Tài liệu Chuyên đề Biện pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Hai Bà Trưng: trường đại học kinh tế quốc dân
khoa ngân hàng - tài chính
_________________________________
Chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài:
Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế hai bà trưng
Giáo viên hướng dẫn : Ts. Vũ Duy Hào
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Mỹ Phúc
Lớp : Tài chính công 41A
Hà Nội - 2003
Lời mở đầu
Đất nước ta đang ở trong giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả. Trong đó, chính sách tài chính - thuế có vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi ngành thuế phải tập trung nghiên cứu và đề ra các biện pháp công tác cụ thể, phải tạo cho được sự chuyển biến mới, có hiệu quả thiết thực trên các mặt công tác của mình.
Thời gian qua công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của các hộ ...
105 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Biện pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Hai Bà Trưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường đại học kinh tế quốc dân
khoa ngân hàng - tài chính
_________________________________
Chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài:
Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế hai bà trưng
Giáo viên hướng dẫn : Ts. Vũ Duy Hào
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Mỹ Phúc
Lớp : Tài chính công 41A
Hà Nội - 2003
Lời mở đầu
Đất nước ta đang ở trong giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả. Trong đó, chính sách tài chính - thuế có vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi ngành thuế phải tập trung nghiên cứu và đề ra các biện pháp công tác cụ thể, phải tạo cho được sự chuyển biến mới, có hiệu quả thiết thực trên các mặt công tác của mình.
Thời gian qua công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho ngân sách. Tuy nhiên, tiềm năng vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao hơn. Tình trạng thất thu tuy có giảm nhưng vẫn còn tình trạng quản lý không hết hộ kinh doanh, doanh thu tính thuế không sát thực tế, dây dưa nợ đọng thuế còn nhiều … Vì vậy, vấn đề mang tính cấp thiết đặt ra cho Ngành Thuế là phải tìm cho được các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Tình hình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế Hai Bà Trưng cũng nằm trong thực trạng chung đó. Qua thực tập ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế Hai Bà Trưng". Đề tài tập trung phân tích thực trạng quản lý, trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế chỉ ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp.
Về kết cấu đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Chương II: thực trạng công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế quận hai bà trưng.
Chương III: giải pháp tăng cường quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế hai bà trưng.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - Ts. Vũ Duy Hào cùng các cô chú trong Chi cục Thuế Hai Bà Trưng đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về
quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
1.1. Vai trò của kinh tế cá thể đối với nền kinh tế:
1.1.1. Quan điểm của Nhà nước về thành phần kinh tế cá thể:
Sau hơn một thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới cùng với sự chuyển biến to lớn của nền kinh tế, thành phần kinh tế cá thể đã được "khai sinh trở lại" từng bước phát triển và ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước.
Vào những năm trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế cá thể được coi là "hàng ngày hàng giờ" đẻ ra tư bản chủ nghĩa, vì vậy luôn là đối tượng cải tạo của xã hội chủ nghĩa và không được khuyến khích phát triển.
Đến Đại hội Đảng Toàn quốc Lần thứ VI, Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế - trong đó có thành phần kinh tế cá thể. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng VII "Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần, thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước ...". Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tổ chức và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay (điều kiện sản xuất nhỏ, phân công lao động đang ở trình độ thấp) nên quan hệ sản xuất được thiết lập từng bước từ thấp đến cao, đa dạng hoá về hình thức sở hữu. Trong đó kinh tế cá thể gồm những đơn vị kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Nếu như thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo nắm giữ nhiều bộ phận then chốt thì thành phần kinh tế cá thể nói riêng và kinh tế ngoài quốc doanh nói chung tuy chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng ngày càng phát triển và chiếm một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cá thể không những tạo ra một lượng sản phẩm không nhỏ trong tổng sản phẩm xã hội mà nguồn thu từ thành phần kinh tế này vào Ngân sách Nhà nước cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, đồng thời còn thu hút được một lực lượng lớn lao động nhàn rỗi đáp ứng mọi yêu cầu của xã hội mà thành phần kinh tế quốc doanh chưa đảm bảo hết, tạo thu nhập và từng bước góp phần nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân.
Như vậy, thành phần kinh tế cá thể vẫn còn tồn tại như một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội. Với quan điểm đó, hoạt động của thành phần kinh tế cá thể ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế quốc dân trong hiện tại và tương lai.
1.1.2. Đặc điểm của thành phần kinh tế cá thể.
Thành phần kinh tế cá thể là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của bản thân mình là chính. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế cá thể phát triển rất nhanh trong cả nước, hoạt động trong mọi ngành sản xuất, giao thông vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ. Đặc điểm của thành phần kinh tế cá thể là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, người chủ kinh doanh tự quyết định từ quá trình sản xuất kinh doanh đến phân phối tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động kinh tế cá thể mang tính tự chủ cao, tự tìm kiếm nguồn lực, vốn, sức lao động. Thành phần kinh tế này rất nhạy bén trong kinh doanh, dễ dàng chuyển đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường và nền kinh tế.
Thành phần kinh tế cá thể có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị, do đó nó có khả năng đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những ưu thế của thành phần kinh tế cá thể là:
- Thành phần kinh tế cá thể có một tiềm năng to lớn về trí tuệ, sáng kiến, được phân bổ rộng rãi ở mọi nơi, mọi lúc. Nhờ đó họ có thể phát huy được sáng kiến của mình vào việc sản xuất và tìm tòi ra những hình thức kinh doanh thích hợp với nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến.
- Có tiềm năng về kinh nghiệm quản lý, tổ chức sản xuất, những bí quyết sản xuất truyền thống được tích luỹ từ nhiều thế hệ. Điều này cho phép phát huy những ngành nghề truyền thống để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xã hội và xuất khẩu. Nó có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện đất nước còn thiếu vốn như hiện nay. Thực tế những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc đã biết vận dụng đúng đắn tiềm năng này và đã thành công trong quá trình phát triển kinh tế.
- Trong khi nguồn vốn của Nhà nước, của tập thể còn hạn hẹp thì nguồn vốn tiềm năng trong dân lại rất lớn. Do đó, nếu có các chính sách kinh tế hợp lý sẽ mở đường cho các hộ cá thể gia đình có khả năng bỏ vốn vào sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng để tích luỹ, mở rộng tái sản xuất góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh chóng.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế cá thể đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể, góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho xã hội. ở nước ta hàng năm có khoảng 1,5 đến 2 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động, bao gồm nhiều loại hình như công nhân, kỹ sư, cử nhân kinh tế ... nhưng khả năng thu hút lao động của khu vực nhà nước lại rất hạn chế, thậm chí dư thừa một số lao động hiện có do sắp xếp lại quá trình sản xuất. Vì vậy, tình trạng người có sức lao động nhưng chưa có việc làm và người có việc làm nhưng chưa sử dụng hết thời gian lao động còn phổ biến. Với hình thức kinh doanh linh hoạt trong nhiều ngành nghề và sử dụng công nghệ - kỹ thuật thủ công, khu vực kinh tế cá thể có khả năng tận dụng lao động dôi thừa trong xã hội.
- Sự đa dạng trong loại hình sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế này cho phép tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm, dịch vụ ở mọi nơi, mọi lúc, đáp ứng nhu cầu của xã hội, đóng vai trò vệ tinh cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trên thực tế, có những ngành nghề nếu tổ chức sản xuất tập thể hoặc do Nhà nước đảm nhiệm với quy mô lớn sẽ không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp hơn so với việc tổ chức sản xuất nhỏ ở các hộ gia đình.
Bên cạnh những ưu thế trên, thành phần kinh tế hộ cá thể cũng có một số mặt hạn chế. Đặc điểm của hộ cá thể là làm ăn riêng lẻ, tản mạn, rời rạc và luôn tìm mọi cách để tìm ra những chỗ sơ hở, non yếu trong quản lý kinh tế để kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế ... Dưới tác động của quy luật giá trị, thành phần kinh tế này rất dễ bị phân hoá.
Sự năng động của thành phần kinh tế cá thể mang tính chất tự phát theo thị trường, nếu thiếu sự định hướng thì sẽ không bao quát được nhu cầu thị trường.
Để phát huy được những tiềm năng vốn có và khắc phục được những khiếm khuyết trên, cần phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đối với thành phần kinh tế cá thể thông qua công cụ pháp luật, nhằm tạo ra hành lang pháp lý và môi trường hoạt động lành mạnh, giúp thành phần kinh tế này hoạt động có hiệu quả theo định hướng XHCN, trở thành một thành phần kinh tế trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cho đất nước.
1.2. Công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
1.2.1. Các sắc thuế chủ yếu áp dụng đối với hộ kinh doanh:
Kể từ ngày 1/1/1999 thực hiện chương trình cải cách thuế bước hai, hệ thống thuế của nước ta bao gồm 10 sắc thuế, trong đó có 4 sắc thuế chủ yếu áp dụng đối với hộ kinh doanh.
1.2.1.1. Thuế môn bài:
Trong hệ thống thuế nước ta, thuế môn bài là một sắc thuế trực thu rất quen thuộc với quần chúng, là thuế đăng ký kinh doanh được tính theo năm, mức thuế được áp dụng theo số tuyệt đối căn cứ vào loại hình doanh nghiệp. Đối với hộ kinh doanh cá thể, mức thuế môn bài được áp dụng 6 mức từ 50.000 đồng / năm đến 1.000.000 đồng/năm căn cứ vào mức thu nhập tháng của hộ kinh doanh.
Hộ ra kinh doanh vào thời gian 6 tháng đầu năm thì nộp mức thuế môn bài cả năm, của 6 tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế môn bài cả năm. Hộ đang kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng đầu của năm dương lịch, hộ mới ra kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay trong tháng bắt đầu kinh doanh.
Tuy số thu hàng năm của thuế môn bài luôn giữ một địa vị khiêm nhường so với số thu các loại thuế khác nhưng đây lại là một tài nguyên tương đối vững chắc cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Một ưu điểm quan trọng nhất của thuế môn bài là nó có giá trị chỉ dẫn cho thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Mọi tổ chức, cá nhân muốn kinh doanh đều phải đăng ký kinh doanh và nộp thuế môn bài. Vì thế, thuế môn bài có tác dụng kiểm kê, kiểm soát, các cơ sở kinh doanh nhằm hỗ trợ cho việc hành thu các loại thuế có số thu cao như thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng.
1.2.1.2. Thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Thuế GTGT là loại thuế gián thu đánh vào phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các hộ có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế.
- Các hộ kinh doanh cá thể áp dụng đồng thời cả hai phương pháp tính thuế GTGT là: phương pháp khấu trừ và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT.
+ Phương pháp khấu trừ: áp dụng đối với các hộ kinh doanh lớn chấp hành đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, hạch toán được cả đầu vào, đầu ra.
Số thuế GTGT phải nộp
=
Thuế GTGT đầu ra
-
Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra
=
Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra
x
Khối lượng hàng hoá bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ tương ứng
Thuế GTGT đầu vào là số thuế được ghi trên hoá đơn mua hàng của hàng hoá, dịch vụ mà hộ đó mua vào.
+ Phương pháp trực tiếp: Theo phương pháp này có ba hình thức khác nhau.
ã Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ theo quy định: Hàng hoá dịch vụ mua vào và bán ra đều có hoá đơn, chứng từ hợp lệ thì:
Thuế GTGT phải nộp
=
GTGT của hàng hoá, dịch vụ
x
Thuế suất thuế GTGT tương ứng
GTGT của hàng hoá, dịch vụ
=
Doanh số bán ra
-
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào
ã Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện chế độ lập hoá đơn, chứng từ khi bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào thì:
Thuế GTGT phải nộp
=
Doanh số bán ra
x
Tỷ lệ GTGT
x
Thuế suất thuế GTGT tương ứng
ã Đối với hộ kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá, dịch vụ: Về nguyên tắc, những hộ loại này thường là những hộ kinh doanh nhỏ, bán lẻ và kinh doanh nhiều mặt vụn vặt, hàng bán có thể không có hoá đơn, chứng từ (vì chi phí cho hoá đơn chứng từ chiếm tỷ lệ cao trong doanh số). Những hộ này nộp thuế GTGT như sau:
Thuế GTGT phải nộp
=
Doanh số ấn định
x
Tỷ lệ GTGT
x
Thuế suất thuế GTGT
Bước sang năm 2003, luật thuế GTGT có một số sửa đổi:
- Giảm bớt số lượng mức thuế suất từ 4 mức xuống còn 3 mức, bỏ mức thuế suất 20%.
- áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các đối tượng nộp thuế không đủ điều kiện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế thì nộp thuế theo một tỷ lệ % trên doanh thu.
1.2.1.3. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).
Thuế TNDN là loại thuế trực thu tính trên phần thu nhập của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý, hợp lệ.
- Đối tượng nộp thuế TNDN là tất cả các hộ cá thể có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
- Phương pháp tính thuế:
Số thuế TNDN phải nộp
=
Thu nhập chịu thuế
x
Thuế suất thuế TNDN
Thu nhập chịu thuế
=
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
-
Chi phí hợp lý
+
Thu nhập khác
Các hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đúng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ, cơ quan thuế sẽ ấn định thu nhập chịu thuế để tính thuế TNDN.
Sang năm 2003, thuế TNDN sẽ áp dụng thống nhất mức thuế suất chung cho mọi đối tượng nộp thuế là 28%.
1.2.1.4. Thuế tiêu thu đặc biệt (TTĐB).
Thuế TTĐB là loại thuế gián thu đánh vào việc sản xuất và nhập khẩu một số loại hàng hoá và dịch vụ thuộc diện đặc biệt.
- Đối tượng nộp thuế TTĐB là những hộ có sản xuất hàng hoá, kinh doanh dịch vụ mặt hàng thuộc diện chịu thuế TTĐB.
- Phương pháp tính thuế:
Số thuế TTĐB phải nộp
=
Giá bán
1+ thuế suất
x
Lượng sản phẩm tiêu thụ
x
Thuế suất thuế TTĐB
-
Thuế TTĐB đầu vào (nếu có)
Đối với các hộ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đúng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ thì cơ quan thuế sẽ ấn định thuế TTĐB phải nộp.
Bước sang năm 2003, một số hàng hoá, dịch vụ hiện đang chịu thuế GTGT ở mức cao và một số hàng hoá, dịch vụ cần điều tiết để hướng dẫn tiêu dùng sẽ được bổ sung vào diện chịu thuế TTĐB. Các mức thuế suất sẽ được thu gọn lại, đồng thời điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TTĐB phù hợp với việc đánh giá GTGT vào hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB.
1.2.2. Mục đích, yêu cầu của công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh.
Công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh nhằm đạt được các mục đích cơ bản sau:
- Tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
ở nước ta, số thu bằng thuế hàng năm chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số thu của NSNN. Số thuế thu được từ khu vực kinh tế cá thể tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập ngân sách nhưng đây lại là lĩnh vực phức tạp, khó quản lý. Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thu thuế đối với hộ cá thể sẽ có tác dụng động viên, tăng thu cho NSNN.
- Thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với khu vực kinh tế này.
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song, những vai trò đó không mang tính khách quan, mà nó là kết quả của những tác động từ phía con người. Những tác động này được thực hiện thông qua những nội dung, những công việc cụ thể của công tác quản lý thuế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các hộ kinh doanh.
Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các luật thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức chấp hành các luật thuế được nâng cao, từ đó tạo thói quen "Sống và làm việc theo pháp luật" trong mọi tầng lớp dân cư.
Yêu cầu của công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh có thể khái quát như sau:
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục sâu rộng thường xuyên các luật thuế và các văn bản dưới luật để đối tượng nộp thuế hiểu và tự giác chấp hành.
- Tận thu, khai thác triệt để các nguồn thu, kết hợp nuôi dưỡng nguồn thu:
+ Thu hết số thuế ghi thu, không để nợ đọng.
+ Kiểm tra, giám sát chặt chẽ hộ nghỉ kinh doanh.
+ Quản lý hết các đối tượng tham gia sản xuất, kinh doanh (gồm cố định có cửa hàng - cửa hiệu và đối tượng kinh doanh vãng lai).
+ Quản lý sát doanh thu thực tế của đối tượng nộp thuế (thường xuyên kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ ..., rà soát điều chỉnh thuế hộ khoán ổn định).
- Phải thực hiện đầy đủ, đúng quy trình nghiệp vụ của ngành đã đề ra cho từng loại đối tượng kinh doanh.
1.2.3. Quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh.
Căn cứ vào các quy định về tổ chức bộ máy ngành thuế, các tổ, đội và đối tượng thuộc Chi cục Thuế liên quan trực tiếp đến quy trình quản lý thu thuế là:
ã Lãnh đạo Chi cục Thuế.
ã Tổ Kế hoạch - Nghiệp vụ (KH-NV).
ã Các Đội thuế xã, phường.
ã Tổ Kiểm tra
ã Tổ Quản lý ấn chỉ.
Trong đó, ba bộ phận chính trực tiếp thực hiện hành thu là: Tổ KH-NV, các đội thuế và tổ kiểm tra.
Quy trình mô tả trình tự các bước thực hiện của các công việc sau:
1.2.3.1. Đăng ký thuế.
- Quản lý địa bàn:
Đội thuế có trách nhiệm phối hợp với chính quyền phường điều tra nắm chắc số hộ có sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, nắm diễn biến hoạt động của các hộ như: hộ mới ra kinh doanh, hộ nghỉ kinh doanh, di chuyển địa điểm kinh doanh, ... Đối với hộ mới ra kinh doanh, đội thuế cấp phát tờ khai đăng ký thuế và hướng dẫn cách kê khai để ĐTNT kê khai đăng ký thuế với cơ quan thuế.
- ĐTNT kê khai đăng ký thuế: Có 2 trường hợp:
+ Hộ ra kinh doanh lần đầu phải tiến hành kê khai đăng ký thuế để được cấp mã số thuế.
+ Hộ trước đó đã được cấp mã số thuế nhưng nghỉ kinh doanh dài hạn, sau đó lại ra kinh doanh lại vẫn phải thực hiện đăng ký nộp thuế lại với cơ quan thuế, nhưng không cấp mã số thuế mới.
- Nhận tờ khai đăng ký thuế:
Đội thuế nhận tờ khai đăng ký thuế của các ĐTNT. Kiểm tra các chỉ tiêu kê khai và trực tiếp liên hệ với ĐTNT chỉnh sửa tờ khai đăng ký thuế nếu có lỗi. Qua kiểm tra tờ khai đăng ký thuế, nếu phát hiện ĐTNT chưa có giấy phép đăng ký kinh doanh thì phải có biện pháp nhắc nhở hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý phạt hành chính.
Đối với các ĐTNT mới ra kinh doanh lần đầu thì các Đội thuế lập Bảng kê tờ khai theo mẫu số 01/NQD và tập trung tờ khai chuyển Tổ KH-NV soát xét lại trước khi gửi về Cục Thuế để cấp mã số thuế. Đối với các tờ khai đăng ký thuế đã có mã số thuế thì Tổ KH-NV ghi bổ sung sổ danh bạ để đưa vào danh sách lập bộ thuế.
- Nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế:
Tổ KH-NV Chi cục Thuế nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế, các tờ khai đăng ký thuế và bản danh sách ĐTNT được cấp mã số thuế của Chi cục từ Cục Thuế gửi về. Căn cứ vào danh sách các ĐTNT được cấp mã số thuế từ Cục Thuế gửi về, Tổ KH-NV lập sổ danh bạ thuế theo mẫu quy định. Sổ này luôn được cập nhật khi nhận được danh sách mã số thuế từ Cục Thuế và thông báo hộ nghỉ, bỏ kinh doanh từ các Đội thuế. Tổ KH-NV tổ chức lưu giữ các tờ khai đăng ký thuế của các ĐTNT theo từng địa bàn và đội thuế. Đăng ký thuế lưu theo thời gian hoạt động của ĐTNT, chỉ huỷ sau khi ĐTNT nghỉ kinh doanh trên 5 năm.
Tổ KH-NV chuyển các Giấy chứng nhận đăng ký thuế cùng bảng kê danh sách các đối tượng được cấp mã số thuế cho các Đội thuế.
- Gửi Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho ĐTNT:
Các Đội thuế nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế và lập sổ theo dõi việc phát Giấy chứng nhận đăng ký thuế theo mẫu số 02/NQD. Sau đó, thực hiện phát Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho ĐTNT. Khi phát, cán bộ đội thuế hướng dẫn ĐTNT các thủ tục nộp thuế và việc sử dụng mã số thuế.
1.2.3.2. Điều tra doanh số ấn định.
- Giao chỉ tiêu phấn đấu:
Căn cứ vào dự toán thu được giao, doanh thu, mức thuế các tháng trước và mức độ sản xuất kinh doanh trên địa bàn, phòng Nghiệp vụ Cục thuế và Tổ KH-NV Chi cục Thuế tiến hành điều tra khảo sát doanh thu thực tế của một số hộ kinh doanh, đối chiếu với tình hình thu hiện tại để đánh giá mức độ thất thu trên từng địa bàn, từng ngành nghề. Trên cơ sở đó, Cục Thuế giao chỉ tiêu phấn đấu tăng thu trong thời gian tới cho Chi cục. Tổ KH-NV căn cứ trên chỉ tiêu Cục giao để phân tích, tham mưu cho Lãnh đạo Chi cục giao mức phấn đấu thu cho từng Đội thuế.
- Phân loại ĐTNT:
Qua công tác nắm địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh và các thông tin kê khai đăng ký thuế của các ĐTNT, các Đội thuế tiến hành sắp xếp phân loại các hộ kinh doanh theo ngành nghề kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, quy mô kinh doanh và theo phương pháp tính thuế.
Thời hạn ổn định thuế cho các hộ nộp thuế theo phương pháp ấn định thuế được quy định thống nhất vào các tháng 6 và tháng 12 của năm. Các hộ kinh doanh lớn (có môn bài bậc 1, 2) sẽ ổn định thuế 6 tháng, hộ kinh doanh vừa và nhỏ sẽ ổn định thuế 1 năm. Các hộ mới phát sinh kinh doanh trong các tháng khác tháng 6 và tháng 12 thì sẽ được tính thời hạn ổn định thuế lần đầu bằng số tháng tính từ tháng bắt đầu kinh doanh đến tháng 6 hoặc tháng 12 kế cận. Các thời hạn ổn định tiếp theo sẽ là 6 tháng hoặc 1 năm tuỳ theo quy mô kinh doanh.
- Hướng dẫn ĐTNT kê khai thuế:
Đội thuế hướng dẫn các thủ tục kê khai thuế cho các hộ mới ra kinh doanh nộp thuế theo phương pháp ấn định thuế và các hộ kinh doanh sắp hết hạn ổn định thuế (kê khai dự kiến doanh số trung bình hàng tháng cho thời gian ổn định thuế tới). Đối với thuế GTGT sử dụng mẫu số 06/GTGT, hạn nộp tờ khai chậm nhất là ngày 10 của tháng trước tháng hết hạn ổn định. Đối với thuế TNDN sử dụng mẫu số 1b, hạn nộp tờ khai chậm nhất là ngày 5 của tháng trước tháng hết hạn ổn định thuế.
- Điều tra xác định doanh số của ĐTNT:
Trước tháng 6 và tháng 12 đội thuế chọn mỗi ngành nghề, mỗi loại hộ, một số hộ điển hình trực tiếp điều tra hoặc phối hợp với hội đồng tư vấn thuế phường, xã tổ chức điều tra xác định doanh số điển hình theo mẫu số 03/NQD để làm căn cứ tham khảo khi xác định doanh số chung của các hộ. Hàng tháng, đội thuế tổ chức điều tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ mới ra kinh doanh. Đầu tháng 6 và đầu tháng 12, tổ KH-NV cung cấp danh sách các hộ tháng sau sẽ hết hạn ổn định thuế để các đội thuế tiến hành điều tra lại doanh số của các hộ này và dự kiến thời hạn ổn định thuế tiếp theo. Sau khi điều tra, đội thuế lập danh sách dự kiến mức doanh số ấn định của từng hộ theo mẫu số 04/NQD. Việc điều tra doanh số của các hộ có sự tham gia của tổ kiểm tra hoặc tổ KH-NV (không để một cán bộ thuế làm).
Sau khi điều tra, đội thuế lập danh sách các hộ và mức doanh số ấn định dự kiến để thực hiện công khai hoá và chuyển cho Hội đồng tư vấn thuế xem xét trước ngày 15 của tháng.
- Thực hiện công khai hoá doanh số dự kiến:
Đội thuế niêm yết danh sách dự kiến doanh số ấn định của các hộ mới ra kinh doanh và các hộ phải điều chỉnh doanh số khi hết hạn ổn định thuế tại trụ sở UBND phường, xã và các tổ ngành hàng. Tiến hành thu thập ý kiến đóng góp và thắc mắc của các hộ kinh doanh để phân tích và xem xét lại mức doanh số dự kiến ấn định của từng hộ. Nếu cần thiết có thể tiến hành điều tra lại để đảm bảo mức doanh số ấn định sát với thực tế kinh doanh.
- Tham khảo ý kiến của Hội đồng tư vấn thuế:
Hội đồng tư vấn thuế tham gia ý kiến về danh sách dự kiến mức doanh thu ấn định. Đội thuế có trách nhiệm giải thích cơ sở của việc điều tra xác định doanh số và giải thích các mức doanh số dự kiến của từng ngành hàng, từng hộ. Sau khi thảo luận, nếu thống nhất mức doanh thu ấn định cho từng hộ thì đội thuế chuyển kết quả dự kiến doanh số ấn định về Chi cục Thuế để làm căn cứ tính thuế. Những trường hợp không thống nhất được, đội thuế tập hợp để báo cáo Lãnh đạo Chi cục Thuế quyết định.
- Duyệt mức doanh số ấn định:
Sau khi Hội đồng tư vấn thuế xem xét và tham gia ý kiến về mức doanh số dự kiến ấn định cho các hộ mới phát sinh và hết hạn ổn định thuế, Tổ KH-NV tập hợp, kiểm tra lại kết quả ấn định. Trong quá trình kiểm tra, Tổ KH-NV trao đổi lại với các đội thuế hoặc phối hợp với tổ kiểm tra Chi cục điều tra lại doanh số của một số trường hợp để điều chỉnh một số mức doanh số dự kiến cho hợp lý hơn và cân đối giữa các địa bàn quản lý hoặc theo yêu cầu chỉ đạo của Lãnh đạo Chi cục. Kết quả điều chỉnh mức dự kiến doanh số này sẽ được Tổ KH-NV sử dụng để làm căn cứ tính thuế và lập sổ bộ thuế.
1.2.3.3. Xét miễn, giảm thuế.
- ĐTNT nộp đơn đề nghị miễn, giảm thuế:
Các hộ kinh doanh trong diện được miễn thuế (có mức thu nhập bình quân tháng trong năm dưới 210.000 đồng) và các hộ tạm nghỉ kinh doanh trên 15 ngày phải viết đơn đề nghị cơ quan thuế xét miễn, giảm thuế. Đơn nghỉ kinh doanh phải gửi cơ quan thuế trước ngày 5 của tháng dự kiến nghỉ. Trường hợp gửi đơn chậm so với thời hạn quy định vì các lý do khách quan sẽ được cơ quan thuế xem xét giảm thuế trong kỳ thuế tiếp sau.
Đội thuế tập hợp đơn nghỉ và đơn đề nghị miễn thuế để chuyển danh sách đơn cho tổ kiểm tra của Chi cục. Tổ kiểm tra lập kế hoạch kiểm tra lại cơ sở trình lãnh đạo duyệt, sau đó tổ chức kiểm tra tại cơ sở.
- Kiểm tra, giải quyết đơn đề nghị miễn, giảm thuế.
Tổ kiểm tra chi cục phối hợp với các đội thuế tổ chức tiến hành kiểm tra các hộ có đơn nghỉ kinh doanh. Sau khi kiểm tra, tổ kiểm tra phải lập danh sách các hộ thực nghỉ kinh doanh theo mẫu số 05/NQD gửi Tổ KH-NV trước ngày 10 của tháng để tính thuế. Trường hợp ĐTNT có đơn nghỉ kinh doanh trước ngày mùng 5 nhưng thời gian nghỉ bắt đầu từ giữa hoặc cuối tháng, hoặc các hộ nghỉ vì các lý do đột xuất ngoài dự kiến thì đội thuế lập danh sách thông báo cho Tổ KH-NV để tính giảm thuế, đồng thời gửi danh sách cho Tổ kiểm tra để tiến hành kiểm tra sau. Các tháng trước hoặc sau Tết nguyên đán, nếu số hộ có đơn nghỉ kinh doanh quá nhiều, tổ kiểm tra không kiểm tra xong trước ngày 10 thì Tổ kiểm tra phải lập danh sách các hộ đã kiểm tra và chưa kiểm tra cho Tổ KH-NV để tính giảm thuế, sau đó tiếp tục tiến hành kiểm tra sau và thông báo kết quả kiểm tra cho Tổ KH-NV.
Tổ kiểm tra phối hợp với các đội thuế kiểm tra xác minh thu nhập thực tế đạt được trong quá trình kinh doanh của đối tượng nộp thuế có đơn đề nghị miễn thuế. Sau đó, chuyển kết quả kiểm tra cho Tổ KH-NV. Tổ KH-NV xem xét các trường hợp đề nghị miễn thuế, kết quả kiểm tra đối chiếu với các quy định trong chính sách, chế độ về miễn thuế. Nếu thủ tục hợp lệ và đúng diện được miễn thuế thì Tổ KH-NV làm thủ tục trình lãnh đạo Chi cục quyết định. Kết quả duyệt sẽ được chuyển về Tổ KH-NV để điều chỉnh miễn thuế. Đội thuế phải quản lý biến động về hoạt động kinh doanh của các đối tượng trong thời gian miễn thuế để phát hiện kịp thời các đối tượng có thay đổi thu nhập kinh doanh tăng vượt quá mức được miễn thuế để yêu cầu đưa các đối tượng này vào diện nộp thuế.
1.2.3.4. Tính thuế, lập sổ bộ thuế.
- Tập hợp các căn cứ tính thuế:
Tổ KH-NV thu thập danh sách dự kiến doanh số ấn định của các hộ mới ra kinh doanh và các hộ dự kiến điều chỉnh doanh số ấn định; danh sách hộ miễn thuế, hộ nghỉ kinh doanh để điều chỉnh sổ bộ thuế cho kỳ thuế tới; danh sách các hộ tiếp tục ổn định thuế để làm căn cứ tính thuế cho kỳ thuế tới.
- Tính thuế, tính nợ và phạt (nếu có) và lập sổ bộ thuế:
+ Đối với các hộ còn trong thời hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV thực hiện chuyển sổ, giữ nguyên mức doanh số, thuế và tính tiền nợ, tiền phạt (nếu có) ngay từ đầu tháng, sau đó, thực hiện in thông báo thuế ngay Tổ KH-NV chịu trách nhiệm về độ chính xác về việc tính nợ, phạt nộp chậm.
+ Đối với các hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV căn cứ vào bảng dự kiến doanh số ấn định của từng hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế (nếu có), dựa vào bảng tỷ lệ GTGT, bảng tỷ lệ thu nhập chịu thuế và thuế suất ... để tính thuế cho từng hộ này. Đồng thời tính nợ thuế và phạt nộp chậm (nếu có) đối với các hộ hết hạn ổn định.
Tính phạt: Tổ KH-NV và Tổ kiểm tra Chi cục qua theo dõi việc nộp thuế của các hộ đề xuất danh sách các hộ phạt hành chính thuế. Dự thảo quyết định phạt hành chính thuế trình Lãnh đạo Chi cục duyệt. Quyết định phạt được duyệt sẽ chuyển tổ Hành chính sao 3 bản: gửi ĐTNT 1 bản, lưu tại tổ Hành chính 1 bản, gửi Tổ KH-NV 1 bản để điều chỉnh số thuế phải nộp trong kỳ lập bộ.
Tổ KH-NV tính phạt nộp chậm 0,1% đối với các hộ nộp tiền thuế chậm theo đúng chế độ quy định.
- Tổ chức duyệt sổ bộ thuế.
Tổ KH-NV lập sổ bộ thuế của các ĐTNT mới phát sinh trình Lãnh đạo Chi cục duyệt. Riêng tháng lập bộ có cả các hộ hết hạn ổn định thuế sổ bộ thuế phải đưa ra Hội đồng duyệt bộ của Chi cục xem xét. Nội dung duyệt bộ gồm các việc như: số hộ ghi sổ bộ thuế (hộ mới phát sinh, hộ hết hạn ổn định thuế), mức doanh số và thuế của từng hộ, xác định thời hạn ổn định thuế cho từng hộ, xem xét các trường hợp đề nghị miễn thuế, nghỉ kinh doanh, kết quả kiểm tra hộ miễn thuế và nghỉ kinh doanh ... Sau khi Hội đồng duyệt bộ thuế xem xét cho ý kiến, Tổ KH-NV điều chỉnh lại sổ bộ thuế và trình Lãnh đạo Chi cục duyệt và chuyển trả Tổ KH-NV. Việc duyệt sổ bộ thuế phải xong trước ngày 17.
- Công khai thuế:
Sau khi lãnh đạo duyệt sổ bộ thuế, các đội thuế thực hiện niêm yết công khai hoá mức thuế của các hộ này tại trụ sở UBND phường, các tổ ngành hàng để các ĐTNT được biết.
- Thông báo thuế:
Từ ngày 17 đến ngày 22, Tổ KH-NV căn cứ vào sổ bộ đã được duyệt để tiến hành in thông báo thuế trên máy tính.
Thông báo thuế ghi đầy đủ mã số ĐTNT, số thuế nợ tháng trước chuyển qua, số thuế phải nộp tháng này, địa điểm nộp thuế và các chỉ tiêu khác. Thời hạn nộp thuế ghi trên thông báo chậm nhất là ngày cuối tháng, thông báo thuế được gửi đến ĐTNT chậm nhất trước 3 ngày so với thời hạn ghi trên thông báo.
Thông báo thuế được Lãnh đạo Chi cục ký và chuyển Tổ Hành chính đóng dấu. Liên thông báo chính chuyển cho các đội thuế để đưa trực tiếp tới hộ kinh doanh. Liên 2 chuyển Tổ KH-NV lưu.
- Công tác kiểm tra:
Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp, giám sát quá trình tính thuế, lập bộ để kịp thời phát hiện các trường hợp có hiện tượng trốn lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra tại cơ sở.
1.2.3.5. Xử lý tờ khai.
- ĐTNT lập tờ khai thuế:
+ Hộ nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT phải lập và gửi tờ khai thuế GTGT chậm nhất là ngày 10 hàng tháng, lập và gửi tờ khai thuế TNDN của năm chậm nhất ngày 25 tháng 1 hàng năm.
+ Hộ kê khai theo phương pháp trực tiếp trên doanh số bán ra thì lập và gửi tờ khai thuế GTGT và TNDN theo tháng. Hạn nộp tờ khai thuế GTGT chậm nhất là 10 ngày, thuế TNDN là ngày 5 hàng tháng.
- Nhận và kiểm tra tờ khai:
Đội thuế nhận tờ khai thuế từ các hộ kinh doanh. Ghi sổ theo dõi việc nhận tờ khai theo mẫu sổ số 06/NQD. Sau đó tiến hành kiểm tra tờ khai để phát hiện các lỗi như:
+ Ghi sai trên ĐTNT.
+ Không ghi mã số thuế.
+ Khai thiếu chỉ tiêu hoặc sai mẫu tờ khai.
+ áp thuế suất sai, tính toán sai.
+ Các chỉ tiêu bằng ngoại tệ chưa quy đổi ra tiền Việt.
Nếu phát hiện lỗi, đội thuế cử cán bộ trực tiếp liên hệ với ĐTNT để chỉnh sửa lỗi. Thông qua kiểm tra tờ khai, bằng kinh nghiệm quản lý của mình, nếu cán bộ quản lý thu còn phát hiện ra các nghi ngờ về việc kê khai thuế thì phải đánh dấu là tờ khai có nghi ngờ cần kiểm tra sau.
Sau khi kiểm tra tờ khai thuế, đội thuế phân loại và đóng tệp tờ khai theo ngày kiểm tra.
Đối với các trường hợp nghi ngờ kê khai không đúng, đội thuế chuyển tổ kiểm tra đề nghị kiểm tra thực tế. Kết quả kiểm tra phải được lập biên bản và gửi Tổ KH-NV làm căn cứ tính thuế ấn định.
- ấn định thuế:
Tổ KH-NV qua việc lập sổ thuế, đối chiếu với danh bạ ĐTNT kê khai Chi cục đang quản lý để lập danh sách các ĐTNT trong diện nộp thuế kê khai chưa nộp tờ khai thuế hoặc nộp tờ khai nhưng phải kiểm tra lại do khai không đúng hoặc thiếu chỉ tiêu, không đủ căn cứ tính thuế để thực hiện ấn định doanh số và thuế. Việc ấn định được xác định qua điều tra doanh số và số thuế tương đương với các ĐTNT khác có cùng quy mô và ngành nghề kinh doanh.
Nếu sau khi đã phát hành thông báo thuế, ĐTNT mới nộp tờ khai, thì cơ quan thuế không sửa lại số liệu đã ấn định thuế. Đội thuế chuyển tờ khai nộp chậm cho Tổ KH-NV. Tổ KH-NV so sánh số thuế kê khai trên tờ khai với thông báo thuế đã phát hành. Số thuế chênh lệch sẽ được tính điều chỉnh vào số thuế phải nộp của kỳ thuế tiếp sau.
- Tính thuế, tính nợ, tính phạt và lập sổ bộ thuế:
Tổ KH-NV căn cứ vào tờ khai thuế, danh sách thuế ấn định, các kết quả kiểm tra, quyết định phạt hành chính… để tiến hành tính thuế, tính nợ kỳ trước chuyển sang và tính phạt nộp chậm tiền thuế. Sau đó lập sổ bộ thuế. Tờ khai sau khi được xử lý lưu tại Tổ KH-NV (3 năm).
- Thông báo thuế:
+ Thông báo thuế lần 1:
Tổ KH-NV tiến hành in thông báo thuế. Hạn in thông báo thuế lần một là ngày 18 hàng tháng đối với thuế GTGT và ngày 15 tháng thứ ba của quý đối với thuế TNDN. Tính thuế ngày nào viết thông báo thuế ngay trong ngày đó. Hạn nộp thuế ghi trên thông báo thuế có thể sau ngày thông báo từ 4 đến 7 ngày.
+ Thông báo thuế lần 2:
Qua theo dõi thu nộp của ĐTNT, Tổ KH-NV lựa chọn ĐTNT cần phát hành thông báo thuế lần 2. Số tiền trong thông báo lần 2 gồm: số tiền thuế chưa hợp và số tiền phạt của số thuế nộp chậm.
+ Ký và gửi thông báo thuế:
Thông báo thuế được Lãnh đạo Chi cục thuế ký. Sau đó chuyển Tổ Hành chính sao 2 bản, đóng dấu và gửi 1 bản cho ĐTNT, 1 bản chuyển Tổ KH-NV lưu (thời hạn 3 năm).
- Phạt hành chính thuế:
Trong quá trình quản lý thu, nếu phát hiện ĐTNT vi phạm quy định về phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực thuế, đội thuế hoặc Tổ Kiểm tra Chi cục đề xuất và dự thảo quyết định phạt hành chính thuế trình Lãnh đạo Chi cục duyệt. Quyết định phạt sao 3 bản: Gửi ĐTNT 1 bản, chuyển Tổ KH-NV 1 bản để theo dõi việc thu nộp, Tổ Hành chính lưu 1 bản.
- Lập lệnh thu:
Tổ KH-NV phối hợp với đội thuế và Tổ Kiểm tra Chi cục lập danh sách ĐTNT hộ thuế lớn, kéo dài nhiều tháng để đề nghị lập lệnh thu trình lãnh đạo duyệt.
Tổ KH-NV lập lệnh thu trước ngày 5 hàng tháng theo danh sách lãnh đạo duyệt và trình lãnh đạo ký lệnh thu, sau đó chuyển lệnh thu cho tổ hành chính sao 3 bản, đóng dấu, gửi ĐTNT 1 bản, lưu hành chính 1 bản và chuyển Tổ KH-NV 1 bản để theo dõi việc trích chuyển tài khoản của ĐTNT.
Lệnh thu bao gồm thuế nợ, tiền phạt các tháng trước, không bao gồm số thuế phát sinh phải nộp trong tháng phát hành lệnh thu. Nếu đến kỳ thuế tháng sau, lệnh thu vẫn chưa được thực hiện thì số nợ và phạt trên lệnh thu sẽ được đưa vào sổ bộ thuế theo dõi tiếp và thông báo thuế sẽ bao gồm cả số nợ và phạt ghi trong lệnh thu.
Trường hợp lệnh thu không được thực hiện và ĐTNT vi phạm Luật thuế với tình tiết nặng tổ kiểm tra có trách nhiệm lập hồ sơ chuyển cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để truy tố theo pháp luật.
- Công tác kiểm tra.
Tổ Kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp thuế để lựa chọn các ĐTNT trong diện kê khai cần kiểm tra tại cơ sở. Lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo duyệt và tiến hành kiểm tra tại cơ sở kinh doanh.
- Quyết toán thuế:
Hộ kê khai lập quyết toán thuế và nộp cơ quan thuế chậm nhất là 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch. Đội thuế nhận quyết toán, kiểm tra thủ tục kê khai trên tờ quyết toán, sau đó chuyển quyết toán cho Tổ KH-NV xem xét để xác định số thuế phải nộp và thực nộp trong năm, số thuế nộp thừa, nộp thiếu… Trong quá trình xem xét, nếu phát hiện nghi ngờ về tờ khai quyết toán, Tổ KH-NV thông báo cho Tổ Kiểm tra xác minh tại cơ sở. Kết quả xác định sẽ được Tổ KH-NV điều chỉnh số thuế trong kỳ thuế hiện tại.
1.2.3.6. Xử lý giấy nộp tiền, lập báo cáo kế toán - thống kê thuế.
- Nộp thuế:
ĐTNT căn cứ vào thông báo thuế để nộp thuế. Có 2 trường hợp nộp thuế:
+ Đối với hộ kê khai và hộ kinh doanh không xa địa điểm nộp thuế thì khi nhận được thông báo thuế, ĐTNT viết giấy nộp tiền và nộp tiền thuế vào Kho bạc hoặc Ngân hàng nơi ĐTNT mở tài khoản. Căn cứ vào thời hạn nộp thuế trên thông báo, Chi cục Thuế thống nhất với Kho bạc tổ chức các điểm và lịch thu tiền.
+ Đối với hộ kinh doanh ở xa địa điểm nộp thuế hoặc có hoàn cảnh đi lại khó khăn thì cán bộ thuế trực tiếp thu thuế theo thông báo thuế và viết biên lai thu tiền. Sau khi thu tiền, cán bộ thuế thực hiện thanh toán biên lai, đồng thời, nhận giấy nộp tiền và nộp tiền thuế vào kho bạc.
- Thu thuế tại kho bạc:
Kho bạc thu tiền thuế của ĐTNT trực tiếp và của cán bộ thuế thu bằng biên lai thuế; Ngân hàng thực hiện trích chuyển tài khoản của các ĐTNT nộp thuế qua Ngân hàng. Kho bạc ghi ngày nộp tiền, số tiền nộp theo đúng chương loại, khoản mục, xác nhận vào giấy nộp tiền và chuyển một liên cho cơ quan thuế.
- Theo dõi tình hình nộp thuế (chấm bộ thuế):
Tổ KH-NV hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ kho bạc. Căn cứ vào số liệu trên giấy nộp tiền để chấm sổ bộ thuế, theo dõi tình hình nộp thuế và nợ đọng thuế của các ĐTNT.
Cuối ngày, Tổ KH-NV lập báo cáo số thu trình Lãnh đạo Chi cục và cung cấp cho các đội thuế và Tổ kiểm tra để thực hiện nhiệm vụ nhắc nhở, đôn đốc hoặc kiểm tra các ĐTNT chưa nộp hoặc nộp thiếu tiền thuế. Hàng tháng Tổ KH-NV có trách nhiệm đối chiếu số thuế thu trên sổ bộ với số thuế thanh toán trên biên lai thu để phát hiện các trường hợp đã thanh toán biên lai, đã viết giấy nộp tiền nhưng chưa nộp tiền thuế vào kho bạc.
- Kiểm tra các ĐTNT nợ đọng thuế:
Qua việc theo dõi tình hình thu nộp thuế, Tổ Kiểm tra phối hợp với các đội thuế lựa chọn các ĐTNT nợ đọng thuế lớn, nợ kéo dài hoặc nghi ngờ về trốn lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra.
- Thẩm hạch biên lai:
Tổ KH-NV hàng tháng tổ chức thẩm hạch biên lai theo phương pháp chọn điểm, chọn địa bàn hoặc chọn ĐTNT … nhằm phát hiện biên lai giả, biên lai tẩy xoá, cạo sửa, số tiền trên các liên của cùng một số biên lai không bằng nhau.
- Lập báo cáo kế toán, thống kê:
Theo kỳ hạn quy định, Tổ KH-NV lập các báo cáo kế toán, thống kê theo chế độ để gửi Lãnh đạo Chi cục và cấp trên để phục vụ cho công tác chỉ đạo thu.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Thành công của công tác quản lý thu thuế phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố:
Nhân tố trước hết phải kể đến đó là hệ thống chính sách thuế. Để cho các ĐTNT tự giác chấp hành nghĩa vụ của mình, thì bản thân họ phải hiểu rõ về luật thuế đó, phải tự tính ra được số thuế mà họ phải nộp và số thuế này nằm trong khả năng đóng góp của họ. Do đó, mỗi luật thuế phải có nội dung đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, mang tính phổ thông, phù hợp với trình độ chung của cả người nộp thuế và người quản lý và quan trọng là các mức thuế suất phải được tiến hành trên sự phân tích khoa học, toàn diện để tìm ra được những đáp số phù hợp nhất, sẽ tăng được tính hiệu quả của công tác quản lý thu thuế.
Một hệ thống chính sách thuế và cơ cấu thuế suất hợp lý nhưng tổ chức và cơ chế quản lý thu thuế kém sẽ không đạt được hiệu quả cao.
Mục tiêu của công tác quản lý thu thuế và tập trung huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho Ngân sách Nhà nước trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Sự tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế của các ĐTNT là điểm mấu chốt để thực hiện mục tiêu đó.
Trình độ và trách nhiệm của cán bộ quản lý thuế có ý nghĩa quyết định đến kết quả công tác quản lý thuế và họ là người trực tiếp làm nhiệm vụ.
Phương tiện làm việc, chế độ lương bổng, chế độ khen thưởng, kỷ luật cũng là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế.
Chương II
Thực trạng công tác quản lý thu thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể
tại chi cục thuế quận hai bà trưng
2.1. Đặc điểm tình hình hoạt động của hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận hai bà trưng.
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm, phía Đông giáp sông Hồng - Gia Lâm, phía Tây giáp quận Đống Đa và Thanh Xuân, phía Nam giáp huyện Thanh Trì. Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, địa bàn quận thấp, có nhiều hồ, ao, sông, mương - đã từ lâu là hệ thống thoát nước của thành phố, có cảng phà Đen cùng hệ thống đường bộ qua các cửa ô đã nối liền Hà Nội với các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh phía Nam của Tổ quốc.
Quận Hai Bà Trưng có dân số khoảng 360,9 ngàn người, diện tích gần 15 km2 gồm 25 phường. Toàn quận có 364 đơn vị quốc doanh Nhà nước; 1453 công ty TNHH; tổ sản xuất; hợp tác xã; công ty cổ phần; 6 chợ lớn, 9 chợ vừa và trên 20 chợ tạm, 3 trường đại học lớn: Kinh tế Quốc dân, Bách Khoa, Xây Dựng và 96 trường từ mầm non đến trung học cơ sở; 5 bệnh viện lớn: Việt Xô, 108, Mắt, Thanh Nhàn, bệnh viện Đường sắt và 34 cơ sở của các trung tâm y tế; cùng nhiều khu trung tâm vui chơi giải trí: Công viên Lê Nin, Hồ Thiền Quang, Bể bơi Tăng Bạt Hổ … Điều đó cho thấy hoạt động sản xuất, kinh doanh của quận diễn ra khá sầm uất.
Trong các loại hình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn quận, các hộ cá thể là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Hiện nay, trên toàn bộ quận có 13.600 hộ cá thể phân bố rải rác trên khắp các phường, chợ. Trong số 25 phường, Ngô Thì Nhậm là phường có số hộ kinh doanh cao nhất 655 hộ, thấp nhất là phường Hoàng Văn Thụ có 174 hộ. Trong 6 chợ lớn là: chợ Đồng Tâm, chợ Mai động, chợ Hôm, chợ Trương Đình, chợ Mơ và chợ Hoà Bình thì chợ Mơ có số lượng tư thương cao nhất với 519 hộ. Các hộ kinh doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề thương mại, dịch vụ, ăn uống, tiểu thủ công nghiệp vì đây là các ngành, lĩnh vực có thị trường lớn, đòi hỏi vốn đầu tư không nhiều, phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp của phần đông các hộ, khả năng quay vòng vốn nhanh, hạn chế được rủi ro, tỷ suất lợi nhuận cao (trong khi lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác thì cạnh tranh lớn, rủi ro cao, thị trường hẹp …), phù hợp với triết lý khá phổ biến của các hộ "vốn ít, lãi nhiều, quay vòng nhanh, rủi ro thấp". Sự tập trung của các hộ kinh doanh vào các lĩnh vực thương mại - dịch vụ đã góp phần đáp ứng được nhiều nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy trở lại đối với sản xuất. Với sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn quy mô, các hộ kinh doanh đã đóng góp một phần đáng kể vào tổng thu Ngân sách Nhà trước trên địa bàn quận. Hàng năm, số thu từ hộ kinh doanh thường chiếm khoảng trên 50% trong tổng thu Ngân sách Nhà nước và ngày một tăng qua các năm. Song, với một số lượng lớn hộ kinh doanh đó đã khiến cho công tác quản lý thu thuế trở nên vô cùng phức tạp và bộc lộ nhiều hạn chế.
2.2. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế tại chi cục thuế hai bà trưng.
Chi cục Thuế quận Hai Bà Trưng được thành lập theo Quyết định số 315 ngày 21/8/1990 của Bộ Tài chính về việc thành lập Chi cục Thuế Nhà nước.
Nằm trong hệ thống thu thuế Nhà nước, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, chịu sự lãnh đạo song trùng của Cục Thuế Hà Nội và UBND Quận Hai Bà Trưng, có chức năng trực tiếp tổ chức công tác thu thuế trên địa bàn quận với nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể là:
ã Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, hàng quý, hàng tháng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
ã Thực hiện các nghiệp vụ thu thuế và thu khác đối với các ĐTNT, đối tượng chịu thuế theo đúng quy định của Nhà nước: tính thuế, lập sổ thuế, thông báo số thuế phải nộp, phát hành các lệnh thu về thuế và thu khác, đôn đốc thực hiện nộp đầy đủ, kịp thời mọi khoản thu vào Kho bạc Nhà nước, xem xét và đề nghị miễn giảm thuế thuộc thẩm quyền và thực hiện quyết toán thuế.
ã Kiểm tra và xử lý các vi phạm chính sách, chế độ thuế, vi phạm kỷ luật trong nội bộ ngành, giải quyết đơn thư khiếu nại theo thẩm quyền.
ã Thống kê, kế toán, thông tin và báo cáo tình hình kết quả thu nộp thuế.
Hiện nay toàn Chi cục có 238 cán bộ công chức (221 trong biên chế, 17 hợp đồng).
- Cán bộ công chức nam : 67 người.
Cán bộ công chức nữ : 171 người.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
+ Đại học : 17 người.
+ Trung học : 195 người.
+ Sơ cấp : 11 người.
- Trình độ lý luận chính trị:
+ Cao cấp : 1 người.
+ Trung cấp : 4 người.
Bộ máy quản lý thu thuế của Chi cục bao gồm các bộ phận sau:
2.2.1. Ban Lãnh đạo.
Ban Lãnh đạo Chi cục gồm 5 người, trong đó:
ã Một Chi cục trưởng: Là chủ tài khoản, phụ trách chung kế hoạch thu thuế, phụ trách Tổ Thanh tra - Kiểm tra và Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ.
ã Bốn Chi cục phó: trực tiếp phụ trách các đội thuế phường, chợ, tổ nghiệp vụ và các đội thuế ở đầu mối giao thông.
2.2.2. Các tổ, đội thuế.
2.2.2.1. Tổ Nghiệp vụ:
- Xây dựng chương trình, biện pháp triển khai quản lý thu thuế, hướng dẫn việc thực hiện chính sách thuế và các biện pháp nghiệp vụ hành thu.
- Hướng dẫn, giải thích những vướng mắc của ĐTNT trong quá trình thi hành luật và các quy định về thuế của Nhà nước.
- Điều tra tình hình sản xuất của các ĐTNT để có kế hoạch điều chỉnh doanh thu và mức thuế của các hộ, đảm bảo cân đối giữa các địa bàn. Rà soát các căn cứ tính thuế của ĐTNT do các đội thuế gửi lên.
- Tham gia với Tổ Kế hoạch, tính thuế, lập bộ và kế toán để xây dựng dự toán thu.
- Tham gia với Tổ Thanh tra - Kiểm tra trong việc thanh tra, kiểm tra ĐTNT và các đội thuế trong việc thực hiện quy trình thu.
2.2.2.2. Tổ Kế hoạch - tính thuế - lập bộ thuế và kế toán thu:
- Chủ trì trong việc lập dự toán thu, theo dõi tình hình thực hiện dự toán thu thuế hàng tháng, quý, năm.
- Lập sổ danh bạ ĐTNT, tổng hợp danh sách ĐTNT xin cấp mã số ĐTNT từ các đội thuế chuyển đến để trình lên Cục Thuế, thông báo mã ĐTNT được cấp.
- Lập bộ thuế, xử lý tờ khai thuế, tính thuế, tính nợ, tính phát hoặc ấn định thuế, phát hành thông báo thuế.
- Kế toán và theo dõi số thu nộp, thực hiện thống kê thuế.
- Xem xét quyết toán thuế của các ĐTNT kê khai, xác định số thuế phải nộp và thực nộp trong năm, số thuế nộp thừa hoặc nộp thiếu để đưa vào thông báo thuế tiếp theo.
- Thẩm hạch biên lai thuế.
- Cung cấp các thông tin cần thiết cho các Tổ nghiệp vụ, Thanh tra và các đội thuế phục vụ cho công tác quản lý thu.
2.2.2.3. Tổ Thanh tra - Kiểm tra:
- Thực hiện kiểm tra các ĐTNT có đơn xin nghỉ kinh doanh, kiểm tra các tờ khai, hồ sơ quyết toán thuế có nghi ngờ do đội thuế hoặc tổ kế hoạch chuyển đến.
- Thanh tra, kiểm tra cán bộ thuế trong việc thực thi chính sách thuế, các biện pháp nghiệp vụ hành thu …
- Xử lý các trường hợp vi phạm về thuế, giải quyết các khiếu nại về thuế theo thẩm quyền.
2.2.2.4. Tổ Quản lý ấn chỉ:
- Tổ chức kế toán nhập, xuất tất cả các loại ấn chỉ thuế, cấp phát và bán hoá đơn, tờ khai thuế cho ĐTNT.
- Mở sổ sách theo dõi quản lý, thanh toán biên lai thuế với từng cán bộ thuế.
- Theo dõi quản lý và kiểm tra các đối tượng sử dụng hoá đơn, chứng từ trên địa bàn, phối hợp với các bộ phận chức năng để kiểm tra, xác minh biên lai thuế, hoá đơn, chứng từ, phòng chống và ngăn chặn việc mua, bán, sử dụng hoá đơn, chứng từ giả, bất hợp pháp.
- Hướng dẫn các đối tượng sử dụng biên lai thuế, hoá đơn, chứng từ … thực hiện đúng việc ghi chép, quản lý sử dụng theo đúng quy định của Nhà nước.
- Thanh huỷ ấn chỉ thuế hết hạn sử dụng theo quy định.
2.2.2.5. Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ:
- Thực hiện công tác quản lý cán bộ.
- Quản lý kinh phí chi tiêu của Chi cục.
- Thực hiện các công tác khác có liên quan đến cán bộ công chức, hành chính và tài vụ cơ quan.
2.2.2.6. Các Đội thuế phường, chợ:
- Tổ chức quản lý thu thuế các đối tượng được phân công.
- Tham gia với tổ kế hoạch để xây dựng dự toán thu thuế.
Chi cục có 19 đội thuế phường, chợ. Cụ thể:
Tư doanh 1 : Ngô Thì Nhậm
Tư doanh 2 : Nguyễn Du
Tư doanh 3 : Huế
Tư doanh 4 : Đồng Tâm + Giáp Bát
Tư doanh 5 : Đồng Nhân + Đông Mác
Tư doanh 6 : Bùi Thị Xuân
Tư doanh 7 : Tân Mai + Tương Mai
Tư doanh 8 : Vĩnh tuy + Mai Động
Tư doanh 9 : Trương Định
Tư doanh 10 : Minh Khai + Hoàng Văn Thụ
Tư doanh 11 : Bách Khoa + Cầu Dền
Tư doanh 12 : Chợ Hôm - Đức Viên
Tư doanh 13 : Chợ Mơ + Chợ Trương Định
Tư doanh 14 : Phạm Đình Hổ
Tư doanh 15 : Thanh Lương + Bạch Đằng
Tư doanh 16 : Quỳnh Mai + Thanh Nhàn
Tư doanh 17 : Lê Đại Hành
Tư doanh 18 : Bạch Mai + Quỳnh Lôi
Tư doanh 19 : Chợ Hoà Bình
Công tác tổ chức và cán bộ có ý nghĩa quyết định đến kết quả triển khai nhiệm vụ của Chi cục. Vì vậy, trong những năm qua, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng luôn thực hiện nghiêm túc thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về cơ cấu bộ máy Chi cục Thuế. Và đội ngũ cán bộ cũng ngày càng được củng cố và kiện toàn cho phù hợp hơn với nhiệm vụ thu thuế của Chi cục trong từng thời kỳ.
2.3. Tình hình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể thời gian qua.
Các hộ kinh doanh cá thể là đối tượng quản lý chủ yếu cả về mặt số lượng lẫn giá trị tiền thuế ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng. Để đánh giá một cách toàn diện tình hình quản lý thu thuế hộ kinh doanh trên địa bàn quận, ta đi sâu tìm hiểu các nội dung sau:
ã Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế.
ã Tình hình quản lý doanh thu.
ã Tình hình đôn đốc thu nộp thuế.
ã Tình hình triển khai kế toán hộ kinh doanh.
2.3.1. Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế (ĐTNT).
Mục tiêu của công tác quản lý ĐTNT là phấn đấu đưa 100% đối tượng có thực tế kinh doanh bao gồm cả kinh doanh cố định, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ vào diện quản lý thu thuế và chấm dứt tình trạng thất thu về ĐTNT. Mục tiêu này tưởng chừng như đơn giản thông qua việc cấp mã số thuế, nhưng thực tế có những vướng mắc nhất định.
Tình hình quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận được thể hiện trên biểu số liệu sau:
Biểu 1: Tình hình quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể.
Năm
Số hộ điều tra thống kê
Số hộ có mã số thuế
Số hộ quản lý
Số hộ mới đưa vào quản lý
Số hộ thu thuế môn bài
Số hộ ghi thu GTGT + TNDN hàng tháng
Hộ
Thuế
2000
13.532
11.779
10.836
7.941
1.671
300.085.000
2001
13.668
11.956
10.950
7.983
1.430
198.000.000
2002
13.606
11.970
11.054
8.120
1.067
636.565.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Những số liệu trong biểu trên cho thấy: Trong những năm qua Chi cục đã có nhiều cố gắng trong quản lý số hộ kinh doanh, thể hiện:
- Thông qua công tác cấp mã số thuế cho các hộ kinh doanh, hàng năm Chi cục đã đưa thêm được nhiều hộ vào quản lý thu thuế:
+ Năm 2000, Chi cục đưa thêm 1671 hộ, số thuế 300.085.000 đồng.
+ Năm 2001, Chi cục đưa thêm 1430 hộ, số thuế 198.000.000 đồng.
+ Năm 2002, có 1067 hộ được đưa thêm với số thuế 636.565.000 đồng.
Do đó số hộ có sản xuất kinh doanh được đưa vào diện quản lý thu thuế đều đã tăng qua các năm:
+ Năm 2001 tăng 177 hộ so với năm 2000.
+ Năm 2002 tăng 14 hộ so với năm 2001 và tăng 191 hộ so với năm 2000.
- Số hộ kinh doanh đã quản lý thu thuế (thuế môn bài, thuế GTGT + TNDN) cũng đều năm sau tăng hơn năm trước:
+ Số hộ thu thuế môn bài năm 2001 đã tăng 144 hộ so với năm 2000 và năm 2002 tăng 104 hộ so với năm 2001.
+ Số hộ ghi thu thuế GTGT + TNDN năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 42 hộ, sang năm 2002 lại có 137 hộ tăng hơn năm 2001.
- Bên cạnh các nguồn thu có tính chất thường xuyên, cố định trên địa bàn, Chi cục cũng chú trọng đến công tác khai thác các nguồn thu khác như: thu cho thuê nhà, thuê cửa hàng, thu xây dựng, trông giữ xe đạp, xe máy … Trong năm 2002, Chi cục đã thu của 2.136 lượt hộ có nhà cho thuê để ở với số thuế 11.803.728.000 đồng; 2412 lượt hộ kinh doanh vãng lai, vỉa hè với số thuế 102.168.000 đồng; 24 hộ xây dựng nhà với số thuế 10.932.000 đồng …
Mặc dù vậy, công tác quản lý số hộ kinh doanh trên địa bàn quận vẫn còn thất thu lớn. Nhìn vào số liệu trong biểu 1 ta thấy:
- Số hộ quản lý thu thuế môn bài chỉ bằng 80% - 81% số hộ thực tế kinh doanh, so với số hộ được cấp mã số thuế cũng còn chênh lệch lớn:
+ Năm 2000 chênh lệch là 943 hộ.
+ Năm 2001 chênh lệch tới 1006 hộ.
+ Năm 2002 có chênh lệch là 916 hộ.
- Số hộ quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN hàng tháng của Chi cục cũng chỉ đạt 72% - 73% so với hộ quản lý môn bài.
- Trong khi đó, số hộ có thực tế kinh doanh nhưng chưa được cấp mã số thuế lại tương đối cao:
+ Năm 2000, số hộ chưa được cấp mã số thuế là 1753 hộ.
+ Năm 2001, còn 1712 hộ chưa được đưa vào diện quản lý thu thuế.
+ Năm 2002, số này là 1636 hộ.
ị Như vậy, số hộ kinh doanh thuộc diện phải lập bộ quản lý thu thuế nhưng chưa được lập bộ quản lý thu chiếm 13% - 14% tổng số hộ đã được lập bộ. Việc bỏ sót hộ này chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
ã Hàng năm, khi xây dựng dự toán thu, Chi cục thường lập dự toán nhỏ hơn nguồn thu nên đã để lại một số hộ dự phòng. Những hộ này thường được giấu trong bộ phụ. Nó như một kênh điều tiết cho tiến độ hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực hiện yếu, thì những hộ này sẽ được thu ráo riết như một nguồn bổ sung để hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực hiện tốt thì số thuế của những hộ này có thể được ghim lại ở người nộp thuế dưới dạng nợ thuế (thường thì không xử phạt). Bộ phụ dùng để theo dõi các hộ mới ra kinh doanh, hoạt động kinh doanh chưa ổn định, hoặc những hộ kinh doanh thời vụ như kinh doanh tết, trung thu … Về nguyên tắc, những hộ đã ra kinh doanh được 3 tháng thì phải đưa vào bộ chính không được theo dõi trên bộ phụ nữa. Những hộ kinh doanh bán thời gian thường xuyên như ăn sáng, ăn khuya, cơm trưa … đều phải theo dõi trên bộ chính. Do việc theo dõi kiểm soát bộ phụ có nhiều lỏng lẻo nên số hộ trên bộ phụ chậm được đưa vào bộ chính.
ã Cạnh đó có những hộ kinh doanh nhỏ có thu nhập thấp, theo nguyên tắc chỉ nộp thuế môn bài và thông qua việc xem xét của hội đồng tư vấn được cấp giấy miễn thuế có thời hạn, song một phần những hộ này không được làm thủ tục miễn thuế theo quy định mà được bàn giao về cho phường để thu thuế không xuất biên lai. Một số cán bộ quản lý địa bàn cũng ăn theo tách ra một số hộ coi như thuộc diện phường quản lý nhưng tự thu bỏ túi hoặc để lập quỹ trái phép. Một số cán bộ tài chính phường cũng lạm dụng bỏ ngoài ngân sách phường dùng cho cá nhân. Chi cục Thuế hoàn toàn không nắm được nguồn thu này, hoặc có biết nhưng coi đây là khoản hữu hảo cho việc xây dựng ngân sách phường và cũng là điều kiện vật chất để chính quyền phường hỗ trợ cho công tác thu thuế trên địa bàn.
ã Ngoài ra có một nguyên nhân khách quan là: số lượng hộ kinh doanh rất lớn, quy mô kinh doanh đa số là nhỏ và trải rộng trên khắp địa bàn quận, trình độ văn hoá, ý thức chấp hành pháp luật của các hộ kinh doanh còn yếu so với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nên đã có một số lượng lớn các hộ ra kinh doanh nhưng không hề đăng ký thuế cũng như kê khai thuế.
ị Tình trạng bỏ sót hộ kinh doanh không chỉ gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước mà còn gây khó khăn trong việc quản lý mã số thuế của Nhà nước, tạo sự phiền hà, tuỳ tiện trong hành xử của cán bộ thuế và các đối tượng nộp thuế.
Trong công tác quản lý ĐTNT, quản lý hộ cá thể nghỉ kinh doanh cũng được Chi cục đặc biệt chú trọng. Theo quy định hiện hành thì hộ kinh doanh nghỉ từ 15 ngày trở lên được xét giảm 50% thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được miễn nộp thuế của tháng đó. Nhìn chung, đây là một chủ trương phù hợp, tạo điều kiện giải quyết một phần khó khăn cho các hộ kinh doanh trong trường hợp vì lý do bất khả kháng phải nghỉ kinh doanh. Tuy nhiên, nếu công tác này không được làm tốt thì việc xét miễn, giảm này lại là một kẽ hở để các hộ kinh doanh lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Thực tế ở Chi cục cho thấy thời gian qua các hộ nghỉ kinh doanh vì các lý do như: nghỉ để chuyển hướng kinh doanh khác; nghỉ để sát nhập hoặc chia tách, nghỉ để di chuyển địa điểm khác; nghỉ do điều kiện kinh doanh gặp khó khăn và nghỉ vì những lý do khác. Thời điểm có nhiều hộ nghỉ nhất là dịp sau Tết nguyên đán do tình hình kinh doanh chững lại hay các hộ đi lễ hội dài ngày. Trung bình một tháng ở Chi cục có 411 hộ nghỉ kinh doanh chiếm 3,72% số hộ quản lý. Số hộ xin nghỉ này đã ảnh hưởng trực tiếp đến số thuế thu được của Chi cục: trung bình giảm 106.387.000 đồng/tháng tiền thuế. Công tác kiểm tra hộ nghỉ được đội thanh tra phối hợp với các đội thuế phường tiến hành thường xuyên. Qua kiểm tra, hàng năm Chi cục đều phát hiện được những hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế. Chi cục cũng đều đã kiên quyết xử lý truy thu và phạt đối với các hộ vi phạm này.
Bảng 2: Kết quả kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh
Năm
Số lượt hộ nghỉ kinh doanh được kiểm tra
Số hộ vi phạm
Số tiền truy thu + phạt
2001
1.425
49
15.852.000
2002
2.814
25
59.085.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
ị Như vậy, số hộ "nghỉ giả" bằng 1,73% số hộ kiểm tra, tuy không đáng kể nhưng lại gây ra thất thu thuế, không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các hộ kinh doanh, không thực hiện được yêu cầu công bằng trong chính sách động viên, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Về việc miễn thuế TNDN và không thu thuế GTGT cho các hộ thuộc diện có thu nhập thấp (dưới 210.000 đồng/tháng): Chi cục đã ra quyết định cho 2.489 hộ - bằng 21% so với hộ quản lý. Đây là một tỷ lệ lớn đòi hỏi Chi cục phải thường xuyên rà soát lại doanh thu để chuyển bớt các hộ có quy mô đã thay đổi sang diện phải quản lý thu thuế, chống thất thu Ngân sách Nhà nước.
2.3.2. Tình hình quản lý doanh thu:
Trong công tác quản lý thu thuế, để nâng cao chất lượng thu ngân sách, cơ quan thuế không chỉ tập trung quản lý tốt ĐTNT mà còn cần quản lý tốt doanh thu kinh doanh của các hộ cá thể, bảo đảm thu sát với doanh thu thực tế kinh doanh. Doanh thu của các hộ kinh doanh là cơ sở để xác định số thuế phải nộp. Việc quản lý chặt chẽ doanh thu của hộ kinh doanh, đặc biệt hộ kinh doanh lớn có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành dự toán thu, đảm bảo công bằng bình đẳng về thuế. Tuỳ theo phương pháp nộp thuế của các hộ cá thể, cơ quan thuế sẽ có biện pháp quản lý doanh thu khác nhau. Hiện nay, ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, các hộ kinh doanh nộp thuế theo 2 phương pháp là: khoán ổn định và kê khai. Cụ thể:
Biểu 3: Quản lý hộ kinh doanh theo phương pháp nộp thuế
Phương pháp nộp thuế
Số hộ quản lý
Tỷ trọng
1. Khoán ổn định:
6119
75,36%
Trong đó: - Bộ chính:
5918
- Bộ phụ:
201
2. Kê khai:
2001
24,64%
Trong đó: - Khấu trừ
53
- Kê khai doanh thu
1706
- Kê khai chênh lệch
242
Tổng cộng:
8120
100%
ị Như vậy, số đối tượng nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định là rất lớn chiếm 75,36% số hộ kinh doanh, nhiều gấp 3 lần số hộ nộp thuế theo phương pháp kê khai. Đối với các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định số thuế phải nộp dựa theo doanh số ấn định của Chi cục (thực chất là khoán doanh thu). Còn đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai, cơ sở tính thuế dựa trên doanh thu thực tế theo hoá đơn, chứng từ.
2.3.2.1. Quản lý doanh thu của hộ khoán ổn định:
Việc quản lý doanh thu của các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định rất phức tạp, để có được một mức doanh thu ấn định phải thực hiện qua nhiều bước, nhiều bộ phận cùng tham gia xem xét. Phương pháp này có ưu điểm: đơn giản trong việc tính thuế, tạo được sự ổn định cho cả đối tượng nộp thuế và Chi cục. Song nhược điểm của phương pháp này lại không nhỏ: mang tính áp đặt, thiếu sự công bằng về nghĩa vụ thuế, đặc biệt khoán doanh thu khó có thể theo sát được tình hình biến động về giá cả, về tình hình sản xuất kinh doanh của các đối tượng nộp thuế nên khó có thể thu thuế cho phù hợp với biến động của tình hình kinh doanh.
Biểu 4: Tình hình quản lý doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán
Chỉ tiêu
Bình quân tháng năm 2000
Bình quân tháng năm 2001
Bình quân tháng năm 2002
Số hộ ghi thu
6.377
6.116
6.119
Doanh thu
27.012.872.000
22.751.520.000
20.794.012.000
Thuế
955.247.600
795.080.000
731.784.000
Doanh thu bình quân 1 hộ
4.236.000
3.720.000
3.398.270
Thuế bình quân 1 hộ
149.800
130.000
119.592
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000- 2001-2002)
Hàng năm, Chi cục đã ra quyết định công bố ổn định thuế cho một số lượng lớn hộ kinh doanh, nhưng doanh thu và mức thuế của các hộ này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu và tổng số thuế của hộ kinh doanh cá thuế. Doanh thu hộ khoán bằng 19,06% doanh thu hộ cá thể và thuế thu được của hộ khoán bằng 19,23% thuế thu được của hộ cá thể. Lý do vì đối tượng nằm trong nhóm khoán doanh thu chủ yếu là những hộ kinh doanh quy mô nhỏ, doanh thu thấp.
Công tác rà soát điều chỉnh lại doanh thu, mức thuế trước khi công bố ổn định thuế được Chi cục tiến hành hàng năm.
Biểu 5: Kết quả điều chỉnh thuế
Năm
Số lượt hộ điều chỉnh
Doanh thu mới
Thuế mới
Doanh thu cũ
Thuế cũ
Doanh thu tăng
Thuế tăng
2000
2.609
4.534.426.000
1.064.759.000
4.125.745.000
1.015.870.000
408.681.000
48.889.000
2001
1.237
1.612.278.000
367.046.000
1.293.597.000
332.906.000
318.681.000
34.140.000
2002
1.044
1.585.092.000
342.756.000
1.267.620.000
310.764.000
317.472.000
31.992.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Tuy vậy, công tác này ở Chi cục vẫn chưa được quan tâm đúng mức: số lượt hộ tiến hành điều chỉnh còn quá thấp so với số hộ công bố ổn định thuế, còn nhiều hộ từ 2-3 năm nay vẫn chưa xem xét lại mức doanh thu và mức thuế nên nhìn chung mức doanh thu khoán hiện nay thấp hơn doanh thu thực tế kinh doanh.
Biểu 6: Kết quả điều tra doanh thu một số hộ khoán
Ngành nghề
Số hộ điều tra
Doanh thu khoán
Doanh thu điều tra
Chênh lệch
% khoán / điều tra
Sản xuất
50
442.750.000
527.083.000
84.333.000
84%
Dịch vụ
50
183.100.000
244.133.000
61.033.000
75%
Ăn uống
80
322.400.000
1.007.500.000
685.100.000
32%
Thương mại
120
672.000.000
840.000.000
168.000.000
80%
Tổng
300
1.620.250.000
2.618.716
998.466.000
61,87%
(Nguồn: Báo cáo điều tra doanh thu hộ khoán)
Kết quả điều tra điển hình 300 hộ kinh doanh ở các ngành nghề khác nhau cho thấy chênh lệch giữa doanh thu khoán và doanh thu điều tra là tương đối lớn 998.466.000 đ/300 hộ, doanh thu khoán chỉ đạt 61,87% doanh số điều tra, cá biệt ở ngành ăn uống tỷ lệ này chỉ là 32% (chưa kể đến doanh thu thực tế kinh doanh của các hộ có thể lớn hơn doanh thu điều tra). Như vậy, tình trạng thất thu doanh thu khoán trên địa bàn quận vẫn còn nhiều và phổ biến ở tất cả các ngành nghề.
Tình hình trên đã dẫn đến số thuế ghi thu loại hộ thu khoán bình quân tháng / 2002 đã giảm so với bình quân tháng năm 2001 và giảm nhiều so với bình tháng / 2000 (như biểu 4).
2.3.2.2. Quản lý doanh thu của hộ kê khai:
Các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai sẽ được nộp thuế tuỳ thuộc thực tế kết quả kinh doanh, không phải ấn định doanh thu tính thuế. Với loại hộ này, đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải kê khai và xác định đúng số thuế phải nộp và chịu trách nhiệm về số liệu đã kê khai theo quy định của pháp luật. Cơ quan thuế chỉ phải kiểm tra, giám sát quá trình ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn, chứng từ dùng làm căn cứ tính thuế của các hộ kinh doanh.
Bài 7: Tình hình quản lý doanh thu, mức thuế hộ kê khai
Chỉ tiêu
Bình quân tháng / 2000
Bình quân tháng / 2001
Bình quân tháng / 2002
Số hộ ghi thu
1.564
1.867
2.001
Doanh thu
61.291.596.000
54.643.356.000
89.197.397.000
Thuế
2.518.040.000
1.997.690.000
2.112.841.000
Doanh thu bình quân 1 hộ
39.189.000
29.268.000
44.576.410
Thuế bình quân 1 hộ
1.610.000
1.070.000
1.055.893
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Các hộ kê khai tuy chiếm tỷ trọng nhỏ về hộ kinh doanh (từ 20%-25%) nhưng doanh thu chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu hộ kinh doanh cá thể (70%-75%). Do đó số thuế thu được từ các hộ kê khai cũng chiếm tỷ trọng lớn (trên 55%) số thuế thu ở khu vực cá thể.
Nhìn chung các hộ thu theo kê khai chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sổ sách kế toán:
- Một số hộ lợi dụng quy trình tự khai, tự tính thuế để kê khai mức doanh thu thấp nhằm trốn thuế, có hộ kinh doanh trước đây thu khoán với doanh thu 100-150 triệu đồng, thuế từ 12-15 triệu đồng / tháng, nay thu theo phương pháp kê khai chỉ còn 1,5 triệu đồng / tháng, điển hình:
+ Hộ Lê Quốc Thắng kinh doanh gas ở phường Bạch Đằng, doanh thu kê khai với cơ quan thuế 100 triệu đồng, doanh thu cơ quan Công an điều tra trên 2 tỷ đồng.
+ Hộ Nguyễn Thị Khiển kinh doanh đại lý bán chè ở Minh Khai, doanh thu kê khai 1,1 triệu đồng, doanh thu điều tra 100 triệu đồng.
+ Hộ Bùi Linh Thơm bán vải ở Phùng Khắc Khoan, doanh thu kê khai 800.000 đồng, doanh thu điều tra 20 triệu đồng.
- Một số hộ có hành vi trốn thuế qua việc bán hàng không xuất hoá đơn; hoặc có ghi hoá đơn nhưng ghi thấp hơn so với giá bán thực tế; hoặc mua hoá đơn để lập giao cho khách hàng, hay mua hoá đơn để lập khống hợp thức hoá các khoản chi; hoặc có tình trạng hộ kinh doanh đã tự huỷ toàn bộ hoá đơn đã sử dụng để đối phó với Chi cục kiểm tra quyết toán thuế (như hộ 32 Nguyễn Công Trứ báo mất 32 quyển hoá đơn, hộ 119 Phố Huế báo mất 50 quyển hoá đơn) …
Thêm nữa, công tác kiểm tra giám sát việc ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ đối với hộ kinh doanh của Chi cục chưa đạt yêu cầu số lượng hộ ra quyết định xử lý là quá ít so với thực tế: năm 2001 có 52 hộ bị xử lý và năm 2002 là 48 hộ.
Do vậy, vẫn còn thất thu thuế đối với hộ kê khai, mức thuế bình quân một tháng của một hộ thu theo kê khai bị giảm nhiều: mức thuế bình quân một hộ một tháng năm 2002 là 1.055.893 đồng, năm 2001 là 1.070.000 đồng, năm 2000 là 1.610.000 đồng (như biểu 7).
2.3.3. Tình hình đôn đốc thu nộp thuế.
Đôn đốc thu nộp thuế là khâu thiết thực đem lại số thu thực tế cho Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, Chi cục cũng coi đây là trọng tâm quản lý. hàng tháng, Chi cục chỉ đạo các đội thuế phường, chợ có trách nhiệm đôn đốc hộ kinh doanh nộp tiền thuế đúng thời hạn, đảm bảo thu róc số thuế phát sinh, tối thiểu phải đạt 90% số cơ sở nộp đúng ngày ghi theo thông báo, số còn lại chậm nhất đến ngày 25 của tháng sau phải thu hết.
Toàn quận hiện nay có 2.130 hộ nộp thuế trực tiếp tại Kho bạc (chiếm 18,52% số hộ quản lý), số còn lại (81,48%) cán bộ thuế trực tiếp thu tiền và viết biên lai thuế. Với một số lượng lớn hộ nộp tiền thuế thông qua cán bộ thuế đó không chỉ ảnh hưởng đến quỹ thời gian để cán bộ thuế đi sâu quản lý mà còn dễ phát sinh tiêu cực như cán bộ thuế xâm tiêu tiền thuế …
Trên địa bàn quận có 4 điểm thu của cơ quan Kho bạc là:
ã Trụ sở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng.
ã Chợ Mơ.
ã Chợ Hoà Bình.
ã Số 44 phố Trần Nhân Tông.
Biểu 8: Kết quả thu nộp thuế hộ kinh doanh cá thể
Năm
Số thuế ghi thu
Số thuế thực nộp
Tỷ lệ nộp
Số thuế nợ đọng
Tỷ lệ nộp
2001
52.316.810.000
51.418.810.000
98,28%
898.000.000
1,72%
2002
52.686.907.000
52.107.351.000
98,9%
579.556.000
1,1%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
Số liệu trong biểu 8 cho thấy kết quả rất đáng ghi nhận của Chi cục trong việc đôn đốc thu nộp thuế: Số hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách rất cao (trên 98%) dẫn đến số thuế thực thu được đạt cao. So với 12 Chi cục Thuế quận huyện của Thành phố Hà Nội, số thu về hộ của Chi cục cao thứ 2, chỉ đứng sau quận Hoàn Kiếm. Chi cục luôn cố gắng hạ thấp tỷ lệ nợ đọng xuống mức có thể; nếu như năm 2001 tỷ lệ nợ đọng là 1,72% thì sang năm 2002 tỷ lệ này chỉ còn 1,1% - số thuế nợ đọng giảm từ 898.000.000 đồng xuống 579.556.000 đồng.
Tuy nhiên, số thuế nợ đọng phát sinh hàng năm còn lớn, đòi hỏi chi cục cần phải tiếp tục tập trung đôn đốc.
Biểu 9: Báo cáo nợ đọng khu vực cá thể tính đến 31/12/2002
Tổng số thuế nợ luỹ kế
Nợ năm trước chuyển sang
Nợ năm 2002
Lượt hộ
Thuế
Lượt hộ
Thuế
Lượt hộ
Thuế
4.407
1.010.903.000
1.995
431.347.000
2.412
579.556.000
Như vậy, tính đến hết năm 2002, Chi cục có 4407 lượt hộ nợ thuế với số tiền thuế là 1.010.903.000 đồng - trong đó chỉ có 2412 lượt hộ nợ phát sinh trong năm 2002, còn 1995 hộ nợ tồn đọng từ các năm trước. Hiện tượng nợ đọng thuế không những không động viên kịp thời, đầy đủ vào cho ngân sách Nhà nước mà còn gây ra thất thu thuế. Các hộ nợ đọng tiền thuế do nhiều nguyên nhân:
ã Tình hình kinh doanh gặp khó khăn về tài chính xin Chi cục cho nợ thuế.
ã Bỏ, nghỉ hẳn không kinh doanh nữa hay di chuyển địa điểm kinh doanh sang địa bàn khác - những trường hợp này, hộ kinh doanh không thực hiện báo cáo với Chi cục nêu trong thời gian cán bộ thuế chưa phát hiện ra thì bộ phận nghiệp vụ vẫn căn cứ vào sổ bộ thuế đã duyệt ra thông báo thuế làm tăng số thuế nợ đọng.
ã Cố tình chây ỳ, dây dưa và chốn thuế.
ã Các nguyên nhân khác.
Hàng năm, công tác phối hợp với lực lượng liên ngành và chính quyền cơ sở để thu hồi nợ đọng thuế đối với các hộ kinh doanh đều đã được Chi cục tiến hành và đem lại những kết quả nhất định:
Năm 2002:
+ Chi cục đã thu nợ của 1536 lượt hộ với số thuế 695.280.000 đồng.
+ Kết hợp Viện kiểm sát quận đòi nợ 2 trường hợp, số tiền 86.381.000 đồng.
+ Chuyển hồ sơ các hộ cho thuê nhà, cửa hàng có hành vi chây ỳ không chấp hành nộp thuế để Viện kiểm sát hỗ trợ xử lý.
2.3.4. Tình hình triển khai kế toán hộ kinh doanh.
Thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ khoa học giúp cho hoạt động quản lý kinh doanh được thuận lợi. Về mặt quản lý Nhà nước đã hạn chế dần tình trạng thất thu về thuế, từng bước tạo nguồn thu ổn định, tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Đồng thời là điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và sự cần thiết của công tác kế toán hộ, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng đã rất quan tâm và tích cực triển khai công tác ngày trong những năm qua.
Năm 2001 là năm trọng tâm triển khai công tác kế toán hộ. Chỉ tiêu Cục giao về việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán là 3.300 hộ, Chi cục đã thực hiện mở sổ sách cho 3.448 hộ - đạt 104,45%, trong đó có 3.280 hộ đã mở từ năm 2000, và 168 hộ mới phát sinh được mở thêm.
Năm 2002, Chi cục tiếp tục duy trì số hộ hiện đang thực hiện sổ sách kế toán và thường xuyên rà soát, phân loại hộ kinh doanh trên địa bàn để đưa thêm số hộ phát sinh vào diện thực hiện sổ sách kế toán.
Biểu 10: Báo cáo thực hiện triển khai kế toán hộ năm 2002
Thực hiện năm 2001
Số hộ môn bài bậc 1, 2 năm 2002
Số hộ đã triển khai kế toán hộ đến nay
Trong đó
Hộ khấu trừ
Hộ kê khai chênh lệch
Hộ kê khai doanh thu
Hộ khoán
3.448
3.816
3.766
53
242
1.706
1.765
Như vậy, năm 2002 số hộ triển khai kế toán tăng 318 hộ so với thực hiện năm 2001. Đối với các hộ mới phát sinh, Chi cục đã mời các hộ lên phổ biến về chế độ kế toán hộ và làm thủ tục nhận sổ để thực hiện việc ghi chép. Đồng thời Chi cục đã lựa chọn cán bộ có trình độ nghiệp vụ xuống từng hộ để hướng dẫn thực hiện ghi chép sổ sách kế toán.
Công tác tuyên truyền phổ biến về mục đích, nội dung chế độ kế toán hộ kinh doanh theo Quyết định số 169 của Bộ Tài chính được thực hiện thường xuyên trên các phương tiện truyền thanh của phường, do đó hộ kinh doanh dần dần ý thức được lợi ích của việc thực hiện chế độ kế toán, nộp thuế theo kê khai là công bằng, khoa học hơn hình thức nộp thuế khoán: kinh doanh nhiều nộp thuế nhiều, ít nộp thuế ít, không kinh doanh không nộp.
Thông qua thực tế, các hộ kinh doanh đã biết cách ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng hoá.
Đặc biệt, do yêu cầu của việc thực hiện Luật thuế các doanh nghiệp đòi hỏi phải được xuất hoá đơn khi có quan hệ cung ứng hàng hoá, dịch vụ đã thúc đẩy hộ kinh doanh thực hiện tương đối tốt chế độ sổ sách kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ, góp phần chống thất thu thuế, các hộ kinh doanh đã tự kê khai doanh thu và thuế tăng nhiều so với trước đây:
Hộ kinh doanh
Mức thuế khoán
Thuế thu theo kê khai
Hộ ông Dũng - 176 Trương Định
1.500.000 đ/tháng
12.043.000 đ
Hộ ông Thịnh - 62 Mai Hắc Đế
370.000 đ/tháng
13.000.000 đ
Hộ bà Loan - 276 Ngô Thì Nhậm
1.995.000 đ/tháng
10.787.000 đ
Tuy nhiên, công tác kế toán hộ kinh doanh vẫn còn nhiều tồn tại cần được khắc phục như:
- Trên địa bàn quận còn khoảng 30 hộ kinh doanh thuộc diện mở sổ sách kế toán (có bậc môn bài 1,2) nhưng chưa thực hiện do nguyên nhân khách quan, như các hộ có doanh thu lớn nhưng bán hàng ở vỉa hè, kinh doanh hàng thực phẩm tươi sống, hộ cho thuê nhà kê khai theo hợp đồng … Còn khoảng 20 hộ đã có quyết định của UBND quận phải mở sổ sách kế toán nhưng chưa thực hiện do không mặn mà vì vừa phải giữ sổ, xuất hoá đơn, vừa thường phải chịu mức thuế cao hơn mức khoán doanh thu với các hộ cùng bậc môn bài cùng ngành hàng kinh doanh. Mặt khác do một số cán bộ thuế có nhiều quyền lợi trong việc ấn định thuế nên không chú ý đến việc thực hiện sổ sách. Còn trên 1000 hộ (chiếm 30%) không thực hiện việc nộp tờ khai thuế, Chi cục chưa có biện pháp xử lý kiên quyết.
- Tình hình quản lý, sử dụng hoá đơn của một số hộ kinh doanh chưa được tốt, còn nhiều vi phạm:
+ Xuất hiện nhiều hộ kinh doanh làm mất hoá đơn với số lượng rất lớn. Hành vi làm mất hoá đơn thể hiện phức tạp, nhiều dạng và có tính chất, mức độ nguy hiểm cao.
+ Xuất hiện những hộ lợi dụng hoạt động kinh doanh để mua bán hoá đơn kiếm lời. Tình hình sử dụng hoá đơn của các hộ này có những hiện tượng như: bán khống liên 2, liên lưu ghi số tiền ở mức thấp; báo mất cả quyển hoá đơn nhưng thực tế vẫn giữ lại để bán hoá đơn khống cho những đối tượng có nhu cầu; đăng ký thuế để mua hoá đơn, nộp thuế từ 1 đến 2 tháng, sau đó xuất hoá đơn các liên khớp nhau với số tiền rất lớn, Chi cục vừa phát hiện để điều chỉnh thuế thì đối tượng đã xin báo nghỉ.
+ Ngoài ra, đối với một số hộ kinh doanh nộp thuế khoán, các hộ này thường ghi hoá đơn trên ít dưới nhiều, sự chênh lệch giữa các liên hoá đơn có khi lên đến hàng trăm triệu đồng.
ị Việc quản lý, sử dụng hoá đơn như thế của các hộ kinh doanh sẽ gây hậu quả rất xấu cho công tác quản lý thuế. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng mua bán hoá đơn, trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế có cơ hội phát triển.
- Nhìn chung số thuế nộp khi thực hiện chế độ kế toán của các hộ nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu là thấp hơn số thuế phải nộp theo phương pháp khoán trước đây. Số thuế nộp thấp hơn không phản ánh đúng thực tế kinh doanh của hộ. Đó thực chất là số thuế hộ kinh doanh kê khai theo cách đối phó với cơ quan thuế. Để nộp thuế thấp hơn, hộ kinh doanh chỉ việc so sánh doanh thu ấn định theo mức thuế khoán trước đây với mức doanh thu thể hiện trên Sổ nhật ký bán hàng trên hoá đơn bán hàng. Nếu doanh thu bán hàng cao hơn (nộp thuế cao hơn) doanh thu ấn định, hộ kinh doanh sẽ có biện pháp điều chỉnh lại số doanh thu bán hàng, bằng cách hạn chế việc xuất hoá đơn, ghi Sổ nhật ký bán hàng. Do không phải theo dõi hàng hoá mua vào, tồn kho nên việc quản lý doanh thu đầu ra của các hộ này là hết sức khó khăn. Và việc thực hiện ghi doanh số thấp hơn thực tế, đối với hộ kinh doanh thì không có gì là khó khăn. Với hình thức kế toán áp dụng đối với hộ nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu hiện nay (quy định chỉ phải mở một loại sổ sách kế toán là Sổ nhật ký bán hàng), cơ quan thuế không thể kiểm tra toàn diện, chính xác, đầy đủ việc xuất hoá đơn của các hộ kinh doanh để xác định, kết luận hộ kinh doanh xuất hoá đơn không đúng thực tế.
- Việc mua hàng lấy hoá đơn không phải lúc nào cũng dễ dàng thuận tiện, nhất là đối với trường hợp người tiêu dùng mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu cá nhân do tâm lý người mua hàng khi thấy việc lấy hoá đơn khó khăn, phải chờ đợi thì ngại, không lấy hoá đơn. Mặt khác do người dân mua hàng chưa có thói quen yêu cầu người bán xuất hoá đơn.
2.4. Đánh giá tình hình quản lý thu thuế hộ kinh doanh cá thể.
2.4.1. Những kết quả đạt được.
Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ viên chức trong Chi cục, được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Quận uỷ, Hội đồng Nhân dân Quận, UBND Quận, Cục Thuế Thành phố Hà Nội và các ban ngành có liên quan, sự phối kết hợp chặt chẽ của UBND các phường, công an, quản lý thị trường ..., thời gian qua Chi cục luôn hoàn thành nhiệm vụ thu đối với khu vực cá thể. Số thu từ các hộ kinh doanh cá thể của Chi cục lớn thứ hai Thành phố, chỉ sau quận Hoàn Kiếm. Số liệu cụ thể như sau:
Biểu 11: Kết quả thu thuế hộ cá thể
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Tổng thu ngoài quốc doanh
62.749.311.000
65.503.243.000
Thuế thu từ khu vực cá thể
51.107.351.000
52.107.351.000
Tỷ trọng thu khu vực cá thể so tổng thu NQD
81,4%
79,5%
Thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao cho, ngay từ đầu năm, để đảm bảo tiến độ công việc, tất cả các cán bộ viên chức trong Chi cục đã tập trung, phấn đấu cao độ thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Căn cứ vào kế hoạch cấp trên giao, vào tình hình thực tế trên địa bàn, Chi cục đã giao kế hoạch cụ thể cho từng đội thuế. Mọi công việc từ khâu lập sổ bộ, rà soát, phân loại nợ đọng … đều được tiến hành khẩn trương, có sự phối hợp giữa văn phòng với các đội thuế phường, đội thanh tra.
Chi cục tiếp tục duy trì hoạt động của Tổ Thường trực giải đáp các vướng mắc về chính sách thuế cho các hộ kinh doanh trên địa bàn, theo dõi và nắm chắc tình hình biến động về giá cả thị trường, về tình hình quản lý và sử dụng hoá đơn bán hàng … Tổ Thường trực theo dõi tình hình triển khai các luật thuế, tăng cường đối thoại với các đối tượng nộp thuế để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, kịp thời có biện pháp xử lý.
Bệnh cạnh đó, Chi cục cũng phát huy mạnh mẽ vai trò của Ban Chỉ đạo chống tham nhũng và Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan. Ban chỉ đạo đã kiểm tra đôn đốc các tổ, đội trong Chi cục phải thực hiện nghiêm túc 2 Pháp lệnh: Pháp lệnh tiết kiệm chống lãng phí, Pháp lệnh chống tham nhũng và thực hiện Kế hoạch số 38 của UBND Thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện quy chế dân chủ. Cụ thể: Chấn chỉnh việc tiếp dân, đảm bảo đúng quy chế; xử lý dứt điểm các vụ vi phạm xẩy ra qua kết luận của thanh tra Chi cục hoặc xử lý dứt điểm các đơn tố cáo nội bộ; xem xét giải quyết kịp thời các vụ khiếu nại thuộc thẩm quyền của pháp luật quy định; đôn đốc các bộ phận hành thu thực hiện đúng quy trình quản lý thu thuế của ngành.
Công tác kiểm tra hộ nghỉ được tiến hành thường xuyên, nhất là vào dịp Tết nguyên đán, kiên quyết xử lý truy thu và phạt đối với những hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế.
Hàng tháng Chi cục thường xuyên kiểm tra, rà soát tất cả các hộ có sản xuất kinh doanh trên địa bàn, đặc biệt là các khu nhà tập thể, chợ tạm, ngõ xóm …, đối chiếu các hộ đang có mã số thuế, khắc phục tình trạng chênh lệch về số hộ thu môn bài và số hộ cấp mã số thuế.
Thực hiện Thông tư 42 về việc ổn định mức thuế đối với hộ thu khoán Chi cục phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế các phường tiến hành rà soát doanh thu, chống thất thu về doanh số (chú trọng với những hộ thực hiện chế độ kế toán) để tiến hành ổn định thuế 6 tháng - 1 năm cho các hộ kinh doanh.
Công tác khai thác các nguồn thu khác trên địa bàn nhiều phường đã phối hợp với các đội thuế thu tốt góp phần tích cực vào việc thực hiện kế hoạch.
Về công tác kế toán hộ kinh doanh, hàng tháng Chi cục đều tiến hành kiểm tra sổ sách kế toán và việc sử dụng hoá đơn; vận đơn, khuyến khích các hộ kinh doanh thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, nộp thuế theo kê khai.
Hàng tháng, Chi cục đều chú trọng công tác thu hồi nợ đọng, xử lý kiên quyết những trường hợp dây dưa chây ỳ tiền thuế, tham mưu và tập trung lực lượng giúp cho Ban Chỉ đạo thu hồi nợ đọng thuế của quận. Tập trung đôn đốc các đối tượng kinh doanh nộp đúng, nộp đủ, nộp kịp thời số thuế đã phát hành thông báo vào Kho bạc, không để nợ thuế.
Thực hiện chỉ thị về việc tăng cường quản lý chống thất thu thuế của Bộ Tài chính, Chi cục đã thành lập các tổ công tác chống thất thu. Căn cứ vào đặc thù của từng địa bàn, các tổ công tác đã có biện pháp trọng tâm thiết thực: kiểm tra việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, kiểm tra chống sót hộ, rà soát doanh thu, đôn đốc thu nợ …
Nói chung, công tác quản lý thu thuế đối với hộ cá thể ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao ý tuân thủ pháp luật thuế của các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
2.4.2. Những hạn chế cần khắc phục.
Qua báo cáo tổng kết công tác hàng năm, mỗi cán bộ thuế trong Chi cục đều rất phấn khởi tự hào về kết quả thu thuế năm sau tăng hơn năm trước và năm nào cũng hoàn thành vượt mức nhiệm vụ kế hoạch thu được giao. Tiếc rằng, trong mỗi báo cáo tổng kết, dẫu thành tích phong phú đến bao nhiêu, đều có một đoạn văn mang tính điệp khúc: "Tuy nhiên, kết quả thu như trên vẫn chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tiềm năng vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao hơn, tình trạng thất thu thuế vẫn còn".
ã Thất thu từ đối tượng nộp thuế:
- Thất thu về hộ kinh doanh xuất phát từ việc không thực hiện chế độ đăng ký mã số thuế nhất là ở lĩnh vực vận tải tư nhân, hộ cho thuê nhà, xây dựng tư nhân, hộ kinh doanh sáng tối, hộ kinh doanh thời vụ, vãng lai … Cạnh đó có những hộ kinh doanh hàng tháng không nộp tờ kê khai thuế. Cũng có trường hợp hộ kinh doanh xin nghỉ hoạt động, được miễn thuế nhưng thực tế vẫn kinh doanh bình thường.
- Đối tượng nộp thuế kê khai không trung thực, hiện tượng phổ biến là: kê khai không đúng doanh thu thực tế, khai thấp giá bán và số lượng hàng bán, để ngoài sổ sách kế toán những khoản thu đáng kể phải đánh thuế, ghi sai thuế suất - những mặt hàng, hoạt động phải chịu thuế suất cao khai sang loại chịu thuế suất thấp … để được nộp thuế thấp hơn số thuế phải nộp theo đúng luật.
- Chậm hoặc kéo dài thời gian nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế nhằm chiếm dụng tiền thuế vào hoạt động kinh doanh của đơn vị, tiền thuế không được tập trung đầy đủ, kịp thời vào Ngân sách Nhà nước.
ã Thất thu từ cán bộ thuế và cơ quan thuế:
- Chưa đưa hết các hộ có thực tế kinh doanh vào diện quản lý thu thuế chưa thu thuế đầy đủ về số lượng cũng như giá cả hàng hoá tiêu thụ, áp dụng sai thuế suất quy định cho từng ngành nghề, mặt hàng và thường là áp dụng với thuế suất thấp hơn.
- Cán bộ thuế thoả hiệp với đối tượng nộp thuế để giảm bớt số thuế phải nộp, nhất là trong trường hợp xác định doanh thu, mức thuế khoán xem xét miễn giảm thuế.
- Chưa kiểm tra, thanh tra phát hiện sai sót trong kê khai nộp thuế và ghi chép sổ sách kế toán.
Tình trạng thất thu thuế đã làm giảm số thu vào Ngân sách Nhà nước, không thực hiện được yêu cầu công bằng bình đẳng giữa các hộ kinh doanh trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, hơn thế nó làm nhờn kỷ cương phép nước.
2.4.3. Nguyên nhân thất thu thuế:
ã Từ đối tượng nộp thuế:
Bản chất của các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là tư lợi. Các hộ kinh doanh nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung thường đòi hỏi được hưởng nhiều quyền lợi nhưng lại không muốn thực hiện đầy đủ các chính sách động viên của Nhà nước, trong đó có thuế. Với trình độ dân trí có hạn, họ chưa hiểu được những lợi ích mà họ được hưởng về an ninh quốc phòng, về kinh tế - xã hội, về phúc lợi công cộng, chủ yếu được đáp ứng từ nguồn thu về thuế. Đây là chủ thể trực tiếp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nếu không tự giác thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để trốn lậu thuế, chính vì vậy, việc nộp thuế được quy định thành nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp, là những nguyên tắc, chế độ trong Luật Thuế.
ã Từ cán bộ và cơ quan thuế:
Trình độ chuyên môn của cán bộ trực tiếp quản lý thu thuế nói chung còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có cán bộ chưa đề cao tinh thần trách nhiệm, không chịu khó tìm hiểu học hỏi nên khả năng công tác chưa tiến kịp với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Một số cán bộ chưa sâu sát cơ sở, chỉ làm việc theo kiểu bàn giấy nên không kịp thời kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý trốn lậu thuế. Một số cán bộ cố tình vi phạm pháp luật, chưa tự giác thực hiện nghiệm chỉnh các quy trình, biện pháp về quản lý thu thuế.
Tuy công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đã được quan tâm hơn trước nhưng còn nặng về hình thức, chưa thường xuyên và đi sâu để giải đáp cụ thể vướng mắc để chính sách, chế độ thuế được thông suốt trong các tầng lớp dân cư.
Chương II
Thực trạng công tác quản lý thu thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể
tại chi cục thuế quận hai bà trưng
2.1. Đặc điểm tình hình hoạt động của hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận hai bà trưng.
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm, phía Đông giáp sông Hồng - Gia Lâm, phía Tây giáp quận Đống Đa và Thanh Xuân, phía Nam giáp huyện Thanh Trì. Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, địa bàn quận thấp, có nhiều hồ, ao, sông, mương - đã từ lâu là hệ thống thoát nước của thành phố, có cảng phà Đen cùng hệ thống đường bộ qua các cửa ô đã nối liền Hà Nội với các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh phía Nam của Tổ quốc.
Quận Hai Bà Trưng có dân số khoảng 360,9 ngàn người, diện tích gần 15 km2 gồm 25 phường. Toàn quận có 364 đơn vị quốc doanh Nhà nước; 1453 công ty TNHH; tổ sản xuất; hợp tác xã; công ty cổ phần; 6 chợ lớn, 9 chợ vừa và trên 20 chợ tạm, 3 trường đại học lớn: Kinh tế Quốc dân, Bách Khoa, Xây Dựng và 96 trường từ mầm non đến trung học cơ sở; 5 bệnh viện lớn: Việt Xô, 108, Mắt, Thanh Nhàn, bệnh viện Đường sắt và 34 cơ sở của các trung tâm y tế; cùng nhiều khu trung tâm vui chơi giải trí: Công viên Lê Nin, Hồ Thiền Quang, Bể bơi Tăng Bạt Hổ … Điều đó cho thấy hoạt động sản xuất, kinh doanh của quận diễn ra khá sầm uất.
Trong các loại hình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn quận, các hộ cá thể là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Hiện nay, trên toàn bộ quận có 13.600 hộ cá thể phân bố rải rác trên khắp các phường, chợ. Trong số 25 phường, Ngô Thì Nhậm là phường có số hộ kinh doanh cao nhất 655 hộ, thấp nhất là phường Hoàng Văn Thụ có 174 hộ. Trong 6 chợ lớn là: chợ Đồng Tâm, chợ Mai động, chợ Hôm, chợ Trương Đình, chợ Mơ và chợ Hoà Bình thì chợ Mơ có số lượng tư thương cao nhất với 519 hộ. Các hộ kinh doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề thương mại, dịch vụ, ăn uống, tiểu thủ công nghiệp vì đây là các ngành, lĩnh vực có thị trường lớn, đòi hỏi vốn đầu tư không nhiều, phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp của phần đông các hộ, khả năng quay vòng vốn nhanh, hạn chế được rủi ro, tỷ suất lợi nhuận cao (trong khi lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác thì cạnh tranh lớn, rủi ro cao, thị trường hẹp …), phù hợp với triết lý khá phổ biến của các hộ "vốn ít, lãi nhiều, quay vòng nhanh, rủi ro thấp". Sự tập trung của các hộ kinh doanh vào các lĩnh vực thương mại - dịch vụ đã góp phần đáp ứng được nhiều nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy trở lại đối với sản xuất. Với sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn quy mô, các hộ kinh doanh đã đóng góp một phần đáng kể vào tổng thu Ngân sách Nhà trước trên địa bàn quận. Hàng năm, số thu từ hộ kinh doanh thường chiếm khoảng trên 50% trong tổng thu Ngân sách Nhà nước và ngày một tăng qua các năm. Song, với một số lượng lớn hộ kinh doanh đó đã khiến cho công tác quản lý thu thuế trở nên vô cùng phức tạp và bộc lộ nhiều hạn chế.
2.2. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế tại chi cục thuế hai bà trưng.
Chi cục Thuế quận Hai Bà Trưng được thành lập theo Quyết định số 315 ngày 21/8/1990 của Bộ Tài chính về việc thành lập Chi cục Thuế Nhà nước.
Nằm trong hệ thống thu thuế Nhà nước, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, chịu sự lãnh đạo song trùng của Cục Thuế Hà Nội và UBND Quận Hai Bà Trưng, có chức năng trực tiếp tổ chức công tác thu thuế trên địa bàn quận với nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể là:
ã Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, hàng quý, hàng tháng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
ã Thực hiện các nghiệp vụ thu thuế và thu khác đối với các ĐTNT, đối tượng chịu thuế theo đúng quy định của Nhà nước: tính thuế, lập sổ thuế, thông báo số thuế phải nộp, phát hành các lệnh thu về thuế và thu khác, đôn đốc thực hiện nộp đầy đủ, kịp thời mọi khoản thu vào Kho bạc Nhà nước, xem xét và đề nghị miễn giảm thuế thuộc thẩm quyền và thực hiện quyết toán thuế.
ã Kiểm tra và xử lý các vi phạm chính sách, chế độ thuế, vi phạm kỷ luật trong nội bộ ngành, giải quyết đơn thư khiếu nại theo thẩm quyền.
ã Thống kê, kế toán, thông tin và báo cáo tình hình kết quả thu nộp thuế.
Hiện nay toàn Chi cục có 238 cán bộ công chức (221 trong biên chế, 17 hợp đồng).
- Cán bộ công chức nam : 67 người.
Cán bộ công chức nữ : 171 người.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
+ Đại học : 17 người.
+ Trung học : 195 người.
+ Sơ cấp : 11 người.
- Trình độ lý luận chính trị:
+ Cao cấp : 1 người.
+ Trung cấp : 4 người.
Bộ máy quản lý thu thuế của Chi cục bao gồm các bộ phận sau:
2.2.1. Ban Lãnh đạo.
Ban Lãnh đạo Chi cục gồm 5 người, trong đó:
ã Một Chi cục trưởng: Là chủ tài khoản, phụ trách chung kế hoạch thu thuế, phụ trách Tổ Thanh tra - Kiểm tra và Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ.
ã Bốn Chi cục phó: trực tiếp phụ trách các đội thuế phường, chợ, tổ nghiệp vụ và các đội thuế ở đầu mối giao thông.
2.2.2. Các tổ, đội thuế.
2.2.2.1. Tổ Nghiệp vụ:
- Xây dựng chương trình, biện pháp triển khai quản lý thu thuế, hướng dẫn việc thực hiện chính sách thuế và các biện pháp nghiệp vụ hành thu.
- Hướng dẫn, giải thích những vướng mắc của ĐTNT trong quá trình thi hành luật và các quy định về thuế của Nhà nước.
- Điều tra tình hình sản xuất của các ĐTNT để có kế hoạch điều chỉnh doanh thu và mức thuế của các hộ, đảm bảo cân đối giữa các địa bàn. Rà soát các căn cứ tính thuế của ĐTNT do các đội thuế gửi lên.
- Tham gia với Tổ Kế hoạch, tính thuế, lập bộ và kế toán để xây dựng dự toán thu.
- Tham gia với Tổ Thanh tra - Kiểm tra trong việc thanh tra, kiểm tra ĐTNT và các đội thuế trong việc thực hiện quy trình thu.
2.2.2.2. Tổ Kế hoạch - tính thuế - lập bộ thuế và kế toán thu:
- Chủ trì trong việc lập dự toán thu, theo dõi tình hình thực hiện dự toán thu thuế hàng tháng, quý, năm.
- Lập sổ danh bạ ĐTNT, tổng hợp danh sách ĐTNT xin cấp mã số ĐTNT từ các đội thuế chuyển đến để trình lên Cục Thuế, thông báo mã ĐTNT được cấp.
- Lập bộ thuế, xử lý tờ khai thuế, tính thuế, tính nợ, tính phát hoặc ấn định thuế, phát hành thông báo thuế.
- Kế toán và theo dõi số thu nộp, thực hiện thống kê thuế.
- Xem xét quyết toán thuế của các ĐTNT kê khai, xác định số thuế phải nộp và thực nộp trong năm, số thuế nộp thừa hoặc nộp thiếu để đưa vào thông báo thuế tiếp theo.
- Thẩm hạch biên lai thuế.
- Cung cấp các thông tin cần thiết cho các Tổ nghiệp vụ, Thanh tra và các đội thuế phục vụ cho công tác quản lý thu.
2.2.2.3. Tổ Thanh tra - Kiểm tra:
- Thực hiện kiểm tra các ĐTNT có đơn xin nghỉ kinh doanh, kiểm tra các tờ khai, hồ sơ quyết toán thuế có nghi ngờ do đội thuế hoặc tổ kế hoạch chuyển đến.
- Thanh tra, kiểm tra cán bộ thuế trong việc thực thi chính sách thuế, các biện pháp nghiệp vụ hành thu …
- Xử lý các trường hợp vi phạm về thuế, giải quyết các khiếu nại về thuế theo thẩm quyền.
2.2.2.4. Tổ Quản lý ấn chỉ:
- Tổ chức kế toán nhập, xuất tất cả các loại ấn chỉ thuế, cấp phát và bán hoá đơn, tờ khai thuế cho ĐTNT.
- Mở sổ sách theo dõi quản lý, thanh toán biên lai thuế với từng cán bộ thuế.
- Theo dõi quản lý và kiểm tra các đối tượng sử dụng hoá đơn, chứng từ trên địa bàn, phối hợp với các bộ phận chức năng để kiểm tra, xác minh biên lai thuế, hoá đơn, chứng từ, phòng chống và ngăn chặn việc mua, bán, sử dụng hoá đơn, chứng từ giả, bất hợp pháp.
- Hướng dẫn các đối tượng sử dụng biên lai thuế, hoá đơn, chứng từ … thực hiện đúng việc ghi chép, quản lý sử dụng theo đúng quy định của Nhà nước.
- Thanh huỷ ấn chỉ thuế hết hạn sử dụng theo quy định.
2.2.2.5. Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ:
- Thực hiện công tác quản lý cán bộ.
- Quản lý kinh phí chi tiêu của Chi cục.
- Thực hiện các công tác khác có liên quan đến cán bộ công chức, hành chính và tài vụ cơ quan.
2.2.2.6. Các Đội thuế phường, chợ:
- Tổ chức quản lý thu thuế các đối tượng được phân công.
- Tham gia với tổ kế hoạch để xây dựng dự toán thu thuế.
Chi cục có 19 đội thuế phường, chợ. Cụ thể:
Tư doanh 1 : Ngô Thì Nhậm
Tư doanh 2 : Nguyễn Du
Tư doanh 3 : Huế
Tư doanh 4 : Đồng Tâm + Giáp Bát
Tư doanh 5 : Đồng Nhân + Đông Mác
Tư doanh 6 : Bùi Thị Xuân
Tư doanh 7 : Tân Mai + Tương Mai
Tư doanh 8 : Vĩnh tuy + Mai Động
Tư doanh 9 : Trương Định
Tư doanh 10 : Minh Khai + Hoàng Văn Thụ
Tư doanh 11 : Bách Khoa + Cầu Dền
Tư doanh 12 : Chợ Hôm - Đức Viên
Tư doanh 13 : Chợ Mơ + Chợ Trương Định
Tư doanh 14 : Phạm Đình Hổ
Tư doanh 15 : Thanh Lương + Bạch Đằng
Tư doanh 16 : Quỳnh Mai + Thanh Nhàn
Tư doanh 17 : Lê Đại Hành
Tư doanh 18 : Bạch Mai + Quỳnh Lôi
Tư doanh 19 : Chợ Hoà Bình
Công tác tổ chức và cán bộ có ý nghĩa quyết định đến kết quả triển khai nhiệm vụ của Chi cục. Vì vậy, trong những năm qua, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng luôn thực hiện nghiêm túc thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về cơ cấu bộ máy Chi cục Thuế. Và đội ngũ cán bộ cũng ngày càng được củng cố và kiện toàn cho phù hợp hơn với nhiệm vụ thu thuế của Chi cục trong từng thời kỳ.
2.3. Tình hình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể thời gian qua.
Các hộ kinh doanh cá thể là đối tượng quản lý chủ yếu cả về mặt số lượng lẫn giá trị tiền thuế ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng. Để đánh giá một cách toàn diện tình hình quản lý thu thuế hộ kinh doanh trên địa bàn quận, ta đi sâu tìm hiểu các nội dung sau:
ã Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế.
ã Tình hình quản lý doanh thu.
ã Tình hình đôn đốc thu nộp thuế.
ã Tình hình triển khai kế toán hộ kinh doanh.
2.3.1. Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế (ĐTNT).
Mục tiêu của công tác quản lý ĐTNT là phấn đấu đưa 100% đối tượng có thực tế kinh doanh bao gồm cả kinh doanh cố định, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ vào diện quản lý thu thuế và chấm dứt tình trạng thất thu về ĐTNT. Mục tiêu này tưởng chừng như đơn giản thông qua việc cấp mã số thuế, nhưng thực tế có những vướng mắc nhất định.
Tình hình quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận được thể hiện trên biểu số liệu sau:
Biểu 1: Tình hình quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể.
Năm
Số hộ điều tra thống kê
Số hộ có mã số thuế
Số hộ quản lý
Số hộ mới đưa vào quản lý
Số hộ thu thuế môn bài
Số hộ ghi thu GTGT + TNDN hàng tháng
Hộ
Thuế
2000
13.532
11.779
10.836
7.941
1.671
300.085.000
2001
13.668
11.956
10.950
7.983
1.430
198.000.000
2002
13.606
11.970
11.054
8.120
1.067
636.565.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Những số liệu trong biểu trên cho thấy: Trong những năm qua Chi cục đã có nhiều cố gắng trong quản lý số hộ kinh doanh, thể hiện:
- Thông qua công tác cấp mã số thuế cho các hộ kinh doanh, hàng năm Chi cục đã đưa thêm được nhiều hộ vào quản lý thu thuế:
+ Năm 2000, Chi cục đưa thêm 1671 hộ, số thuế 300.085.000 đồng.
+ Năm 2001, Chi cục đưa thêm 1430 hộ, số thuế 198.000.000 đồng.
+ Năm 2002, có 1067 hộ được đưa thêm với số thuế 636.565.000 đồng.
Do đó số hộ có sản xuất kinh doanh được đưa vào diện quản lý thu thuế đều đã tăng qua các năm:
+ Năm 2001 tăng 177 hộ so với năm 2000.
+ Năm 2002 tăng 14 hộ so với năm 2001 và tăng 191 hộ so với năm 2000.
- Số hộ kinh doanh đã quản lý thu thuế (thuế môn bài, thuế GTGT + TNDN) cũng đều năm sau tăng hơn năm trước:
+ Số hộ thu thuế môn bài năm 2001 đã tăng 144 hộ so với năm 2000 và năm 2002 tăng 104 hộ so với năm 2001.
+ Số hộ ghi thu thuế GTGT + TNDN năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 42 hộ, sang năm 2002 lại có 137 hộ tăng hơn năm 2001.
- Bên cạnh các nguồn thu có tính chất thường xuyên, cố định trên địa bàn, Chi cục cũng chú trọng đến công tác khai thác các nguồn thu khác như: thu cho thuê nhà, thuê cửa hàng, thu xây dựng, trông giữ xe đạp, xe máy … Trong năm 2002, Chi cục đã thu của 2.136 lượt hộ có nhà cho thuê để ở với số thuế 11.803.728.000 đồng; 2412 lượt hộ kinh doanh vãng lai, vỉa hè với số thuế 102.168.000 đồng; 24 hộ xây dựng nhà với số thuế 10.932.000 đồng …
Mặc dù vậy, công tác quản lý số hộ kinh doanh trên địa bàn quận vẫn còn thất thu lớn. Nhìn vào số liệu trong biểu 1 ta thấy:
- Số hộ quản lý thu thuế môn bài chỉ bằng 80% - 81% số hộ thực tế kinh doanh, so với số hộ được cấp mã số thuế cũng còn chênh lệch lớn:
+ Năm 2000 chênh lệch là 943 hộ.
+ Năm 2001 chênh lệch tới 1006 hộ.
+ Năm 2002 có chênh lệch là 916 hộ.
- Số hộ quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN hàng tháng của Chi cục cũng chỉ đạt 72% - 73% so với hộ quản lý môn bài.
- Trong khi đó, số hộ có thực tế kinh doanh nhưng chưa được cấp mã số thuế lại tương đối cao:
+ Năm 2000, số hộ chưa được cấp mã số thuế là 1753 hộ.
+ Năm 2001, còn 1712 hộ chưa được đưa vào diện quản lý thu thuế.
+ Năm 2002, số này là 1636 hộ.
ị Như vậy, số hộ kinh doanh thuộc diện phải lập bộ quản lý thu thuế nhưng chưa được lập bộ quản lý thu chiếm 13% - 14% tổng số hộ đã được lập bộ. Việc bỏ sót hộ này chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
ã Hàng năm, khi xây dựng dự toán thu, Chi cục thường lập dự toán nhỏ hơn nguồn thu nên đã để lại một số hộ dự phòng. Những hộ này thường được giấu trong bộ phụ. Nó như một kênh điều tiết cho tiến độ hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực hiện yếu, thì những hộ này sẽ được thu ráo riết như một nguồn bổ sung để hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực hiện tốt thì số thuế của những hộ này có thể được ghim lại ở người nộp thuế dưới dạng nợ thuế (thường thì không xử phạt). Bộ phụ dùng để theo dõi các hộ mới ra kinh doanh, hoạt động kinh doanh chưa ổn định, hoặc những hộ kinh doanh thời vụ như kinh doanh tết, trung thu … Về nguyên tắc, những hộ đã ra kinh doanh được 3 tháng thì phải đưa vào bộ chính không được theo dõi trên bộ phụ nữa. Những hộ kinh doanh bán thời gian thường xuyên như ăn sáng, ăn khuya, cơm trưa … đều phải theo dõi trên bộ chính. Do việc theo dõi kiểm soát bộ phụ có nhiều lỏng lẻo nên số hộ trên bộ phụ chậm được đưa vào bộ chính.
ã Cạnh đó có những hộ kinh doanh nhỏ có thu nhập thấp, theo nguyên tắc chỉ nộp thuế môn bài và thông qua việc xem xét của hội đồng tư vấn được cấp giấy miễn thuế có thời hạn, song một phần những hộ này không được làm thủ tục miễn thuế theo quy định mà được bàn giao về cho phường để thu thuế không xuất biên lai. Một số cán bộ quản lý địa bàn cũng ăn theo tách ra một số hộ coi như thuộc diện phường quản lý nhưng tự thu bỏ túi hoặc để lập quỹ trái phép. Một số cán bộ tài chính phường cũng lạm dụng bỏ ngoài ngân sách phường dùng cho cá nhân. Chi cục Thuế hoàn toàn không nắm được nguồn thu này, hoặc có biết nhưng coi đây là khoản hữu hảo cho việc xây dựng ngân sách phường và cũng là điều kiện vật chất để chính quyền phường hỗ trợ cho công tác thu thuế trên địa bàn.
ã Ngoài ra có một nguyên nhân khách quan là: số lượng hộ kinh doanh rất lớn, quy mô kinh doanh đa số là nhỏ và trải rộng trên khắp địa bàn quận, trình độ văn hoá, ý thức chấp hành pháp luật của các hộ kinh doanh còn yếu so với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nên đã có một số lượng lớn các hộ ra kinh doanh nhưng không hề đăng ký thuế cũng như kê khai thuế.
ị Tình trạng bỏ sót hộ kinh doanh không chỉ gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước mà còn gây khó khăn trong việc quản lý mã số thuế của Nhà nước, tạo sự phiền hà, tuỳ tiện trong hành xử của cán bộ thuế và các đối tượng nộp thuế.
Trong công tác quản lý ĐTNT, quản lý hộ cá thể nghỉ kinh doanh cũng được Chi cục đặc biệt chú trọng. Theo quy định hiện hành thì hộ kinh doanh nghỉ từ 15 ngày trở lên được xét giảm 50% thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được miễn nộp thuế của tháng đó. Nhìn chung, đây là một chủ trương phù hợp, tạo điều kiện giải quyết một phần khó khăn cho các hộ kinh doanh trong trường hợp vì lý do bất khả kháng phải nghỉ kinh doanh. Tuy nhiên, nếu công tác này không được làm tốt thì việc xét miễn, giảm này lại là một kẽ hở để các hộ kinh doanh lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Thực tế ở Chi cục cho thấy thời gian qua các hộ nghỉ kinh doanh vì các lý do như: nghỉ để chuyển hướng kinh doanh khác; nghỉ để sát nhập hoặc chia tách, nghỉ để di chuyển địa điểm khác; nghỉ do điều kiện kinh doanh gặp khó khăn và nghỉ vì những lý do khác. Thời điểm có nhiều hộ nghỉ nhất là dịp sau Tết nguyên đán do tình hình kinh doanh chững lại hay các hộ đi lễ hội dài ngày. Trung bình một tháng ở Chi cục có 411 hộ nghỉ kinh doanh chiếm 3,72% số hộ quản lý. Số hộ xin nghỉ này đã ảnh hưởng trực tiếp đến số thuế thu được của Chi cục: trung bình giảm 106.387.000 đồng/tháng tiền thuế. Công tác kiểm tra hộ nghỉ được đội thanh tra phối hợp với các đội thuế phường tiến hành thường xuyên. Qua kiểm tra, hàng năm Chi cục đều phát hiện được những hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế. Chi cục cũng đều đã kiên quyết xử lý truy thu và phạt đối với các hộ vi phạm này.
Bảng 2: Kết quả kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh
Năm
Số lượt hộ nghỉ kinh doanh được kiểm tra
Số hộ vi phạm
Số tiền truy thu + phạt
2001
1.425
49
15.852.000
2002
2.814
25
59.085.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
ị Như vậy, số hộ "nghỉ giả" bằng 1,73% số hộ kiểm tra, tuy không đáng kể nhưng lại gây ra thất thu thuế, không đảm bảo sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH117.doc