theo quy định của pháp luật. -Hồ sơ do ngân hàng lập: +Báo cáo thẩm định, tái thẩm định. +Các loại thông báo: thông báo từ chối cho vay, thông báo cho vay, thông báo gia hạn nợ, thông báo nợ đến hạn, thông báo tạm ngừng cho vay, thông báo chấm rứt cho vay. +Báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, báo cáo phân tích tình hình tài chính . +Sổ theo dõi cho vay dùng cho cán bộ tín dụng. -Hồ sơ do khách hàng và ngân hàng cùng lập: +Hợp đồng tín dụng hoặc sổ vay vốn +Hợp đồng đảm bảo tiền vay. 6/ Về quy trình hạch toán: 6.1/ Kế toán giai đoạn cho vay. Bộ phận kế toán cho vay sau khi nhận được hồ sơ vay vốn , kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của bộ hồ sơ xem đã đúng quy định chưa, sau đó nếu thấy hợp lệ và căn cứ vào số ièn cho vay sẽ hạch toán như sau: Nợ : tài khoản cho vay thích hợp ( chi tiết từng khách hàng) Có: tài khoản thích hợp ( tiền mặt , tiên gửi của người thụ hưởng) Đồng thời lập phiếu nhập tài khoản ngoại bảng: tài khoản thế chấp, cầm cố. Xét trường hợp cụ thể sau: Ngày 10/4/2004 ông Đỗ Văn An đến Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội xin vay vốn để sản xuất kinh doanh số tiền là 20 triệu đồng, có tài sản thế chấp cầm cố 7 triệu đồng với lãi suất 0,7%/tháng, lãi được trả hàng tháng vào ngày 24.Khi đó kế toán cho vay căn cứ vào hợp đồng tín dụng đã được ký kết giữa ông An và ngân hàng, các chứng từ sổ sách liên quan hạch toán như sau: Ghi nợ: tài khoản cho vay ông An :20 triệu đồng Ghi có: tài khoản tiền mặt :20 triệu đồng. Đồng thời ghi nhập tài khoản ngoại bảng 994 : 7 triệu đồng. Kế toán cho vay phải theo dõi ghi chép đầy đủ các yếu tố trên hợp đồng tín dụng như ngày tháng năm, số tiền vay, ngày trả nợ, trả lãi...sau đó ký và lấy chữ ký nhận tiền vay của khách hàng. Giao một liên hợp đồng tín dụng kiêm khế ước vay tiền cho khách hàng, một liên kèm các chứng từ khác trong bộ hồ sơ vay vốn lưu lại bộ phận kế toán cho vay để thu nợ. 6.2/Kế toán giai đoạn thu nợ: Khi đến thời hạn thanh toán nợ vay thì khách hàng có trách nhiệm phải trả nợ cho ngân hàng, có thể trả bằng tiền mặt hay trích từ tài khoản tiền gửi của mình để trả nợ, kế toán căn cứ vào chứng từ để hạch toán: Nợ: tài khoản thích hợp ( tiền mặt hay tiền gửi của khách hàng) Có: tài khoản cho vay. Đồng thời ghi phụ lục hợp đồng tín dụng số tiền đã thu, ngày tháng năm và rút số dư, cũng như ví dụ trên nếu ông An đem tiền mặt đến trả nợ cho ngân hàng khi đó kế toán sẽ hạch toán như sau: Ghi nợ: tài khoản tiền mặt: 20 triệu đồng Ghi có: tài khoản cho vay ông An: 20 triệu đồng. 6.3/ Kế toán giai đoạn gia hạn nợ: Kế toán cho vay khi nhận được thông báo gia hạn nợ đã được giám đốc ngân hàng phê duyệt sẽ xử lý: -Đóng dấu khắc sẵn hoặc ghi chu vào phần trên cùng mặt trước hợp đồng tín dụng để thuận tiện cho việc theo dõi những hợp đồng tín dụng đã gia hạn nợ. -Điều chỉnh thời hạn số tiền được gia hạn nợ, ngày tháng năm cho gia hạn nợ trên phụ lục hợp đồng tín dụng và dữ liệu lưu giữ trong máy tính theo đúng thông báo gia hạn được phê duyệt. 6.4/ Kế toán chuyển nợ quá hạn. Hiệu quả, an toàn của công tác tín dụng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong hợp đồng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nói chung và của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội nói riêng. Công tác tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng và chiếm tỷ lệ tương ứng trong tổng lợi nhuận đạt được của ngân hàng. Nợ quá hạn là những khoản nợ của khách hàng vay vốn ngân hàng đến hạn không trả được nếu không được ngân hàng gia hạn nợ thì chuyển sang nợ quá hạn và phải chịu lãi suất cao hơn lãi suất thông thường, con số nợ quá hạn phần nào nói lên chất lượng tín dụng tuy nhiên để đánh giá được chất lượng tín dụng ngoài việc nhìn nhận trên khía cạnh nợ quá hạn ta phải nhìn bao quát đến hiệu quả kinh tế xã hội mà tín dụng mang lại. Tại Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội việc đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng luôn được quan tâm để hạn chế đến mức thấp nhất các khoản nợ quá hạn có thể xảy ra. Chính vì vậy, mà tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội đang ngày càng được cải thiện, đặc biệt là trong 3 năm gần đây không có nợ quá hạn dài hạn còn nợ quá hạn ngắn hạn thì đang giảm dần, điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 6: Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. ĐVT: Tỷ đồng Nợ quá hạn Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 -Quốc doanh -Ngoài quốc doanh -Ngắn hạn -Trung dài hạn 3 11 11 0 2 8 10 0 4 4 8 0 Tổng 14 10 8 Nguồn: Báo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội. Như vậy nếu đến ngày cuối cùng mà khách hàng vay không trả được nợ và không được ngân hàng gia hạn nợ thì đến ngày làm việc tiếp theo kế toán cho vay sẽ lạm thủ tục chuyển số nợ này sang nợ quá hạn đồng thời lập thông báo chuyển nợ quá hạn gửi cho cán bộ tín dụng để thông báo cho khách hàng. Khi đó sẽ hạch toán: Nợ: Tài khoản nợ quá hạn tương ứng Có: Tài khoản cho vay khách hàng. Đồng thời kế toán phải ghi rõ trạng thái nợ quá hạn vào phần theo dõi nợ quá hạn và lưu hợp đồng tín dụng vào tập hồ sơ nợ quá hạn. Xét tiếp ví dụ trên ta sẽ hạch toán như sau: Ghi nợ: tài khoản nợ quá hạn ông An : 20 triệu đồng Ghi có: tài khoản cho vay ông An :20 triệu đồng. 6.5/ Kế toán thu lãi cho vay: Căn cứ vào thoả thuận về việc trả lãi vào một ngày nhất định trong tháng, khi khách hàng trả lãi cho ngân hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào tài khoản lãi cho vay phải thu: Lãi phải thu =( Nợ gốc x Lãi suất tháng x Số ngày)/30. Dựa vào số lãi tính được và số lãi khách hàng trả kế toán sẽ hạch toán như sau: Nợ : tài khoản thích hợp Có: tài khoản thu lãi cho vay. Đồng thời kế toán phải ghi vào phụ lục hợp đồng tín dụng số tiền thu lãi, đối với những khoản lãi chưa thu được trong tháng thì kế toán phải hạch toán vào tài khoản ngoại bảng để theo dõi và báo cho cán bộ tín dụng thu lãi. Ghi nhập: tài khoản lãi chưa thu được. 6.6/ Kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng. Việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng phải được thực hiện theo quy định của cơ chế tài chính, theo tỷ lệ đã quy định. -Đối với nợ quá hạn dưới 180 ngày tỷ lệ trích là 20% -Đối với nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày tỷ lệ trích là 50% -Đối với nợ quá hạn trên 360 ngày tỷ lệ trích là 100%. Hàng quý căn cứ vào bảng kê phân loại tài sản có đã được lập riêng cho từng khoản nội tệ để xác định số tiền phải trích lập dự phòng. Nếu số đã trích còn thiếu so với quy định thì ngân hàng phải trích lập tiếp cho đủ, nếu trích thừa thì phải thoái thu. Ngân hàng cơ sở nhận được thông báo chuyển nguồn và liên hàng hạch toán: Nợ: tài khoản liên hàng tới Có: tài khoản các khoản phải trả khác. Tuy nhiên việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tại chi nhánh ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội được thực hiện theo tỷ lệ quy định cụ thể của Ngân hàng Công thương Việt Nam. 7/Về lưu giữ và quản lý hồ sơ vay: Trong kế toán cho vay việc lưu giữ hồ sơ chính là việc lưu giữ các chứng từ quan trọng và không chỉ là lưu giữ đơn thuần mà chính là bảo quản một khối lượng lớn tài sản của ngân hàng. Thực tế tại Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội các giấy tờ chứng từ trong hồ sơ vay vốn được sắp xếp rất khoa học và hợp lý theo từng loại cho vay, từng loại nguồn vốn, từng loại khách hàng để tiện cho việc theo dõi kỳ hạn trả nợ, thu nợ, thu lãi vừa đảm bảo an toàn vừa dễ tìm thấy khi cần thiết, nhất là khi thu nợ thu lãi hay cung cấp số liệu cho ban lãnh đạo chỉ đạo điều hành. Đối với những khế ước vay tiền được sắp xếp theo thứ tự tài khoản vay vốn từ nhỏ đến lớn, do vậy rất thuận tiện cho việc theo dõi của kế toán nhất là khi khách hàng đến trả nợ, trả lãi hay khi ngân hàng có nhu cầu xem lại hồ sơ. Đối với các tài sản tín chấp, thế chấp, cầm cố được các cán bộ kế toán của ngân hàng sắp xếp theo thứ tự tài khoản từ nhỏ đến lớn đối với từng khách hàng và sắp xếp theo từng loại tài khoản và được lưu giữ cẩn thận trong kho. III/ Đánh giá nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương đống đa- hà nội. 1/Kết quả đạt được. Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế, trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội cũng như các ngân hàng khác trong hệ thống được hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường ngày càng mở rộng và có hiệu quả. Cùng với sự nỗ lực đi lên của ngành ngân hàng nói chung, Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội ngày càng phát triển và tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Những kết quả mà ngân hàng đã đạt được trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau là rất đáng kể, đặc biệt là về việc tổ chức và thực hiện công tác kế toán cho vay. -Hiện nay hệ thống Ngân hàng Công thương nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội nói riêng đã thực hiện ứng dụng tin học rộng rãi vào công tác kế toán và kế toán cho vay, có thể nói hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đang là vấn đề cấp bách không chỉ với ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội mà còn đối với tất cả các NHTM khác. Cụ thể ta thấy trong năm qua thì Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội đã có được những thành tựu sau: +Chi nhánh đã hoàn thành tốt công tác cập nhật chứng từ, lên cân đối tổng hợp phục vụ kịp thời công tác chỉ đạo điều hành của ban lãnh đạo. +Tiếp tục hoàn thiện dự án hiện đại hoá ngân hàng giao dịch một cửa (OSFA) ngoài ra các ứng dụng phần mềm của các chương trình: Misac, Samis, thanh toán điện tử, thanh toán liên hàng, thanh toán bù trừ, thanh toán quốc tế vẫn được duy trì và hoạt động tốt. +Kết hợp với trung tâm công nghệ thông tin lắp đặt 4 đường truyền thông cho trụ sở chính, 2 phòng giao dịch Kim Liên, Cát Linh và làng sinh viên HACINCO. Từ việc ứng dụng đó thì tạo cho giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng ngày càng thuận lợi hơn, mặt khác việc thanh toán nội bộ cũng như việc thanh toán giữa các ngân hàng trở nên nhanh hơn, hiệu quả và chính xác hơn, từ đó tiết kiệm được chi phí tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. -Việc tổ chức lưu trữ, quản lý hồ sơ, chứng từ cho vay, thu nợ được thực hiện một cách khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý theo dõi quá trình cho vay, thu nợ. -Sự phối hợp giữa bộ phận kế toán cho vay và bộ phận tín dụng rất chặt chẽ, cùng nhau thực hiện theo dõi quản lý khách hàng vay. Đồng thời hai bên thường xuyên trao đổi thông tin cho nhau để nhằm mục đích là tăng hiệu quả hoạt động tín dụng. -Đội ngũ cán bộ kế toán cho vay có trình độ nghiệp vụ tốt, thái độ và tinh thần phục vụ khách hàng chu đáo do vậy đã thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Đặc biệt từ khi chi nhánh ứng dụng thực hiện giao dịch một cửa làm cho bộ phận kế toán cho vay và kế toán nói chung hoạt động ngày càng có hiệu quả. Với những cố gắng và sự nỗ lực của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên mà ngân hàng đã đạt: Danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Đảng bộ trong sạch vững mạnh 15 năm liên tục... Nhưng bên cạnh những thành tựu to lớn thì ngân hàng vẫn còn một số hạn chế và cần phải được nhìn nhận một cách đúng đắn để có những biện pháp giải quyết kịp thời. 2/Những hạn chế và tồn tại. - Chênh lệch khoảng cách giữa lãi suất đầu vào và đầu ra của chi nhánh còn thấp, mặc dù trong năm 2003 chi nhánh đã cố gắng trong việc thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động song tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp với lãi suất thấp cũng mới chiếm tỷ trọng 38% tổng nguồn vốn huy động, trong khi đó tỷ trọng tiền gửi dân cư với lãi suất cao chiếm tỷ trọng 62%. Vì vậy cần có biện pháp hữu hiệu hơn để thay đổi hợp lý cơ cấu nguồn vốn huy động để kinh doanh có hiệu quả. - Các NHTM nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội nói riêng chấp hành quy trình gia hạn nợ còn thiếu kịp thời, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng. Nợ tồn đọng và các khoản nợ quá hạn có tài sản thế chấp chờ xử lý liên quan đến vụ án có giảm song số nợ quá hạn còn lại là khoản nợ quá hạn với thời gian quá lâu nên rất khó đòi, cần có biện pháp kịp thời để thu hồi nợ. Nguyên nhân của tình trạng này là do yếu tố con người: Thứ nhất: sự phối hợp giữa cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán chưa thật thường xuyên đồng bộ, việc xử lý quy trình tín dụng còn máy móc chưa thật mềm dẻo linh hoạt. Thứ hai: cán bộ tín dụng chưa đôn đốc, nhắc nhở khách hàng thường xuyên, chưa đi sâu đi sát vào hoạt động sử dụng vốn của khách hàng, do vậy dễ gây ra tình trạng khách hàng chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc sử dụng vốn sai mục đích, không chấp hành đúng các quy định của quy trình tín dụng dẫn đến kế toán viên hạch toán việc gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn có sự chậm trễ. -Tỷ lệ dư nợ cho vay không có đảm bảo bằng tài sản thế chấp còn thấp nhất là với khối doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ tồn đọng, nợ quá hạn đã trở thành một vấn đề trung tâm cho các nhà quản trị ngân hàng và để tăng tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo cần phải có một giải pháp đủ tầm để có thể giải quyết, xử lý nợ tồn đọng, nợ quá hạn có hiệu quả. Vì ta thấy quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ hợp đồng, khi khách hàng không có khả năng trả nợ tức là hợp đồng tín dụng bị vi phạm, việc giải quyết thu hồi nợ quá hạn lúc này mang tính chất xử lý vi phạm giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Bên cạnh nguyên nhân pháp luật không phù hợp còn nguyên nhân nữa là việc thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh, triệt để, nhiều khách hàng có tài sản có khả năng trả nợ nhưng vẫn cố tình không trả nợ. - Hiện tượng lãi chưa thu được tồn tại khá phổ biến tại các ngân hàng thương mại và tại Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội cũng không tránh khỏi tình trạng này. Như ta biết thu nhập của ngân hàng phần lớn là thu từ lãi cho vay nếu lãi cho vay không thu được sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tổng thu nhập của ngân hàng, vì vậy ngân hàng cần thực hiện các biện pháp hữu hiệu để giảm lãi chưa thu được trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. - Việc ứng dụng tin học vào phục vụ cho hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là yêu tố khách quan và không thể phủ nhận được tầm quan trọng của nó. Song việc ứng dụng tin học còn chưa hoàn thiện nên đôi khi vẫn gây ra những ảnh hưởng đến hiệu quả công việc. Nguyên nhân là do tình hình chung của nước ta về phần mềm ứng dụng còn hạn chế, chưa phát triển đúng mức, những người có kiến thức về tin học ngân hàng lại không nắm rõ quy trình nghiệp vụ nên làm cho hiệu quả công việc chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tóm lại trong những năm gần đây hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương Đống Đa- Hà Nội không ngừng được cải tiến, mở rộng tốc độ tăng trưởng khá cao, song vẫn còn những tồn tại và hạn chế cần được giải quyết. Đó là bài toán lớn cần có lời giải đặt ra cho ngân hàng trong thời gian tới nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh trong điều kiện môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay. Chương III một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương đống đa-hà nội. I/ Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng công thương đống đa- hà nội. Năm 2003 đã trôi qua, mặc dù có những khó khăn nhất định trong công tác kinh doanh và nhu cầu của khách hàng đòi hỏi ngày cao, bên cạnh đó thì trong năm 2003 do ảnh hưởng của nhiều đại dịch bệnh nền làm cho quá trình giao lưu kinh tế bị trì trệ, những nguyên nhân đó làm cho hiệu quả kinh doanh của ngân hàng gặp khó khăn, để tạo điều kiện thuận lợi cho năm 2004 vì năm 2004 có nhiều cơ hội mới nhưng cũng có những thách thức mới thì Ban lãnh đạo chi nhánh ngân hàng đã đề ra một số định hướng phát triển trong thời gian tới như sau: -Hoàn thiện thêm một bước mô hình tổ chức bộ máy và mạng lưới phù hợp với chủ trương cải cách hành chính của Nhà nước, tiếp tục củng cố, chấn chỉnh và xây dựng cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, duy trì thường xuyên và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tự phê bình và phê bình của cán bộ Đảng viên, tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền địa phương đảm bảo tính thống nhất chung. -Xây dựng ngân hàng đủ mạnh và phát triển toàn diện theo hướng đa năng trên cơ sở nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên mà trước hết là trình độ và năng lực quản lý, quản trị điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Hướng và gắn kết hoạt động ngân hàng vào việc thực hiện các nghiệp vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thủ đô. -Mở rộng quy mô và nội dung hoạt động kết hợp đẩy mạnh tốc độ hiện đại hoá và ứng dụng tiến bộ công nghệ trước hết là công nghệ ngân hàng, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán, thông tin điều hành tác nghiệp...phát triển các nghiệp vụ ngân hàng mới, chú trọng cả nghiệp vụ bán buôn và bán lẻ, triển khai việc tách bạch rõ chức năng chính sách và chức năng kinh doanh của ngân hàng. -Mở rộng việc sử dụng các công cụ thị trường mới ( cả ở thị trường ngắn hạn và dài hạn) nhằm tăng huy động vốn tạo cơ sở mở rộng đầu tư vốn cho các ngành, lĩnh vực và các chương trình kinh tế trọng điểm của thành phố; chú trọng tiếp tục chuyển dịch cơ cấu đầu tư vốn theo hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư có thời hạn dài, đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất. Cụ thể: a. Trong công tác huy động vốn: Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ và thực tế đã làm được trong năm qua, Ngân hàng công thương Đống Đa- Hà Nội phấn đấu thực hiện tốt một số biện pháp về công tác huy động vốn, duy trì mở rộng quan hệ với các ngành, đơn vị có nguồn vốn lớn tạo điều kiện cho ngân hàng và toàn ngành phát triển các dịch vụ qua ngân hàng đồng thời mở rộng mạng lưới huy động vốn trong dân cư và các doanh nghiệp khác. Dự kiến nguồn vốn huy động đến 31/12/2004 đạt 2900 tỷ đồng. b. Về công tác cho vay: Cho vay là hoạt động mà bất cứ một NHTM nào cũng phải chú ý

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT163.DOC
Tài liệu liên quan