Chuyên đề Đánh giá thực trạng thất nghiệp tại Đồng Tháp giai đoạn 2009 - 2012 - Nguyễn Văn Hòa

Tài liệu Chuyên đề Đánh giá thực trạng thất nghiệp tại Đồng Tháp giai đoạn 2009 - 2012 - Nguyễn Văn Hòa: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA KINH TẾ ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ NGUYỄN VĂN HÒA ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP TẠI ĐỒNG THÁP GIAI ĐOẠN 2009 - 2012 Ngành đào tạo: Kế Toán Trình độ đào tạo: Đại học CHUYÊN ĐỀ ĐỒNG THÁP – 2013 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa i Lời cam đoan ii Mục lục 1 Danh mục các bảng, hình 3 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Mục tiêu nghiên cứu 4 3. Phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu 5 5. Giả thuyết nghiên cứu 5 6. Lược khảo tài liệu 5 PHẦN 2 NỘI DUNG Chương 1: PHƯƠNG PHÁP LUẬN 1.1 Định nghĩa thất nghiệp 6 1.2 Tỷ lệ thất nghiệp 6 1.3 Các loại thất nghiệp 6 1.3.1 Thất nghiệp cọ xát 6 1.3.2 Thất nghiệp cơ cấu 7 1.3.3 Thất nghiệp chu kỳ 7 1.4 Tác động thất nghiệp và việc làm 8 1.5 Nguyên nhân và tác hại của thất nghiệp 10 1.5.1 Nguyên nhân của thất nghiệp 10 1.5.2 Tác hại của thất nghiệp 11 Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan về tỉnh Đồng Tháp 12 2.1.1 V...

doc46 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Đánh giá thực trạng thất nghiệp tại Đồng Tháp giai đoạn 2009 - 2012 - Nguyễn Văn Hòa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA KINH TẾ ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ NGUYỄN VĂN HÒA ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP TẠI ĐỒNG THÁP GIAI ĐOẠN 2009 - 2012 Ngành đào tạo: Kế Toán Trình độ đào tạo: Đại học CHUYÊN ĐỀ ĐỒNG THÁP – 2013 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa i Lời cam đoan ii Mục lục 1 Danh mục các bảng, hình 3 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Mục tiêu nghiên cứu 4 3. Phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu 5 5. Giả thuyết nghiên cứu 5 6. Lược khảo tài liệu 5 PHẦN 2 NỘI DUNG Chương 1: PHƯƠNG PHÁP LUẬN 1.1 Định nghĩa thất nghiệp 6 1.2 Tỷ lệ thất nghiệp 6 1.3 Các loại thất nghiệp 6 1.3.1 Thất nghiệp cọ xát 6 1.3.2 Thất nghiệp cơ cấu 7 1.3.3 Thất nghiệp chu kỳ 7 1.4 Tác động thất nghiệp và việc làm 8 1.5 Nguyên nhân và tác hại của thất nghiệp 10 1.5.1 Nguyên nhân của thất nghiệp 10 1.5.2 Tác hại của thất nghiệp 11 Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan về tỉnh Đồng Tháp 12 2.1.1 Vị trí địa lý và thuận lợi 12 2.1.2 Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong những năm gần đây 13 2.1.3 Cơ cấu dân cư 13 2.1.4 Điều kiện hoặc ưu đãi đầu tư 16 2.2. Đánh giá thực trạng thất nghiệp ở Đồng Tháp 18 2.2.1 Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp 18 2.2.1.1 Tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010 18 2.2.1.2 Cơ cấu tổng sản phẩm nội Tỉnh (GDP) và cơ cấu lao động 20 2.2.1.3. Các lĩnh vực kinh tế chủ yếu của Tỉnh. 21 2.2.1.4. Các đặc điểm kinh tế đáng lưu ý của Tỉnh. 22 2.2.2 Thực trạng về lao động trên địa bàn Đồng Tháp 23 2.2.2.1 Tình hình lao động 23 2.2.2.2. Đặc điểm nhân lực (lao động) của tỉnh 24 2.2.3. Thực trạng đào tạo và sử dụng nhân lực tại Đồng Tháp 29 2.2.3.1. Hệ thống cơ sở giáo dục - đào tạo. 29 2.2.3.2. thực trạng sử dụng nhân lực. 34 2.2.4. Đánh giá thực trạng 35 2.2.4.1. Những điểm mạnh 35 2.2.4.2. Những hạn chế 35 2.2.4.3. Những thời cơ 37 2.2.4.4. Những thách thức 37 Chương 3 GIẢI PHÁP 3.1 Những tồn tại và nguyên nhân 38 3.2 Những giải pháp 39 3.2.1 Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về phát triển nhân lực. 39 3.2.2. Đổi mới quản lý Nhà nước về phát triển nhân lực. 40 3.2.3. Về đào tạo và bồi dưỡng nhân lực. 41 3.2.4. Mở rộng, tăng cường phối hợp và hợp tác để phát triển nhân lực. 42 Phần 3: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 3.1. Kiến nghị 44 3.2. Kết luận. 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO 45 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1 Cơ cấu dân cư 14 Hình 2.2 Cơ cấu dân số theo độ tuổi lao động 15 Hình 2.3 Tăng trưởng kinh tế (GDP) 2001-2005 và 2006-2010 20 Hình 2.4 Một số chỉ tiêu kinh tế đáng lưu ý của Tỉnh 22 Hình 2.5 Dân số trong độ tuổi lao động 25 Hình 2.6 Cơ cấu dân số theo trình độ học vấn 26 Hình 2.7 Trình độ văn hóa của nhân lực theo cấp học 27 Hình 2.8 Trình độ chuyên môn của nhân lực 27 Hình 2.9 Kết quả dạy nghề giai đoạn 2006-2010 31 Phần 1: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trên thế giới, tình hình thất nghiệp là hiện tượng kinh tế vĩ mô. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) dự báo, trong năm 2013 này, số người thất nghiệp trên toàn cầu sẽ tăng thêm 5,1 triệu người so với năm 2012, lên 202 triệu người, phá kỷ lục thiết lập vào năm 2009. Việt Nam trong những năm gần đây nền kinh tế đang gặp không ít những khó khăn và chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, tình trạng suy giảm kinh tế toàn cầu khiến tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Ở Đồng Tháp tình hình thất nghiệp vẫn đang được các ngành chức năng quan tâm, theo Sở Lao động Thương binh & Xã hội và Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh Đồng Tháp, số lao động thất nghiệp những tháng đầu năm 2012 trên địa bàn tỉnh tăng cao đột biến so với các năm trước. Đến giữa tháng 5-2012, số lao động đăng ký hưởng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là hơn 3.200 người, trong khi vào thời điểm này các năm trước, con số này chỉ chưa đến 1.000 người. Chính vì những lý do trên nghiên cứu “Đánh giá thực trạng thất nghiệp tại Đồng Tháp giai đoạn 2009 - 2012” được thực hiện nhằm phân tích rõ hơn những nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp ở Đồng Tháp. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Mục tiêu chung: phân tích tình hình thất nghiệp ở Đồng Tháp giai đoạn 2009 - 2012 để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục tình hình thất nghiệp ở Đồng Tháp. - Mục tiêu cụ thể: Phân tích về thực trạng thất nghiệp ở Đồng Tháp giai đoạn 2009 – 2012. Phân tích nguyên nhân và tác động của thất nghiệp đến tăng trưởng kinh tế ở Đồng Tháp. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp ở Đồng Tháp. 3. Phạm vi nghiên cứu - Địa bàn nghiên cứu: đề tài được thực hiện tại tỉnh Đồng Tháp. - Thời gian nghiên cứu: Số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ năm 2009 đến năm 2012. Thời gian thực hiện từ tháng 03/2013 – 05/2013. - Đối tượng nghiên cứu: Tình hình việc làm ở tỉnh Đồng tháp giai đoạn 2009- 2012. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thất nghiệp ở Đồng Tháp. Thực trạng giáo dục đào tạo và đào tạo nghề tại Đồng Tháp. Những thuận lợi và khó khăn trong việc giải quyết việc làm ở tỉnh Đồng Tháp. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập trên mạng internet, sách báo, tạp chí và các phương tiện truyền thông, - Phương pháp phân tích số liệu: Số liệu được phân tích trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp, kết hợp với phương pháp so sánh số tương đối, số tuyệt đối. Trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp, kết hợp với phương pháp so sánh số tương đối, số tuyệt đối đưa ra nhân xét và đánh giá. 5. Giả thuyết nghiên cứu - Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm. - Thực trạng giáo dục đào tạo ảnh hưởng đến chất lượng việc làm. - Nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp Đồng Tháp còn hạn chế. 6. Lược khảo tài liệu Huỳnh Văn Lộc, (2011). Phân tích tình hình thất nghiệp ở Việt Nam Phan Minh Tâm, (2011). Thất nghiệp và việc lam Việt Nam. Hai đề tài trên phân tích thực trạng tình hình thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011. Tuy nhiên đề tài tôi nghiên cứu tình hình thất nghiệp ở Đồng Tháp, từ đó đề ra những giải pháp giải quyết việc làm ở địa phương. Phần 2: NỘI DUNG Chương 1: PHƯƠNG PHÁP LUẬN 1.1 Định nghĩa thất nghiệp Thất nghiệp là hiện tượng phổ biến trên thế giới có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến nền kinh tế của từng nước theo thời gian. Nhưng đây luôn là vấn đề đòi hỏi các cấp lãnh đạo, những người quản lý nền kinh tế phải có những chiến lược kinh tế phù hợp để đẩy lùi thực trạng này. Riêng ở Việt Nam tình hình thất nghiệp là vấn đề nóng bỏng luôn được quan tâm giải quyết hàng đầu nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo kịp các nước có nền kinh tế phát cao. Ä Theo định nghĩa của kinh tế học thì thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm. Lịch sử của tình trạng thất nghiệp chính là lịch sử của công cuộc công nghiệp hóa. Ä Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội. 1.2 Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của một quốc gia. Cũng vì thế còn có những quan niệm khác nhau về nội dung và phương pháp tính toán để nó có khả năng biểu hiện đúng và đầy đủ đặc điểm nhiều vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt là các nước đang phát triển. 1.3 Các loại thất nghiệp 1.3.1 Thất nghiệp cọ xát Thất nghiệp cọ xát đề cập đến việc người lao động có kĩ năng lao động đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhưng lại bị thất nghiệp trong một thời gian ngắn nào đó do họ thay đổi việc làm một cách tự nguyện vì muốn tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng (lương cao hơn, gần nhà hơn) hoặc do sự thay đổi cung cầu trong hàng hoá dẫn đến việc phải thay đổi công việc từ một doanh nghiệp, một ngành sản xuất hay một vùng lãnh thổ sang nơi khác. Trong mối quan hệ với dạng thất nghiệp tạm thời còn có dạng thất nghiệp tìm kiếm xảy ra cả trong trường hợp chuyển đổi chỗ làm việc mang tính tự nguyện hoặc do bị đuổi việc. Khi đó người lao động luôn cần có thời gian chờ đợi để tìm kiếm chỗ làm việc mới. Thời gian của quá trình tìm kiếm sẽ làm tăng chi phí (phải tìm nhiều nguồn thông tin, người thất nghiệp sẽ mất đi thu nhập, mất dần kinh nghiệm, sự thành thạo nghề nghiệp và các mối quan hệ xã hội). 1.3.2 Thất nghiệp cơ cấu Có nhiều người không tìm được việc làm do không đủ kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của công việc. Có người không có việc làm trong một thời gian dài và được xem là thất nghiệp dài hạn, nghĩa là khả năng tìm được việc làm là rất thấp. Loại thất nghiệp này được xem là thất nghiệp cơ cấu. Thất nghiệp cơ cấu bao gồm: Ø Những người chưa có đủ kỹ năng lao động, như những người trong độ tuổi 20 và môt số người trưởng thành nhưng chưa qua đào tạo. Ø Những người có kỹ năng lao động nhưng kỹ năng này không đáp ứng được sự thay đổi trong yêu cầu của công việc. Ø Những người mà kỹ năng của họ bị mất đi sau một thời gian dài không làm việc nên không thể tìm được việc làm mới. Ø Những người mà kỹ năng lao động của họ không được công nhận do sự phân biệt đối xử, như người lao động thuộc nhóm dân tộc thiểu số hay người nước ngoài không hiểu tiếng nói hay phong tục tập quán của địa phương, 1.3.3 Thất nghiệp chu kỳ Thất nghiệp chu kì còn được gọi là thất nghiệp do nhu cầu thấp. Loại thất nghiệp này xảy ra do sự sút giảm trong nhu cầu đối với sản phẩm của nền kinh tế so với sản lượng (hay năng lực sản xuất). Sự sút giảm trong nhu cầu dẫn đến sự sa thải lao động có thể bắt đầu ở một vài thành phố lớn của nền kinh tế và sau đó gây ra sự sút giảm trong nhu cầu đối với sản lượng của toàn bộ nền kinh tế. Khi nhu cầu thấp hơn sản lượng thì tồn kho sẽ tăng lên nên các nhà sản xuất buộc phải cắt giảm sản lượng và sa thải lao động. Thất nghiệp chu kì thường gắn liền với năng lực cạnh tranh quốc gia, nhất là trong thời kì hội nhập. Thất nghiệp do nhu cầu thấp có quan hệ mật thiết với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp. Có thể dễ dàng thấy rằng nếu sản lượng tăng trưởng chậm hơn tốc độ tăng trưởng của năng lực sản xuất của nền kinh tế, kể cả số lượng lao động, thì thất nghiệp sẽ tăng. Suy thoái sẽ làm tăng thất nghiệp và phục hồi hay tăng trưởng sẽ làm giảm thất nghiệp. Sự tăng giảm của thất nghiệp do nhu cầu thấp sẽ làm tăng giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các chu kì kinh tế. 1.4 Tác động thất nghiệp và việc làm. Trong những năm gần đây, nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà nhiều lao động đã và đang được thu hút vào các ngành nghề, các lĩnh vực, ở mỗi địa bàn, trong nhiều thành phần kinh tế trên phạm vi quốc gia và từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp nên Việt Nam vẫn là nước nghèo, còn thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định việc chăm lo giải quyết việc làm đã trở thành nhiệm vụ cơ bản và cấp bách đòi hỏi các ngành các cấp, mối gia đình và toàn xã hội phải quan tâm. Từ cơ cấu dân số, ta thấy số người dưới 15 tuổi chiếm 40% trong khi đó tỷ lệ gia tăng tự nhiên cao (2,2%) vì vậy, nẩy sinh một vấn đề là một lao động bình quân phải nuôi dưỡng nhiều người. Nếu lao động không có việc hoặc số ngày công trong năm thấp, số giờ làm việc trong 1 ngày, năng suất lao động 1giờ làm việc kém thì mỗi gia đình và toàn xã hội sẽ rất khó khăn. Hiện nay, nguồn lao động hàng năm tăng 3,2 - 3,5%, năm 2001 là 2,7%/năm. Bối cảnh kinh tế xã hội sinh ra nhiều mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế trong khi đó nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng tăng, tất yếu dẫn đến tình hình một bộ phận lao động chưa có việc làm nhất là đối với thanh niên ở thành thị, khu công nghiệp, khu tập trung, vùng ven biển. Tổng điều tra dân số ngày 01/04/1989 cho thấy hiện có khoảng 1,7 triệu người không có việc làm. Người lao động nước ta có đặc điểm: - 80% sống ở nông thôn - 70% đang làm trong lĩnh vực nhà nước - 14% sống lao động làm việc trong khu vực nhà nước - 10% trong lao động tiểu thủ công nghiệp - 90% lao động thủ công. Năng xuất lao động và hiệu quả làm việc rất thấp dẫn đến tình trạng thiếu việc làm rất phổ biến và nghiêm trọng. Ở nông thôn 1/3 quỹ thời gian lao động chưa được sử dụng tốt bằng 5 triệu người lao động. Trong khu vực nhà nước, số lao động không có nhu cầu sử dụng lên tới 25 - 30% có nơi lên tới 40 - 50%. Đây là điều làm cho đời sống kinh tế xã hội khó khăn của đất nước ta những năm 1986 - 1991. Với tốc độ phát triển dân số và lao động như hiện nay hàng năm chúng ta phải tạo ra hơn 1 triệu chỗ làm việc mới cho số người bước vào độ tuổi lao động, 1,7 triệu người chưa có việc làm, hàng chục cán bộ, bộ đội phục viên, xuất ngũ, học sinh... Theo tính toán của tổ chức lao động quốc tế (ILO) với tốc độ tăng nguồn lao động trên 3% như hiện nay ở Việt nam thì dù cho hệ số co dãn về việc làm có thể tăng từ mức 0,25 lên 0,33, trong vài năm tới cũng cần có mức tăng GDP trên 10%/ năm mới có thể ổn định được tình hình việc làm ở mức hiện tại. Vì vậy, dự báo sau năm 2001 nước ta vẫn sẽ trong tình trạnh dư thừa lao động. Sự “lệch pha” giữa cung và cầu về lao động là một hiện tượng đáng chú ý trong quan hệ cung cầu lao động ở nước ta hiện nay. Trong khi nguồn cung về lao động của ta chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, bộ đội xuất ngũ, công nhân giảm biến chế...thì cần về lao động lại đang đòi hỏi chủ yếu lao động lành nghề, lao động có trình độ, chuyên môn kỹ thuật cao, các nhà quản lý am hiểu cơ chế thị trường...Chính sự khác biệt này làm cho quan hệ cung cầu về lao động vốn đã mất cân đối lại càng gay gắt hơn trước yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong toàn bộ nền kinh tế, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo hiện nay còn rất thấp, khoảng 4 triệu người, chỉ chiếm 10,5% lực lượng lao động. Điều này cho thấy lực lượng lao động hiện nay chưa có thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn này. Trong số lao động đã qua đào tạo cơ cấu trình độ và ngành nghề còn nhiều bất cập trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá... Số người có trình độ trên đại học chỉ chiếm khoảng 1,2% trong tổng số người có trình độ đại học. Về cơ cấu ngành nghề, lao động đã qua đào tạo được tập trung chủ yếu ở các cơ quan nghiên cứu, các đơn vị hành chính sự nghiệp và ngành giáo dục, lĩnh vực sản xuất vật chất có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, đặc biệt trong nông nghiệp, ngành sản suất lớn nhất cũng chỉ 9,15% lao động được đào tạo. Có vùng như Tây Nguyên chỉ có 3,51% nhiều lĩnh vực rất thiếu những cán bộ giỏi, cán bộ quản lý, cán bộ am hiểm công nghệ cao...Điều đó đã đẫn đến một thực trạng hiện nay là: Trong khi có hàng triệu người không tìm được việc làm, thì ở một số ngành nghề và rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh thiếu lao động kỹ thuật, lao động có nghề nghiệp và trình độ phù hợp với yêu cầu của công nghệ sản xuất. 1.5 Nguyên nhân và tác hại của thất nghiệp 1.5.1 Nguyên nhân của thất nghiệp Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trang thất nghiệp, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu như: Tình trạng suy giảm kinh tế toàn cầu làm cho tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Suy giảm kinh tế toàn cầu khiến cho nhiều quốc gia phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong đó Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nhiều xí nghiệp nhà máy phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng cửa do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu còn thấp không sánh kịp với các sản phẩm chất lượng cao của các quốc gia có trình độ phát triển cao. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải cắt giảm nguồn lao động dẫn đến lao động mất việc làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu, kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đầu tư và xuất khẩu nên khi kinh tế toàn cầu bị suy giảm thì nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn và hậu quả là nạn thất nghiệp sẽ tăng cao. Trong năm 2008 mức lam phát ở Việt Nam đã lên tới 22,3% khiến cho giá cả tăng cao, mức sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng đó là nhu cầu lựa chọn ngành nghề phù hợp với sở thích của người lao động, với thói quen học để “ làm thầy “ chứ không ai muốn mình “ làm thợ “, hay thích làm việc cho nhà nước mà không thích làm việc cho tư nhân. Với lý do này, nhu cầu xã hội không thể đáp ứng hết yêu cầu của lao động, điều này là thiếu thực tế bởi không dựa trên khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội. Một bộ phận lao động trẻ lại muốn tìm đúng công việc mình yêu thích mặc dù các công việc khác tốt hơn nhiều, dẫn đến tình trạng những ngành cần lao động thì lại thiếu lao động, trong khi đó lại thừa lao động ở các ngành không cần nhiều lao động. Ngoài hai nguyên nhân trên thì một nguyên nhân làm tăng gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam là lực lượng lao động có tay nghề thấp chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất ngày càng cao. Kinh tế Việt Nam từng bước áp dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới nên đòi hỏi một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, thành thạo tay nghề. Trong khi đó đội ngũ lao động ở nước ta chỉ một số ít lao động có trình độ, tay nghề. Tác phong công nghiệp của lực lượng lao động nước ta còn non yếu trong khi nền kinh tế đòi hỏi một đội ngũ lao động năng động. Ở nước ta tỷ lệ lao động được đào tao nghề rất thấp, chỉ khoảng 26%. Nước ta có một nguồn lao động dồi dào nhưng vẫn không tìm được việc làm, hoặc có việc nhưng không ổn định do trình độ chuyên môn thấp. Thống kê cả nước có khoảng 1915 cơ sỡ dạy nghề, bình quân mỗi năm các trường dạy nghề thuộc doanh nghiệp đào tạo khoảng 90000-100000 học viên học nghề dài hạn và hàng ngàn học viên hệ ngắn hạn. Thực tế hiệu quả của công tác dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nên đầu ra của nguồn lao động tuy nhiều nhưng lại thiếu đầu vào do trình độ tay nghề của người lao động không đạt tiêu chuẩn đề ra. 1.5.2 Tác hại của thất nghiệp Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn tác động và gây nhiều vấn đề bất cập như: Tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, tỷ lệ lạm phát ngày càng cao, tỷ lệ phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, Thất nghiệp ở mức cao dẫn đến sản xuất sút kém, tài nguyên không được sử dụng hết, thu nhập của dân cư giảm xuống kéo theo tổng giá trị sản phẩm quốc dân cũng giảm. Sự thiệt hại về kinh tế do thất nghiệp gây ra ở nước ta là rất lớn nó hơn hẳn các nhân tố vĩ mô khác. Chính vì những điều này đặt đất nước ta trước thực trạng: Thất nghiệp luôn là nổi lo cho toàn xã hội, quan trọng hơn là làm cho kinh tế nước ta giảm đi. Bên cạnh đó thất nghiệp còn ảnh hưởng tới tâm lý người lao động và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan về tỉnh Đồng Tháp 2.1.1 Vị trí địa lý và thuận lợi Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi đầu nguồn sông Tiền chảy vào biên giới Việt Nam, địa giới của Tỉnh được phân chia 2 phần rõ rệt là vùng Đồng Tháp Mười và vùng đất phù sa nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Diện tích tự nhiên của Tỉnh là 3.374 km2, với dân số trung binh năm 2010 là 1.670.493 người, mật độ dân số trung binh là 495người/km2. Về toạ độ địa lý, tỉnh Đồng Tháp nằm trong giới hạn - Từ 10007’ đến 10058’ vĩ độ Bắc. - Từ 105012’ đến 105058’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp với tỉnh Prâyveng - Campuchia, có chiều dài đường biên giới Quốc gia là 48,7 km; phía Nam giáp với tỉnh Vĩnh Long và thành phố CầnThơ; phía Tây giáp với tỉnh An Giang; phía Đông giáp với tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang. Toàn Tỉnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm: thành phố Cao Lãnh, thị xã Sa Đéc, thị xã Hồng Ngự và 9 huyện: Tân Hồng, Tam Nông, Hồng Ngự, Thanh Bình, Cao Lãnh, Tháp Mười, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành. Về vị trí kinh tế, với các đặc điểm (1) nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng kinh tế động lực Cần Thơ - An Giang - Cà Mau - Kiên Giang,chịu sự tác động về 2 phía của 2 trung tâm lớn là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ; (2) vị trí lệch khỏi trục Quốc lộ 1A từ thành phố Hồ Chí Minh đi các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và (3) địa giới của Tỉnh bị chia cắt bởi sông Tiền, có thể nói mức độ giao lưu kinh tế và thu hút đầu tư vào lĩnhvực công thương nghiệp của tỉnh Đồng Tháp tương đối thấp so với các tỉnhthuộc vùng phía Bắc sông Tiền. Tuy nhiên nhờ vào vị trí nằm sát thượng lưu sông Tiền với các tuyến giao thông thủy bộ qua biên giới Việt Nam - Campuchia, tỉnh Đồng Tháp lại có nhiềuthuận lợi về kinh tế đối ngoại hướng ra các nước Đông Nam Á và là cửa ngõ của vùng tứ giác Long Xuyên hướng về vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với vị trí địa lý kinh tế như trên, kết hợp với điều kiện tự nhiên đặc thù (phần lớn diện tích thuộc vùng Đồng Tháp Mười, thủy vực rộng và đa dạng), hiện nay Đồng Tháp được xem như một tỉnh sản xuất nông - ngư nghiệp là chủ yếu với các thế mạnh về kinh tế lúa, kinh tế thủy sản, ngoài ra, kinh tế vườn của Đồng Tháp cũng tương đối phát triển và còn có các vùng bảo tồn sinh thái rừng ngập mặn đặc thù. Tuy nhiên các lĩnh vực kinh tế công thương nghiệp trên địa bàn Tỉnh chưa phát triển mạnh. 2.1.2 Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong những năm gần đây - Tốc độ tăng trưởng GDP: Năm 2009 tăng 11,09% so với năm 2008. - GDP bình quân đầu người (USD) năm 2009: Đạt 7,631 triệu đồng, tương đương 691 USD, tăng 12,2% so với năm 2008. - Tốc độ tăng trưởng công nghiệp - xây dựng năm 2009: 17,6% - Cơ cấu kinh tế theo ngành: Công nghiệp - Xây dựng 24,54%; Nông lâm ngư nghiệp 44,03%; Thương mại - Dịch vụ 31,43 %. - Tổng kim ngạch xuất khẩu (USD): 439 triệu USD. - Khác: Tổng doanh thu du lịch và dịch vụ ăn uống, khách sạn năm 2009 đạt 76,2 tỷ đồng. Lượng khách du lịch đạt 1,13 triệu người, trong đó khách quốc tế 14.000 người. 2.1.3 Cơ cấu dân cư (tuổi, giới, thành thị - nông thôn, dân tộc...). Cấu trúc giới tính dân số có ảnh hưởng quan trọng đến mức độ tăng giảm số lượng dân số trong từng giai đoạn, phân công lao động và mọi hoạt động xã hội khác. Cấu trúc giới tính dân số của tỉnh Đồng Tháp vào khoảng 99,89 nam/100 nữ (theo số liệu thống kê năm 2009) nhìn chung là lý tưởng. Tuy nhiên, khi đi vào phân tích cụ thể thì có những vấn đề như sau, theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm 2009 cho thấy: Hình 2.1 Cơ cấu dân cư (cục thống kê, 2009) - Dân số có độ tuổi từ 50 tuổi trở lên có sự mất cân đối chỉ số giới tính trầm trọng dưới 85 nam/100 nữ. Sự mất cân đối này được giải thích từ khác biệt tỷ suất tử vong giữa nam và nữ. Trong đó có các nguyên nhân: chiến tranh, điều kiện sống và làm việc, những yếu tố mang tính xã hội khác đã làm cho tỷ suất tử vong ở nam nhiều hơn ở nữ trong nhóm dân số thuộc thế hệ này. - Dân số độ tuổi từ 25-49 có diễn biến chỉ số giới tính phù hợp với quy luật tự nhiên. Trong đó, chỉ số giới tính giảm theo độ tuổi do có sự khác biệt về tỷ suất tử vong theo giới tính. - Tuy nhiên, khi xem xét về bộ phận dân số ở độ tuổi dưới 25 thì bắt đầu xuất hiện sự mất cân đối trong cơ cấu giới tính, với chỉ số giới tính vào khoảng 107 nam/100 nữ (chỉ số này trung bình vào khoảng 104-106 nam/nữ). Điều này có thể gây áp lực lên tình trạng hôn nhân và các vấn đề về ổn định xã hội. Hình 2.2 Cơ cấu dân số theo độ tuổi lao động (cục thống kê, 2009) - Theo biểu đồ cho thấy Đồng Tháp được xếp vào địa phương có cơ cấu ở ngưỡng dân số già, thể hiện qua tỷ lệ nhóm người dưới 15 tuổi là 24,12% (10%), tỷ suất sinh thấp, tỷ suất tử rất thấp. Qua đó cho thấy nguồn lao động dự trữ của tỉnh kém, theo quan điểm dân số học thì đây là mối đe doạ thiếu lao động trong tương lai. - Tỷ số phụ thuộc thể hiện gánh nặng phụ thuộc giữa lớp người ngoài tuổi lao động đối với những người trong độ tuổi lao động, nó phản ánh quá trình tích luỹ và tiêu dùng của bộ phận dân cư. Việc tỷ số này lớn hay nhỏ phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu tuổi của dân số, tỷ suất tử vong và các quy định chung của pháp luật về lao động việc làm. Tỷ số phụ thuộc của Đồng Tháp là 52,56%, được xếp vào mức trung bình, đây là điều kiện thuận lợi cho Đồng Tháp nâng cao phúc lợi xã hội và tập trung đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. - Dân số nữ trong độ tuổi sinh sản là 482.475 chiếm 28,95% dân số toàn tỉnh (tính từ 15-49 tuổi). Đây là bộ phận dân số có ý nghĩa quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô dân số, cơ cấu dân số trong giai đoạn tương lai thông qua các chính sách phát triển dân số. Qua biểu thống kê dân số theo độ tuổi ta thấy được dân số phát triển mạnh vào các năm từ 1980 đến 1990 với tỷ lệ sinh rất cao và tiến đến ổn định từ năm 1991 đến nay. Qua đó tạo nên cơ cấu dân số có tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao như hiện nay. Với việc ổn định dân số trong giai đoạn 2011-2020, ước lượng số trẻ em sinh ra trong mỗi năm vào khoảng 25.800 trong mỗi năm ở giai đoạn 2011-2015 và có vào khoảng 8.100 người tử vong hàng năm. Với việc chuyển cư rộng (biến động dân số cơ học) ra khỏi địa bàn Tỉnh trong những năm qua ở Đồng Tháp xét về mặt số lượng là tương đối lớn và đang có xu hướng tăng trong thời gian gần đây. Khi xem xét trên góc độ chất lượng nhân lực thì đây là vấn đề cần quan tâm và cần có những chính sách tác động phù hợp trong tương lai. 2.1.4 Điều kiện hoặc ưu đãi đầu tư Về ưu đãi đầu tư vào Đồng Tháp, tỉnh vận dụng linh hoạt những chính sách của Trung ương theo hướng có lợi cho doanh nghiệp và phù hợp với quy định pháp luật, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ tín dụng. Tỉnh sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư có thể hoàn thành thủ tục sớm nhất, tiếp cận nguồn vốn dễ dàng, đáp ứng mặt bằng nhanh nhất, điều kiện hạ tầng, nguồn nhân lực cho nhà đầu tư. Cụ thể như sau: + Về hạ tầng kỹ thuật: Doanh nghiệp được cung cấp kịp thời nhu cầu điện và nước đúng tiêu chuẩn, chất lượng tới hàng rào nhà máy; Được cung cấp các dịch vụ bưu chính - viễn thông tiện lợi nhất đang được sử dụng trên địa bàn. + Về hỗ trợ đào tạo nghề: Ngân sách tỉnh sẽ hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo tay nghề cho công nhân theo dự án được duyệt thông qua trường, trung tâm dạy nghề trong tỉnh, nhưng tối đa không quá 1.000.000 đồng cho 01 lao động. + Hỗ trợ xúc tiến thương mại: Giới thiệu sản phẩm miễn phí trên website: www.dongthaptrade.com.vn; Hỗ trợ chi phí tham gia hội chợ triển lãm của quốc gia, vùng và các tỉnh theo quy định của UBND tỉnh Đồng Tháp. + Hỗ trợ vay vốn và lãi suất sau đầu tư: Doanh nghiệp sản xuất hoạt động theo Luật Doanh nghiệp có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng, đổi mới công nghệ thuộc các đối tượng vay vốn theo quy định hiện hành, được vay vốn trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi và được hỗ trợ lãi suất đầu tư theo quy định hiện hành. + Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực khoa học - công nghệ:  - Các doanh nghiệp đăng ký tham gia vào hoạt động khoa học - công nghệ được hỗ trợ ưu đãi về triển khai đề án; Dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; Thẩm định công nghệ; Công bố tiêu chuẩn chất lượng; Công bố hàng hóa phù hợp tiêu chuẩn; Tham gia giải thưởng chất lượng, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, các mô hình cải tiến năng suấttheo hướng dẫn của Sở Khoa học và Công nghệ. - Các hỗ trợ, ưu đãi đầu tư trên được giải quyết nhanh khi nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh. Từng thời kỳ, tỉnh sẽ căn cứ tình hình thực tế để điều chỉnh, có những chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ tốt nhất cho nhà đầu tư khi hoạt động tại Đồng Tháp. + Hỗ trợ đối với miễn, giảm tiền thuê đất, trợ cấp làm nền, giải phóng mặt bằng...; Thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế suất, miễn và giảm thuế...); Thuế xuất nhập khẩu được thực hiện theo quy định tại các Nghị định: Nghị định 142/2005/NĐ-CP, ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, Nghị định 149/2005/NĐ-CP, ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu; Nghị định 108/2006/NĐ-CP, ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế thu nhập doanh nghiệp và một số chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư khác theo quy định của pháp luật hiện hành. Riêng khi đầu tư vào các huyện thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Tháp Mười), nếu đầu tư vào danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi khó khăn như: Dự án sử dụng thường xuyên từ 5.000 lao động trở lên, đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế,sẽ được hưởng ưu đãi đầu tư cao nhất theo quy định của pháp luật Ngoài ra, còn các huyện: Cao Lãnh, Thanh Bình, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành thuộc danh mục C địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của Chính phủ. Khi có những thay đổi về chính sách ưu đãi, nhà đầu tư sẽ được lựa chọn mức ưu đãi có lợi nhất. 2.2. Đánh giá thực trạng thất nghiệp ở Đồng Tháp 2.2.1 Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp 2.2.1.1 Tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Bước vào giai đoạn 2001-2010, kinh tế tỉnh Đồng Tháp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm của nền kinh tế thấp (tốc độ tăng trưởng năm 2000 đạt 5,04%), cơ sở vật chất thiệt hại nặng từ trận lũ lịch sử năm 2000 và sự biến động trong giá cả hàng hoá (chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng, trong khi giá cả sản phẩm đầu ra giảm). Tuy nhiên cùng với nổ lực phấn đấu của toàn hệ thống chính trị và của toàn dân tỉnh Đồng Tháp, kinh tế Tỉnh đã dần lấy lại đà tăng trưởng và đạt được một số thành quả về kinh tế - xã hội nhất định. Tổng giá trị gia tăng (VA) theo giá 1994 của các hoạt động kinh tế diễn ra trên địa bàn Tỉnh vào năm 2000 là 4.620 tỷ đồng, tăng lên 7.418 tỷ đồng vào năm 2005 và đạt vào khoảng 14.368 tỷ đồng vào năm 2010, trung bình giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng 9,93%/năm và 14,14%/năm vào giai đoạn 2006-2010. Kinh tế Tỉnh có sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2006-2010, tuy nhiên biên độ dao động của chu kỳ kinh tế lớn, với tần suất cao được giải thích do nền tảng tăng trưởng kinh tế của Tỉnh chủ yếu dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư, cơ cấu ngành nghề. Năm 2000, giá trị gia tăng ngành nông - lâm - thủy sản đạt 2.987 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 64,65% trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh; đến năm 2005 đạt 4.286 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,61%; đến năm 2010 đạt 5.855 tỷ đồng (giá 1994), chiếm tỷ trọng là 40,75% trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh; bình quân giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng 7,49%/năm, giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng 6,44%/năm. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của ngành nông - lâm - thuỷ sản là tương đối ổn định trong giai đoạn 2001-2010. Trong nội bộ ngành nông - lâm - thủy sản, chủ lực vẫn là nhóm ngành nông nghiệp trồng trọt chiếm tỷ cao trọng trong nội bộ ngành là 88,56% vào năm 2000 và 82,17% vào năm 2010. Cùng với sự phát triển của ngành nghề thuỷ sản xuất khẩu, ngành nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh trong thời gian qua đã có sự phát triển mạnh mẽ (tăng trưởng b.nh quân là 9,02%/năm giai đoạn 2001-2005 và đạt tốc độ tăng trưởng là 19,17%/ năm giai đoạn 2006-2010) đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông lâm thuỷ sản của Tỉnh. Năm 2000, giá trị gia tăng ngành công nghiệp - xây dựng đạt 500 tỷ đồng, năm 2005 đạt 1.130 tỷ đồng và năm 2010 đạt 3.810 tỷ đồng (giá 1994). Công nghiệp chế biến vẫn là ngành chủ lực trong khối ngành công nghiệp - xây dựng trong giai đoạn 2001-2010, với việc phát triển của nhóm ngành thuỷ sản công nghiệp chế biến trong giai đoạn 2001-2010 có sự tăng trưởng vượt bậc (tăng bình quân là 17,71%/năm giai đoạn 2001-2005 và tăng 27,53%/năm giai đoạn 2006-2010). Ngành xây dựng chiếm tỷ trọng tương đối trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, tuy nhiên trong giai đoạn 2006-2010 ngành xây dựng cũng có sự phát triển mạnh mẽ (tăng bình quân 25,99%/năm). Cùng với sự phát triển của các ngành nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp -xây dựng thì nhóm ngành thương mại - dịch vụ cũng có sự tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001-2010, đặc biệt là giai đoạn 2006-2010 (tăng bình quân 18,63%/năm). Giá trị gia tăng ngành thương mại - dịch vụ tăng từ 1.133 tỷ đồng năm 2000 lên 2.002 tỷ đồng năm 2005 và đạt 4.703 tỷ đồng năm 2010 (giá 1994). Nhìn chung, sự tăng truởng kinh tế của Tỉnh trong giai đoạn 2001-2010 chưa đạt trạng thái bền vững do nền tảng của sự tăng truởng này chủ yếu dựa vào mở rộng quy mô sản xuất (đẩy mạnh đầu tư vốn và lao động), đẩy mạnh tăng tưởng theo chiều rộng, tác động do yếu tố tăng năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Hình 2.3 Tăng trưởng kinh tế (GDP) 2001-2005 và 2006-2010 (cục thống kê, 2010) 2.2.1.2 Cơ cấu tổng sản phẩm nội Tỉnh (GDP) và cơ cấu lao động. Năm 2001, ngành nông - lâm - thuỷ sản chiếm tỷ trọng 64,15% tổng giá trị gia tăng nền kinh tế Tỉnh và 82,37% tỷ trọng lao động trong nền kinh tế Tỉnh đến năm 2010, tỷ trọng này của ngành nông - lâm - thuỷ sản đạt theo thứ tự là 40,75% và 70,49%. Qua đó cho thấy ngành nông - lâm - thuỷ sản của Tỉnh là ngành thâm dụng lao động so với các ngành khác của Tỉnh, đặc biệt là ngành nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng 88,82% giá trị trong tổng cơ cấu giá trị gia tăng, nhưng lại chiếm đến 94,65% lao động của ngành (năm 2001). Lao động trong ngành nông - lâm - thuỷ sản có xu hướng bảo hoà trong giai đoạn 2001-2010, trình độ lao động chủ yếu là lao động phổ thông, sản xuất theo tập quán truyền thống; bước đầu đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới hoá vào các khâu sản xuất, đạt được những kết quả nhất định. Năm 2001, ngành công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 11,31% tổng giá trị gia tăng nền kinh tế Tỉnh và 5,92% tỷ trọng lao động trong nền kinh tế Tỉnh; đến năm 2010, tỷ trọng này của ngành công nghiệp - xây dựng đạt theo thứ tự là 26,52% và 9,88%. Trong nội bộ ngành, lao động tập trung vào ngành công nghiệp chế biến là chủ yếu, năm 2001 lao động công nghiệp chế biến chiếm 92,79%, năm 2010 chiếm 79,33%; ngành xây dựng của Tỉnh có sự gia tăng đáng kể về số lượng lao động, đặc biệt là giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân hàng năm 29%. Nhìn chung lao động ngành công nghiệp - xây dựng trong giai đoạn 2001-2010 có sự gia tăng lớn về số lượng, tuy nhiên xét về mặt chất lượng thì chưa được cải thiện nhiều. Trong đó ngành công nghiệp chế biến với sự phát triển mạnh của ngành chế biến thuỷ sản, nên tập trung số lượng lớn lao động trong ngành, không đòi hỏi nhu cầu trình độ chuyên môn cao của người lao động. Năm 2001, ngành thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng 24,54% giá trị gia tăng nền kinh tế Tỉnh và 11,71% tỷ trọng lao động trong nền kinh tế Tỉnh; đến năm 2010, tỷ trọng này của ngành thương mại - dịch vụ đạt theo thứ tự là 32,73% và 19,63%. Tuy nhiên khi đi vào chi tiết theo từng phân ngành của ngành thương mại - dịch vụ thì xuất hiện nhiều vấn đề cần đáng quan tâm; trong đó, các ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình; khách sạn nhà hàng; vận tải kho bãi và thông tin liên lạc, tài chính tín dụng là những ngành có tỷ lệ tăng trưởng cao, trung bình là 14%/năm giai đoạn 2001-2005 và 19%/năm giai đoạn 2006-2010. 2.2.1.3. Các lĩnh vực kinh tế chủ yếu của Tỉnh. Ngành nông - lâm - thuỷ sản trong giai đoạn 2001-2010 có cơ cấu giảm dần. Tuy nhiên đây vẫn là ngành kinh tế chủ lực của Tỉnh (năm 2010 chiếm 40,75% cơ cấu kinh tế), trong đó ngành nông nghiệp (chủ yếu là cây lúa) chiếm tỷ trọng cao nhất 88,82%. Ngành công nghiệp của Tỉnh trong thời gian qua phát triển rất mạnh, tốc độ tăng trưởng đạt 17,7%/năm giai đoạn 2001-2005 và đạt 27,53%/năm giai đoạn 2006-2010, tuy nhiên khi đi vào phân tích thì cho thấy sự tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên nền tảng của sản phẩm ngành nông - lâm - thuỷ sản phục vụ cho công nghiệp chế biến. Ngành thương mại - dịch vụ chủ yếu phát triển phục vụ cho nhu cầu cho việc phát triển ngành nông - lâm - thuỷ sản, ngành công nghiệp chế biến và nhu cầu tiêu dùng của người dân địa phương là chủ yếu. 2.2.1.4. Các đặc điểm kinh tế đáng lưu ý của Tỉnh. Kinh tế Đồng Tháp trong thời gian qua tuy đạt được những thành quả đáng kể, nhưng quy mô kinh tế nhỏ, còn hạn chế, khó khăn với những đặc điểm đáng lưu ý là một trong những tỉnh hàng năm còn hưởng trợ cấp ngân sách của Trung ương; có khối lượng đầu tư nước ngoài thấp; số khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế còn yếu kém, tính cạnh tranh, thu hút các dự án đầu tư còn thấp; các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế quy mô nhỏ, chưa đồng bộ, cảng biển mới đáp ứng cho tàu có tải trọng dưới 5.000 tấn, không có sân bay; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng dần qua các năm, nhưng chưa vững chắc, chủ yếu sản phẩm nông thủy sản qua chế biến thô. Trong hướng tới, cần có sự đầu tư mở rộng, phát triển đồng bộ về cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, cảng biển, hạ tầng thủy lợi; nâng cao chất lượng, tính cạnh tranh sản phấm hàng hóa, trên cơ sở đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực có trình độ, tay nghề, tính chuyên nghiệp cao, đi đôi với năng suất lao động ngày càng được tăng lên và hiệu quả. Hình 2.4 Một số chỉ tiêu kinh tế đáng lưu ý của Tỉnh (cục thống kê, 2010) 2.2.2 Thực trạng về lao động trên địa bàn Đồng Tháp 2.2.2.1 Tình hình lao động Đồng Tháp là tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, toàn tỉnh có 09 huyện, 02 thị xã, 01 thành phố (119 xã, 17 phường và 08 thị trấn); dân số trung bình năm 2009: 1.667.706 người (nữ: 834.309 người), dân số thành thị: 287.469 người chiếm 17,23% dân số. Số người từ đủ 15 tuổi trở lên chiếm 81%, số người trong độ tuổi lao động: 1.134.040 người chiếm 68%; số người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế: 920.740 người chiếm 55,20% dân số; số người trong độ tuổi lao động hoạt động kinh tế 883.884 người chiếm 53% dân số và chiếm 78% số người trong độ tuổi lao động. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của lực lượng lao động trên 3,5%. Dân số và lao động Đồng Tháp tương đối lớn đứng vào hàng thứ tư khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (sau An Giang, Tiền Giang và Kiên Giang) và thứ 15 các tỉnh, thành phố trong cả nước. Cơ cấu lao động trong một số ngành, lĩnh vực còn chưa hợp lý, năng suất lao động một số ngành còn thấp (chế biến, nông nghiệp, làng nghề). Lao động nông nghiệp tuy chiếm tỷ trọng lớn nhưng sự chuyển dịch trong nội bộ ngành nông nghiệp sang các ngành khác còn chậm. Đến tháng 12/2010, toàn tỉnh có khoảng 2.300 doanh nghiệp (trên 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ) thuộc các loại hình; 166 hợp tác xã; 44 làng nghề; 5.097 trang trại; 03 khu công nghiệp; 32 cụm công nghiệp; hàng năm thu hút từ 10.000 – 15.000 lao động vào làm việc. Các yếu tố của thị trường lao động đang được tạo lập, một số cơ chế điều tiết sự phát triển của thị trường, giải quyết quan hệ cung - cầu lao động chưa hình thành đồng bộ, tình trạng tự phát trong di chuyển lao động từ nông thôn ra đô thị tìm việc làm; sự dịch chuyển lao động từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, nhất là các doanh nghiệp thuộc ngành may mặc, chế biến thủy sảnđặt ra nhiều vấn đề mới trong quản lý, sử dụng lao động, đặc biệt là vai trò quản lý nhà nước, vai trò hướng dẫn, định hướng, giám sát kiểm tra của các ngành chức năng, địa phương, doanh nghiệp trong công tác giải quyết việc làm trước yêu cầu tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh. 2.2.2.2. Đặc điểm nhân lực (lao động) của tỉnh (số lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo). a) Nguồn lao động dự trữ Lao động dự trữ được hiểu là bộ phận dân số duới tuổi lao động và bộ phận dân số nằm trong độ tuổi lao động nhưng chưa được xếp vào lực lượng lao động vì lý do nào đó. Đồng Tháp hiện có 401.980 người dưới tuổi lao động (theo số liệu điều tra 01/4/2009) phân bố tương đối đồng đều vào khoảng 26.800 người ở các độ tuổi từ 0-14. Xét về chỉ số giới tính thì tương đối theo quy luật chung đảm bảo sự cân bằng giới tính. Trung bình hàng năm trong giai đoạn 2005-2009 có khoảng 10.300 người trong độ tuổi lao động rời khỏi lực lượng lao động và có khoảng 32.400 người bước vào tuổi lao động; bình quân hàng năm lực lượng lao động của tỉnh sẽ tăng khoảng 22.400 lao động. Với sự gia tăng trong số người trong tuổi lao động cùng với việc công nghiệp hoá nông thôn đã gây sức ép cho công tác tạo việc làm mới cho nền kinh tế. b) Dân số trong độ tuổi lao động Dân số trong độ tuổi lao động được định nghĩa là bộ phận dân số đang sống và sinh hoạt trên địa bàn Tỉnh có độ tuổi từ 15-55 đối với nữ và 15-60 đối với nam. Năm 2009 Đồng Tháp có 1.092.292 người trong độ tuổi lao động, chiếm 65,5% trong tổng dân số toàn tỉnh. Hình 2.5 Dân số trong độ tuổi lao động (tổng điều tra dân số năm 2009) c) Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) Là dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia thị trường lao động và đang làm việc hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm (có nhu cầu tìm kiếm việc làm). Theo tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm 2009 th. Đồng Tháp có 896.987 người trong độ tuổi lao động tham gia vào lực lượng lao động (chiếm 82,12 % dân số trong độ tuổi lao động) và có 189.120 người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham gia vào lực lượng lao động (chiếm 17,31% dân số trong độ tuổi). Trong đó, dân số ở độ tuổi 25-49 là có tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động nhiều nhất. Qua đó, cho thấy lực lượng lao động dự trữ của Đồng Tháp là tương đối. Tuy nhiên, ở nhóm tuổi 15-19 cho thấy hơn 50% dân số tham gia vào lực lượng lao động, chỉ có 37,11% người trong nhóm tuổi còn trong quá trình học sẽ là hạn chế cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai. Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm tuổi 15-19 và 20-24 chiếm tỷ lệ cao cho thấy sự kém năng động trong nguồn nhân lực của Tỉnh. d) Thất nghiệp Theo quan điểm kinh tế học là tình trạng người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc, nhưng chưa tìm được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa số người được xếp vào lực lượng lao động mà không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động của xã hội. Đồng Tháp hiện có 27.098 người trong lực lượng lao động đang trong tình trạng thất nghiệp, chiếm tỷ lệ 3,02%, tỷ lệ thất nghiệp tập trung cao ở các độ tuổi 15-19, 20-24 và 55-59. e) Trình độ nhân lực phân theo thành thị, nông thôn Trình độ văn hoá của dân cư của một địa phương biểu hiện chất lượng nhân lực của dân cư trên địa bàn, thể hiện qua mặt bằng dân trí của dân cư, đồng thời nó cũng gián tiếp biểu hiện trình độ và khả năng phát triển của nền kinh tế địa phương đó. Trình độ văn hoá là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến nền sản xuất, xã hội, nó góp phần làm nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng để thoả mãn cho nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội. Ở bất kỳ dịa phương nào hay quốc gia nào, việc phát triển một nền công nghiệp hiện đại, tiên tiến cũng đều đòi hỏi nhân dân nước đó có trình độ khoa học - kỹ thuật nhất định, và ngược lại nếu trình độ văn hoá của dân cư thấp thì nó sẽ là trở lực đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đó. Trong từng địa phương nói riêng và ở cấp vùng, cấp quốc gia nói chung, trình độ văn hoá thường thay đổi theo thời gian và không gian. + Tình trạng đi học: Bao gồm chưa đi học, đang đi học, đã thôi học (nhóm chỉ tiêu này chỉ tính số trẻ em trong độ tuổi đi học từ 5-19 tuổi). + Tình trạng biết chữ: Cơ cấu nhân lực theo trình độ học vấn như sau: Hình 2.6 Cơ cấu dân số theo trình độ học vấn (tổng điều tra dân số năm 2009) Theo tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2009 thì ở Đồng Tháp có 116.106 người trong tổng số 1.255.795 người từ 15 tuổi trở lên không biết đọc biết viết (chiếm tỷ lệ 9.25%). Trong đó, tỷ lệ này ứng với khu vực thành thị là 6,5% và khu vực nông thôn là 9,83%. Tỷ lệ mù chữ có xu hướng giảm ở những thế hệ sau (độ tuổi giảm), cho thấy sự nổ lực phấn đấu trong công tác phổ cập giáo dục và xoá mù chữ trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua. Hình 2.7 Trình độ văn hóa của nhân lực theo cấp học (tổng điều tra dân số năm 2009) Theo bảng số liệu trên cho thấy về trình độ giáo dục phổ thông của nguồn nhân lực tỉnh Đồng Tháp là còn rất thấp so với vùng đồng bằng sông Cửu Long và so với cả nước, đây là một yếu tố bất lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh trong tương lai, sự cạnh tranh tìm kiếm cơ hội việc làm trong thị trường lao động là rất thấp. Hình 2.8 Trình độ chuyên môn của nhân lực (tổng điều tra dân số năm 2009) Qua số liệu thống kê tại thời điểm, cho thấy Đồng Tháp có sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo ngành nghề chuyên môn cho lao động với tỷ lệ người học cao đẳng, đại học và trên đại học cao hơn rất nhiều (gấp đôi) so với tỷ lệ người được đào tạo ở trình độ trung cấp trở xuống và tỷ lệ này là còn rất nhỏ so với lực lượng lao động của Tỉnh (chỉ chiếm 5,13%). Tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm 5,35% trong tổng số lực lượng lao động. Trong những năm qua việc phát triển đào tạo chuyên môn, kỹ thuật có những bước cải thiện đáng kể, tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề liên tục tăng trong các năm gần đây. Tuy nhiên, sự gia tăng đó phần lớn là lĩnh vực dạy nghề ngắn hạn (sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng), trình độ trung cấp và cao đẳng nghề còn chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng số người được đào tạo nghề, do đó chất lượng tay nghề và kỹ năng nghề của người lao động chưa cao, mới chỉ đáp ứng cho nhu cầu trước mắt là kịp thời đáp ứng với các ngành nghề có nhu cầu lao động ở trình độ thấp, hoặc nhu cầu lao động phổ thông. Kết quả thống kê cho thấy tỷ lệ người lao động được đào tạo ở trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng chiếm 55% trong tổng số lao động qua đào tạo; trình độ cao đẳng và trung cấp nghề mới chỉ chiếm 5%. Trong khi đó lực lượng lao động chưa qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật còn khá lớn khoảng 60%, đây là nguồn lao động cần được bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ thuận để đáp ứng với nhu cầu của xã hội, trang bị kiến thức nghề nghiệp, nhằm tạo việc làm ổn định, lâu dài. Qua điều tra cho thấy 40,27% lao động trong tổng số lực lượng lao động là lao động giản đơn: 33,10 % lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và 14,45 % lao động trong lĩnh vực dịch vụ và bán hàng. Qua đó, cho thấy những tồn tại và yếu kém của nguồn cung lao động tỉnh Đồng Tháp cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực tuy dồi dào về số lượng nhưng xét về chất lượng, trình độ chuyên môn thì còn nhiều hạn chế. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm trong các ngành kinh tế của tỉnh cũng có sự thay đổi đáng kể, tuy nhiên phần lớn là tập trung trong nội bộ khu vực nông - lâm - thủy sản và thay đổi theo thời vụ (lao động từ nông nghiệp chuyển sang nuôi trồng thủy sản hoặc tham gia chế biến sản phẩm từ thủy sản là chủ yếu hoặc khi kết thúc mùa vụ lao động nông thôn đi làm công ăn lương hoặc các ngành nghề dịch vụ có liên quan đến nông - lâm - thủy sản). Do đó sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, trang bị nghề nghiệp cho người lao động nông thôn để tận dụng thời gian nhàn rỗi cần được quan tâm. 2.2.3. Thực trạng đào tạo và sử dụng nhân lực tại Đồng Tháp 2.2.3.1. Hệ thống cơ sở giáo dục - đào tạo. a) Giáo dục phổ thông. - Về quy mô trường, lớp học. Trong những năm qua Ngành giáo dục và đào tạo không ngừng phát triển đã hình thành hoàn chỉnh hệ thống giáo dục quốc dân như: mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục thường xuyên đồng thời ngày càng củng cố nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Tổng số trường mầm non và phổ thông trên địa bàn toàn Tỉnh tiếp tục tăng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút học sinh đến trường, tỷ lệ huy động các em trong độ tuổi đi học ngày càng tăng. Năm học 2009-2010, toàn Tỉnh có 672 trường, 12 trung tâm giáo dục thường xuyên của các cấp học, bậc học. Trong đó: - Mầm non : 172 trường. - Tiểu học : 317 trường. - Trung học cơ sở : 141 trường. - Trung học phổ thông : 42 trường. - Trung tâm Giáo dục thường xuyên : 12 trung tâm. Những năm gần đây đã xây dựng và thành lập mới nhiều trường mẫu giáo ở những xã chưa có trường đã tạo điều kiện thuận lợi việc huy động các cháu trong độ tuổi mầm non đến trường ngày càng tăng. Hiện toàn tỉnh có 12 xã phường chưa có trường mầm non. Hiện còn 11 trường cấp 1, 2 học chung, đã tách các trường cấp 2-3 thành trường trung học cơ sở và trung học phổ thông riêng. Hiện toàn Tỉnh có 13 xã phường chưa có trường trung học cơ sở. Thành lập mới trường trung học cơ sở đã phát huy tác dụng trong việc thực hiện công tác phổ cập trung học ở các địa phương. Số trường đạt chuẩn quốc gia (năm học 2009-2010): toàn Tỉnh có 55 trường được Bộ Giáo dục - Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia. Trong đó, theo các cấp học như sau: - Mầm non : 10 trường. - Tiểu học : 30 trường. - Trung học cơ sở : 11 trường. - Trung học phổ thông : 4 trường. - Về chất lượng giảng dạy. Chất lượng hoạt động của các cơ sở giáo dục - đào tạo toàn Tỉnh đã từng bước được nâng cao, tạo điều kiện để đẩy nhanh tốc độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Các cơ sở giáo dục mầm non đã thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục: - Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các cơ sở giáo dục mầm non còn cao 7,33%, nhất là trong khu vực các trường dân lập. - Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp như sau: tiểu học đạt 99,8%, trung học cơ sở đạt 97,94%, trung học phổ thông đạt 84,5%. - Tỷ lệ học sinh bỏ học không đến trường vẫn còn, mà nguyên nhân chủ yếu là kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Ngành giáo dục và đào tạo đã chủ động phối hợp với các địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình xây dựng trường lớp, mua sắm thiết bị dạy học, cung ứng sách giáo khoa, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các giáo viên, cán bộ quản lý ở các bậc học, cấp học cho năm học mới. Theo thống kê đầu năm học, tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi: mẫu giáo 5 tuổi 96,3%, tiểu học 99,6%, trung học cơ sở 84,7%, trung học phổ thông 46,7%. b) Đào tạo nghề. - Hệ thống đào tạo nghề. Kể từ năm 1998 đến nay, dạy nghề được phục hồi và có những bước phát triển, đặc biệt trong 5 năm gần đây (2006-2010), công tác dạy nghề trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm đầu tư phát triển khá, từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển con người: Hệ thống dạy nghề đã hình thành với 3 cấp trình độ đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng nghề) thay thế dạy nghề ngắn hạn, dài hạn; đã từng bước chuyển dần sang dạy nghề theo nhu cầu của thị trường lao động, nhu cầu của xã hội và việc làm; mạng lưới dạy nghề có những bước phát triển nhanh, các trường, trung tâm dạy nghề công lập phủ khắp các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh, với 25 cơ sở dạy nghề công lập và ngoài công lập, trong đó: 01 trường Cao đẳng Nghề, 03 trường Trung cấp Nghề, 10 Trung tâm dạy Nghề ở các huyện, các đoàn thể và 11 cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc của đoàn thể và các trường cao đẳng, đại học tham gia dạy nghề. Cơ sở vật chất dạy nghề ở các trường, trung tâm dạy nghề đã được quan tâm đầu tư trong những năm qua, trong đó đã tập trung nhiều để xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện các phòng học, phòng thực hành từng bước đúng theo tiêu chuẩn; về trang thiết bị đã được tập trung trang bị để phục vụ đào tạo các ngành nghề chủ yếu như: cơ khí, điện công nghiệp, điện dân dụng, lắp ráp điện tử, công nghệ thông tin. Mục tiêu xã hội hóa dạy nghề đã đạt được những kết quả, đã có một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia thành lập các cơ sở dạy nghề, tuyên truyền, vận động dạy nghề và học nghề. - Kết quả đào tạo nghề. Quy mô đào tạo nghề đã có sự gia tăng đáng kể bình quân từ 12.000 người/năm giai đoạn 2001 - 2005 đã tăng lên 21.000 người/năm trong giai đoạn 2006-2010. Trong đó, đào tạo dài hạn đã được chuyển đổi thành trung cấp và cao đẳng nghề, với quy mô đào tạo bình quân tăng từ 1.300 học viên/năm giai đoạn 2001-2005 lên 2.900 học viên/năm giai đoạn 2006-2010. Kể từ năm 2006 đến nay hệ thống cơ sở dạy nghề của tỉnh đã tuyển mới đào tạo cho 108.600 người, trong đó cao đẳng nghề là 1.711 người, trung cấp nghề 10.167 người và 94.341 người được đào tạo sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng. Kết quả đào tạo nghề trong những năm qua đã góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 40%, trong đó qua đào tạo nghề là 26,6% năm 2010. Hình 2.9 Kết quả dạy nghề giai đoạn 2006-2010 - Cơ cấu ngành nghề đào tạo đã từng bước được điều chỉnh phù hợp với ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đáp ứng với nhu cầu của thị trường lao động, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải quyết việc làm cho người lao động; nhiều hình thức dạy nghề đã được áp dụng linh hoạt, phù hợp với khả năng, trình độ của người lao động, như dạy nghề theo địa chỉ, dạy nghề cho người nghèo, dạy nghề cho lao động nông thôn, tổ chức liên kết đào tạo nghề ở tr.nh độ trung cấp, cao đẳng nghề, dạy nghề kết hợp với sản xuất tại địa bàn dân cư, khu vực sản xuất Ngành nghề đào tạo cho người lao động, chủ yếu tập trung vào các nhóm nghề: + Nhóm nghề phi nông nghiệp, như: điện công nghiệp, điện dân dụng, xây dựng, kế toán doanh nghiệp, cơ khí, sửa chữa xe gắn máy, sửa chữa điện tử, lập trình máy tính - lắp ráp bảo trì máy vi tính thuộc các hệ đào tạo trung cấp và cao đẳng nghề; riêng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và mỹ nghệ như: tạo sản phẩm từ lục bình, tre, trúc, mây, cói, dây nhựa, khâu bóng xuất khẩu, dệt chiếu, thảm, thêu ren, sửa kiểng bon sai, sản xuất đồ gốm mỹ nghệ từ đất nung, phi lê cá xuất khẩu, tin học văn phòng được tổ chức đào tạo cho các lớp sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng. + Nhóm nghề nông nghiệp và các dịch vụ nông nghiệp cũng đã được các cơ sở dạy nghề ứng dụng và triển khai đào tạo có hiệu quả ở các ngành nghề: thâm canh lúa và màu tổng hợp, kỹ thuật trồng rau an toàn, kỹ thuật làm vườn, kỹ thuật chăn nuôi gia súc gia cầm, chăn nuôi thú y, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản được tổ chức đào tạo cho hộ gia đình vùng nông thôn là chủ yếu. - Chương trình và giáo trình đào tạo nghề cho người lao động được các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn, dựa trên cơ sở Chương trình khung của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành cho từng ngành nghề và từng nhóm nghề đào tạo hệ trung cấp và cao đẳng. Riêng đối với chương trình và giáo trình đào tạo sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng, các cơ sở dạy nghề dựa vào điều kiện thực tế của địa phương, từng vùng trong tỉnh biên soạn các giáo trình, giáo án giảng dạy, hàng năm cập nhật hoàn thiện và phát triển thêm cho phù hợp với thực tế và đáp ứng với yêu cầu của xã hội. - Chất lượng và hiệu quả sau đào tạo những năm qua có những bước phát triển khá, tỷ lệ lao động sau đào tạo trung cấp, cao đẳng nghề có việc làm, hoặc tự tạo việc làm cho bản thân đạt 92% so với số lao động ra trường; lao động được dạy nghề sơ cấp và dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng sau khi được đào tạo tỷ lệ có việc làm tại địa phương đạt 71%, đặc biệt đào tạo nghề theo địa chỉ, có hiệu quả rất cao, với gần 100% số lao động được đào tạo đều có việc làm tại các doanh nghiệp, đơn vị, cơ sở sản xuất và lực lượng lao động tham gia học nghề theo mô h.nh này phần lớn là lao động nông thôn. c) Đào tạo từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên. - Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp trở lên: Trên địa bàn tỉnh có 04 trường: Đại học Đồng Tháp, Cao đẳng Cộng đồng, Cao đẳng Y tế, Chính trị đặt tại 02 trung tâm hành chính - kinh tế của tỉnh là thành phố Cao Lãnh và thị xã Sa Đéc khá thuận lợi cho học sinh, sinh viên tham gia học tập; hàng năm đào tạo hoặc liên kết đào tạo với các trường ngoài tỉnh, từ trình độ trung cấp chuyên nghiệp trở lên với hình thức chính quy, vừa làm, vừa học, từ xa. - Các điều kiện đảm bảo phát triển đào tạo: + Tổng chi ngân sách hàng năm cho các trường: 102 tỷ đồng. + Cơ sở vật chất - kỹ thuật: phòng học, thiết bị phục vụ đào tạo, phòng thí nghiệm, thư viện, xưởng thực hành, khá hiện đại, đáp ứng cơ bàn yêu cầu giảng dạy và dần dần gắn với nhu cầu của các cơ quan, doanh nghiệp sử dụng lao động. - Hiện trạng đội ngũ giảng viên, giáo viên và công chức quản lý đào tạo: + Số lượng: 805 người. + Trình độ sau đại học: 17 Tiến sĩ, 229 Thạc sĩ, đạt tỷ lệ 30,55%. + Công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, giáo viên được chú trọng, trong thời gian qua đã cử đi đào tạo sau đại học hơn 400 người; bồi dưỡng thường xuyên hàng năm hơn 500 lượt người. + Một số giảng viên của các cơ sở đào tạo thiếu thực tiển; nội dung và phương pháp giảng dạy chậm đổi mới và chưa theo kịp yêu cầu. - Những hạn chế trong đào tạo. - Công tác đào tạo thiếu tầm nhìn chiến lược; công tác quy hoạch còn yếu. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu, một số đã lạc hậu hoặc chưa phù hợp. - Cán bộ quản lý đào tạo chưa được đào tạo trang bị những kiến thức cơ bản về lĩnh vực này nên phải vừa làm, vừa tìm hiểu, học hỏi. - Đội ngũ giảng viên, giáo viên của các trường trung cấp chuyên nghiệp trở lên đạt trình độ sau đại học còn thấp: 30,55%. 2.2.3.2. thực trạng sử dụng nhân lực. Năng suất lao động được định nghĩa bởi OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế-Organization for Economic Cooperation and Development) là "tỷ số giữa sản lượng đầu ra với số lượng đầu vào được sử dụng." Thước đo sản lượng đầu ra thường là GDP (Gross Domestic Product) hoặc GVA (Gross Value Added) tính theo giá so sánh, điều chỉnh theo lạm phát. Ba thước đo thường sử dụng nhất của lượng đầu vào là: thời gian làm việc, sức lao động và số người tham gia lao động. Trong điều kiện dữ liệu cho phép, năng suất lao động trong phân tích này được tính giản đơn là giá trị gia tăng (giá thực tế) chia cho tổng số lao động trong nền kinh tế của tỉnh (bỏ qua yếu tố đóng góp của vốn và công nghệ). Qua biểu số liệu cho thấy năng suất lao động trong các ngành cho thấy xu hướng chung là năng suất lao động trong các ngành tăng lên đặc biệt là trong giai đoạn 2006-2010, duy chỉ có ngành xây dựng là giảm. Nhìn chung theo phương pháp tính năng suất này th. không có sự tương quan tỷ lệ gia tăng số lao động trong ngành và tỷ lệ gia tăng năng suất. Nhìn chung, nhân lực đang có xu hướng bảo hoà ở nhóm ngành nông lâm thuỷ sản và tăng ở nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và nhóm ngành thương mại - dịch vụ. Mặt khác việc hấp thu lao động của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và nhóm ngành thương mại - dịch vụ tuy tăng về mặt số lượng nhưng khi xem xét ở khía cạnh chất lượng thì xuất hiện nhiều vấn đề đáng quan tâm. Tính quy luật trong sản xuất nông lâm thuỷ sản, tư liệu sản xuất (đất đai, diện tích sản xuất) là có giới hạn và số lượng lao động trong nội bộ ngành đã vào giai đoạn bão hoà (trong giai đoạn 2001-2010 hầu như không có sự biến động về mặt số lượng lao động ngành nông - lâm - thuỷ sản) thì việc gia tăng số lượng lao động trong nền kinh tế buộc phải tìm kiếm việc làm ở ngành khác. Trong giai đoạn 2001-2010 tỷ lệ dân số chuyển cư ra khỏi địa bàn tỉnh là tương đối lớn vào khoảng 0,57%/năm. Quy mô hoạt động nhóm ngành phi nông nghiệp nhỏ, nhu cầu về lao động trong các ngành phi nông nghiệp chưa đòi hỏi nhiều về trình độ, năng suất lao động trong các ngành phi nông nghiệp chưa có sự gia tăng đáng kể. Đây là các dấu hiệu cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong các nhóm ngành kinh tế chỉ diễn ra ở mặt số lượng về chất lượng thực chất là chưa chuyển biến nhiều, sự gia tăng lao động trong nhóm ngành phi nông nghiệp thực chất là một dạng của thất nghiệp. 2.2.4. Đánh giá thực trạng 2.2.4.1. Những điểm mạnh Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề nâng cao chất nguồn nhân lực trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương tạo tiền đề cho sự chuyển biến về mặt xã hội, Đảng bộ và Chính quyền cấp Tỉnh tập trung chỉ đạo lấy giáo dục phổ thông làm trọng tâm là nền tảng cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn sắp tới. Sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ. Lực lượng lao động trong tổng dân số nhiều, tỷ số phụ thuộc thấp là điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao phúc lợi xã hội ở địa phương tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Cơ cấu dân số tương đối đồng đều, đảm bảo cho các yêu cầu về đảm bảo duy trì lực lượng lao động kế thừa trong tương lai. Đa số cán bộ, công chức, viên chức đạt tiêu chuẩn và bản lĩnh chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ; đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên và tất cả các cấp, bác sĩ, y sĩ, sinh viên đại học và cao đẳng, học sinh trung cấp chuyên nghiệp, trung học dạy nghề có thể sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, đồng thời khai thác hiệu quả thông tin trên mạng internet để phục vụ cho công tác chuyên môn. 2.2.4.2. Những hạn chế Đội ngũ nhân lực của Tỉnh đông về số lượng, tuy nhiên xét về mặt chất lượng còn có nhiều mặt hạn chế, nhất là trình độ chuyên môn, tay nghề, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề và chuyển dịch cơ cấu trong tương lai. Khi nền kinh tế chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu thì vấn đề nhân lực thiếu trình độ, tay nghề và kỹ năng là vấn đề lớn đối với Tỉnh. Thời gian qua cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch đáng kể giữa các ngành và trong nội bộ ngành theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, khi đi vào phân tích về mặt chất lượng thì xuất hiện những vấn đề đáng quan tâm: - Lao động trong khu vực nông nghiệp chủ yếu là trong lĩnh vực trồng trọt chịu nhiều tác động của yếu tố thời vụ, vì vậy thời gian lao động nông nhàn trong khu vực nông nghiệp còn nhiều. - Khu vực công nghiệp - xây dựng khả năng thu hút nhân lực còn nhiều hạn chế, sức phát triển của ngành nghề và sự thích ứng của lực lượng lao động chưa đồng bộ. - Sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực thương mại - dịch vụ trong thời gian qua là tương đối nhiều. Tuy nhiên sự phát triển này không bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế, nó bao gồm phần lớn là ngành nghề phi sản xuất, trong đó buôn bán nhỏ chiếm đa số. - Số doanh nghiệp có trang thông tin điện tử còn ít (khoảng 5%) nên rất hạn chế trong việc cập nhật kiến thức và quảng bá sản phẩm, thương hiệu ra thị truờng quốc tế. - Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho việc nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông trong những năm qua được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng với nhu cầu đề ra và còn hạn chế ngân sách. - Quan điểm của người dân chưa coi trọng giáo dục phổ thông, nhận thức về học nghề và đào tạo nghề so với đào tạo đại học và cao đẳng còn có những mặt bất cập. - Công tác đào tạo chưa thực sự gắn kết được với nhu cầu của người sử dụng lao động về các mặt: ngành nghề đào tạo, chất lượng đào tạo thấp, cơ sở vật chất đào tạo còn yếu kém, không phù hợp với công nghệ hiện đang hoạt động tại doanh nghiệp - Chính sách thu hút nhân lực còn có nhiều hạn chế, chịu sự cạnh tranh trong việc tuyển dụng lao động, cán bộ của các tỉnh lân cận và khu vực trọng điểm kinh tế phía Nam. - Công tác giải quyết việc làm cho lao động xét về chất lượng là chưa cao, thu nhập lao động còn thấp, các điều kiện thiết yếu phục vụ đời sống trong các khu cụm công nghiệp còn nhiều hạn chế, - Đội ngũ chuyên gia của các cơ quan, đơn vị chưa nhiều; đội ngũ làm công tác dự báo, xây dựng quy hoạch, đề án cấp ngành, cấp Tỉnh còn yếu, thiếu; trình độ sau đại học còn ít, có 242 người; đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đạt tiêu chuẩn còn thấp, mới đạt 68,26% trong tổng số. - Hệ thống chuỗi cơ sở dữ liệu về tình hình lao động, việc làm, thu nhập, điều kiện lao động chưa hoàn chỉnh nên viêc phân tích đánh giá thị trường lao động còn nhiều khó khăn, do vậy công tác hoạch định chính sách cho lao động còn nhiều vấn đề bất cập. 2.2.4.3. Những thời cơ Đồng Tháp với lực lượng dân số trong độ tuổi từ 35 trở xuống đông là điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thúc đẩy quá trình tăng trưởng theo chiều rộng chuyển sang tăng trưởng theo chiều sâu. Với lực lượng lao động đông như hiện nay là điều kiện cho Đồng Tháp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, tích luỹ vốn tư bản và vốn xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và phát triển con người chuẩn bị cho giai đoạn cho giai đoạn tăng trưởng kinh tế đi vào chiều sâu. Sự chuyển giao công nghệ, chuyển giao sản xuất từ các vùng kinh tế trọng điểm sang các tỉnh lân cận trong đó có Đồng Tháp. Khi Việt Nam đi vào phát triển nền kinh tế tri thức thì những lợi thế sản xuất như gần vùng nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, diện tích sản xuất, không còn có. nghĩa quan trọng nữa thay vào đó là lợi thế về nguồn nhân lực là yếu tố quyết định. 2.2.4.4. Những thách thức Với việc bổ sung lực lượng lao động trẻ gia tăng hàng năm nhiều, trong khi số lượng dân số rời khỏi lực lượng lao động ít sẽ là áp lực trong việc tạo việc làm mới cho lực lượng lao động ngày một tăng của Tỉnh. Với cơ cấu lao động tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp nhiều, khi các ứng dụng khoa học vào quá trình sản xuất nông nghiệp sẽ giải phóng một lượng lớn lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo cho việc chuyển đổi cơ cấu ngành nghề cho lao động, đào tạo kỹ năng cho lao động trong môi trường mới. Khi tiếp nhận các chuyển giao công nghệ và chuyển giao sản xuất cần có sự cân nhắc và sự bố trí theo lãnh thổ hợp lý để tránh cản trở cho việc phát triển nền kinh tế tri thức. Vấn đề kết nối giữa nhu cầu đào tạo, trình độ chuyên môn và ngành nghề đào tạo và nhu cầu tuyển dụng của các đơn vị sử dụng lao động. Chương 3 GIẢI PHÁP 3.1 Những tồn tại và nguyên nhân Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới (năm 2008 và đầu năm 2009) ảnh hưởng lớn đến việc làm và đời sống người lao động, kể cả lao động làm việc ở các doanh nghiệp trong nước và lao động đi xuất khẩu phải về nước trước hạn. Bên cạnh đó, do tốc độ đô thị hóa nhanh, số lao động nông nghiệp bị mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp lớn, làm tăng thêm sức ép về giải quyết việc làm. Thị trường lao động trên địa bàn tỉnh còn nhiều bất cập, các yếu tố của thị trường mới được tạo lập, một số cơ chế điều tiết sự phát triển của thị trường, giải quyết quan hệ cung - cầu lao động chưa hình thành đồng bộ, thiếu bền vững. Các dự án cho vay giải quyết việc làm chủ yếu là dự án trong lĩnh vực nông nghiệp (chiếm trên 85%); đối tượng vay là các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại còn chiếm tỷ lệ thấp, nhìn chung chỉ tăng thêm thời gian làm việc cho người lao động, chưa tạo thêm nhiều việc làm việc mới. Các ngành nghề thu hút nhiều lao động của tỉnh phát triển chưa đa dạng, phong phú chỉ tập trung một số lĩnh vực như: may mặc, chế biến thủy sản, chế biến thức ăn thủy sảnnên chưa đáp ứng nhu cầu tìm việc của người lao động, nhất là lao động nữ. Chất lượng nguồn lao động vẫn còn thấp cả về chuyên môn, ngoại ngữ, tay nghề; tác phong công nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao độngdo vậy chưa đáp ứng những yêu cầu cơ bản của nhà tuyển dụng, nhất là những doanh nghiệp có thu nhập khá, việc làm ổn định và đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Hoạt động của hệ thống giới thiệu việc làm còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực trao đổi, cung cấp thông tin về thị trường lao động; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác giới thiệu việc làm còn bất cập; trang thiết bị và cơ sở vật chất dành cho thông tin thị trường lao động còn nghèo nàn, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Hệ thống thông tin thị trường lao động chưa được thiết lập đồng bộ từ tỉnh tới các huyện, thị xã, thành phố và xã, phường, thị trấn; đặc biệt công tác thống kê số lượng, chất lượng nguồn lao động và kiểm soát kết quả giải quyết việc làm còn nhiều khó khăn. Việc cập nhật thông tin, báo cáo về lao động việc làm ở cấp cơ sở, không thường xuyên, chưa chính xác, dẫn đến việc đánh giá kết quả giải quyết việc làm hằng năm và dự báo về thị trường lao động chưa liên tục và kịp thời. Nguyên nhân tồn tại chủ yếu là do: lực lượng làm công tác quản lý lao động giải quyết việc làm nhất là cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) áp lực công việc nhiều, khoảng 80% chưa qua đào tạo chuyên ngành nên ảnh hưởng lớn đến việc tham mưu, đề xuất và tổ chức triển khai thực hiện Chương trình. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chưa thường xuyên; hoạt động thông tin về tuyên truyền việc làm, phát triển thị trường lao động chưa thực hiện tốt nên ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả thực hiện Chương trình. Việc cập nhật theo dõi thông tin biến động cung cầu lao động, quản lý danh sách lao động được giải quyết việc làm, lao động có nhu cầu học nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động nhiều xã, phường thực hiện chưa tốt, không thường xuyên từ đó việc tổng hợp kết quả, phân tích đánh giá và dự báo nhu cầu lao động chưa tốt. 3.2 Những giải pháp 3.2.1 Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về phát triển nhân lực Nâng dần nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực tác động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế địa phương, cải thiện thu nhập và nâng cao mức sống dân cư. Sự phát triển của nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đến quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh và xây dựng nền kinh tế tri thức của Tỉnh. Trong đó, phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, phổ thông ở các cấp học, công tác phân luồng học sinh cuối cấp học trung học cơ sở và trung học phổ thông, gắn với giáo dục hướng nghiệp ở từng cấp được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tỉnh trong giai đoạn 2011-2020. Để công tác đào tạo nghề đạt được mục tiêu đề ra, các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể trong Tỉnh cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Chính phủ, của Tỉnh ủy về các nhiệm vụ, công tác đào tạo nghề, nhận thức đúng tầm quan trọng của nhiệm vụ đào tạo nghề với ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội hết sức to lớn. Do đó phải thường xuyên tuyên truyền rộng rãi trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vai trò của đào tạo nghề cho lao động là nhằm trang bị những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ cho lao động để tìm kiếm việc làm, hoặc tự tạo việc làm ổn định, lâu dài phù hợp với bản thân, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư, làm thay đổi bộ mặt vùng nông thôn, biên giới theo hướng hiện đại. Các cấp, các ngành phải thường xuyên đưa công tác đào tạo nghề vào các nhiệm vụ trọng tâm, chương trình hành động của địa phương, của ngành mình; lồng ghép vào các chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng ngành; đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể thực hiện đào tạo nghề. Tổ chức các hội thảo, hội nghị chuyên đề về công tác đào tạo nghề, nhằm đánh giá kết quả thực hiện hàng năm, từng giai đoạn, tìm ra những yếu kém, hạn chế, khó khăn, vướng mắc để khắc phục. Đi đôi với công tác tạo việc làm, nâng cao chất lượng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. 3.2.2. Đổi mới quản lý Nhà nước về phát triển nhân lực Thực hiện đổi mới quản lý Nhà nước về phát triển nhân lực theo nội dung hướng dẫn của Trung ương, kết hợp với tình hình, yêu cầu thực tế của địa phương, đảm bảo đạt kết quả tốt theo mục tiêu đổi mới của cả nước. Tập trung củng cố, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý về phát triển nhân lực địa phương; thống nhất về quản lý Quy hoạch phát triển nhân lực trên địa bàn. Xem xét, hình thành cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn Tỉnh. Đảm bảo cung - cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trước mắt, phân công Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các đơn vị: Cục Thống kê, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục Đào tạo, Sở Nội vụ và các sở, ngành liên quan khác thu thập và theo dõi số liệu về tình hình lao động trên địa bàn Tỉnh và của bộ phận dân số đang theo học tại các trường trên địa bàn tỉnh, thành phố khác; giúp Uỷ ban nhân dân Tỉnh chỉ đạo thực hiện Quy hoạch và tham mưu, đề xuất chính sách, cơ chế đào tạo nhân lực của Tỉnh. Xây dựng hệ thống dữ liệu về thị trường lao động và khả năng đào tạo, gắn với công tác quản lý, dự báo, cân đối nhu cầu, đào tạo nhân lực và hỗ trợ việc làm cho lao động sau đào tạo giữa các ngành, địa phương, cơ sở đào tạo và các tổ chức kinh tế. Các chương trình, dự án phát triển ngành, lĩnh vực phải xác định được các giải pháp bảo đảm về nhân lực thực hiện có hiệu quả chương trình, dự án. Tăng cường mối liên kết giữa các cơ quan quản lý với các cơ sở đào tạo, dạy nghề; mối liên kết giữa đơn vị sử dụng lao động, người lao động và đơn vị đào tạo. Đào tạo theo yêu cầu của thị truờng, nghiên cứu và cải tiến chương trình giảng dạy đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thị truờng và đảm bảo chất lượng đầu ra. 3.2.3. Về đào tạo và bồi dưỡng nhân lực Rà soát, bổ sung quy hoạch mạng lưới đào tạo, dạy nghề trên địa bàn Tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của địa phương và phù hợp với định hướng phát triển của cả nước. Tập trung thực hiện hoàn thành các chương trình, đề án của ngành, trong đó, hỗ trợ trường Đại học Đồng Tháp mở rộng giai đoạn 2; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo của trường Cao đẳng Cộng đồng, Cao đẳng Nghề, Cao đẳng Y tế. Phối hợp với trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh xây dựng cơ sở 2 của Trường tại thành phố Cao Lãnh, xây dựng trường Đại học Kỹ thuật trên cơ sở nâng cấp trường Cao đẳng Nghề của Tỉnh. Đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất các trường Trung cấp Nghề giao thông vận tải, Trung cấp Nghề khu vực Hồng Ngự, Tháp Mười; xây dựng mới trường Trung cấp Nghề Thanh Bình, Lấp Vò, Cao Lãnh... Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý đào tạo nghề các cấp. Huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề bậc cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các trung tâm khuyến nông - lâm - ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia đào tạo nghề cho lao động. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề, phổ cập các nghề mới cho giáo viên ở các trung tâm, các trường dạy nghề đạt chuẩn theo quy định. Trước mắt tuyển mới những người đã tốt nghiệp đại học sư phạm là con em trong Tỉnh chưa có việc làm, để đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nghề phù hợp với ngành đã học về bố trí làm giáo viên dạy nghề ở các trường trung cấp, cao đẳng nghề trong Tỉnh. Kịp thời cập nhật nội dung, chương trình dạy nghề, gắn với bổ sung, phát triển phù hợp với thực tế của địa phương, chú trọng chương tr.nh đào tạo kỹ thuật viên, đào tạo nghề cho lao động khu vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Đổi mới nội dung, chương trình dạy nghề theo địa chỉ, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới, công nghệ - thông tin vào quá trình giảng dạy, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường lao động. Khuyến khích các cơ sở đào tạo đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, giáo viên. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia thực hiện tốt Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”. Chú trọng thu hút đào tạo các ngành nghề mới xã hội có nhu cầu, mà khả năng và điều kiện hiện có của các cơ sở đào tạo nghề trong tỉnh chưa đáp ứng được; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết với các cơ sở dạy nghề tổ chức đào tạo nghề cho người lao động tại cơ sở sản xuất. Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các hợp tác xã, trang trại, cơ sở sản xuất tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn phù hợp với đặc điểm tình hình ở địa phương. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong đó, chú trọng đào tạo lực lượng cán bộ, công chức trẻ làm nồng cốt trong công tác quản lý, nghiên cứu khoa học ở những ngành chủ lực, lĩnh vực có lợi thế, tiềm năng. Tiếp tục đào tạo sau đại học ở nước ngoài một số chuyên ngành cần thiết với số lượng hợp lý. Liên kết với các tổ chức, đơn vị chức năng trong và ngoài nước tổ chức bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ ngắn hạn tại địa phương. Trong công tác đề bạt, bổ nhiệm lần đầu đối với cán bộ chủ chốt cấp ngành tỉnh, cấp huyện, ưu tiên xem xét bố trí cán bộ dưới 40 tuổi, có năng lực lãnh đạo, uy tín, có trình độ sau đại học chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực công tác; đối với cán bộ chủ chốt cấp xã, ưu tiên xem xét bố trí cán bộ dưới 30 tuổi, có năng lực lãnh đạo, uy tín, có trình độ đại học chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực công tác. 3.2.4. Mở rộng, tăng cường phối hợp và hợp tác để phát triển nhân lực. Tăng cường mối liên kết giữa các cơ quan quản lý với các cơ sở đào tạo, dạy nghề; mối liên kết giữa đơn vị sử dụng lao động, người lao động và đơn vị đào tạo. Đào tạo theo yêu cầu của thị truờng, nghiên cứu và cải tiến chương trình giảng dạy đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thị truờng và đảm bảo chất lượng đầu ra. Tăng cường nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của mình trong việc phối hợp với các cơ sở sở đào tạo nghề. Doanh nghiệp phải có đóng góp ý kiến cho các chính sách, chương trình phát triển nhân lực địa phương để phục vụ cho chính mình. Phối hợp xây dựng, phát triển cơ sở hệ thống dữ liệu về thị trường cung cầu lao động và các cơ sở đào tạo. Gắn kết cơ sở đào tạo với doanh nghiệp để có hướng đào tạo theo yêu cầu sử dựng của doanh nghiệp, đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động. Phần 3: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 3.1. Kiến nghị Để thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ Tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015, đến năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 55,5% (đào tạo nghề 40%) và mục tiêu Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến 2020 của Tỉnh, đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 69% (đào tạo nghề 50%). Đồng Tháp kiến nghị với Trung ương một số nội dung sau: - Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và nhân lực cho phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề của các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng trọng điểm lương lực của cả nước đạt được những chỉ tiêu giáo dục chủ yếu từ mức trung bình của cả nước trở lên. - Cải cách nhanh và đẩy mạnh chính sách đãi ngộ, khen thưởng, chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao chất lượng công việc, năng suất lao động, đáp ứng tốt theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ngày càng cao. 3.2. Kết luận. Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 của tỉnh Đồng Tháp với các nội dung: đánh giá kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân tồn tại; dự báo cung - cầu lao động qua đào tạo cho phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh đến năm 2020; đồng thời đưa ra quan điểm, định hướng, mục tiêu phát triển, giải pháp chủ yếu về phát triển nhân lực cho Tỉnh. Quy hoạch phát triển nhân lực là bản luận chứng mang tính khoa học và thực tiễn, giúp lãnh đạo Tỉnh có cơ sở vững chắc trong việc chỉ đạo phát triển nhân lực trên địa bàn Tỉnh, đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực, góp phần đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đạt được mục tiêu đề ra, làm tiền đề phát triển bền vững trong những năm tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Văn Lộc, (2011), Phân tích tình hình thất nghiệp ở Việt Nam. 2. Phan Minh Tâm, (2011), Thất nghiệp và việc lam Việt Nam. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbang_chinh_6652_2120235.doc