Chuyên đề Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam

Tài liệu Chuyên đề Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN HÀ NỘI -------------------------------------- CHUYÊN ĐỀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ CHUYÊN ĐỀ 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam Nhóm chuyên đề: - Đỗ Thị Ánh Hồng - Lê Thị Thuý Hồng - Đoàn Thị Huế - Bùi Tuấn Hùng - Mai Thị Hương - Đặng Hoàng Lan - Đào Thị Thanh Loan Người hướng dẫn: TS. Đặng Ngọc Đức Hà Nội - 2013 Chuyên đề 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như bảng cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy, cán cân thanh toán đã trở thành công cụ quan trọng để đề ra các chính sách phát triển kinh tế và những diễn biến trong cán cân thanh toán của một nước là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạ...

doc43 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN HÀ NỘI -------------------------------------- CHUYÊN ĐỀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ CHUYÊN ĐỀ 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam Nhóm chuyên đề: - Đỗ Thị Ánh Hồng - Lê Thị Thuý Hồng - Đoàn Thị Huế - Bùi Tuấn Hùng - Mai Thị Hương - Đặng Hoàng Lan - Đào Thị Thanh Loan Người hướng dẫn: TS. Đặng Ngọc Đức Hà Nội - 2013 Chuyên đề 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như bảng cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy, cán cân thanh toán đã trở thành công cụ quan trọng để đề ra các chính sách phát triển kinh tế và những diễn biến trong cán cân thanh toán của một nước là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên, để lập được một bản cán cân thanh toán quốc tế đầy đủ chính xác và kịp thời là một việc rất khó khăn do phạm vi thu thập số liệu cán cân thanh toán quốc tế quá rộng. Việc phân tích các tình trạng và đưa ra các giải pháp điều chỉnh cán cân thanh toán trong từng thời kì phát triển kinh tế của một quốc gia cũng là việc khó do các khu vực trong nền kinh tế có quan hệ tác động lẫn nhau. Có thể nói rằng việc thành lập, phân tích điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế đối với Việt Nam là rất mới mẻ và thiếu kinh nghiệm, để cán cân thanh toán quốc tế trở thành một công cụ phân tích, quản lý tốt các hoạt động kinh tế đối ngoại thì vấn đề cấp thiết là phải có sự nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn trong việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. I/ Tổng quan về cán cân thanh toán quốc tế 1.1 Những vấn đề cơ bản về cán cân thanh toán quốc tế 1.1.1 Khái niệm hay quan niệm về CCTTQT - Là bảng cân đối, so sánh và đối chiếu giữa các khoản tiền thu được từ ở nước ngoài với các khoản tiền phải chi trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. - Là một biểu tổng hợp phản ánh tất cả các giao dịch dưới hình thức tiền tệ của một nước với các nước khác. - Là một bản báo cáo thống kê ghi chép và phản ánh các giao dịch kinh tế giữa những người cư trú với người không cư trú trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) (Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về quản lý CCTT quốc tế của Việt Nam) 1.1.2 Phân loại cán cân thanh toán quốc tế - Cán cân thời điểm khác với cán cân thời kỳ: + Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bản đối chiếu giữa các khoản tiền đã và sẽ thu về và chi ra ở một thời điểm cụ thể nào đó. Vậy trong loại cán cân thanh toán này chứa đựng cả những số liệu phản ánh các khoản tiền nợ nước ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng vào ngày của cán cân. + Cán cân thanh toán trong một thời kỳ là bản đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Vậy loại cán cân này chỉ phản ánh số liệu thực thu và thực chi của một nước đối với nước ngoài trong thời kỳ đã qua. 1.1.3.Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế - Ở tầm quản lý kinh tế vĩ mô: + Chính sách đối ngoại nói chung và chính sách thương mại quốc tế nói riêng + Kiểm soát sự di chuyển của các luồng vốn: Đầu tư nước ngoài và xuất khẩu vốn + Điều hành chính sách tỷ giá - Ở tầm vi mô: + Cung cầu ngoại tệ và dự đoán sự biến động tỷ giá + Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu + Hoạt động kinh doanh ngoại tệ 1.1.4 Nguyên tắc hạch toán - Bên thu: khoản thu từ người không cư trú được ghi “có” và biểu hiện bằng dấu “+”: phản ánh sự gia tăng của cung ngoại tệ - Bên chi: Khoản chi cho người không cư trú được ghi “nợ” và biểu hiện bằng dấu “-”, phản ánh sự gia tăng về cầu ngoại tệ Việc ghi chép theo các nguyên tắc nhất định và thống nhất: - Nguyên tắc ghi nợ và ghi có: Ghi nợ phản ánh lượng giá trị bị giảm xuống (khoản chuyển ra nước ngoài) và được ghi dấu âm (-) trong CCTT. Ghi có phản ánh lượng giá trị tăng lên (khoản nhận từ nước ngoài) và được ghi dấu (+) trong CCTT. Việc phân biệt khoản có hoặc khoản nợ có thể dựa vào luồng tiền di chuyển giá trị hoặc luồng tiền thanh toán. Các giao dịch chưa được thực hiện trong kỳ không được hạch toán trong CCTT, nghĩa là CCTT chỉ hạch toán những giao dịch diễn ra thực sự. - Nguyên tắc ghi sổ kép: Tất cả các giao dịch phát sinh ghi có đều phải được cân bằng lại bằng cách ghi nợ vào khoản mục tương ứng và ngược lại. Tổng số các khoản ghi nợ phải bằng tổng số các khoản ghi có. Do đó tổng đại số các giao dịch trong CCTT bằng 0. Việc thực hiện nguyên tắc trên thông qua tài khoản ghi chép các khoản nợ và có của giao dịch. 1.2 Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế 1.2.1. Cán cân vãng lai – current account balance: - Cán cân vãng lai được tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú và Người không cư trú về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập của người lao động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá, lãi vay và lãi tiền gửi nước ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật. + Cán cân thương mại + Cán cân dịch vụ + Cán cân thu nhập + Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều - Cán cân thương mại: Hạch toán tất cả các khoản thu từ xuất khẩu hàng hoá và các khoản chi để nhập khẩu hàng hoá. Bảng cân đối thu chi của phần này được gọi là cán cân thương mại. Thông thường đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài khoản vãng lai. Tất cả các số liệu xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá được ghi chép trong cán cân thanh toán được tính theo giá FOB hoặc FAS. - Cán cân dịch vụ: Hạch toán các khoản thu từ xuất khẩu và chi để nhập khẩu các loại hình dịch vụ. Bảng cân đối thu và chi của phần này gọi là cán cân dịch vụ. Theo tiêu chuẩn của IMF, hạng mục này có thể phân chia thành: a. Dịch vụ vận chuyển: cước phí, hành khách, các khoản khác b. Dịch vụ du lịch: bao gồm các chi phí khách sạn và nhà trọ, các chi phí du lịch khác (nhà hàng, các chuyến thăm quan...). c. Các dịch vụ khác. Bao gồm: - Dịch vụ chính phủ: + Các giao dịch của các Đại sứ quán, các nhà tư vấn, các cơ quan quân sự quốc phòng. + Các giao dịch với các cơ quan khác như: Phái đoàn viện trợ, các phái đoàn du lịch Chính phủ, thông tin và các văn phòng thúc đẩy thương mại.  - Dịch vụ tư nhân: + Các dịch vụ thông tin và tin học. + Các dịch vụ xây dựng. + Các dịch vụ bảo hiểm. + Các chi phí bản quyền và giấy phép. + Các dịch vụ tài chính. + Các dịch vụ kinh doanh khác. + Các dịch vụ phục vụ cá nhân. - Cán cân thu nhập: Hạch toán tất cả các khoản thu nhập từ hai yếu tố sản xuất: Lao động và vốn. Thu nhập từ lao động gọi là thu nhập của người lao động. Thu nhập từ vốn gọi là thu nhập đầu tư. a. Thu nhập của người lao động bao gồm lương, thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền hoặc bằng hàng do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại. b. Thu nhập đầu tư bao gồm: + Thu nhập đầu tư trực tiếp (các khoản thu nhập đầu tư và tái đầu tư) + Thu nhập đầu tư vào giấy tờ có giá (thu nhập do nắm giữ cổ phiếu, trái phiếu,các giấy tờ có giá và các công cụ tài chính khác). + Thu nhập đầu tư khác: các khoản thu về tài sản của người cư trú - Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều: Ghi chép các khoản chuyển giao dưới dạng không hoàn lại như quà tặng, viện trợ và các khoản chuyển giao khác bằng tiền mặt hoặc hiện vật giữa người cư trú và người không cư trú cho mục đích tiêu dùng này bao gồm: a. Chuyển giao khu vực chính phủ - Các khoản viện trợ không hoàn lại (các khoản chuyển giao bằng tiền hoặc bằng hàng ví dụ như quà tặng về thực phẩm, quần áo, thuốc men và hàng tiêu dùng khác với mục đích cứu trợ) - Các khoản chuyển giao khác b. Chuyển giao khu vực phi chính phủ Chuyển tiền của người lao động bao gồm những khoản chuyển tiền của công nhân lao động ở nước ngoài hơn một năm chuyển về nước. Tiền lương của lao động ở nước ngoài dưới một năm cần hạch toán trong mục thu nhập của người lao động. Các khoản viện trợ của tổ chức phi chính phủ (như tổ chức chữ thập đỏ quốc tế...) bằng tiền hoặc bằng hàng hoặc trợ giúp dưới hình thức kỹ thuật. Cán cân di chuyển vốn – capital account balance - Cán cân vốn và tài chính tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú với Người không cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, chuyển giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật Việt Nam làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ. Cán cân di chuyển vốn dài hạn Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn Cán cân di chuyển vốn một chiều - Cán cân di chuyển vốn dài hạn Bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước dưới các hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp và các hình thức đầu tư dài hạn khác. Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của Nguồn vốn (TSN), nhưng làm tăng cung ngoại tệ nên vẫn được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, luồng vốn đi ra phản ánh sự ra tăng của TS (TSC) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên vẫn được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-”. Quy mô và tình trạng cán cân vốn dài hạn phụ thuộc vào các nhân tố như: Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng dài hạn, hiệu quả biên của vốn đầu tư (MEI hay ICOR) và các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư, sự ổn định về chính trị, xã hội. - Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn Cũng bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân (chiếm tỷ trọng lớn) và khu vực nhà nước nhưng dưới rất nhiều các các hình thức khác nhau: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, các hoạt động trên kinh doanh ngoại hối và giấy tờ có giá ngắn hạn kể cả các luồng vốn đầu cơ. Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của NV (TSN), như đã đề được cập, do làm tăng cung ngoại tệ nên vẫn được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, luồng vốn đi ra phản ánh sự ra tăng của TS (TSC) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên vẫn được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-”. Khác với cán cân vốn dài hạn, quy mô và tình trạng cán cân vốn ngắn hạn phụ thuộc vào các nhân tố như: Chênh lệch tỷ giá, tỷ suất lợi tức kỳ vọng ngắn hạn, lãi suất và các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế, chính trị - xã hội. - Cán cân chuyển giao vốn một chiều Bao gồm các khoản chuyển giao vốn một chiều như viện trợ không hoàn lại với mục đích đầu tư, các khoản nợ được xoá. Khi được nhận các khoản viện trợ không hoàn lại và được xoá nợ, tương tự như luồng vốn đi vào, gia tăng NV (TSN), làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, khi viện trợ hay xoá nợ cho người không cư trú, luồng vốn đã đi ra làm tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-”. Khác với các cán cân vốn trên đây, quy mô và tình trạng cán cân chuyển giao vốn một chiều phụ thuộc chủ yếu vào các mối quan hệ ngoại giao, hợp tác kinh tế - chính trị - xã hội giữa các nước có chung lợi ích và tình hữu nghị đặc biệt. 1.2.3. Tài khoản dự trữ: - Ghi lại những thay đổi về tài sản dự trữ của cơ quan quản lư tiền tệ để tài trợ và điều hoà sự mất cân đối của cán cân thanh toán. Nó có thể là những dạng sau: a, Vàng tiền tệ: Vàng tinh chế thuộc sở hữu của các cơ quan quản lư tiền tệ. Các giao dịch bằng vàng tiền tệ chỉ xảy ra giữa các ngân hàng Trung ương các nước hoặc với các tổ chức tiền tệ Quốc tế. b, Quyền rút vốn đặc biệt (SDR): Đơn vị tiền tệ của quỹ IMF. c, Ngoại hối: Các phương tiện có giá trị được dùng để tiến hành thanh toán giữa các quốc gia (ví dụ: Ngoại tệ tiền mặt, tiền gửi và các phương tiện thanh toán Quốc tế ghi bằng ngoại tệ...) 1.2.4. Sai sót thống kê: Phản ánh phần chênh lệch do sai sót thống kê của tất cả các hạng mục trong cán cân thanh toán. 1.3. Một số phân tích cơ bản Cán cân vãng lai = Cán cân hữu hình + cán cân vô hình Cán cân cơ bản = Cán cân vãng lai + cán cân di chuyển vốn dài hạn Cán cân tổng thể = Cán cân vãng lai + Cán cân di chuyển vốn + Sai sót Cán cân bù đắp chính thức = - Cán cân tổng thể A. Dư thừa và thiếu hụt cán cân thanh toán. Theo hệ thống kế toán bút toán kép, tổng các khoản ghi nợ bằng tổng các khoản ghi có cán cân thanh toán luôn cân bằng. Về nguyên tắc, các giao dịch được ghi trong cán cân thanh toán được chia làm hai loại chính: giao dịch tự định và giao dịch điều chỉnh. Giao dịch tự định là những giao dịch được thực hiện vì lợi của bản thân chúng. Điểm đặc trưng của giao dịch tự định là chúng được thực hiện độc lập không phụ thuộc vào trạng thái của cán cân thanh toán của nước lập báo cáo. Tất cả các giao dịch khác được gọi là giao dịch điều chỉnh. Các giao dịch điều chỉnh không được thực hiện vì lợi ích của chính nó. Đúng hơn, khi các giao dịch tự định để lại một lỗ hổng cần phải được bù đắp thì giao dịch điều chỉnh phải được thực hiện để bù đắp lỗ hổng đó (vì thế mà giao dịch tự điều chỉnh còn được gọi là giao dịch bù đắp). Hăy tưởng tượng một đường nằm ngang được vẽ xuyên qua một bảng cán cân thanh toán. Phía trên đường tưởng tượng đó, đặt tất cả các giao dịch tự định; phía dưới, đặt các giao dịch điều chỉnh. Khi số dư các giao dịch tự định bằng không (có nghĩa là các khoản thu tự định bằng các khoản chi tự định), cán cân thanh toán là cân bằng. Khi tổng các khoản thu tự định (những khoản có) lớn hơn tổng các khoản chi tự định (những khoản nợ), có một thặng dư; và khi tổng số các khoản thu tự định nhỏ hơn tổng số các khoản chi tự định, có một thâm hụt. Trong mỗi trường hợp, sự đo lượng mất cân bằng kế toán (thặng dư hay thiếu hụt) được xác định bằng chênh lệch giữa tổng số những khoản thu tự định và tổng số những khoản chi tự định. Do cán cân thanh toán là đồng nhất thức, chúng ta luôn có: Tổng các giao dịch tự định + tổng các giao dịch điều chỉnh = 0 Hay: Tổng các giao dịch tự định = - Tổng các giao dịch điều chỉnh Do đó, đo lường sự mất cân bằng các cân thanh toán cũng có thể xác định được là số âm của chênh lệch giữa các khoản thu và chi của giao dịch điều chỉnh. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa giao dịch tự định và giao dịch điều chỉnh trong thực tế là không rõ ràng do đó không có cách đo lường kế toán duy nhất về sự mất cân bằng cán cân thanh toán. Nói chung, để phản ánh trạng thái của cán cân thanh toán quốc tế của một nước người ta thường dùng cán cân tổng thể (tổng hợp cán cân vãng lai và cán cân vốn và tài chính). Tuy nhiên, cán cân tổng thể đôi khi không được đánh giá chính xác bằng cán cân vãng lai bởi vì nó không phản ánh đúng năng lực sản xuất hay khả năng cạnh tranh kinh tế của một nước. Chẳng hạn, khi một nước thặng dư cán cân thanh toán, điều này nghe có vẻ lành mạnh nhưng nếu đi sâu vào phân tích từng chỉ tiêu lại thấy cán cân vãng lai bị thiếu hụt lớn và được tài trợ hoàn toàn bằng vay nợ, đầu tư nước ngoài. Do đó, sự phân tích thoả đáng về cơ cấu tài trợ liên quan đến sự ổn định các cân vãng lai trong tương lai là rất cần thiết. B. Phân tích tài khoản vãng lai: Như ta đã biết, trong cán cân thanh toán, cán cân vãng lai giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy, khi phân tích cán cân thanh toán cần phải chú trọng phân tích cán cân vãng lai và số dư tài khoản vãng lai. Các nhà kinh tế học cho rằng những định nghĩa khác nhau thể hiện những mặt khác nhau của cán cân vãng lai. Trên thực tế, có bốn định nghĩa về cán cân vãng lai và sự lựa chọn định nghĩa nào phụ thuộc vào mục đích phân tích. Thứ nhất: cán cân vãng lai đo lường các giao dịch kinh tế của một nước với phần còn lại của thế giới về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao một chiều (định nghĩa trong Rivera-Batiz, 1989, trang 119). Hay nói cách khác, cán cân vãng lai là tổng của chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ (X-M) cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài (NF) và chuyển khoản ròng từ nước ngoài (NTR). Theo định nghĩa này, tài khoản vãng lai (CA) sẽ bằng: CA= X-M+NF+NTR Theo định nghĩa này, khi thâm hụt ngân sách vượt quá 5% đến 6% GDP có thể có vấn đề và cần chú trọng yếu tố nào đã gây ra thâm hụt. Liệu có phải do người dân đã nhập quá nhiều hàng hoá và dịch vụ? Phần thâm hụt do tiêu dùng bùng nổ có thể được tài trợ bởi phần rót ra từ các tài khoản dự trữ hoặc tăng các khoản nợ. Trong cả hai trường hợp đều có thể gây ra nhiều vấn đề song tăng các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn có thể cho thấy dấu hiệu của một nền kinh tế suy yếu và các chính sách gia cần có những hành động khẩn trương. Người đảm nhiệm công tác phân tích cán cân thanh toán cần được cung cấp đầy đủ các thông tin chi tiết để cố vấn cho các nhà hoạch định chính sách giúp họ đưa ra các quyết định đúng đắn và kịp thời. Thứ hai: cán cân vãng lai được định nghĩa như chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu của nền kinh tế. CA= Y- A A= C + I + G Trong đó: Y: thu nhập A: chi tiêu C: tiêu dùng tư nhân I : Đầu tư tư nhân G: Chi tiêu và đầu tư của chính phủ Định nghĩa này được Alexander đưa ra vào năm 1950. Từ định nghĩa trên ta thấy, cán cân vãng lai của một nước chỉ có thể được cải thiện bằng sự tăng tương đối của thu nhập quốc dân so với chi tiêu hay sự giảm tương đối chi tiêu so với thu nhập quốc dân. Thứ ba: cán cân vãng lai là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. CA = S - I S: Tiết kiệm trong nước I: Đầu tư trong nước CA : Cán cân vãng lai Nếu chia tổng tiết kiệm (S) và đầu tư (I) của toàn bộ nền kinh tế thành các phần về khu vực chính phủ và tư nhân. Ta có: CA = (Sp+Sg) – (IP+Ig) hay CA= (Sp-Ip) + (Sg-Ig) hay: CA = (Sp-Ip) + (Sg-Ig) Công thức trên cho thấy cán cân vãng lai bằng chênh lệch của khu vực tư nhân cộng khu vực chính phủ. Vì vậy, khi đề ra các biện pháp, chính sách nhằm cải thiện cán cân vãng lai phải nghiên cứu tác động của chúng tới hành vi tiết kiệm và đầu tư. Nếu thâm hụt tài khoản vãng lai xuất hiện do các hoạt động đầu tư mạnh dẫn đến phần thâm hụt này cần được tài trợ bởi đầu tư trực tiếp tại nước báo cáo hoặc phần tăng trong các khoản vay bên ngoài hay bởi đầu tư chứng khoán. Tỷ lệ thâm hụt tài khoản vãng lai tương đối lớn (6% hoặc 7%) có thể là bền vững nếu nó liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp mạnh ở nước báo cáo. Thứ tư: khi công dân một nước cho vay hay mượn một lượng tiền của nước ngoài, họ đã tạo ra mét quan hệ tài sản với phần còn lại của thế giới. Vì vậy, khi phân tích tiết kiệm và đầu tư, phải tính đến nguồn tài chính nước ngoài. Từ đó, có thể định nghĩa tài khoản vãng lai như những thay đổi trong tài sản nước ngoài ròng của quốc gia lập báo cáo với phần còn lại của thế giới. CA= B*t - Bt-1* B*t : Tài sản nước ngoài ròng giai đoạn hiện tại Bt-1*: Tài sản nước ngoài ròng giai đoạn trước Định nghĩa này được Sarch và Larrain mở rộng từ định nghĩa trên. Theo đó, các thay đổi tài sản nước ngoài có thể bù đắp được tình trạng thâm hụt của tài khoản vãng lai. Thặng dư tài khoản vãng lai có nghĩa là nước này đang tích luỹ tài sản quốc tế. Ngược lại, thâm hụt tài khoản vãng lai nghĩa là nước này đang giảm dần tài sản quốc tế ròng hoặc tăng thêm nghĩa vụ nợ nước ngoài. Như vậy, có thể định nghĩa tài khoản vãng lai là sự thay đổi vị thế đầu tư quốc tế của một nước. Như vậy, để tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt tài khoản vãng lai cũng như đưa ra những biện pháp điều chỉnh có hiệu quả để cải thiện tình trạng, cần phải có sự phân tích cụ thể từng khoản mục trong cán cân vãng lai, đặc biệt là cán cân thương mại. Thâm hụt cán cân vãng lai không phải bao giờ cũng xấu, điều đó còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của một nước. Khả năng thanh toán được đánh giá thông qua các chỉ số vĩ mô như: tỷ lệ xuất khẩu/GDP, tỷ giá hối đoái thực tế, tiết kiệm với đầu tư nội địa. Nếu một quốc gia có tỷ lệ xuất khẩu/GDP lớn, tỷ giá hối đoái ổn định và sát với thực tế, mức tiết kiệm và đầu tư cao dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại nếu có cũng làm cho khả năng gây ra khủng hoảng kinh tế. Một tiêu chí quan trọng khác để đánh giá tình trạng cán cân thanh toán quốc tế của một nước là khả năng chịu đựng của cán cân thanh toán vì nó chú trọng đến những yếu tố nói trên. Đối với một nước có nợ nước ngoài dương và thâm hụt cán cân vãng lai, một "điểm uốn" giữa thâm hụt và thặng dư là cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán và khả năng chịu đựng. Một tiêu chuẩn cần được xét đến khi đánh giá khả năng chịu đựng là liệu "điểm uốn" có thể đạt được một cách suôn sẻ và không gây những bất ổn cho nền kinh tế khi cán cân thương mại đảo chiều đột ngột từ thâm hụt sang thặng dư, không tạo ra sự thay đổi lớn trong chính sách (ví dụ: chính sách thắt chặt đột ngột) và không gây ra tình trạng rệu rã của nền kinh tế. Ngoài ra, tài khoản vãng lai bao gồm tài khoản thương mại hàng hoá và dịch vụ, tài khoản thu nhập và tài khoản chuyển giao vãng lai. Do đó cần phải phân tích cụ thể từng tài khoản này để tìm ra nguyên nhân của thâm hụt tài khoản vãng lai và đưa ra được các biện pháp điều chỉnh thích hợp. Trong đó cần đặc biệt phân tích cán cân thương mại vì đây thường là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thiếu hụt cán cân vãng lai và cũng là đối tượng chính khi cán cân thanh toán mất cân bằng cơ bản. C. Phân tích tài khoản vốn và tài chính Tài khoản vốn và tài chính bao gồm các luồng vốn dài hạn và ngắn hạn, chạy vào hoặc chạy ra khỏi một nước. Hay nói cách khác, nó là tổng đầu tư của nước ngoài và số vay nợ nước ngoài. Như vậy, tình trạng của cán cân thanh toán có liên quan trực tiếp đến tình trạng tài sản ngoại tệ của một nền kinh tế. Vì vậy, một gợi ý nhằm giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán là sự điều chỉnh chính sách của chính phủ nhằm thu hút đầu tư tư nhân hoặc tìm kiếm các khoản vay nước ngoài. Đối với bất cứ nước nào, con đường phát triển cũng đầy rẫy trở ngại. Một trong những trở ngại là tiết kiệm không đáp ứng nhu cầu đầu tư. Vì vậy, sự phụ thuộc vào nguồn tư bản nước ngoài để bổ sung cho nguồn vốn trong nước giai đoạn đầu phát triển là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, vì lượng tư bản vay hôm nay sẽ phải trả trong tương lai nên việc sử dụng chúng một cách có hiệu quả là một điều vô cùng quan trọng. Có nhiều nguồn tài trợ cho sự thâm hụt cán cân vãng lai nhưng xét về mặt hiệu quả sử dụng vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài được đánh giá cao hơn cả vì nó không ảnh hưởng nhiều tới cán cân thanh toán, tới tổng nợ nước ngoài cũng như tăng trưởng kinh tế và không tạo ra dư nợ. Ngoài ra, nó còn là nhịp cầu để chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản lý hiện đại giúp đất nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các nguồn vốn đầu tư này sẽ làm tăng nguồn chuyển giao ra nước ngoài, một khi lợi nhuận và cổ tức được các nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước. Nhìn chung, các luồng đầu tư nước ngoài khác nhau, dù có tạo ra dư nợ hay không đều tiềm ẩn những mất mát nhất định đối với nước tiếp nhận. Beceer và Hargin gợi ý rằng: "Khi thu hút đầu tư nước ngoài, trước hết các công ty trong nước cần xác định những khó khăn mà họ phải chấp nhận đối với từng hình thức đầu tư và sau đó cân nhắc xem liệu tại những thời điểm nhất định nó có đem lại lợi ích để duy trì hay không?". Nhiều nước đang phát triển sử dụng nguồn vốn nước ngoài trong tài khoản tài chính để hỗ trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai và tốc độ phát triển kinh tế trong tài sản dự trữ. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thiết thực, những thay đổi của nguồn vốn này cũng gây lo lắng cho những nhà hoạch định chính sách vĩ mô. Vì vậy, khi xác định rủi ro và khó khăn của mỗi dạng đầu tư nước ngoài, chúng ta cần quan tâm ba vấn đề sau: - Vấn đề thời hạn vay nợ: những khoản nợ ngắn hạn thường rủi ro hơn vì chủ nợ thường yêu cầu trả nợ gốc hơn là nhận lãi trong giai đoạn ngắn. - Liệu nguồn tư bản nước ngoài có tạo ra gánh nặng nợ nần hay không? Ví dụ: Nếu đi vay thì tình hình kinh doanh tốt hay xấu, việc trả nợ vẫn phải tiến hành. Trong khi đó, cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi công ty bán cổ phiếu cho họ làm ăn phát đạt. - Nguồn vốn trên từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hay là những khoản vay mang tính chất thương mại. Theo ngân hàng thế giới, một nước được coi là nợ nần nghiêm trọng nếu như tỷ lệ giữa giá trị hiện tại ròng của tổng các khoản trả nợ (PV) và GDP vượt quá 80% hoặc tỷ lệ giữa giá trị hiện tại ròng của tổng các khoản trả nợ và tổng xuất khẩu lớn hơn 220%. Ngược lại một quốc gia được coi là có khả năng chịu đựng nợ nếu như chính phủ có thể thực hiện được toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ quá hạn trong một thời gian dài, nếu như các khoản nợ đến hạn chiếm tối đa từ 20-25% xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Bên cạnh việc xem xét các khoản nợ theo chủng loại và thời hạn của các công cụ nhận nợ, vì thế cũng nên phân tích xu hướng thay đổi theo khu vực các tổ chức. Cụ thể là khu vực chính phủ và tư nhân bởi vì những khu vực này chịu ảnh hưởng của những yếu tố khác nhau. Các luồng thay đổi của khu vực chính phủ chủ yếu được quy định bởi nhu cầu của ngân sách nhà nước. Ngược lại, các luồng thay đổi trong khu vực tư nhân lại tuỳ thuộc vào mức sinh lời của tài sản trong và ngoài nước. Nhiều nước đang phát triển sử dụng các luồng vốn vào trong tài khoản tài chính để hỗ trợ bù đắp cho mức thâm hụt cán cân vãng lai do nhập khẩu và tốc độ phát triển kinh tế tăng lên, hoặc tăng tài sản dự trữ. Mặc dù có nhiều lợi ích như vậy, nhưng những thay đổi đột ngột của số vốn rất lớn này cũng gây ra nhiều lo lắng cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Luồng vốn có 4 vấn đề cần quan tâm chủ yếu sau đây: + Các luồng vốn chảy vào có thể chỉ mang tính tạm thời, và do vậy có thể được rót ra rất nhanh. + Các luồng chảy vào này có thể kích thích tăng cung tiền và làm tăng mức lạm phát trong nước nếu như ngân hàng trung ương can thiệp vào thụ trường ngoại hối để mua ngoại tệ cung ứng dư thừa. Những hậu quả gây lạm phát như vậy có thể tránh được nếu như hoạt động can thiệp này mang tính chất có khả năng triệt tiêu hiệu ứng tăng cung tiền. + Nếu ngân hàng trung ương không can thiệp thì luồng vốn chảy vào có thể làm cho giá của đồng bản tệ tăng lên. + Các luồng chảy vào có thể đảm bảo cho hiện tượng tiêu dùng tăng tạm thời và điều này cuối cùng sẽ dẫn đến việc cắt giảm chi tiêu để trả số nợ tích luỹ. Từ đó, đưa ra những nghiên cứu sử dụng chúng một cách hiệu quả. Ví dụ: nguồn vốn ODA nên đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo tiền đề cho luồng FDI chảy vào trong nước. D. Phân tích tài khoản dự trữ và tài trợ: Trước đây, tổng tài sản dự trữ được coi là nguồn bù đắp chủ yếu cho thiếu hụt cán cân thanh toán và hỗ trợ cho chính sách tỷ giá cố định. Ngày nay, trong điều kiện chế độ tỷ giá thả nổi và xu hướng toàn cầu hoá trở nên phổ biến, nhiều hình thức bù đắp khác đã được áp dụng (ví dụ: vay nước ngoài). Vì thế, sự thay đổi trong tài sản dự trữ không phải lúc nào cũng phản ánh độ lớn trạng thái mất cân bằng của cán cân thanh toán. - Công thức tính tài sản dự trữ ròng: Tài sản dự trữ ròng = Tổng tài sản dự trữ - Các khoản nợ ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Về nguyên tắc, mức dự trữ cần thiết được đánh giá trên cơ sở tổng trị giá hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu dự kiến hoặc khả năng dễ bị tổn thương về tài chính. Nhưng dù sử dụng chỉ số nào thì mức dự trữ cần thiết cũng phụ thuộc rất nhiều vào chế độ tỷ giá hối đoái. Thông thường, một quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định cần nhiều dự trữ hơn so với một quốc gia theo chế độ tỷ giá thả nổi với chế độ tỷ giá thả nổi, mức dự trữ cần thiết chỉ để cải thiện những biến động xấu do tỷ giá gây ra. Ngoài ra, về cơ bản thì mức độ tin cậy của các chính sách kinh tế và lòng tin của thị trường vào các chính sách này là yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ dự trữ cần thiết. Theo thông lệ quốc tế, dự trữ ngoại tệ thường được tính theo tháng nhập khẩu. Chỉ số này đo lường tổng tài sản dự trữ ngoại tệ của một nước so với giá trị nhập khẩu hàng tháng. II. Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế tại Việt Nam 2.1 Giai đoạn 2005-2007 2.1.1. Cán cân vãng lai 2.1.1.1. Cán cân thương mại Đơn vị: Triệu USD Năm 2005 2006 2007 XK 32.447 39.826 48.561 NK 34.886 42.602 58.921 TB = XK - NK -2.439 -2.776 -10.360 % so với GDP -4,6 -4,6 -14,5 Năm 2005, 2006 mức thâm hụt cán cân thương mại tuy có giảm so với những năm trước nhưng vẫn ở mức cao. Đặc biệt trong năm 2007, cán cân thương mại thâm hụt ở mức kỷ lục cao lên tới 10.360 triệu USD, chủ yếu do cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng cao. Tuy nhiên, tốc độ tăng của xuất khẩu nhỏ hơn tốc độ tăng của nhập khẩu nên gây ra thâm hụt tăng một cách đột biến. 2.1.1.2. Cán cân dịch vụ (Se) Đối với nhiều nước phát triển thì cán cân dịch vụ là một phần quan trọng trong cán cân vãng lai nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói chung, tuy nhiên đối với Việt Nam thì cán cân dịch vụ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cán cân vãng lai cũng như toàn bộ cán cân thanh toán. Đơn vị: Triệu USD Năm 2005 2006 2007 Se -219 -8 -894 Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy quy mô xuất khẩu của Việt Nam nói chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ trong tổng kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ) thì tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị trường thế giới còn chưa cao, tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu dịch vụ luôn thấp, còn thấp hơn tốc độ tăng của xuất khẩu hàng hóa. Mặt khác, cơ cấu xuất khẩu dịch vụ còn một số điểm bất hợp lí và chuyển dịch chậm. Dịch vụ du lịch (xuất khẩu tại chỗ) luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (55,2% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ) nhưng tốc độ tăng còn thấp và “mật độ” khách du lịch quốc tế đến Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực, ở Châu Á và trên thế giới. Ngoài du lịch, một số dịch vụ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch vụ bảo hiểm, chỉ chiếm 1,1%, dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng 1,7%, dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5,5%. 2.1.1.3. Cán cân thu nhập (Ic) Theo IMF cán cân thu nhập bao gồm cả các khoản thu nhập của người lao động (là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại) và các khoản thu nhập đầu tư (là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và người không cư trú). Tuy nhiên, trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam công bố cũng như của Ngân hàng thế giới và IMF thì hạng mục này chỉ bao gồm thu nhập đầu tư do thiếu dữ liệu của người thu nhập lao động. Do vậy trong phạm vi bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi cũng chỉ xin đề cập tới các khoản thu nhập về đầu tư trong cán cân thu nhập của Việt Nam. Đơn vị: Triệu USD Năm 2005 2006 2007 Ic -1.219 -1.429 -2.168 Thu 364 668 1093 Chi 1.583 2.097 3.261 Phần thu từ đầu tư của Việt Nam thì chủ yếu là tiền lãi của các khoản tiền gửi của người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên những khoản tiền lãi đó rất nhỏ, thậm chí còn giảm đi vì ta rút ngoại tệ về cho vay trong nước. Ngược lại, những khoản phải thanh toán ngày càng tăng lên do phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài. Những khoản nợ này khá lớn, hàng năm Việt Nam phải trả lãi khoảng mấy trăm triệu USD. Thêm vào đó những khoản chuyển lợi nhuận đầu tư cũng tăng lên do các dự án FDI được thực hiện dần. Tuy các khoản lãi tiền gửi có tăng lên nhưng các khoản chuyển lợi nhuận và trả lãi nợ nước ngoài tăng mạnh dẫn đến thu nhập đầu tư ngày càng bị thâm hụt. 2.1.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Tr) Đơn vị: Triệu USD Năm 2005 2006 2007 Tr 3.380 4.049 6.430 Tư nhân 3.150 3.800 6.180 Chính phủ 230 249 250 Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy, trong cán cân chuyển giao vãng lai của Việt Nam thì bộ phận chiếm tỷ trọng chủ yếu là chuyển giao tư nhân, còn bộ phận chuyển giao chính phủ chiếm tỷ trọng không đáng kể và thường xu hướng ổn định. Chuyển giao tư nhân của Việt Nam chủ yếu là chuyển tiền của người Việt Nam sống ở nước ngoài (kiều hối)… Việc thiết lập thêm những kênh chuyển tiền mới đã giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm chuyển tiền qua các kênh chính thức và giúp giảm các chi phí chuyển tiền cũng như các rủi ro. Thêm vào đó, chính sách thu hút kiều hối ngày càng thông thoáng chẳng hạn như cho phép người Việt Nam trực tiếp mang tiền về nước mà không giới hạn số lượng chỉ cần khai báo hải quan, cho phép Việt kiều mua nhà hay đầu tư tại Việt Nam… Đặc biệt, việc Chính Phủ cho phép mở rộng đối tượng làm đại lí chi trả kiều hối đã tạo thêm nhiều kênh chuyển tiền từ nước ngoài về, làm tăng sự cạnh tranh giữa các tổ chức dịch vụ chi trả ngoại tệ tạo áp lực buộc các tổ chức này phải giảm chi phí chuyển tiền và nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính những điều này đã tạo nên sự tăng vọt của lượng kiều hối chuyển về nước khiến cho chuyển giao tư nhân của Việt Nam tăng lên không ngừng, nhờ đó Chính phủ bù đắp được một phần thâm hụt của cán cân vãng lai. 2.1.2. Cán cân vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đơn vị: Triệu USD Năm 2005 2006 2007 FDI 1.889 2.315 6.550 Năm 2005, hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam mới thật sự khởi sắc, khi Việt Nam thật sự trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài với sự thông thoáng hơn trong cơ chế cũng như nhiều ưu đãi hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, con số dự án đăng ký có vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 là 970 dự án, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 2 tỷ USD. Năm 2006 đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Tới năm 2007 thì đầu tư nước ngoài đã thực sự bùng nổ ở Việt Nam với những con số hết sức ấn tượng, tổng số đã có 1.544 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký đạt 20,3 tỷ USD, tổng số vốn giải ngân là 6,5 tỷ USD, nguyên nhân chính là do năm 2007 là năm đầu Việt Nam thực hiện các cam kết của mình khi gia nhập WTO, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư. 2.2. Cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam từ năm 2008 đến 2010 2.2.1 Cán cân vãng lai (Current Account – CA) Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ vào cuối năm 2007 đã lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng, trở thành cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ cuộc đại suy thoái 1929-1933. Các tác động của cuộc khủng hoảng trên lan tràn trên diện rộng, không chỉ trong hoạt động của các ngân hàng, mà tất cả các nền kinh tế, các thị trường bước vào thời kì suy thoái nghiêm trọng, cán cân vãng lai của hầu hết các quốc gia đều bị ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam. Theo số liệu ước tính của IMF, trong năm 2008 cán cân vãng lai của Việt Nam thâm hụt 11.100 triệu USD, tương đương 10,3 % GDP, vượt ngưỡng an toàn 2 lần, cao hơn nhiều so với con số cao kỉ lục của thâm hụt cán cân vãng lai 2007, tất cả những con số này cho thấy thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam đã thật sự đáng báo động. Nguyên nhân do những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam., lạm phát trong nước tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, giá xăng dầu trên thế giới tăng cao… Sang năm 2009, thâm hụt cán cân vãng lai tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Năm 2010, thâm hụt cán cân thương mại ở Việt Nam đã giảm xuống còn 3500 triệu USD. Năm 2008 2009 2010 CA -11,1 -8,0 -3,5 Nguồn: SBV, IMF, WB 2.2.1.1 Cán cân thương mại (TB) Năm 2008 2009 2010 TB -14,2 -8,9 -5,1 Nguồn: SBV, IMF, WB Năm 2008. cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt cao hơn năm 2007, lên tới 14,2 tỷ USD. Nguyên nhân chính là do giá cả hàng hóa trên thế giới tăng cao. Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 4,9 tỷ USD, tăng 16,2% so với tháng trước chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác tăng, mức tiêu thụ hàng dệt may mạnh hơn vào tháng cuối năm và lượng gạo xuất khẩu đã tăng trở lại. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Năm 2009 là năm kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá cả hàng hóa thế giới sau thời kì tăng giá vào khoảng 3 quý đầu năm 2008 đã có chiều hướng giảm mạnh trên thị trường thế giới cùng với xu hướng giảm mạnh của giá dầu, điều này gây ra khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của nhiều nước và Việt Nam. Nếu như trong các năm 2005-2006, kiều hối (chiếm hơn 90% khoản mục “Chuyển giao”) đã vượt quá nhu cầu cần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, làm giảm nhẹ đáng kể thâm hụt của cán cân vãng lai, thì nay, tình hình trên đã trở nên xấu hơn nhiều trong năm 2009. Thông tin từ Ngân Hàng Nhà nước chi nhánh TPHCM cho biết, trong 10 tháng đầu năm, lượng kiều hối nhận được tại các ngân hàng trên địa bàn vào khoảng 2,6 tỉ đô la Mỹ, chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm ngoái. Chúng ta biết rằng, TPHCM là nơi nhận gần 60% tiền kiều hối cả nước. Con số kiều hối cả nước nhận được trong năm 2009 được giới chuyên môn ước tính sẽ xấp xỉ 6 tỉ đô la. Nhìn lại cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thấy một nền kinh tế được bù đắp thương mại dựa vào kiều hối và vay nợ thì chưa thể bền vững. Vấn đề mấu chốt để giải quyết vấn đề thâm hụt cán cân vãng lai và ổn định sức mua của đồng VN là phải giảm nhập siêu về từ 20%/tổng kim ngạch xuất khẩu trở xuống. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng phải thu hút được tất cả các nguồn ngoại tệ có trong nước và tập trung lại để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ. Để thực hiện được hai vấn đề trên thì vai trò điều tiết của Nhà nước (áp dụng những biện pháp để ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối) là rất quan trọng. 2.2.1.2 Cán cân dịch vụ (Se) Năm 2008 2009 2010 SE -1 -1,2 -2,5 Nguồn: SBV, IMF, WB Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy quy mô xuất khẩu của Việt Nam nói chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ trong tổng kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ) thì tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị trường thế giới còn chưa cao, tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu dịch vụ luôn thấp, còn thấp hơn tốc độ tăng của xuất khẩu hàng hóa. Mặt khác, cơ cấu xuất khẩu dịch vụ còn một số điểm bất hợp lí và chuyển dịch chậm. Dịch vụ du lịch (xuất khẩu tại chỗ) luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (55,2% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ) nhưng tốc độ tăng còn thấp và “mật độ” khách du lịch quốc tế đến Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực, ở Châu Á và trên thế giới. Ngoài du lịch, một số dịch vụ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch vụ bảo hiểm, chỉ chiếm 1,1%, dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng 1,7%, dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5,5%. 2.2.1.3 Cán cân thu nhập (IC) Theo IMF cán cân thu nhập bao gồm cả các khoản thu nhập của người lao động (là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại) và các khoản thu nhập đầu tư (là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và người không cư trú). Tuy nhiên, trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam công bố cũng như của Ngân hàng thế giới và IMF thì hạng mục này chỉ bao gồm thu nhập đầu tư do thiếu dữ liệu của người thu nhập lao động. Năm 2008 2009 2010 IC -4,9 -4,9 -4,6 Nguồn: SBV, IMF, WB Phần thu từ đầu tư của Việt Nam thì chủ yếu là tiền lãi của các khoản tiền gửi của người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên những khoản tiền lãi đó rất nhỏ, thậm chí còn giảm đi vì ta rút ngoại tệ về cho vay trong nước. Ngược lại, những khoản phải thanh toán ngày càng tăng lên do phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài. Những khoản nợ này khá lớn, hàng năm Việt Nam phải trả lãi khoảng mấy trăm triệu USD. Thêm vào đó những khoản chuyển lợi nhuận đầu tư cũng tăng lên do các dự án FDI được thực hiện dần. Tuy các khoản lãi tiền gửi có tăng lên nhưng các khoản chuyển lợi nhuận và trả lãi nợ nước ngoài tăng mạnh dẫn đến thu nhập đầu tư ngày càng bị thâm hụt. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới kéo theo suy thoái kinh tế thế giới hầu hết NHTW các nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, cắt giảm lãi suất, trong đó điểm hình như FED, trong năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi suất, xuống mức thấp kỷ lục là 0,25%...điều này sẽ tác động làm giảm lãi suất của các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ của người cư trú ở nước ngoài, làm giảm nguồn thu chủ yếu của cán cân thu nhập của Việt Nam. Mặt khác, do khó khăn về mặt tài chính nên nhiều doanh nghiệp FDI, chi nhánh các công ty nước ngoài có xu hướng chuyển khoản các khoản lợi nhuận về nước để hỗ trợ công ty mẹ, làm tăng các khoản chi trong cán cân dịch vụ do đó trong hai năm 2008, 2009 cán cân thu nhập của Việt Nam tiếp tục thâm hụt với mức độ cao hơn so với năm 2007 và các năm trước đó. 2.2.1.4 Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Tr) Năm 2008 2009 2010 Tr 8,1 7 8,7 Nguồn: SBV, IMF, WB Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế sẽ khiến cho đại bộ phận thu nhập của người lao động trên thế giới giảm xuống, cuộc sống trở nên khó khăn hơn, trong đó có bộ phận người Việt Nam sống ở nước ngoài, do đó sẽ khiến cho dòng kiều hối chảy về Việt Nam trong những năm gần đây giảm sút. Theo ước tính của cơ quan lập báo cáo, thu nhập đầu tư (bao gồm trả nợ lãi các khoản vay nước ngoài, lãi từ hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài…) thâm hụt 5,4 tỷ USD. Chỉ duy nhất mục chuyển tiền trong cán cân vãng lai có thặng dư khoảng 6,9 tỷ USD. Cán cân vốn (Capital Balance – K) Năm 2008 2009 2010 K 13,4 12,3 5.5 Nguồn: SBV, IMF, WB Cán cân vốn của Việt Nam bao gồm các bộ phận cơ bản: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FII), các khoản nợ ngắn hạn, tín dụng thương mại, các khoản nợ trung – dài hạn và tài sản ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại. Nhìn vào cán cân vốn của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010 có thể thấy rõ xu hướng chuyển dịch của cán cân bắt đầu có thặng dư. Sau đây nhóm chúng tôi xin đi vào phân tích thực trạng của các thành phần vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thành phần dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi khủng hoảng kinh tế xảy ra. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Năm 2008 2009 2010 FDI 10 7,4 7,1 Nguồn: SBV, IMF, WB Dòng tiền FDI của năm 2008 là 10 tỷ USD, tăng vọt so với các năm trước giúp làm bội thu cán cân thanh toán tài khoản vốn. Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á thì thu hút vốn FDI của Việt Nam chỉ đứng thức 4 sau Singapore (22,7 tỷ USD), Thái Lan (10,1 tỷ USD), và trong các năm này, xu hướng dòng vốn FDI không tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp, mà tập trung vào các ngành bất động sản, khách sạn, nhà hàng (chiếm 63%) nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển dòng vốn FDI như vậy cần được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực xuất khẩu trong tương lai. Trong năm 2009 con số FDI được giải ngân đạt 7.400 trệu USD, thấp hơn so với năm 2008 là 2.600 triệu USD. Theo Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục là nhân tố quan trọng giúp giảm thâm hụt cán cân thanh toán, trong hoàn cảnh thâm hụt cán cân thương mại năm 2010 là 7,1 tỷ USD. Không ai phủ nhận vai trò tích cực của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia; tuy nhiên, cần phải hiểu biết những mặt trái của FDI nhằm có chính sách thu hút và sử dụng FDI hiệu quả hơn. Tác động tích cực của FDI trước tiên là dòng ngoại tệ vào làm tăng tài khoản vốn giúp nâng cao khả năng thanh khoản của tài khoản quốc gia; nhưng tác động tiêu cực của vốn FDI thường bị tác động bởi ba nhân tố chủ yếu: Tác động thông qua cán cân thương mại Tác động thông qua chuyển lợi nhuận đầu tư ra nước ngoài Tác động do tăng chi phí mua patent, know-how nhằm độc quyền kỹ thuật cao 2.3. Cán cân thanh toán Việt Nam từ năm 2011 đến nay Khoản mục Giá trị (Tỷ USD) Năm 2011 Q1-2012 Q2-2012 A. Cán cân vãng lai (1+2+3+4) -3.00 3.37 1.40 1. Cán cân thương mại -6.00 2.19 1.93 2. Dịch vụ -5.00 0.13 -1.38 3. Thu nhập đầu tư -1.00 -1.08 -1.12 4. Chuyển tiền 9.00 2.13 1.96 B. Cán cân vốn và tài chính (5+6+7+8+9) 8.60 1.40 1.44 5. Đầu tư trực tiếp 10.00 1.63 1.77 6. Vay trung-dài hạn 2.60 0.08 0.31 7. Vay ngắn hạn 0.50 0.47 0.86 8. Đầu tư vào GTCG 1.00 0.77 0.40 9. Tiền và tiền gửi -0.50 0.44 -0.10 10. Tài sản khác -5.00 -2.06 -1.79 C. Lỗi và sai sót (D-A-B) -4.00 -0.43 -0.67 D. Cán cân tổng thể (-E) 1.60 4.28 2.17 E. Bù đắp (10+11) -1.60 -4.28 -2.17 11. Thay đổi tổng dự trữ ngoại hối -1.60 -4.28 -2.17 Cán cân tổng thể của Việt Nam đã có sự chuyển biến quan trọng, từ thâm hụt sang thặng dư trong năm 2011 và tiếp tục thặng dư trong quý I (4.28 tỷ USD) và quý II (2.17 tỷ USD), tính chung 6 tháng 2012 đã thặng dư 6.45 tỷ USD. 2.3.1. Cán cân vãng lai: - Cán cân vãng lai có sự thay đổi tích cực khi tăng từ mức thâm hụt 3.3 tỷ USD năm 2011 đạt thặng dư trong 6 tháng đầu năm 2012 là 4.77 tỷ USD (Quý I đạt 3.37 tỷ USD, Quý II đạt 1.40 tỷ USD). Cán cân vãng lai bao gồm 4 nội dung cụ thể, đó là cán cân thương mại, dịch vụ, thu nhập đầu tư, chuyển tiền. 2.3.1.1. Sự mất cân đối của cán cân thương mại - Sự mất cân đối của cán cân thương mại giai đoạn này đã giảm so với các năm trước. Năm 2012, cán cân thương mại đã đạt thặng dư 2.19 tỷ USD trong quý I, 1.93 tỷ USD trong quý II và tính chung đã thặng dư 4.121 tỷ USD, trong khi 6 tháng đầu năm 2011 là thâm hụt 2 tỷ USD. Nguyên nhân là do cùng tính theo giá FOB thì xuất khẩu đã cao hơn nhập khẩu. Tuy nhiên, cán cân thương mại thặng dư nhưng chưa vững chắc, do nhu cầu đầu tư, sản xuất, tiêu dùng bị co lại. 2.3.1.2. Cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập đầu tư Cán cân dịch vụ, thu nhập, đầu tư có tăng cao so với năm 2011 nhưng vẫn ở mức thâm hụt trong 6 tháng đầu năm 2012. Năm 2012, cán cân dịch vụ quý I tuy thặng dư nhẹ, nhưng quý II thâm hụt lớn, nên tính chung 6 tháng bị thâm hụt 1.24 tỷ USD; thu nhập đầu tư quý I bị thâm hụt 1.08 tỷ USD, quý II bị thâm hụt 1.11 tỷ USD, tính chung 6 tháng bị thâm hụt 2.2 tỷ USD. 2.3.1.3. Cán cân chuyển tiền Cán cân chuyển tiền đã đạt được thặng dư trong nhiều năm qua. Năm 2011, cán cân chuyển tiền thặng dư 9 tỷ USD. Sang năm 2012, đà thặng dư tiếp tục được duy trì, quý I thặng dư 2.13 tỷ USD; quý II thặng dư 1.96 tỷ USD. Tính chung 6 tháng đầu năm đã thặng dư 4.09 tỷ USD, trong đó riêng khu vực tư nhân thặng dư 3.95 tỷ USD. 2.3.2. Cán cân vốn và tài chính Cán cân vốn và tài chính đã đạt thặng dư 8.6 tỷ trong năm 2011 và tiếp tục thặng dư trong 2 quý đầu năm 2012. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2012 đã đạt thặng dư 2.78 tỷ USD. Cán cân vốn và tài chính bao gồm 6 khoản, trong đó khoản mục đầu tư trực tiếp đạt thặng dư cao nhất. Đầu tư trực tiếp năm 2011 là 10 tỷ USD, và trong 6 tháng đầu năm 2012 là 3.4 tỷ USD. Tuy nhiên, cán cân tài sản khác thâm hụt 5 tỷ USD năm 2011, và quý I/2012 bị thâm hụt 2.06 tỷ USD, quý II/2012 bị thâm hụt 3.85 tỷ USD, tính chung 6 tháng đầu năm 2012 bị thâm hụt 3.85 tỷ USD. Tóm lại, Cán cân thanh toán tổng thể đạt thặng dư, nên đã làm cho dự trữ ngoại hối năm 2011 tăng 1.6 tỷ USD, 6 tháng đầu năm 2012 tăng 6.47 tỷ USD. Do cán cân vãng lai tiếp tục đạt thặng dư, trong đó Việt Nam tiếp tục xuất siêu và lượng kiều hối tiếp tục về Việt Nam, nên khả năng cán cân tổng thể tiếp tục thặng dư trong năm 2012. Trong năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012, Cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện nhờ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chính sau: + Do việc chuyển đổi tư duy, xác định mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn hiện nay là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời với việc xúc tiến cơ cấu lại kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng + Do tỷ lệ đầu tư/GDP đã giảm nhanh từ 42,7% trong những năm 2006- 2010 xuống còn 34,6% năm 2011 và mục tiêu 2012 còn giảm xuống 33,5%. Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm từ 38,9% năm 2011 xuống còn 37,2% trong 9 tháng 2012. + Do bội chi ngân sách/GDP đã giảm từ 6,9% năm 2008 xuống còn 4,9% năm 2011 và 4,8% theo mục tiêu năm 2012. Có nguyên nhân do cán cân vãng lai và cán cân vốn và tài chính đạt thặng dư. III. Giải pháp cải thiện cán cân thanh toán ở Việt Nam hiện nay Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực song vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực lạm phát tăng cao, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam về hàng hóa xuất khẩu còn kém, mức tiết kiệm trong nước còn rất thấp, thiếu vốn đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, nhập siêu vẫn kéo dài… Tuy cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam đã thặng dư tuy nhiên sự thặng dư này chưa thực sự ổn định và chủ yếu là do nguồn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng và lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng mạnh. Mà đối với một nước luôn nhập siêu như Việt Nam hiện nay thì việc cán cân thanh toán thặng dư do thặng dư cán cân vốn bù đắp cho thiếu hụt cán cân vãng lai thì chưa chắc đã là một dấu hiệu tốt. Nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu tư (vốn vay) kém hiệu quả thì nợ quốc gia sẽ nhanh chóng trở thành gánh nặng, gây áp lực phải trả nợ rất lớn đối với Ngân sách Nhà nước. Như vậy, mức thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có thể tài trợ được nhưng chính phủ cũng nên có các biện pháp tích cực để cải thiện cán cân vãng lai nhằm đảm bảo cân đối bên ngoài một cách vững chắc. Nhiệm vụ chính của các chính sách kinh tế Việt Nam hiện nay là phải đảm bảo thiết lập được cả cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: - Tăng cường hơn nữa thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự trữ ngoại tệ và phục vụ cho phát triển kinh tế. - Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam mặc dù cán cân vãng lai đã có chiều hướng được cải thiện tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn cũng chưa tạo được độ chắc chắn trong thời gian sắp tới. Vì vậy, mục tiêu là phải tiếp tục đảm bảo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai (không bao gồm các khoản trả lãi) đủ để hoàn trả các khoản nợ hiện tại. Nhưng sự đảo ngược trong các chính sách kinh tế (như một sự thắt chặt đột ngột) kèm theo một sự khó khăn vĩ mô như giảm mạnh các hoạt động kinh tế và tiêu dùng thì sự thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong hiện tại mới được coi là có khả năng chịu đựng. Dưới đây, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện cũng như đảm bảo cán cân thanh toán Việt Nam được cân bằng ở trạng thái tốt nhất, các giải pháp cần phải có cơ chế được thực hiện đồng bộ nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Tuy nhiên, giải pháp được chúng tôi chú trọng hơn cả và sẽ phân tích kỹ lưỡng hơn đó là giải pháp về việc cải thiện cán cân vãng lai trong đó cán cân thương mại là thành tố quan trọng trong cán cân thanh toán tổng thể và tạo độ vững chắc cho việc đảm bảo cán cân thanh toán được cân bằng. 3.1. Các giải pháp tác động trực tiếp lên cán cân vãng lai Các biện pháp này bao gồm chính sách hạn chế nhập khẩu, chính sách khuyến khích xuất khẩu và chính sách thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài về Việt Nam. Đây là những biện pháp chuyển dịch chi tiêu có chọn lọc và nhằm mục đích kiểm soát các nhân tố cụ thể trong cán cân thanh toán. 3.1.1 Chính sách nhập khẩu Chính sách hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích cố gắng dịch chuyển chi tiêu nội địa từ nước ngoài và hàng hóa trong nước. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu bao gồm: thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, yêu cầu bắt buộc kết hối ngoại tệ, cấm nhập khẩu, yêu cầu cấp giấy phép nhập khẩu… Tác dụng của biện pháp này là làm giảm số lượng hay giá trị nhập khẩu trong một khoảng thoài gian nhất định. Do đó, ban đầu nó có tác động trược tiếp cải thiện cán cân thương mại nói riêng và cán cân vãng lai nói chung. Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân vãng lai lúc ban đầu. Nhưng sau đó, do giảm xuất khẩu, người tiêu dùng trong nước sẽ quay sang mua hàng hóa sản xuất trong nước làm tăng tổng cầu đối với nền kinh tế dẫn đến sản lượng và thu nhập quốc dân tăng lên. Thu nhập quốc dân sẽ làm cho nhập khẩu tăng và cuối cùng làm cho sự cải thiện cán cân vãng lai ban đầu giảm đi. Song trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, do luồng vốn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng mạnh kèm theo nhu cầu nhập khẩu lớn để tăng trưởng kinh tế nên Chính phủ đã phải thực hiện một số nới lỏng trong chính sách hạn chế nhập khẩu. Thêm nữa, Việt Nam đang tăng cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nên việc sử dụng các hạn chế thương mại sẽ dần dần được loại bỏ. Như vậy, trong tương lai, việc sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ rất khó thực hiện và có thể không thể thực hiện nữa. Để vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế, vừa giảm bớt được tình trạng nhập siêu trong giai đoạn hiện nay,Việt Nam cần thực hiện các việc sau: Thứ nhất, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về khoa học kỹ thuật thì Việt Nam phát triển chậm hơn so với các nước phát triển trên thế giới, vì vậy việc tiếp thu những công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm phục vụ đẩy mạnh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất là nhu cầu cần thiết. Thứ hai, khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ và phát triển hàng hóa sản xuất trong nước. Thực hiện các chính sách giảm chi ngoại tệ nhập khẩu với những ngành nhập khẩu các trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và vật liệu rẻ tiền mau hỏng, để tránh biến Việt Nam trở thành bãi rác thải công nghệ của thế giới. Thứ ba, thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước thay thế nhập khẩu như bông, nguyên liệu thuốc lá, ngô, đậu tương… Là một nước mà cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn, tuy nhiên những nguyên liệu phục vụ chế biến như trên chúng ta vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Vì vậy, cần có những biện pháp tạo điều kiện về mặt định hướng, kỹ thuật cũng như cơ chế giải quyết đầu ra cho các sản phẩm mà trong nước có thế mạnh để hạn chế nhập khẩu những nguyên liệu thô để sản xuất trong nước, vừa làm giảm nhập siêu và đồng thời giá cả trong nước cũng rẻ hơn, giảm giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Thứ tư, hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dung đặc biệt là các hàng tiêu dung xa xỉ và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu ô tô và linh kiện xe hai bánh gắn máy. Đồng thời, quan tâm tới thị trường tiêu thụ khá lớn trong nước, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm thu hút tại thị trường trong nước, có các chương trình như “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, nâng cao tinh thần quốc gia nhằm tác động giảm xu hướng sính ngoại của người Việt Nam. Nói chung, những biện pháp hạn chế nhập khẩu chỉ là tạm thời, hiệu quả không cao và có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. trong tình thế hiện nay, để giảm được thâm hụt thương mại, Việt Nam có thể tập trung vào các biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu như trước đây. 3.1.2 Chính sách khuyến khích xuất khẩu Chính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm mục đích chuyển dịch chi tiêu nước ngoài vào các sản phẩm nội địa. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu bao gồm: mở rộng thị trường xuất khẩu, giảm và bỏ thuế xuất khẩu, xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu, cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu… Tác dụng của các biện pháp này là làm tăng khối lượng xuất khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại. Đặc biệt trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay, khuyến khích xuất khẩu lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đẩy mạnh xuất khẩu là cách tốt nhất để Việt Nam có thể cải thiện được cán cân thương mại, đẩy lùi được tình trạng nhập siêu và có nguồn vốn để trả nợ nước ngoài. Hơn nữa vẫn đảm bảo được mục tiêu cân đối bên trong như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và giải quyết việc làm. Trong những năm tiếp theo, Việt Nam cần phải đảm bảo tốc độ tăng xuất khẩu lớn hơn tốc độ tăng nhập khẩu để có thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính vì vậy, Chính phủ cần quan tâm đến các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu. Trong thực tế,hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt với một số trở ngại. Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu là các chính sách thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu làm mất đi các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Do hệ thống thuế và hệ thống quản lý thương mại là nhằm sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất các loại hàng hóa, dịch vụ thương mại dẫn đến việc bảo hộ cho những ngành không có hiệu quả. Còn những ngành có lợi thế và khả năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng. Hơn nữa, khi vực kinh tế tư nhân có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng; khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì chưa được chú ý phát triển. Thêm vào đó, thị trường xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới đang bị cạnh tranh gay gắt mà sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thì yếu, thì trường thương mại dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của xuất khẩu,tình trạng gian lận trong buôn bán vẫn còn xảy ra. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của của Việt Nam thì tỷ trọng hàng thô và sơ chế còn cao, hàng gia công chiếm tỷ trọng lớn khiến cho giá trị xuất khẩu chưa cao và không có sức cạnh tranh. Mặt khác,các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn nhiều hạn chế về kỹ thuật kinh doanh, chưa am hiểu đầy đủ về luật pháp và thông lệ quốc tế, chưa có độ nhanh nhạy nắm bắt thông tin thị trường nên dẫn đến việc bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh có lợi, phải chịu những thiệt hại không đáng có trong hoạt động sản xuất. Vậy, Chính phủ cần có những biện pháp vừa giải quyết được những khó khăn trở ngại trong hoạt động xuất khẩu lại vừa đẩy nhanh tốc độ tăng xuất khẩu nhằm cải thiện được tình trạng thâm hụt thương mại hiện nay. Một số biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới: - Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, cải tiến chế độ phân phối, chế độ xuất nhập khẩu, tạo ra một sự phân phối nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cùng làm nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu với cùng một ngành hàng, không phân biệt đó là doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần phấn đấu thực hiện những mục tiêu như: đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi với tất cả quốc gia trên mọi lĩnh vực, thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng các biện pháp giảm bớt thuế, dần tiến tới phi thuế; hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; tăng năng suất lao động, giảm bớt chi phí sản xuất hàng hóa để tăng sức mạnh về giá; đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục đầu tư, thủ tục hải quan, ngoại hối, ngân hàng. - Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu. Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có khả năng tăng trưởng ổn định, sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu trong nước, đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa lên hàng đầu, gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm… Đồng thời chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng đầu tư Nhà nước để phát triển các ngành dịch vụ và một số ngành sản xuất với công nghệ cao nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức. - Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, phát triển và đa dạng hóa với những mặt hàng chủ lực, gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản phẩm chính. Về đổi mới cơ cấu hàng xuất, Việt Nam cần phải chuyển nhanh và mạnh sang phần lớn hàng chế biến, giảm mức tối đa xuất hàng nguyên liệu và hàng sơ chế. - Chính phủ cần quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng, nhất là các doanh nghiệp trong các ngành chế tạo có định hướng xuất khẩu cao. Hỗ trợ nhiều hơn cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân để phát triển các mặt hàng mới và thị trường mới. - Việt Nam cần mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường và đối tác, hạn chế việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số thị trường,chú trọng các thị trường có sức mua lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Nam Á... đồng thời tìm cách thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở các thị trường châu Phi, Mỹ La tinh; tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi hàng… - Chính phủ cũng nên tăng cường rà soát và xác định cụ thể những nguyên nhân làm chậm trễ hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu để xử lý kịp thời. Đồng thời thực hiện bổ sung, sửa đổi các cơ chế, chính sách, quy định chưa hợp lý; tiếp tục cải cách hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. 3.1.3. Giải pháp cải thiện cán cân dịch vụ Thứ nhất, du lịch là một ngành dịch vụ có tiềm năng phát triển ở nước ta, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Bởi vậy, để cải thiện cán cân dịch vụ, cần đẩy mạnh phát triển ngành du lịch thông qua một số biện pháp: - Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các sản phẩm và hình thức du lịch. - Nhà nước nên có chiến lược khai thác hiệu quả các điểm du lịch vốn đã có tiếng và được nhiều du khách nước ngoài biết đến. - Mặt khác, cần nâng cao trình độ quản lý, nghiệp vụ du lịch cho đội ngũ cán bộ, lao động, hướng dẫn viên trong ngành du lịch song song với việc tuyên truyền giáo dục nhận thức cho nhân dân để mỗi người dân phải có thái độ thiện chí và lòng hiếu khách, chú trọng đến công tác tuyên truyền quảng bá về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Thứ hai, nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân dịch vụ của Việt Nam là do nước ta phải nhập khẩu rất nhiều dịch vụ từ nước ngoài, đặc biệt là các dịch vụ liên quan tới ngoại thương như vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính… Với một nền kinh tế còn non trẻ như Việt Nam thì năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ còn yếu so với thế giới là điều dễ hiểu. Trong thời gian tới, Việt Nam cần có những biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các ngành dịch vụ non trẻ đó, trong đó tập trung đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng. 3.1.4. Biện pháp cải thiện cán cân thu nhập * Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động: - Cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên nhiều lĩnh vực, ngoài những lĩnh vực được xem là truyền thống với lao động xuất khẩu ở Việt Nam như xây dựng, đánh bắt thủy hải sản, cơ khí… Việt nam cần chú ý tới các lĩnh vực mới mà lao động Việt Nam có khả năng đáp ứng như nhân viên tạp vụ nhà hàng, công nhân làm trong các khu công nghệ cao, sản xuất hàng trang trí nội thất cao cấp. - Cần đa dạng hóa thị trường lao động, giữ vững những thị trường truyền thống như Ðài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản… và tìm kiếm, thúc đẩy xuất khẩu lao động vào các thị trường mới tiềm năng như Mỹ, châu Âu, Trung Ðông, đây là những thị trường có nền kinh tế phát triển và có chế độ đãi ngộ tốt, mức lương trả cho lao động cao. - Tăng cường chất lượng nguồn lao động. Muốn có thu nhập cao thì người lao động phải có trình độ tay nghề vững, có tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật tốt. Vì vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần phải tuyển chọn, bồi dưỡng và đào tạo bài bản cho người lao động để có thể đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe của các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường giàu tiềm năng nhưng khó tính như Mỹ, Nhật, các nước châu Âu. 3.1.5. Giải pháp thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam. Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thị trường trong nước và thị trường ngoài nước được mở rộng và gắn kết với nhau nên lượng người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài và lao động xuất khẩu ngày càng tăng lên. Và thực tế cho thấy, số tiền do những người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước luôn là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, nguồn kiều hối gửi về Việt Nam đã bị giảm sút do phần còn lại của thế giới cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Để có thể khai thác triệt để nguồn ngoại tệ này, Chính phủ cần có những biện pháp nhằm khắc phục một số vướng mắc hiện tại. Các biện pháp có thể áp dụng như thiết lập thêm mấy kênh chuyển tiền mới giúp cho kiều bào an tâm chuyển tiền, nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền, đơn giản hóa các thủ tục có liên quan tới hệ thống ngân hàng, cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích kiều bào tăng cường đầu tư vào thị trường trong nước, tiếp tục thực hiện chính sách thu hút kiều hối thông thoáng… 3.1.6. Các giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ Việc điều tiết cán cân vãng lai thông qua các chính sách tỷ giá, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phải phù hợp với tình hình hiện tại và các đặc điểm riêng của nền kinh tế Việt Nam. - Về chính sách tỷ giá, đối với nền kinh tế đang phát triển và còn nhiều bất ổn như Việt Nam, cần duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt có sự can thiệp của Nhà nước, điều chỉnh dần theo mức tăng của giá cả, hướng tỷ giá chính thức của Việt Nam sát với giá trị thực của nó. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, không nên thực hiện chính sách phá giá đồng Việt Nam quá nhiều để bù đắp thâm hụt cán cân thương mại thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, bởi vì ngoài yếu tố tỷ giá, việc thúc đẩy xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: chất lượng, cơ cấu hàng xuất khẩu… Mặt khác, việc tăng tỷ giá sẽ làm giá các yếu tố nhập khẩu đầu vào tăng lên, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh và đến lượt nó là yếu tố cản trở tăng xuất khẩu. Tỷ giá tăng cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho gánh nặng về nợ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tăng lên. - Về chính sách tài khóa, Việt Nam có thể tăng các rào cản phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu như sử dụng biện pháp cấp phép nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan (theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã bảo lưu được quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 4 nhóm mặt hàng là: đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối), các loại phí phụ thu… Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO và phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Bên cạnh đó, kiểm soát chi tiêu của Chính phủ, nâng cao hiệu quả đầu tư công cũng là biện pháp quan trọng phải tính đến. - Về chính sách tiền tệ, do tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt theo hướng sát với giá trị thực của nó, vai trò của tỷ giá như là chiếc neo danh nghĩa nhằm kiểm soát lạm phát không còn nữa, đồng thời để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam nên thực hiện chính sách tiền tệ hướng vào mục tiêu kiểm soát lạm phát (áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát); trong đó đặc biệt lưu ý vai trò của lãi suất là công cụ điều hành của chính sách tiền tệ. 3.2. Các giải pháp đẩy mạnh cán cân vốn và tài chính Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững: - Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. - Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa đất nước dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài. Cả 2 vấn đề này có thể giải quyết bằng cách thu hút vốn ngoài nước, trong đó có FDI và ODA. 3.2.1 Thu hút và sử dụng vốn có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) Trong các luồng vốn nước ngoài vào, đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp được coi là luồng vốn không tạo ra dư nợ nên Chính phủ cần tập trung khai thác luồng vốn này. Để thu hút được nhiều vốn FDI, Chính phủ có thể thực hiện có biện pháp sau: - Tìm kiếm thị trường và đối tác mới. - Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới. - Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất: đảm bảo tính minh bạch và ổn định của luật pháp để các nhà đầu tư có thế tính được xu thế phát triển của dự án đầu tư. - Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể thu hút vốn FDI phù hợp. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép triển khai nhanh hoạt động xử lý linh hoạt chuyển đôi các hình thức đầu tư. - Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng. 3.2.2 Quản lý, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức(ODA) So với FDI, Việt Nam sẽ tiếp nhận nguồn vốn ODA sớm hơn. Nhưng thực chất nguồn vốn ODA là nguồn vốn ưu đãi vì chỉ có khoảng 10-15% là viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn này là hết sức cần thiết. - Sức hấp dẫn của ODA nằm ở chỗ khâu lập hồ sơ nhanh chóng, sát với nhu cầu thực tế, các chủ dự án có năng lực cao. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần giải quyết các vấn đề này để thu hút thêm nhiều ODA phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. - Thực hiện nghiêm chỉnh các nghi quyết của Đảng và Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả những công ty lớn trong hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt. - Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quan trọng này, bao gồm cả yêu cầu về giải ngân, Chính phủ cần đổi mới công tác tổ chức điều hành các dự án công trình quan trọng quốc gia có sử dụng nguồn vốn ODA. - Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về vốn ODA. - Để cải thiện tình hình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, chính phủ cũng cần tiếp tục cải thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo môi trường rõ ràng hơn và thuận lợi hơn cho quản lý và sử dụng ODA. 3.2.3. Giải pháp tăng tiết kiệm Như phần trên đã phân tích, chúng ta biết rằng thiếu hụt cán cân vãng lai bằng lỗ hổng tiết kiệm và đầu tư của 1 quốc gia. Đối với Việt Nam thì lỗ hổng này chủ yếu xuất phát từ khu vực tư nhân. Chính vì vậy, để giảm thâm hụt cán cân vãng lai đòi hỏi chính phủ phải có các biện pháp nhằm tăng cường tiết kiệm quốc gia, đặc biệt là tiết kiệm tư nhân. Mặt khác, nếu chính phủ thu hút được nguồn vốn này để phục vụ cho đầu tư trong nước thì sẽ giảm đựoc vay vốn nước ngoài. Giảm vay vốn đầu tư nước ngoài sẽ giảm được nhập khẩu, do đó giảm được thâm hụt thương mại và giảm bớt các khoản nợ nước ngoài. Hiện tại, Việt Nam chủ yếu thu hút các nguồn tiết kiệm tư nhân thông qua hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm. Song lượng tiền gửi vào chưa nhiều và phần lớn các luồng tiền gửi vào ngân hàng là tiền gửi ngắn hạn. Kết quả là trong thực tế, Việt Nam là thiếu vốn trung và dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngân hàng cần tích cực thu hút các luồng vốn trung và dài hạn bằng cách khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu. Để đạt được tỉ lệ tích lũy cao hơn, Chính phủ cần phải cải thiện môi trường tổng thể sao cho thuận lợi hơn, cải thiện khuôn khổ các biện pháp khuyến khích và cần có 1 chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu để tăng mức thu nhập. Ngoài ra, nâng cao vai trò quan trọng của nhà nước trong việc duy trì môi trường với lãi suất thực dương; đảm bảo về mặt pháp lý cho tính chất toàn vẹn lâu dài của các quyền về tài sản và sở hữu của caỉ vật chất; điều chỉnh tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để cho người gửi tiền tiết kiệm có thể yên tâm về giá trị lâu dài của đồng tiền; xây dựng 1 hệ thống ngân hàng an toàn và lành mạnh để người dân yêu tâm gửi tiền; và một hệ thống thuế công bằng, hợp lý không de dọa tịch thu tiết kiệm và của cải trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHUYÊN ĐỀ 3- Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.doc