Tài liệu Chuyên đề Dự án đánh bắt xa bờ: Trường đại học nông lâm TP.HCM
Khoa Thủy sản
--fe--
Báo cáo chuyên đề:
THỦY SẢN ĐẠI CƯƠNG
DỰ ÁN ĐÁNH BẮT XA BỜ
Giáo viên hướng dẫn: ThS.Nguyễn Văn Tư
Họ & tên sinh viên: Nguyễn Thế Lạc
Lớp: DH09CT
MSSV: 09117091
MỤC LỤC:
Đội tàu đánh bắt xa bờ
I. Tại sao phải có chương trình?
II. Mục tiêu
III. Nội dung chính của chương trình
IV. Triển khai và đánh giá chương trình
V. Nguyên nhân thất bại
VI. Chiếc lược mới của Bộ
I. Tại sao phải có chương trình này?
Theo đánh giá của các chuyên gia, sản lượng hải sản cho phép khai thác ngoài khơi của nước ta ước tính khoảng 1.1 triệu tấn/năm, còn sản lượng cho phép khai thác gần bờ khoảng 600 ngàn tấn/năm. Nhưng hiện nay, sản lượng khai thác gần bờ lại là 1.1 triệu tấn/năm, còn khai thác xa bờ chỉ đạt 600 ngàn tấn/năm.
nhìn chung nguồn lợi thủy sản ven bờ bị lạm thác trong khi nguồn lợi thủy sản xa bờ còn lớn chưa khai thác hết được.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu đạt ra là phải chuyển sang đánh bắt xa bờ. Chương trình này không ...
13 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Dự án đánh bắt xa bờ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học nông lâm TP.HCM
Khoa Thủy sản
--fe--
Báo cáo chuyên đề:
THỦY SẢN ĐẠI CƯƠNG
DỰ ÁN ĐÁNH BẮT XA BỜ
Giáo viên hướng dẫn: ThS.Nguyễn Văn Tư
Họ & tên sinh viên: Nguyễn Thế Lạc
Lớp: DH09CT
MSSV: 09117091
MỤC LỤC:
Đội tàu đánh bắt xa bờ
I. Tại sao phải có chương trình?
II. Mục tiêu
III. Nội dung chính của chương trình
IV. Triển khai và đánh giá chương trình
V. Nguyên nhân thất bại
VI. Chiếc lược mới của Bộ
I. Tại sao phải có chương trình này?
Theo đánh giá của các chuyên gia, sản lượng hải sản cho phép khai thác ngoài khơi của nước ta ước tính khoảng 1.1 triệu tấn/năm, còn sản lượng cho phép khai thác gần bờ khoảng 600 ngàn tấn/năm. Nhưng hiện nay, sản lượng khai thác gần bờ lại là 1.1 triệu tấn/năm, còn khai thác xa bờ chỉ đạt 600 ngàn tấn/năm.
nhìn chung nguồn lợi thủy sản ven bờ bị lạm thác trong khi nguồn lợi thủy sản xa bờ còn lớn chưa khai thác hết được.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu đạt ra là phải chuyển sang đánh bắt xa bờ. Chương trình này không những đem lại lợi nhuận kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ nguồn lợi hải sản phục vụ phát triển kinh tế lâu dài.
Mặt khác, chương trình còn hứa hẹn sẽ góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho hàng ngàn người lao động, cải thiện đời sống người dân.
II. Mục tiêu chương trình:
Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ được phát động kể từ năm 1997 và được giao cho Bộ Thủy Sản phối hợp với Quỹ Hỗ Trợ Phát Triển và Ngân Hàng Phát Triển và Đầu Tư Việt Nam thực hiện. Chương trình được triển khai tại 29 tỉnh, thành phố với tổng vốn tín dụng ưu đãi được cấp lên đến gần 1400 tỉ đồng. Mục tiêu tới năm 2008 sẽ thu hồi toàn bộ vốn đầu tư và lãi suất hằng năm.
Phát triển đánh bắt hải sản xa bờ nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh học biển, đảm bảo nguồn hải sản cho việc đánh bắt lâu dài, phát triển bền vững kinh tế thủy sản Việt Nam, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn người lao động, cung cấp nguồn nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy sản, tăng GDP cho quốc gia,…
III. Nội dung chính của chương trình
Dự án ĐBTSXB được chính phủ hướng dẫn thực hiện với những nội dung chính sau:
1. Về Tổ chức tại các địa phương:
Thành lập Ban chỉ đạo chương trình đánh bắt hải sản xa bờ tại các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương có nhiều dự án (nơi có ít dự án thì không nên tổ chức) giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Ban chỉ đạo Nhà nước về Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, do Phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm Trưởng ban. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chương trình này; hướng dẫn giúp đỡ các đơn vị kinh tế và ngư dân xây dựng dự án đầu tư.
Thành phần Ban chỉ đạo chương trình gồm Giám đốc các Sở Thuỷ sản, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng nhà nước, Giám đốc Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Cục trưởng Cục Đầu tư và Phát triển.
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, để có sự phối hợp của tổ chức cho vay và các ngành có liên quan tại địa phương để hướng dẫn, quản lý, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị và ngư dân vay vốn trên địa bàn sử dụng vốn vay đúng mục đích, khai thác tầu có hiệu quả, trả nợ vay đầu tư (gốc và lãi), đúng hạn theo hợp đồng tín dụng.
2. Về đối tượng được vay vốn:
- Thực hiện theo Điều 6 bản quy chế ban hành kèm theo Quyết định 393/TTg ngày 9/6/1997 của Thủ tướng Chính phủ, đối tượng được vay vốn đầu tư phương tiện đánh bắt hải sản xa bờ và tầu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ là các đơn vị kinh tế có đăng ký hành nghề đánh bắt và dịch vụ đánh bắt hải sản, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, đơn vị Quân đội làm kinh tế, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Hợp tác xã, Tổ hợp tác và Hộ ngư dân.
- Đối tượng được vay phải có kinh nghiệm đi biển và tổ chức hoạt động đánh cá xa bờ, có đủ mức vốn tự có theo quy định tại mục 4 của Thông tư này, có hiểu biết về quản lý phương tiện đánh bắt, kỹ thuật bảo quản nguyên liệu, có đăng ký hành nghề tại địa phương nơi cư trú, hoặc giấy phép hoạt động đánh bắt xa bờ do cơ quan bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cấp. Phải đăng ký tên Thuyền trưởng, Máy trưởng trong hợp đồng vay.
3/ Về tài sản đảm bảo nợ vay và mua bảo hiểm:
a. Về tài sản đảm bảo nợ vay:
Các dự án vay vốn tín dụng đầu tư tàu đánh bắt hải sản xa bờ và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ theo kế hoạch của Nhà nước được lấy tài sản hình thành bằng vốn vay để đảm bảo nợ vay. Trong thời hạn chưa trả hết nợ, các chủ đầu tư (chủ dự án) không được chuyển nhượng, mua bán hoặc thế chấp đối với tài sản thuộc vốn vay tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước.
b. Mua bảo hiểm:
- Bắt buộc chủ đầu tư đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ phải mua bảo hiểm thuyền viên và bảo hiểm thân tàu, máy tàu (trừ phần giá trị ngư cụ và các vật dụng phục vụ sinh hoạt).
- Chủ đầu tư mỗi năm mua bảo hiểm một lần, không bắt buộc phải mua bảo hiểm một lần cho 2 hoặc 3 năm. Hàng năm, nếu chủ đầu tư nào không mua bảo hiểm và chưa có trang thiết bị bảo hiểm an toàn thì không cấp giấy phép hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ.
- Trong trường hợp có rủi ro xảy ra thuộc phạm vi được bảo hiểm, chủ đầu tư phải dùng số tiền bồi thường của Công ty Bảo hiểm để trả nợ khoản vốn vay cho bên cho vay. Trong trường hợp số tiền bảo hiểm trả nợ không đủ phần thiếu hụt sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
4. Một số quy định về lãi suất, thời hạn vay, trả và tỷ lệ vốn tự có:
- Lãi suất cho vay thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
- Thời gian cho vay tối đa không quá 7 năm, tính lãi kể từ ngày phát sinh nợ vay.
- Thời điểm bắt đầu trả lãi thực hiện sau 1 tháng và trả nợ gốc sau 12 tháng kể từ ngày tàu chính thức đi vào sản xuất (theo tiến độ ghi trong dự án được duyệt). Thời hạn trả nợ cụ thể do tổ chức cho vay và chủ đầu tư thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khuyến khích chủ đầu tư trả nợ (gốc và lãi) trước thời hạn. Trường hợp chủ đầu tư dây dưa không trả nợ khi đã quá hạn thì xử lý theo quy định về phạt nợ quá hạn của tổ chức cho vay, nếu thấy cần thiết thì khởi tố trước cơ quan pháp luật.
- Chủ đầu tư vay vốn phải có vốn tự có tham gia tối thiểu 15% tổng vốn đầu tư của dự án.
5. Về thực hiện cho vay để ứng trước và cho vay thanh toán khối lượng hoàn thành cho các dự án vay vốn tín dụng đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ:
- Thực hiện cho vay ứng trước và cho vay thanh toán khối lượng hoàn thành theo hợp đồng đã được ký kết giữa chủ đầu tư với đơn vị đóng tàu, cung cấp thiết bị, máy móc. Để đảm bảo vốn vay ứng trước được sử dụng đúng mục đích, điều kiện để được vay vốn ứng trước phải có hợp đồng tín dụng, hợp đồng đóng tàu, dự toán thiết kế được duyệt, các chứng từ thanh toán như hoá đơn mua vật tư (gỗ, sắt thép...), thiết bị (máy thuỷ...). Mức cho vay ứng trước không quá 25% tổng mức vốn dầu tư của dự án và có thể ứng trước nhiều lần trong phạm vi mức vốn được ứng trước theo quy định, được chuyển thẳng cho đơn vị đóng tàu, cung cấp thiết bị, máy móc theo đề nghị của chủ đầu tư vay vốn.
- Việc cho vay thanh toán được thực hiện theo khối lượng công việc hoàn thành theo từng giai đoạn đã được nghiệm thu. Bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành phải có xác nhận kỹ thuật của cơ quan đăng kiểm tàu.
6. Về mẫu tàu, máy thuỷ, cơ sở đóng tàu:
a. Đối với mẫu tàu và máy thuỷ:
- Mẫu tàu:
Ngoài các tàu đóng theo mẫu thiết kế do Bộ Thuỷ sản ban hành đợt I theo Quyết định 268/QĐ-KHCN ngày10/61997, chủ dự án được phép lựa chọn các mẫu tàu theo tập quán của địa phương nhưng phải được cơ quan đăng kiểm tàu xác nhận về mặt an toàn kỹ thuật.
- Máy thuỷ:
Ngoài việc sử dụng 4 chủng loại máy thuỷ đã hướng dẫn tại công văn số 2214/CV-KHĐT ngày 23/9/1997 của Bộ Thuỷ sản, có thể mở rộng thêm các chủng loại máy thuỷ khác, nhưng phải tính toán kỹ đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và hiệu quả kinh tế, không nên sử dụng quá nhiều chủng loại.
Cần chấp hành chỉ đạo chung, không dùng máy thuỷ đã qua sử dụng hoặc máy bộ dùng thay máy thuỷ để đóng lắp tàu đánh bắt hải sản xa bờ.
b. Cơ sở đóng tàu:
Để giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng cường trách nhiệm của các ngành, địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc tung ương và thủ trưởng các Bộ, Ngành có dự án, trực tiếp xem xét và cho phép các cơ sở đóng tàu có đủ điều kiện (kỹ thuật, cở sở vật chất và kinh nghiệm) tham gia đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ.
7. Về lập và thẩm định dự án:
Nội dung dự án đầu tư và tổ chức thẩm định dự án thực hiện theo Thông tư 09/BKH-VPTĐ ngày 21/9/1996 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về lập dự án thẩm định đầu tư và quyết định đầu tư.
Hội đồng thẩm định và nhiệm vụ của Hội đống thẩm định dự án đầu tư đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ thực hiện theo Điều 1 mục 5 Quyết định số 159/1998/QĐ-TTg ngày 03/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư tàu đánh bắt hải sản xa bờ cần tập trung vào các nội dung sau:
- Các vấn đề kỹ thuật: Mẫu tàu, máy tàu, trang thiết bị, nghề nghiệp, ngư trường, mùa vụ.
- Các vấn đề tài chính: Hiệu quả sản xuất, vốn đầu tư, nguồn vốn, cơ cấu vốn đầu tư, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thời hạn thu hồi vốn vay, thời hạn trả nợ vay.
8. Về cấp giấy phép hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ:
Cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của Bộ thuỷ sản chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý hoạt động đánh bắt và dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ, là cơ quan thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động cho các chủ tàu đánh bắt hải sản xa bờ.
Chi cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản các tỉnh thực hiện cấp, gia hạn giấy phép hoạt động đánh bắt xa bờ cho các chủ tàu của địa phương. Xác nhận hải sản đánh bắt xa bờ của khu vực mình để có căn cứ thực hiện chính sách miễn giảm các loại thuế theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Thủ tục cần có để làm căn cứ cấp giấy phép hoạt động đánh cá xa bờ:
- Sổ đăng ký tàu.
- Có đủ trang thiết bị an toàn.
Thời hạn hoạt động quy định trong giấy phép hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ căn cứ vào thời hạn đăng kiểm tàu cho phép, loại nghề, ngư trường, mùa vụ, đối tượng hải sản khai thác mà chủ dự án xin phép, nhưng tối đa không quá 12 tháng. Hết thời hạn cho phép hoạt động chủ tàu phải đến cơ quan bảo vệ nguồn lợi xin gia hạn cấp giấy phép mới và phải phù hợp với thời hạn được bảo hiểm.
9. Về đào tạo
Kết hợp giữa đào tạo có hệ thống và kinh nghiệm hàng hải, sử dụng trang thiết bị và khai thác của ngư dân để tổ chức đào tạo và cấp bằng thuyền truưỏng, máy trưởng bảo đảm số lượng và chất lượng. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Ngay sau khi dự án được duyệt, chủ đầu tư có kế hoạch để dược đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng và thuỷ thủ đoàn, để ngay khi tàu đóng xong có thể tiếp quản và đưa vào sử dụng. Bằng thuyền trưởng, máy trưởng tàu do các trường Trung học, Đại học thuộc ngành thuỷ sản đào tạo cấp.
Việc đào tạo kết hợp nhiều hình thức khác nhau, có thể kết hợp đào tạo tập trung tại các trường của ngành thuỷ sản, hoặc các truường này tổ chức các lớp học tại các địa phương có dự án, sử dụng kinh phí đào tạo cho chương trình đánh bắt hải sản xa bờ được Nhà nước giao cho ngành thuỷ sản theo kế hoạch hàng năm.
10. Về tổng hợp và giao kế hoạch:
Hàng năm Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Bộ, Ngành chủ quản xác định các đối tượng làm chủ đầu tư như mục 2 của thông tư này. Chỉ đạo chủ đầu tư lập dự án, lập danh mục dự án và nhu cầu vốn đầu tư tàu đánh bắt hải sản xa bờ gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thuỷ sản để tổng hợp và cân đối kế hoạch.
- Căn cứ vào quy hoạch phát triển, năng lực quản lý thực tế, đề nghị của địa phương và các Bộ có dự án, Bộ thuỷ sản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân đối trình Chính phủ mức vốn kế hoạch đầu tư tàu đánh bắt hải sản xa bờ cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Bộ, Ngành tham gia chương trình.
- Căn cứ vào kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Bộ kế hoạch và dầu tư giao hạn mức vốn kế hoạch cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ, Ngành có dự án và tổ chức cho vay.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Bộ, Ngành có dự án chịu trách nhiệm bố trí vốn cho từng dự án trong phạm vị tổng mức vốn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao, đăng ký với tổ chức cho vay, đồng thời có báo cáo tổng hợp phân bổ kế hoạch vay vốn của địa phương và Bộ, Ngành có dự án gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Thuỷ sản.
- Các địa phương và Bộ, Ngành có dự án lập báo cáo tình hình thực hiện các dự án theo tháng, quý gửi về Bộ Thuỷ sản, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và tổ chức cho vay để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
IV. Triển khai và đánh giá
Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ được Thủ tướng giao Bộ Thủy sản thực hiện. Dự án triển khai từ năm 1997 tại 29 tỉnh, thành phố với tổng số vốn tín dụng ưu đãi đã giải ngân hơn 1.340 tỷ đồng.
Theo Bộ Thủy sản, tàu khai thác hải sản xa bờ đã hỗ trợ các đoàn tàu nhỏ hơn ra khai thác ở các vùng biển Vịnh Bắc bộ, DK 1, các vùng biển Đông và Tây Nam Bộ. Nhưng thực tế, hiệu quả kinh tế của chương trình này lại thấp. Nhiều dự án chỉ đánh bắt ở những ngư trường truyền thống gần bờ, chưa vươn ra khơi. Hơn 1.300 tàu đánh bắt hải sản đã được hoán cải và đóng mới bằng vốn vay của nhà nước. Nhưng có tới 520 tàu hoạt động không hiệu quả , 250 phương tiện không đi biển nằm phơi sương.
Tại văn bản ra ngày 5/7/2005, Bộ Thủy sản thừa nhận đã lựa chọn chủ dự án đầu tư nhiều trường hợp không đúng đối tượng; lập, thẩm định xem duyệt các dự án đầu tư không chặt chẽ, không đủ các điều kiện theo quy định.
Khi triển khai dự án, tại nhiều địa phương, chủ đầu tư được tập trung ưu tiên là các HTX. Hầu hết số này được thành lập sau khi Chính phủ có chủ trương cho vay vốn ưu đãi, nhằm xin tiếp nhận tiền đầu tư...
Việc lựa chọn, xét duyệt các hộ ngư dân là chủ đầu tư dự án cũng trong tình trạng tương tự. Tại tỉnh Thanh Hoá, Quảng Ngãi, Bình Định... nhiều ngư dân được xét duyệt cho vay vốn trong khi không hề có kinh nghiệm đi biển. Ở nhiều địa phương, cả giáo viên, viên chức... không đủ điều kiện cũng có tên trong danh sách. Điều này đã khiến dự án không được giao vào tay người có năng lực quản lý, gây thất thoát và lãng phí lớn. Phần lớn các HTX, hộ ngư dân đã làm ăn không hiệu quả, thua lỗ, phải giải thể... hay chuyển đổi cho chủ đầu tư khác.
Hầu hết dự án do cán bộ thủy sản địa phương lập hoặc do đơn vị tư vấn lập theo khuôn mẫu có sẵn, sao chép giống nhau. Tại Thanh Hoá, toàn bộ các dự án đều giống nhau, dù phương án kinh doanh của mỗi người vay khác nhau. Ở Bình Định, trong 35 dự án đầu tư lập năm 1998 nội dung được sao chép từ dự án lập năm 1997.
Việc lập và thẩm quyền phê duyệt dự án chỉ mang tính hình thức. Sở thủy sản và một số cơ quan chức năng khác trong thành phần hội đồng thẩm định của địa phương vừa lập dự án đầu tư, sau đó lại thẩm định, trình UBND tỉnh, thành phố phê duyệt dự án là vừa "đá bóng, vừa thổi còi", vi phạm quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước.
18 trong 64 hồ sơ dự án được thẩm định ở Đà Nẵng không có đơn hoặc phiếu đăng ký của chủ dự án, biên bản họp thẩm định dự án không có đủ các thành phần tham dự theo quy định... Năm 1997, tỉnh phê duyệt tổng mức đầu tư của 8 dự án cao hơn 400 triệu đồng so với kết quả thẩm định. Còn tại Cà Mau, phần lớn hồ sơ không có giấy phép hành nghề, không có xác nhận của chính quyền địa phương, đảm bảo ngư dân vay vốn để thực hiện dự án. Đặc biệt, tại Quảng Ninh, việc thẩm định, phê duyệt các dự án chỉ căn cứ hồ sơ được lập, các chỉ tiêu trong dự án được thẩm định, phê duyệt không được kiểm tra, xem xét thực tế.
Nhiều mánh khóe nâng giá vật tư, lập khống hợp đồng cung cấp thiết bị để rút tiền dự án đã xuất hiện. Theo Bộ Thủy sản, thiết kế và dự toán độc lập và phê duyệt làm cơ sở thi công đóng tàu không chính xác về khối lượng và đơn giá vật tư, vật liệu làm tăng giá trị của con tàu so với giá trị thực tế... 48 tàu đánh cá của Thanh Hoá đã lập dự toán tính sai, tăng chi phí 3,9 tỷ đồng. Cũng tại địa phương này, 4 cơ sở đóng tàu bòn rút 6,8 tỷ đồng từ việc đóng 95 tàu. Các con tàu bị rút ngắn chiều dài 1-2,5 m, giảm chiều cao mạn 0,2-0,3 m, các chi tiết cấu kiện đều bị cắt xén chiều dày. Dù vậy, chúng vẫn được chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản nghiệm thu, xác nhận hoàn thành đúng thiết kế, đảm bảo chất lượng để chủ dự án được giải ngân vay vốn.
Tương tự, ở Quảng Trị, số tiền sai phạm phải thu hồi từ 15 dự án đóng tàu hơn 2,1 tỷ đồng. Trong khi đó, tại Nghệ An, các chủ dự án đã rút tiền chi sai nguyên tắc 2,4 tỷ đồng…
Ở Đà Nẵng, nhiều chủ dự án đã tự ý sửa đổi mẫu vỏ tàu, thay đổi thiết bị so với thiết kế. Vì lẽ đó, sau khi hoàn thành xong, phương tiện không sử dụng được, phải đầu tư thâm để khắc phục, gây lãng phí vốn đầu tư và thiệt hại cho nhà nước.
Việc kiểm tra, giám sát thiết kế, giám sát đăng kiểm trong quá trình đóng tàu không chặt chẽ, công tác đăng ký, quản lý tàu đánh cá xa bờ còn nhiều yếu kém và bất cập. Cục và chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản không nắm được cụ thể số lượng tàu đăng ký, đăng kiểm hằng năm. Tình trạng phương tiện đăng ký tạm thời chưa đăng ký chính thức là khá lớn. Không ít tàu đi biển không có giấy phép, không số hiệu.
Vì những nguyên nhân trên, việc thanh quyết toán vốn đầu tư của các dự án chậm, không đúng với các quy định của Nhà nước. Tỷ lệ trả nợ vốn vay của các dự án rất thấp, nợ quá hạn khó đòi ngày càng tăng, khả năng không thu hồi được là rất lớn. Xét về hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư là rất thấp. Tính đến tháng 6/2004, tổng vốn vay nợ đã giải ngân hơn 1.340 tỷ đồng, song nợ thu hồi và xử lý chỉ đạt 1/10. Đặc biệt, tổng số tiền sai phạm tại cá địa phương là 110 tỷ đồng. Trong đó, về tham ô, cố ý làm trái, chiếm dụng vốn 12 tỷ đồng.
Về hướng xử lý những tồn tại trên, Bộ Thủy sản cho biết đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương thành lập hội đồng phân loại, định giá và bán đấu giá đối với các dự án đóng tàu hiện đang thực hiện không hiệu quả. Theo đó, các chủ đầu tư đánh bắt có hiệu quả và trả được một phần nợ vay cho Nhà nước được đề nghị tiếp tục xử lý đồng bộ các biện pháp như gia hạn nợ, giản nợ, ngân hàng thương mại cho vay vốn bổ sung vốn...
Tính đến nay, hơn 1.300 tỷ đồng của Nhà nước rót cho chương trình đánh bắt xa bờ, có đến trên 80% rơi vào diện khó đòi bởi những con tàu "ma" và cơ chế quản lý vốn lỏng lẻo.
Như vậy, trong khi triển khai dự án ĐBTSXB của Bộ đã và đang tồn tại nhiều vấn đề.
Nhưng không phải mọi dự án đầu tư của chương trình tại các tỉnh đều không thành công. Điển hình như ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Trong vòng 7 năm từ khi chương trình bắt đầu (từ cuối năm 1997), Bà Rịa – Vũng Tàu đã thẩm định và trình UBND tỉnh phê duyệt 83 dự án đóng mới 83 chiếc tàu công suất từ 450 CV/ chiếc trở lên, trị giá 75,169 tỷ đồng. Bên cạnh đó, bằng nguồn vốn tự có, bà con ngư dân trong tỉnh còn đầu tư gần 1.500 tỷ đồng để đóng mới 1.117 tàu thuyền đánh bắt hải sản công suất lớn, nâng tổng số tàu thuyền có khả năng đánh bắt xa bờ của tỉnh lên 2.131 chiếc với tổng công suất hơn 483.000 CV.
Do làm ăn đạt hiệu quả, hiện nay các hộ vay vốn trong chương trình đã trả nợ được 30 tỷ đồng, chiếm 40% tổng vốn được vay (trong khi đó tỷ lệ này ở các tỉnh khác như Tiền Giang, Kiên Giang, Bình Thuận… chỉ đạt từ 10 đến 15% tổng vốn vay). Sản lượng đánh bắt hải sản cao không những mang lại lợi nhuận cho bà con ngư dân mà còn thúc đẩy ngành chế biến hải sản đạt kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành chế biến chỉ đạt 34 triệu USD thì năm 2004 đã tăng lên 126 triệu USD.
Tập đoàn cổ đông của gia đình anh Võ Minh Tuấn, ngụ ở ấp Tân Phước, xã Phước Tỉnh (huyện Long Điền) có 10 chiếc tàu đánh bắt xa bờ. Anh cho biết: Hiện nay, đoàn tàu của gia đình thường đi đánh bắt cách xa bờ từ 320 đến 400 hải lý mới có cá. Một chuyến đi phải mất 40 ngày với chi phí rất cao. Tuy sản lượng không còn nhiều như ngày trước nhưng đối với tàu đánh bắt xa bờ vẫn có lời. Bình quân một cặp tàu, sau mỗi chuyến biển trừ chi phí còn lời trên dưới 50 triệu đồng. Tập đoàn cổ đông của anh Nguyễn Trịnh, ở ấp Phước Hiệp, xã Phước Tỉnh (huyện Long Điền) có 10 chiếc tàu có công suất từ 150 đến 180 CV, trong đó có 2 chiếc có công suất lớn 450 CV/chiếc. Theo anh Trịnh, những tàu công suất dưới 180 CV hiện làm ăn không đạt hiệu quả. Cả cổ đông chỉ trông chờ vào hiệu quả của cặp tàu công suất lớn. Do đánh bắt hải sản ở ngư trường xa nên một chuyến biển của cặp tàu lớn đạt sản lượng bình quân 90 tấn. 10 tháng đầu năm 2004, doanh thu của cặp tàu lớn này là 2,3 tỷ đồng, trong đó lợi nhuận đạt 200 triệu đồng. 4 chiếc tàu, bình quân công suất 270 CV/ chiếc của gia đình anh Trần Minh Tuấn cũng ở xã Phước Tỉnh, năm 2004 thu lời hơn 200 triệu đồng.
Rõ ràng là chương trình đánh bắt xa bờ của Nhà nước đã đạt được những kết quả khả quan, được bà con ngư dân trong tỉnh hưởng ứng tích cực. Nhờ chương trình này mà nhiều hộ ngư dân trong tỉnh giờ đây đã có trong tay vài ba cặp tàu công suất lớn, trang bị máy tầm ngư, máy đo độ sâu, thiết bị thông tin liên lạc trên biển với đất liền và giữa các con tàu với nhau. Chương trình này còn mang ý nghĩa chiến lược về các mặt kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng, vừa bảo vệ được nguồn hải sản ven bờ và khai thác tốt hơn tiềm năng tài nguyên vùng biển khơi của Tổ quốc.
Tuy nhiên, những thành công nhỏ lẻ của dự án tại một số tỉnh cũng không thể giữ chương trình có thể tiếp tục trước những thất bại kéo dài ở một số tỉnh. Do đó, đầu năm 2006, chính phủ đã quyết định tạm dừng việc thực hiện chương trình đầu tư đánh bắt xa bờ để kiểm điểm, đánh giá lại hiệu quả kinh tế.
V. Nguyên nhân thất bại
Chiếc tàu đánh bắt xa bờ của chủ dự án Nguyên Văn Đua đầu tư hơn 1 tỷ đồng đã nằm im trên bờ gần hai năm nay.
Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ là dự án của quốc gia với số vốn đầu tư lên đến hàng ngàn tỷ đồng tiền nhà nước. Chương trình này thất bại do nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, ngư trường ngày càng cạn kiệt, cá ít dần mà tàu cá lại nhiều:
“Đánh cá bị đói, không được gì cả.”
Ngoài ra tàu cá Việt Nam không tối tân bằng tàu đánh cá nước ngoài nhất là tàu Trung Quốc nên tàu Việt Nam không thể cạnh tranh với tàu Trung Quốc tại các ngư trường đánh bắt chung của hai nước.
Thứ hai, vấn đề tham ô nhũng lạm đã làm người dân phải trích ra một khoảng tiền không nhỏ trong số tiền được vay để chi cho các người có chức, có quyền. Một người dân ở Bà Rịa Vũng tàu cho biết: “Có nhiều thứ tiền phải chi kể từ lúc vay đến lúc đóng xong con tàu.”
Thứ ba, do ảnh hưởng của các thế lực tỉnh, huyện, một số lớn tiền được vay không dùng để đóng tàu mà để làm các chuyện khác chẳng hạn như tại xã Điện Ngọc thuộc tỉnh Quãng Nam, một công an ninh xã và một công nhân lái xe lửa, không hề biết nghề đi biển được chủ tịch xã cho lãnh dự án.
Khi triển khai dự án, tại nhiều địa phương, chủ đầu tư được tập trung ưu tiên là các hợp tác xã. Cơ quan thanh tra phát hiện, hầu hết số này được thành lập sau khi Chính phủ có chủ trương cho vay vốn ưu đãi, nhằm xin tiếp nhận tiền đầu tư... Khi vay xong tiền, hoạt động của hợp tác xã là "hữu danh vô thực". 63 hợp tác xã của 3 tỉnh Quảng Trị, Nghệ An và Thái Bình đã gây thất thoát trên 15 tỷ đồng. Thanh tra Chính phủ nhận định, việc lựa chọn không đúng quy định chủ đầu tư là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng này. Tại tỉnh Thanh Hoá, Quảng Ngãi, Bình Định... nhiều ngư dân được xét duyệt cho vay vốn trong khi không hề có kinh nghiệm đi biển. Ở nhiều địa phương, cả giáo viên, viên chức... không đủ điều kiện cũng có tên trong danh sách.
Lý do thứ tư khiến dự án đánh bắt xa bờ hoạt động không hiệu quả là việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án thiếu căn cứ thực tế. Tại Thanh Hóa, toàn bộ các dự án đều giống nhau, dù phương án kinh doanh của mỗi người vay khác nhau. Nhiều bộ hồ sơ ở tỉnh Quảng Ngãi không có tài liệu từ phía chủ dự án theo yêu cầu.
Thanh tra phát hiện còn có nhiều mánh khóe nâng giá vật tư, lập khống hợp đồng cung cấp thiết bị để rút tiền dự án. 48 tàu đánh cá của Thanh Hoá đã lập dự toán tính sai, tăng chi phí 3,9 tỷ đồng. Cũng tại địa phương này, 4 cơ sở đóng tàu bòn rút 6,8 tỷ đồng từ việc đóng 95 tàu.
Ở Quảng Trị, số tiền sai phạm phải thu hồi từ 15 dự án đóng tàu hơn 2,1 tỷ đồng. Trong khi đó, tại Nghệ An, các chủ dự án đã rút tiền chi sai nguyên tắc 2,4 tỷ đồng...
Một lý do thứ năm nữa phải kể đến là vấn đề giá dầu. Khảo sát của Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong thang 2/2008 – thời điểm giá dầu tăng lên 3.400 đ/l cho thấy, hầu hết chi phí cho nhu cầu phục vụ chuyến biển đều tăng mạnh trong khi giá sản phẩm hải sản lại tăng không đáng kể. Đối với đội tàu lưới kéo đôi có công suất khoảng 900CV tại ngư trường Tây Nam Bộ, chi phí nguyên liệu cho một chuyến đi khoảng 40 ngày tăng từ 328 triệu đồng lên 382,8 triệu đồng và chiếm tỷ trọng đến 78,2% tổng chi phí tăng toàn chuyến đi.
VI. Chiếc lược mới của Bộ Thủy Sản
Sau hàng loạt những bất cập trong dự án ĐBTSXB, đầu năm 2006, chính phủ đã quyết định dừng chương trình này. Tuy nhiên, Bộ Thủy Sản vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược ĐBTSXB mới của mình. Vậy, chiến lược mới có gì mới?
Phải tổ chức lại sản xuất cho các tàu ĐBTSXB hiện có và xây dựng lại dự án ĐBTSXB mới có những căn cứ khoa học, yêu cầu cụ thể…là yêu cầu mà ngành thủy sản phải thực hiện trong năm 2006. Việc xây dựng lại chiến lược dự án đang gặp rất nhiều cản trở, dù chủ trương thực hiện là đúng.
Với sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài, Bộ Thủy sản đã thẩm định được cơ bản sản lượng thủy sản và khoanh vùng ngư trường có nhiều tôm, cá; dự báo sản lượng khai thác bền vững không quá 1,5-1,7 triệu tấn/năm; chỉ giữ đội tàu không quá 5000 chiếc…
Quan trọng hơn cả là dự án ĐBTSXB mới sẽ không đầu tư ồ ạt, có tính chất bao cấp như trước, do đó ngư dân phải làm chủ thực sự các tàu cá, chịu trách nhiệm với các kế hoạch khai thác kinh danh của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo chuyên đề- DỰ ÁN ĐÁNH BẮT XA BỜ.doc