Tài liệu Chuyên đề Biện pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long: Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển là vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Bởi ở đó là một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ mà sự tham gia của các thành phần kinh tế, nếu như có sức mạnh và đôi chân vững chắc thì mới thoát khỏi cơn bão thị trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của doanh nghiệp, trong đó nguyên nhân cơ bản là không có được nguồn tài trợ đúng lúc và đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác tạo lập vốn có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo lập vốn là bước đi đầu tiên quan trọng làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo của doanh nghiệp.
Trong tiến trình phát triển chúng ta đã và đang có sự tập trung rất lớn vào các ngành nghề trọng tâm của đất nước, ở đó ngành may mặc là một trong những ngành trọng điểm. Công ty cổ phần may Thăng Long là một doanh nghiệp có bề dày trưởng thành và phát triển đi cùng với sự phát triển của ngành may mặc nói chung. Chiến lược phát triển của ...
92 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 975 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Biện pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển là vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Bởi ở đó là một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ mà sự tham gia của các thành phần kinh tế, nếu như có sức mạnh và đôi chân vững chắc thì mới thoát khỏi cơn bão thị trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của doanh nghiệp, trong đó nguyên nhân cơ bản là không có được nguồn tài trợ đúng lúc và đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác tạo lập vốn có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo lập vốn là bước đi đầu tiên quan trọng làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo của doanh nghiệp.
Trong tiến trình phát triển chúng ta đã và đang có sự tập trung rất lớn vào các ngành nghề trọng tâm của đất nước, ở đó ngành may mặc là một trong những ngành trọng điểm. Công ty cổ phần may Thăng Long là một doanh nghiệp có bề dày trưởng thành và phát triển đi cùng với sự phát triển của ngành may mặc nói chung. Chiến lược phát triển của công ty là trở thành một trong các doanh nghiệp phát triển ngành may mặc hàng đầu của việt nam và vươn xa rộng hơn đến các mảnh đất khác. Để làm được điều đó công ty cần có sự đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị công nghệ, dây chuyền sản xuất…nhằm mở rộng và nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế công ty may Thăng Long cũng gặp không ít khó khăn trong công tác tạo lập vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty hiện nay chưa thể đáp ứng nhu cầu đứng vững và phát triển của công ty trong môi trường cạnh tranh ngày càng trở lên khốc liệt. Vì vậy tạo lập vốn luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp của công ty.
Trên cơ sở nhận thức về mặt lý luận và quá trình thực tập ở công ty cổ phần may Thăng Long, em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề này.
Trong chuyên đề em đã tập trung tìm hiểu các hình thức tạo lập vốn của doanh nghiệp và dựa trên cơ sở nghiên cứu thực trạng tạo lập vốn ở công ty để đưa ra một số giải pháp tạo lập cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về vốn và tạo lập vốn trong công ty cổ phần (CTCP)
Chương II: Thực trạng tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở CTCP may Thăng Long
Chương III: Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn ở CTCP may Thăng Long.
Do còn nhiều hạn chế về lý luận và nguồn dữ liệu nên các kết quả phân tích thống kế chưa mang tính tổng quát cao. Em rất mong có sự góp ý kiến của cô và các bạn nhằm hoàn thiện hơn nữa bản chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo cùng các anh chị trong phòng kế toán CTCP may Thăng Long đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Mai Thị Thu Hằng
Nội dung
Chương I: Tổng quan về vốn và tạo lập vốn trong công ty cổ phần
Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Khái niệm về vốn
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về vốn, tuỳ theo góc độ nhìn nhận vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định tới mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Vốn trong sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn luôn tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Dưới dạng hình thái giá trị vốn tồn tại dưới dạng hình thái tiền. Đây là hình thái ban đầu và cũng là hình thái cuối cùng của vốn, bởi vì sau một chu kỳ kinh doanh vốn kinh doanh lại được thu hồi về dưới dạng ban đầu là tiền theo vòng chu chuyển T- H- T’.
Dưới dạng hình thái hiện vật: vốn tồn tại dưới dạng hình thái tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,…
Đối với sự phát triển của một quốc gia vốn được coi là một trong bốn nguồn lực của nền kinh tế quốc dân. Đó là nhân lực, vốn, kỹ thuật công nghệ, và tài nguyên. Như vậy xét trong một quốc gia muốn phát triển nên kinh tế quốc dân ngoài nhân lực, kỹ thuật công nghệ và tài nguyên thì cần phải có vốn.
Vốn kinh doanh của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản dùng cho kinh doanh:
Về phương diện vật chất vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà cửa, kho tàng, vật kiện trúc, vật tư hàng hoá…là các phạm trù gắn với nền sản xuất hàng hoá.
Vốn có thề là tiền như tiền Việt nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý…Nhưng tiền chỉ có thể trở thành hàng hoá khi nó được đưa vào lưu thông, sản xuất kinh doanh. tiền có sự luân chuyển từ hình thái vật chất sang tiền tệ với một lượng lớn hơn và ngày càng mở rộng.
Ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất nó còn tồn tại dưới dạng là những tài sản vô hình như quyền sở hữu công nghệ, uy tín của doanh nghiệp, nhãn mác độc quyền, kinh nghiệm tay nghề, nguồn nhân lực, nguồn chất xám…Những yếu tố này cũng được coi là vốn.
Đặc trưng của vốn
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước can thiệp và kiểm soát trực tiếp mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Đồng tiền về mặt lý thuyết mang đầy đủ năm chức năng như lý luận của Mác ( trao đổi, cất trữ, lưu thông, thanh toán, quốc tế) nhưng thực tế không đúng như vậy. Nhà nước thâu tóm tất cả hoạt động của nền kinh tế, quyết định đến các vấn đề trong kinh tế từ kế hoạch đến các bước thực hiện, nhu cầu về vốn hầu như không tồn tại.
Chuyển sang cơ chế thị trường mọi hoạt động đều thay đổi, nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết ở tàm vĩ mô, các doanh nghiệp tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trong quá trình hoạt động ấy đồng tiền thực hiện được đúng chức năng vai trò nhiệm vụ vốn có, khi đó vốn ngày càng trở thành nhu cầu bức xúc quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Vốn có các đặc trưng sau:
Một là: Vốn phải đại diện cho một lượng gía trị tài sản, điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng gía trị của những tài sản hữu hình. Những tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy móc, đất đai, nguyên liệu,… được sử dụng vào sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm mới. Nhưng tài sản hiện vật sử dụng cá nhân không đưa vào sản xuất không được gọi là vốn, chính từ đặc điểm này mà ta có thể huy động được một nguồn vốn khá lớn từ những tài sản xã hội còn đang cất trữ chưa được sử dụng.
Hai là: Vốn phải vận động và sinh lợi. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì tiền đó phải được vận động và sinh lời. Trong quá trình vận động tiền thay đổi hình thái biểu hiện: Đầu tiên tiền được đưa vào sản xuất nó trở thành vốn, sau một chu kỳ hoạt động vốn trở thành điểm xuất phát ban đầu với lượng giá trị lớn hơn. Phần dôi ra đó chính là lợi nhuận, là khả năng sinh lời của vốn. Tuy nhiên để đảm bảo chức năng sinh lời thì người sử dụng vốn phải biết qui luật vận động của vốn, nắm bắt được thời cơ để vốn hoạt động một cách có hiệu quả.
Ba là: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới phát huy được tác dụng. Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh vốn phải được tích tụ thành món lớn. Do đó các doanh nghiệp không những chỉ khai thác tiềm năng về vốn của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn như nhận vốn liên doanh, phát hành cổ phần, vay vốn…
Bốn là: Vốn có giá trị mặt thời gian - điều này cũng có nghĩa là phải xem xét giá trị thời gian của đồng vốn. Có nhiều yếu tố tác động từ lạm phát, sự biến động của giá cả…
Năm là: Vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định. Mỗi một đồng vốn đều có chủ sở hữu nhất định . Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ, ở đâu có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả. Ngược lại chỉ khi xác định rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới hiệu quả. Cũng tuy theo hình thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn, hoặc người sở hữu vốn tách khỏi người sử dụng vốn. Song dù trong trường hợp nào thì người sở hữu vốn vẫn phải được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu vốn của mình. Đây là nguyên tắc huy động và quản lý vốn.
Sáu là: Trong nền kinh tế thị trường vốn phải được quan niệm là một loại hàng hoá đặc biệt. Những người sẵn có thể đưa vốn vào thị trường còn có những người khác cần có vốn lại tới thị trường này. Quyền sở hữu vốn không di chyển nhưng quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay, nợ. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi xuất tức là họ phải trả gía cho quyền sử dụng vốn. Như vậy khác với các hàng hoá thông thường khác hàng hoá vốn khi bị bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà người sở hữu của nó chỉ mất quyền sử dụng. Người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải trả cho người sở hữu vốn một khoản tiền được gọi là lãi suất.
Bẩy là: trong nền kinh tế thị trường vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền các tài sản hữu hình mà nó còn được biểu hiện bằng giá trị những tài sản vô hình khác: vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sang chế, bí quyết công nghệ…Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ thì những tài sản vô hình ngày càng phong phú, đa dạng và chúng ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì vậy tất cả những tài sản vô hình này đều phải được lượng hóa để qui về gía trị. Vấn đề này rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá doanh nghiệp, khi xác định giá trị cổ phần phát hành, khi bán hoặc thanh lý tài sản…
Trên đây là các đặc trưng cơ bản của vốn, có thể khái quát lại: vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của toàn bộ tài sản đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Nắm được các đặc trưng của vốn và hiểu được quy luật vận động của nó sẽ là điều kiện tiên quyết để các tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng vốn có hiệu quả
Phân loại vốn
Vốn được phân loại theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mục đích quản lý mà doanh nghiệp sử dụng hình thức phân loại phù hợp. Vốn được phân thành vốn vay, vốn ngắn hạn, vốn dài hạn, vốn tự bổ sung, vốn do ngân sách nhà nước cấp, vốn liên doanh liên kết…nhưng về cơ bản vốn được phân loại trên một số tiêu thức chính:
à Trên giác độ phương thức chu chuyển vốn.
Đây là tiêu thức phân loại vốn chủ yếu nhất, có hiệu quả nhất trong việc quản lý vốn, căn cứ theo tiêu thức này thì vốn được phân thành 2 loại vốn cố định và vốn lưu động
Vốn cố định
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu như máy móc, thiết bị , nhà xưởng, công trình kiến trúc, chi phí mua phát minh sáng chế … tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định có hai thuộc tính như mọi hàng hoá khác là giá trị và giá trị sử dụng , nó được mua bán, trao đổi trên thị trường
Đối với các doanh nghiệp khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải ứng trước một lượng tiền tệ nhất định để mua sắm tài sản cố định, vốn đầu tư để mua sắm tài sản cố định này được goi là vốn cố định của doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó mà sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định lại được giải quyết bởi đặc điểm của tài sản cố định. Quy mô vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định.
Tài sản cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất cùng với mức độ hao mòn tài sản cố định sẽ có một phần vốn cố định thể hiện qua các chu kỳ sản xuất tương ứng với giá trị hao mòn tài sản cố định. Đến khi tài sản cố định hết giá trị sử dụng thì vốn cố định cũng hoàn thành một vòng luân chuyển của nó.
Tài sản cố định còn được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, cũng tuỳ thuộc vào phương thức quản lý mà doanh nghiệp ứng dụng hợp lý:
Theo hình thái thể hiện: tài sản cố định bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản biểu hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, đất đai…
Tài sản cố định vô hình là những tài sản không biểu hiện bằng các hình thái hiện vật cụ thể. Đó là những khoản chi cho phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, các chi phí đầu tư ban đầu cho việc khảo sát thăm dò, chi phí cho việc đào tạo cán bộ…
Do tài sản cố định có chu kỳ vận động dài do đó sau nhiều năm mới có thể thu hồi đủ vốn ban đầu đã đầu tư nên đồng vốn luôn bị đe doạ bởi những rủi ro những nguyên nhân khách quan làm thất thoát vốn. Phân loại tài sản cố định theo hình thái này giúp doanh nghiệp trong việc quản lý và tính toán khấu hao chính xác và hợp lý.
Ngoài ra tài sản cố định còn phân loại theo hiện trạng sử dụng: tài sản cố định chia thành tài sản cố định đang dùng, tài sản cố định chưa dùng và tài sản cố định chờ thanh lý.
Theo sự phân chia này doanh nghiệp sẽ nắm bắt được tình hình sử dụng vốn cố định hiện tài cũng như khả năng sử dụng tiềm tàng để có thể điều chỉnh lại cơ cấu vốn cố định một cách hợp lý tránh tình trạng lãng phí do sự tồn đọng vốn chưa sử dụng một cách có hiệu quả.
Như vậy: vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiển giá trị của tài sản cố định. Nó có thể tham gia toàn bộ hoặc một phần vào quá trình sản xuất nhưng chỉ luân chuyển giá trị từng phần vào giá trị sản phẩm, phần giá trị luân chuyển này sẽ trở về doanh nghiệp sau khi quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá kết thúc.
vốn lưu động
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiển toàn bộ tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục. Tài sản lưu động là loại tài sản mà thời gian thu hồi luân chuyển thường trong vòng 1 năm hoặc không quá 1 chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động có đặc điểm gồm nhiều loại tồn tại ở nhiều khâu của quá trình sản xuất kinh doanh và biến động rất nhanh, do đó việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động như thế nào ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự vận động của tài sản lưu động được diễn ra theo một qui trình nhất định : T – H - Sx ….H’ - T’
Giai đoạn 1: T – H: doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư mua sắm nguyên nhiên liệu, các loại đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh
Giai đoạn 2: Sx …: đây là giai đoạn các vật tư nguyên nhiên liệu đầu vào được đưa vào quá trình sản xuất, cùng với lao động con người và các loại máy móc thiết bị cần thiết các đối tượng lao động chuyển sang hình thái thể hiện vật chất khác là thành phẩm hoặc sản phẩm dở dang hoặc sản phẩm đã hoàn thành.
Giai đoạn 3: T’ – H’: giai đoạn hàng hoá được kiểm dịch và tung ra thị trường.
Toàn bộ đối tượng lao động ở giai đoạn 1 và 2 được gọi là tài sản lưu động. Như vậy vốn lưu động tham gia vào quá trình sản xuất và chuyển qua nhiều hình thái khác nhau. Lúc đầu là tiền tệ, sau đó là hình thái dự trữ hàng hóa rồi cuối cùng quay về hình thái tiền tệ ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn.
Vốn lưu động gắn chặt với từng bước thực hiện của hoạt động sản xuất kinh doanh, như vậy để sử dụngvốn lưu động có hiệu quả thì phải căn cứ vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doan, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, tránh tình trạng ứ đọng vốn, hay thiếu vốn.
à Trên giác độ nguồn hình thành của vốn:
Vốn được phân chia thành vốn tự có và vốn vay:
â vốn tự có( vốn chủ sở hữu):
Vốn tự có là nguồn vốn thuộc sở hữu của các chủ sở hữu doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. doanh nghiệp về mặt pháp lý là người sở hữu nguồn vốn này có toàn quyền sử dụng chúng, tỷ trọng vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn vốn phản ảnh mức độ sở hữu và chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh.
ở mỗi loại hình sở hữu doanh nghiệp khác nhau thì nguồn vốn này cũng có nguồn khác nhau:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: thì nguồn vốn này là vốn ngân sách, ngân sách nhà nước cấp một phần vốn ban đầu thì doanh nghiệp bắt đầu hoạt động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp sau đó, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của ngân sách nhà nước cấp. Bên cạnh đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cũng có thể có được nguồn tài trợ của nhà nước thông qua việc cấp tài sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị…
- Đối với các doanh nghiệp cổ phần: nguồn vốn tự có hình thành từ đóng góp của các cổ đông bằng việc phát hành và bán cổ phiếu công ty trên thị trường khi sáng lập công ty. Trong quá trình hoạt động của mình doanh nghiệp cũng có thể tăng lượng vốn này bằng cách phát hành thêm cổ phiếu ra thị trường…
- Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn…: nguồn vốn tự có là phần vốn góp của các chủ doanh nghiệp chủ đầu tư bỏ ra để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh khi mới thành lập hoặc đầu tư dự án, theo qui định của pháp luật, số vốn pháp định đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc không thấp hơn tổng vốn đầu tư các dự án nếu dùng để đầu tư thực hiện dự án.
â Vốn nợ( nợ phải trả):
Nếu như với vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp có thể sử dụng mà không có sự ràng buộc nào thì vốn nợ là khoản vốn mà doanh nghiệp phải cam kết thanh toán, doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng vốn trong phạm vi những ràng buộc nhất định mà không có quyền sở hữu. trong mối quan hệ với vốn nợ thì doanh nghiệp là con nợ, có nghĩa vụ trả lãi số vốn vay và hoàn trả gốc vay. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tiến hành vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau như vay các tổ chức tín dụng ( ngân hàng, công ty tài chính…), từ dân cư trong và ngoài nước, từ các tổ chức kinh tế xã hội dưới các hình thức như tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại , …Sử dụng vốn nợ doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí nhờ thuế, nhưng cũng không phải có lợi hoàn toàn, vì bên cạnh đó còn các yếu tố về khả năng kinh doanh, khả năng trả nợ, tỷ lệ lãi vay…
Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp… song tất cả các mục tiêu đó đều nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Do đó mỗi doanh nghiệp phải có cơ cấu vốn hợp lý, cân nhắc các yếu tố bên trong và bên ngoài để đưa ra các quyết định nhằm tối thiểu hóa chi phí, tăng gía trị tài sản của chủ sở hữu.
à Theo quá trình tuần hoàn vốn:
Vốn của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
- Vốn dự trữ: là hiện thân bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản dự trữ trong doanh nghiệp. Tài sản dự trữ là các loại tài sản chưa được đưa vào quá trình sản xuất hoặc lưu thông như giá trị còn lại của tài sản cố định, nguyên vật liệu tồn kho, tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng.
- Vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị sản xuất như sản phẩm dở dang đang nằm trên dây chuyền sản xuất, các loại chi phí tiền lương chi phí quản lý…
- Vốn lưu thông là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản lưu thông của doanh nghiệp. Tài sản lưu thông của doanh nghiệp là loại tài sản đang tồn tại trên kĩnh vực lưu thông như hàng hoá gửi bán chi phí bán hàng các khoản phải thu. Sau quá trình lưu thông giá trị sản phẩm được thực hiện vốn của doanh nghiệp được thu về với hình thái tiền tệ như ban đầu nhưng với số lượng thường là lớn hơn và vòng chu chuyển của vốn đã hoàn thành.
Trên đây là các cách phân loại vốn cơ bản của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức phân loại khác nhau tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý vốn sao cho hợp lý và dễ quản lý nhất.
1.1.3 Vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Bất kể một hoạt động nào muốn thực hiện được đều phải có những tiền đề cơ bản. ví dụ như để nấu được cơm thì trước hết phải có gạo và nước. Và để hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được thực hiện thì trước hết phải cần có vốn.
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có thể thuộc sở hữu nhà nước, cá nhân, tập thể. Sở hữu cá nhân nếu số vốn đó nằm trong công ty tư nhân. sở hữu tập thể nếu số vốn đó nằm trong công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hình thành từ nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp thuộc sở hữu nhà nước. Nhưng dù ở hình thức sở hữu nào thì vai trò của vốn cũng không thay đổi.
Với mọi doanh nghiệp dù ở hình thức nào thì muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được đều phải có lượng vốn nhất đinh. Đây là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình kinh doanh mà luật qui định doanh nghiệp phải có số vốn pháp định nhất định. Tuỳ theo nguồn vốn kinh doanh cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp có các tên gọi khác nhau như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…Có vốn doanh nghiệp mới có điều kiện để trang bị các thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như văn phòng, phương tiện hoạt động, … cùng với việc ứng dụng khoa học vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn cũng quyết định đến khả năng đổi mới thiết bị, công nghệ, phương pháp quản lý,…của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động.
Số lượng vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những tiêu thức quan trọng để xếp doanh nghiệp vào qui mô lớn, hay nhỏ và nó cũng là điều kiện để sử dụng các tiềm năng hiện có cũng như các yếu tố đầu vào doanh nghiệp. ví dụ khi doanh nghiệp có ít vốn thì chỉ có thể sử dụng các loại máy móc có công nghệ trung bình và sử dụng nhiều nhân công. Ngược lại doanh nghiệp có lượng vốn lớn thì có khả năng sử dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm được nhiều chi phí và nhân công. Ngoài ra vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ còn quyết định đến qui mô thị trường và khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp vốn còn đóng vai trò thể hiện ở chức năng giám đốc tài chính đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể đánh giá có hiệu quả kinh doanh hay không thông qua các chỉ tiêu sinh lời.
Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục từ khoản mua sắm vật tư, sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có các bí quyết công nghệ tiên tiến để nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện được cả quá trình trên thì doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư.
Bên cạnh đó vốn còn ảnh hưởng đén phạm vi hoạt động đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp bởi tất cả nhũng hoạt động xây dựng phương án kinh doanh đầu tư máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm, phân tích thị trường… đều phụ thuộc vào quy mô vốn nhất định.
Việc đảm bảo tốt nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp trong việc chống đỡ được những tổn thất, rủi ro, biến động thị trường, khủng hoảng tài chính…trong quá trình hoạt động, đặc biệt là những ngành kinh doanh nhiều rủi ro như ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường cùng với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc có vốn và tập trung vốn nhiều hay ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh. Đồng thời nó cũng là nguồn lực để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp, là điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược, kinh doanh, và nó cũng là chất keo để chắp nối, kết dính các quá trình kinh tế là dầu nhớt để bôi trơn cỗ máy kinh tế vận động.
Như vậy vai trò của vốn rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng chi thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn thì càng có thể chủ động trong kinh doanh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh doanh không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất cơ hội kinh doanh, cũng như vai trò của mình trên thị trường mất bạn hàng thường xuyên ổn định không tạo ra sức mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
Nhận biết được vai trò của vốn trong kinh doanh, nhưng để có được lượng vốn cần thiết thì nhất thiết doanh nghiệp phải có các biện pháp tạo lập hữu hiệu và phù hợp, đồng thời phải có chính sách sử dụng hiệu quả và hợp lý. Tuy nhiên sử dụng hình thức tạo lập nào, thời hạn dài hay ngắn, chi phí huy động cao hay thấp… bắt buộc doanh nghiệp phải luôn có sự cân nhắc, vừa đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa tối thiểu hoá chi phí, hạn chế thấp nhất rủi ro nhằm thực hiện được các mục tiêu của mình.
Mặt khác mỗi doanh nghiệp đều có các đặc điểm riêng, có những lợi thế riêng và những hạn chế nhất định. Chính vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tự đánh giá phân tích những ưu và nhược điểm của mình để tìm ra những phương thức tạo lập vốn phù hợp nhất hiệu quả nhất phát huy khả năng tiểm ẩn và hạn chế những nhược điểm.
1.2 Tạo lập vốn, các hình thức tạo lập và các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn
1.2.1 Khái niệm tạo lập vốn
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nhưng sử dụng hình thức nào phù hợp nhất mang lại hiệu quả cao nhất còn là vấn đề khó khăn của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt không chỉ ở thị trường tiêu thụ mà cả ở thị trường vốn, thì vấn đề tạo lập vốn và phương thức tạo lập vốn trở nên hết sức cấp thiết, luôn được các nhà quản lý đặt lên hàng đầu. Để giải quyết nó thì trước hết doanh nghiệp phải chủ động, tích cực tìm kiếm các nguồn để thu hút được một lượng vốn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. Đó chính là cách hiểu về tạo lập vốn.
Tạo lập vốn được hiểu là các phương thức huy động mà doanh nghiệp sử dụng để nhằm thiết lập nguồn tài chính để đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình tạo lập vốn được bắt đầu từ khâu xác định nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, sau đó là việc lập các kế hoạch huy động vốn, có gắn với thời gian và phương thức huy động. Cuối cùng tiến hành huy động vốn.
Để công tác tạo lập vốn thành công thì trong mỗi giai đoạn của quá trình tạo lập vốn phải được phân tích và lựa chọn cho phù hợp với điều kiện từng môi trường hoạt động và lĩnh vực mà mình kinh doanh.
1.2.2Các hình thức tạo lập vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng
1.2.2.1 Tạo lập từ nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của một doanh nghiệp thuộc bất kể loại hình doanh nghiệp nào tổng hợp chung gồm các bộ phận sau:
vốn góp ban đầu ( vốn tự có)
Nguồn tích luỹ từ lợi nhuận không chia
Vốn tăng thêm từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp liên doanh
đ Vốn góp ban đầu ( vốn tự có)
Đây là vốn ban đầu do các chủ sở hữu đóng góp khi thành lập doanh nghiệp. Lượng vốn này được tạo lập từ nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Vốn tự có là vốn do nhà nước cấp phát và bổ sung. Việc giao vốn cho các doanh nghiệp nhà nước do cục quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp trước đây và hiện nay là cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc bộ tài chính đảm nhận có sự chứng kiến của các đại diện cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp nhà nước tài trợ hầu như toàn bộ vốn kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế, nên có hiện tượng ỉ lại vào sự bao cấp của nhà nước. Hậu quả là làm giảm tính năng động của các xí nghiệp trong việc chủ động khai thác các nguồn vốn cũng như tìm kiếm các giải pháp để bảo toàn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Khi bước sang cơ chế thị trường đi đôi với việc mở rộng và khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, chính phủ đã xúc tiến các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc doanh nhằm giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp chủ động bổ sung phần thiếu hụt bằng các nguồn tài trợ khác.
- Đối với công ty cổ phần: vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phần. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty cổ phần, việc phân chia quyền kiểm soát và lợi nhuận sau thuế căn cứ vào tỉ lệ vốn góp. Trong công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau, qui định quyền và nghĩa vụ của các cổ đông.
- Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: vốn góp ban đầu do các bên tham gia đóng góp theo tỉ lệ thoả thuận và đây là căn cứ để phân chia lợi nhuận.
- Đối với công ty hợp danh: các thành viên cũng tiến hành góp vốn để thành lập công ty nhưng được phân chia thành hai loại đối tượng: vốn do thành viên hợp danh đóng góp là yếu tố chính để thành lập doanh nghiệp và trong quá trình hoạt động, các thành viên này tham gia quản lý điều hành hoạt động của công ty; còn thành viên góp vốn tham gia vào công ty hợp danh chỉ được phân chia lợi nhuận theo qui định của điều lệ công ty.
- Đối với doanh nghiệp liên doanh thì nguồn vốn của doanh nghiệp không đơn thuần là vốn góp của các tổ chức hoặc cá nhân trong nước hay vốn ngân sách nhà nước cấp, nó còn có sự tham gia góp vốn của các bên nước ngoài hay doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là vốn do nhà đầu tư nước ngoài mang sang để kinh doanh. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp này tối thiểu phải bằng một tỉ lệ nào đó so với vốn pháp định do pháp luật qui định.
Vốn góp ban đầu này có qui mô phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà quan trọng hàng đầu là luật pháp. Nhà nước qui định mức vốn ban đầu tối thiểu là vốn pháp định hay vốn điều lệ để thành lập doanh nghiệp. Vốn này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn góp ban đầu là một trong những nguồn tạo lập nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ lợi nhuận.
đ Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại
Lợi nhuận để lại là một bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và hấp dẫn của các doanh nghiệp vì nó giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp nhà nước việc tái đầu tư không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước.
Mặt khác đối với công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liện quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận số lợi nhuận đó nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì cổ phiếu có thể bị giảm sút. Do đó để đảm bảo mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu mà không làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số vấn đề liên quan như:
Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước
Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
Hiệu quả của việc tái đầu tư
đ Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới
Phương thức tạo lập này chỉ thực hiện ở công ty cổ phần vì chỉ ở công ty cổ phần mới có hình thức cổ đông, quyền sở hữu tập thể. Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn chứng nhận quyền sở hữu một phần tài sản và thu nhập của cổ đông đối với công ty cổ phần. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng việc phát hành cổ phiếu. Đây là nguồn tài trợ dài hạn và rất ổn định cho doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu mới cần phải đánh gía và lựa chọn kỹ càng bởi có nhiều loại cổ phiếu với các tính chất khác nhau:
- cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán điều đó chứng minh được tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Tuy nhiên việc phát hành cổ phiếu còn có những hạn chế và ràng buộc nhất đinh, chứ không phải chỉ đơn thuần đưa cổ phiếu ra thị trường. Giới hạn phát hành là qui định ràng buộc có tính pháp lý, chịu sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ của uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Phát hành cổ phiếu thường có một số thuận lợi sau:
+ đối với nhà phát hành:
Tạo lập được vốn chủ sở hữu với độ an toàn khi sử dụng cao do không phải lo hoàn trả gốc, có thể không phải trả cả lãi
Là nguồn tài trợ dài hạn và ổn định
Rủi ro được tiếp tục phân tán cho các cổ đông mới nên độ rủi ro tính trên một đồng vốn chủ sở hữu giảm đi
+ đối với người mua:
Có quyền yêu cầu về thu nhập nên công ty hoạt động càng hiệu quả, cổ tức càng cao do không giới hạn về thu nhập
Có quyền kiểm soát đối với hoạt động của công ty
Trở thành chủ sở hữu công ty, lợi nhuận kỳ vọng từ khoản đầu tư này cao hơn so với chủ nợ.
Bên cạnh những thuận lợi rất hấp dẫn thì cổ phiếu thông thường cũng có những hạn chế:
+ đối với nhà phát hành:
Quyền kiểm soát bị chia sẻ
Do rủi ro của việc sử dụng vốn từ phát hành cổ phiếu thấp nên khả năng sinh lời sẽ giảm đi
Chi phí vốn cao hơn chi phí nợ vì đây là chi phí cao nhất trong các loại vốn huy động
Chi phí vốn chủ sỏ hữu là chi phí sau thuế nên không được lợi từ khoản tiết kiệm nhờ thuế
+ đối với người mua:
Quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản là sau cùng
Rủi ro gánh chịu là cao hơn so với chủ nợ ( rủi ro không thu hồi được vốn đầu tư)
- Cổ phiếu ưu tiên: loại cổ phiếu này thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định, chủ sở hữu cổ phiếu ưu tiên có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Một đặc điểm khác là cổ đông cổ phiếu ưu tiên vẫn là chủ sở hữu công ty nhưng không có quyền tham gia biểu quyết không được tham gia đại hội đồng cổ đông, nó mang tính chất như thành viên góp vốn trong công ty hợp danh.
Một vấn đề rất quan trọng khi đề cập đến cổ phiếu ưu tiên, đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. mặc dù vậy cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm nổi bật:
tạo lập được vốn chủ sở hữu (huy động vốn vô thời hạn với chi phí thấp so với phát hành cổ phiếu thường.
Không phải chia xẻ quyền kiểm soát
Không bị ràng buộc bởi trách nhiệm trả nợ gốc
Như vậy việc lựa chọn phát hành cổ phiếu mới hay sử dụng lợi nhuận không chia để nhằm tạo lập vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Nếu đã lựa chọn phát hành cổ phiếu mới thì vấn đề quyết định loại cổ phiếu nào cũng rất quan trọng bởi nó có liên quan đến chi phí vốn của từng loại cổ phiếu. Trên cơ sở phân tích so sánh những điểm lợi và bất lợi của từng phương thức tạo lập, doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định chính xác, phù hợp cho mình.
1.2.2.2 Tạo lập từ nguồn tín dụng
Nguồn tín dụng là nguồn quan trọng nhất của bất kể doanh nghiệp nào, bởi vì sử dụng nguồn này doanh nghiệp có những ưu thế hơn sử dụng vốn chủ sở hữu, ở một số điểm sau:
- Khả năng sinh lời của khoản nợ lớn hơn khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu do rủi ro sử dụng nợ cao hơn tức là lợi nhuận kì vọng cao hơn.
- Các khoản lãi phải trả cho khoản nợ là đối tượng khấu trừ thuế ( chi phí trước thuế ) nên doanh nghiệp sẽ được hưởng khoản tiết kiệm nhờ thuế.
- Chi phí nợ nhỏ hơn chi phí vốn chủ sở hữu ( đối với doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định)
Do sử dụng nợ có những ưu thế trên nên các doanh nghiệp thường khai thác triệt để nguồn này để tạo đòn bẩy tài chính khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu.
đ Tín dụng ngân hàng
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn này xuất hiện từ sớm trong lịch sử và tiếp tục khẳng định ưu thế của nó cho đến ngày hôm nay và cả tương lai. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển kinh tế nhiều loại hình ngân hàng đã ra đời với nhiều loại hình dịch vụ để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Ngay trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng cũng đã rất đa dạng. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương thức cho vay khác nhau như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay hợp vốn… tuỳ thuộc vào mục đích vay của doanh nghiệp là để tài trợ cho dự án, đầu tư tài sản cố định hay vay bổ sung vốn lưu động. Ngân hàng thoả mãn các nhu cầu của khách hàng với các thời hạn khác nhau ngắn, trung, và dài hạn.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm là linh hoạt, huy động được một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, doanh nghiệp chỉ phải chịu trách nhiệm với một chủ nợ ngân hàng.
Bên cạnh đó nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn ( lãi suất)
- Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tiến hành phân tích để quyết định có nên cho vay hay không.
- Các điều kiện bảo đảm tiền vay: có những doanh nghiệp được ngân hàng vay vốn theo hình thức tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba nhưng cũng co doanh nghiệp muốn vay được vốn ngân hàng cần phải có tài sản đảm bảo phổ biến là tài sản thế chấ. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay. Do đó, doanh nghiệp cần tính đến các yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.
- Sự kiểm soát của ngân hàng: trong quá trình cho vay ngân hàng tiến hành kiểm soát doanh nghiệp nhằm đảm bảo doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích. Nói chung sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp nhưng trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”.
- Lãi suất vay vốn (chi phí sử dụng vốn): lãi suất phản ánh chi phí sử dụng vốn. Yếu tố này phụ thuộc vào tình hình trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Đây là hình thức tạo lập vốn phổ biến và nó chiếm gần 90% nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Cùng với nguồn tín dụng ngân hàng doanh nghiệp còn có thể sử dụng nhiều hình thức khác như tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu (vay trên thị trường chứng khoán )
đ Tín dụng thương mại
Thông thường quan hệ mua bán giữa các doanh nghiệp không kết thúc ngay ở một thời điểm, nghĩa là dòng tiền tài chính xuất hiện chậm hơn dòng vật chất, nếu doanh nghiệp là người bán hàng thì đây là chính sách tín dụng khách hàng, còn nếu doanh nghiệp là người mua hàng thì đây là trường hợp doanh nghiệp được hưởng một khoản tín dụng nhà cung cấp. Tín dụng khách hàng và tín dụng nhà cung cấp thực chất chỉ là hai mặt của tín dụng thương mại.
Đối với doanh nghiệp đây là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng, linh hoạt trong kinh doanh, có thể đáp ứng nhu cầu cấp bách của doanh nghiệp, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác các quan hệ trong kinh doanh một cách lâu bền.
Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại không phải là không có chi phí. Chi phí được tính vào giá thành sản phẩm, dịch vụ và có thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được thoả thuận khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung, hay khi giao hàng hóa. Do vậy các doanh nghiệp không nên quá lạm dụng nguồn vốn tín dụng thương mại bởi vì nếu quy mô quá lớn doanh nghiệp dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn tới phá sản.
đ Tín dụng thuê mua
Do nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng lớn, để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất hiện nhiều hình thức tài trợ vốn trong đó có hình thức tín dụng thuê mua.
Tín dụng thuê mua là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản qui định tại hợp đồng cho thuê ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Thuê mua là nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hoặc là hoạt động của một công ty độc lập. Nghiệp vụ thuê mua có những ưu việt và những bất lợi nhất định. Song do những ưu việt vượt trội nên nó đã có lịch sử rất lâu trên thế giới. Ngày ngay nghiệp vụ này đang phát triển mạnh rộng khắp ở các nước và bắt đầu phát triển ở nước ta đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Lợi ích của thuê tài chính đối với người thuê rất lớn:
- Người thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Bởi vì nếu vay ngân hàng thì không cung ứng đủ điều kiện mà họ đặt ra, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, uy tín trên thị trường không cao. Chẳng hạn như doanh nghiệp không phải thế chấp khi vay, bản thân doanh nghiệp có thể tự tìm cho mình đối tác phù hợp với nhu cầu…
- Phương thức này cho phép rút ngắn thời gian triển khai đầu tư thiết bị đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh do người thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản đàm phán hoặc thoả thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu công ty cho thuê tài trợ cho mình.
- Thông qua nghiệp cụ bán và tái thuê các doanh nghiệp có thể dịch chuyển vốn đầu tư cho các dự án khác đang cần vốn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn tiếp tục được sử dụng.
- Trong điều kiện bùng nổ công nghệ như hiện nay chỉ trong một thời gian ngắn một tài sản trở lên lạc hậu về công nghệ. Vì vậy nếu đi thuê tài chính, doanh nghiệp có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất. Do những điều kiện để doanh nghiệp được thuê tài chính đơn giản hơn vay ngân hàng nên doanh nghiệp phải chấp nhận mức chi phí cao hơn. Đó là số tiền phải đủ để bù đắp chi phí mua tài sản cố định tại thời điểm bắt đầu hợp đồng và mang lại thu nhập cho bên cho thuê.
đ Phát hành trái phiếu ( vay trên thị trường chứng khoán)
Doanh nghiệp có thể tạo lập vốn trên thị trường chứng khoán qua việc phát hành trái phiếu công ty. Trái phiếu công ty là một công cụ nợ dài hạn được doanh nghiệp phát hành để tạo lập vốn từ các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn của trái phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán tiền gốc cho người mua. Thông thường trái phiếu được phân thành hai loại:
- Trái phiếu có lãi xuất cố định: là loại trái phiếu mà lãi suất được ghi ngay trên bề mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Cả người đi vay (doanh nghiệp) và người nắm giữ trái phiếu( người cho vay) đều biết rõ khoản nợ và khoản thu của mình.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là loại trái phiếu mà lãi suất của nó có thể biến động theo một công thức chỉ số hoặc theo những cách thức khác được dự đoán ngay khi phát hành. Công thức biến động này thường gắn liền với những biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu công ty phải hội tụ đủ các điều kiện quy định của pháp luật ban hành về lưu thông chứng khoán các được sự chấp nhận của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thị trường chứng khoán.
Mặt khác để phát hành chứng khoán thành công thì doanh nghiệp tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Lãi suất trái phiếu: lãi suất trái phiếu được đặt trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến cạnh tranh với trái phiếu công ty khác và trái phiếu chính phủ. đương nhiên người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được vì đó chính là chi phí vốn mà doanh nghiệp phải trả, tác động trực tiếp đến lợi nhuận.
- Kỳ hạn của trái phiếu: phải phù hợp với nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Kỳ hạn càng dài thì độ rủi ro đối với các nhà đầu tư càng lớn nên sẽ càng giảm tính hấp dẫn của trái phiếu. Doanh nghiệp cần phải cân đối giữa nhu cầu của doanh nghiệp và ý muốn của nhà đầu tư.
- Uy tín của doanh nghiệp: không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động.
1.2.2.3 Một số phương thức tạo lập khác
Ngoài các hình thức tạo lập vốn chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu và từ nguồn tín dụng doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức tạo lập từ nguồn liên doanh liên kết, từ nguồn vay từ các tổ chức nước ngoài.
Nguồn vốn liên doanh liên kết là hình thức cũng khá phổ biến trong nền kinh tế hiện nay, nó nhằm tích luỹ một số vốn lớn cho doanh nghiệp. Khi thực hiện một dự án đầu tư đầu tư nào đó mà doanh nghiệp không đủ vốn hoặc không muốn bỏ toàn bộ vốn dự án đầu tư thì doanh nghiệp có thể mời các đơn vị hoặc tổ chức kinh tế khác cùng tham gia góp vốn và thực hiện sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp và các chủ đầu tư cùng nhau góp vốn trong một thời gian tương đối dài, cùng chịu trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn, phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp. Việc góp vốn liên doanh liên kết này không chỉ thực hiện ở môi trường trong nước và cả thị trường ngoài nước. Với hình thức này doanh nghiệp không chỉ thực hiện việc huy động vốn mà còn thúc đẩy quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn
1.2.3.1 Các nhân tố khách quan
Đây là các nhân tố tồn tại ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp chỉ có thể dự đoán trước nhằm giảm thiểu những rủi ro và có các hướng đi phù hợp cho mình.
{ Trạng thái nền kinh tế
Doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế xã hội, với nhiều biến động mạnh mẽ. Do đó mà hoạt động doanh nghiệp trước hết chịu tác động của trạng thái kinh tế. Trạng thái nền kinh tế có các thăng bậc từ tăng trưởng, phát triển và suy thoái, mỗi một trạng thái đều có các tác động đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế suy thoái việc sử dụng nợ không những không tạo ra hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương mà còn làm giảm thu nhập của chủ sở hữu. Hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương nghĩa là doanh nghiệp sử dụng nợ với tỷ trọng tổng nguồn của doanh nghiệp càng cao thì thu nhập dành cho các chủ sở hữu càng lớn. Như vậy trong trường hợp này việc sử dụng nợ là có hại. Khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển nguồn lực kinh tế là rất lớn, do đó việc sử dụng nợ hay vốn chủ sở hữu đều đem lại kết quả như nhau. Trong giai đoạn này việc sử dụng nợ đem lại hiệu quả tích cực, nó có thể khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu một cách nhanh chóng do khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên ở bất kể thời kỳ nào thì doanh nghiệp cũng đều phải cân đối giữa vốn chủ sở hữu và nợ.
{ Chính sách kinh tế của nhà nước
Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế xã hội bằng nhiều công cụ kinh tế, cụ thể là ban hành các điều luật qui định thực hiện. Do đó trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào thì các doanh nghiệp cũng phải đề cập đến các qui định của nhà nước. Trước hết thể hiện ở việc qui định vốn pháp định hay vốn điều lệ của từng ngành nghề kinh doanh. Có những ngành nghề yêu cầu vốn pháp định phải lớn nhưng có ngành nghề có sự ưu đãi phát triển của nhà nước.
Một mặt quan trọng trong chính sách pháp luật của nhà nước là chính sách về thuế. ở đó thuế thu nhập doanh nghiệp tác động tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp thông qua ảnh hưởng đến chi phí nợ vay. Bởi vì chi phí nợ vay là chi phí trước thuế, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ thuế từ khoản này. Thuế suất thuế thu nhập càng cao phần tiết kiệm thuế càng lớn thì sử dụng nợ càng có lợi, càng khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ hơn.
Ngoài ra các chính sách khác như các qui định của nhà nước về thủ tục và điều kiện vay vốn, thủ tục và điều kiện phát hành chứng khoán, nhứng hạn chế trong quy mô và hình thức tài trợ của tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp… đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến chi phí sử dụng vốn cũng như việc doanh nghiệp có vay được vốn hay không.
{ Sự phát triển của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi mà doanh nghiệp có thể thu hút vốn và tạo lập vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả. Với hai dòng tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp, doanh nghiệp có nhiều cơ hội chọn lựa và khai thác nguồn vốn phù hợp với mình. Tuy nhiên một thị trường tài chính phát triển đòi hỏi thông tin về doanh nghiệp phải được công khai và mọi sự cạnh tranh là hoàn hảo, với sự can thiệp của nhà nước là thấp nhất, ở đó doanh nghiệp có nhiều thuận lợi trong việc tạo lập vốn. Còn trong những nền kinh tế mà thị trường tài chính còn ở giai đoạn đầu thì hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp sẽ bị hạn chế. Chẳng hạn khi phát hành chứng khoán, với thị trường tài chính phát triển sẽ góp phần tạo nên tính thanh khoản cho chứng khoán, khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp sẽ tăng lên. Và ngược lại, ở một thị trường kém phát triển thì chứng khoán khó lưu hành hơn.
Ngoài ra còn một số các yếu tố khách quan khác thuộc về môi trường tự nhiên như thiên tai lụt bão…xảy ra ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án tác động gián tiếp đến công tác huy động vốn doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc về địa bàn dân cư như thu nhập, mức sống, điều kiện kinh tế địa phương cũng là các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp.
1.2.2.2.Các nhân tố chủ quan
Nếu như các nhân tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp thì các nhân tố chủ quan lại thuộc về bản thân doanh nghiệp. Đây là các nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, sự tồn tại phát triển hay sự lụi tàn phá sản của doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố tác động, sau đây là các nhân tố cơ bản:
{ Mục đích sử dụng vốn hay chiến lược đầu tư
Bất kể hoạt động nào cũng có mục đích và kì vọng của hành động đó. Doanh nghiệp xác định mục đích cho việc tạo lập vốn của mình nhằm tài trợ cho khoản mục nào. Tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm của từng khoản mục mà doanh nghiệp có các hướng tạo lập vốn và đầu tư phù hợp. Với những khoản đầu tư cho tài sản cố định doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn tài trợ từ vốn chủ sở hữu hay nợ dài hạn. Do đặc điểm tài sản cố định là có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài, hao mòn được chuyển dần vào giá trị sản phẩm sản xuất và được thu hồi trong quá trình sản xuất kinh doanh thông qua hình thức lập quỹ khấu hao, nên doanh nghiệp có thể sử dụng chủ yếu từ nợ để tài trợ, phần lãi và gốc được trả đều đặn trong từng thời kỳ sản xuất. Đồng thời có thể tiết kiệm được chi phí nhờ thuế. Với tài sản lưu động thường xuyên thì lại được tài trợ bằng nguồn dài hạn và khi đó doanh nghiệp phải tìm hình thức tạo lập phù hợp như nguồn vốn chủ sở hữu hay nguồn vay dài hạn ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán…Với nhu cầu bổ sung thiếu hụt tạm thời doanh nghiệp sử dụng nguồn ngắn hạn như vay ngắn hạn ngân hàng hay nguồn tín dụng thương mại. Tóm lại tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư mà doanh nghiệp có chiến lược tài trợ khác nhau. Tuy nhiên trong doanh nghiệp cũng là tổng hoà của các mối quan hệ, hoạt động sản xuất cũng diễn ra theo một quá trình, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ các yếu tố. Như vậy doanh nghiệp phải có chiến lược đầu tư toàn diện, điều này liên quan đến cơ cấu vốn và chi phí vốn, hai yếu tố cũng hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp.
{ Chi phí vốn và cơ cấu vốn
Chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kì vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Để được sử dụng vốn thì doanh nghiệp phải trả cho người sở hữu hiện thời khoản vốn đó một khoản tiền gọi chung là chi phí vốn. Khoản chi phí này cao hay thấp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải tính toán lựa chọn đối tác để vay và các phương thức vay phù hợp với doanh nghiệp và đảm bảo mức lợi nhuận của doanh nghiệp, không thể vay khi chi phí tiền vay cao hơn mức lợi nhuận đem lại.
Cơ cấu vốn là cách mà mỗi doanh nghiệp thực hiện nhằm phân chia nguồn vốn của mình trong quá trình sử dụng. Cùng với chi phí vốn thì cơ cấu vốn là nhân tố có tác động không nhỏ tới quyết định tạo lập vốn của doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý ( cơ cấu vốn tối ưu), cơ cấu vốn này có thể thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Một cơ cấu vốn được xem là tối ưu khi nó đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, kết quả là chi phí vốn bình quân sẽ là thấp nhất.
Có bốn nhân tố tác động tới cơ cấu vốn:
- Thứ nhất, rủi ro trong kinh doanh. Đây là loại rủi ro tiềm ẩn trong tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp
- Thứ hai là chính sách thuế. thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chi phí của nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kịêm nhờ thuế. thuế suất cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên.
- Thứ ba, khả năng tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. Các nhà quản lý biết rằng tài trợ vốn vững chắc là một trong những điều kiện cần thiết để doanh nghiệp hoạt động ổn định và có hiệu quả. Nhu cầu vốn trong tương lại và những hậu quả thiếu vốn có ảnh hưởng quan trọng với mục tiêu cơ cấu vốn
- Thứ tư, sự bảo thủ hay phóng khoáng của nhà quản lý. Một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn, trong khi đó một số khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.
Bốn nhân tố trên tác động rất lớn đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một cơ cấu vốn khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng của tài sản cố định trong tổng tài sản cao hơn so với các doanh nghiệp thương mại. Do đó cơ cấu vốn của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với đặc điểm này nghĩa là các doanh nghiệp sản xuất cần nhiều nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định, còn các doanh nghiệp thương mại thì ưu tiên cho việc huy động các nguồn vốn ngắn hạn nhằm đầu tư vào tài sản lưu động.
{ Hiệu quả việc sử dụng vốn
Sử dụng vốn và tạo lập vốn có tác động qua lại với nhau, sử dụng vốn có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp, tạo lập vốn là cơ sở để có các quyết định sử dụng vốn. Doanh nghiệp có vốn mà không biết sử dụng có hiệu quả thì nguồn vốn đó không có tác dụng, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh, làm giảm thiểu lợi nhuận của doanh nghiệp tức là giá trị sở hữu doanh nghiệp giảm xuống. Ngược lại việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng khả năng tạo thêm vốn thông qua hoạt động của chính bản thân doanh nghiệp. Bởi nếu doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả sẽ là điều kiện tốt để doanh nghiệp có các phương thức thu hút vốn nguồn vốn từ các nguồn khác nhau, đồng thời khả năng tự tài trợ bằng nguồn nội bộ cũng tăng lên, làm tăng giá trị vốn chủ sở hữu doanh nghiệp.
Có rất nhiều chỉ tiêu đo hiệu quả sử dụng vốn, sau đây là một số các chỉ tiêu cơ bản đối với tất cả các doanh nghiệp:
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) = thu nhập sau thuế/ vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Doanh lợi tài sản (ROA) = thu nhập sau thuế/ tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố đinh = DT trong kỳ / VCĐ sử dụng bq
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Kỳ thu tiền bq = tổng số ngày trong kỳ/ vòng quay khoản phải thu trong kỳ
Vòng quay khoản phải thu = DT bán hàng trong kỳ/ các khoản phải thu bq
{ Uy tín doanh nghiệp
Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp. Có thể hiểu uy tín theo nghĩa rộng bao gồm uy tín trong thanh toán, uy tín trong sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng quá trình thực hiện hợp đồng, danh tiếng của doanh nghiệp trong ngành và trên thị trường. Với các doanh nghiệp lớn hoạt động lâu năm trên thị trường và được nhiều người biết đến thì việc huy động vốn thuận lợi và dễ dàng hơn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hoặc vừa bước chân vào thị trường. Bởi bất kể nhà đầu tư nào cũng không muốn mạo hiểm với số tiền của mình, khi đã quyết định đầu tư thì luôn kì vọng vào một giá trị lớn hơn họ sẽ nhận được trong tương lai. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc tạo dựng uy tín của doanh nghiệp là rất quan trọng, bởi sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở chất lượng, số lượng giá trị sản phẩm mà còn ở uy tín doanh nghiệp, hình ảnh của doanh nghiệp trong lòng các nhà đầu tư.
{ Chiến lược hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai
Nếu trong tương lai doanh nghiệp dự định đầu tư những dự án lớn thì ngay bây giờ các nhà quản lý doanh nghiệp đã phải lên kế hoặch tìm kiếm nguồn tài trợ. Công việc này không phải muốn là thực hiện được, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để có khối lượng lợi nhuận tích luỹ đủ lớn, các nhà quản lý thiết lập uy tín, tận dụng các mối quan hệ để kêu gọi nguồn hỗ trợ từ bên ngoài.
Trên đây là một số hình thức huy động vốn nói chung trong nền kinh tế thị trường, tuỳ từng loại hình doanh nghiệp khác nhau, đặc điểm kinh doanh khác nhau mà áp dụng các hình thức tạo lập vốn phù hợp.
1.3 Vốn trong công ty cổ phần: Một số những đặc điểm cơ bản
Bước vào nền kinh tế thị trường, cùng với nền sản xuất hàng hóa là sự cạnh tranh diễn ra ngày càng ngay ngắt, đòi hỏi bản thân mỗi doanh nghiệp và từng thành viên trong công ty phải lỗ lực hết mình cùng nhau sản xuất và phát triển. Trong xu thế đó các doanh nghiệp nhà nước cần phải tự khẳng định mình tự mình đứng vững trên thương trường mà bước ra khỏi sự bảo hộ của nhà nước. Hàng loạt các công ty cổ phần đã chính thức được triển khai, các doanh nghiệp nhà nước được chủ trương cổ phần hoá, các doanh nghiệp mới cũng được hình thành với cơ cấu cổ phần, hoạt động theo luật doanh nghiệp.
1.3.1Đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đã và đang được phổ biến rộng rãi, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Đặc điểm công ty cổ phần được quy đinh rất rõ trong luật doanh nghiệp. Sau đây là một số những đặc điểm cơ bản:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vị số vốn đã góp vào doanh nghiệp
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo qui định về chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc (hoặc tổng giám đốc). Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông thì phải có ban kiểm soát.
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết , là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần, quyết định các vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển dài hạn của công ty, quyết định các loại cổ phần, bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, quyết định tổ chức lại và giải thể công ty, quyết định sửa đổi bổ sung điều lệ công ty…Các vấn đề thuộc đại hội đồng cổ đông quyết định thường là biểu quyết và sẽ được thông qua khi có ít nhất 51% số cổ phần có quyền biểu quyết. Tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị được quy định tại Điều 80 luật doanh nghiệp. Hội đồng quản trị bầu ra Chủ tịch hội đồng quản trị trong số các thành viên hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm giám đốc ( tổng giám đốc). Giám đốc là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền và nhiệm vụ được giao.
Ban kiểm soát là cơ quan giám sát hoạt động của hội đồng quản trị và phải báo cáo tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Số lượng quyền hạn trách nhiệm và lợi ích của ban kiểm soát được quy định tại điều 88, 89 luật doanh nghiệp
1.3.2Đặc trưng của vốn trong công ty cổ phần
Vốn trong công ty cổ phần có một số điểm khác so với các loại hình doanh nghiệp khác ở chỗ, nó được xây dựng trên sự đóng góp của nhiều thành viên trong công ty. Mỗi một thành viên trong công ty là một chủ sở hữu của công ty, có quyền hạn và trách nhiệm theo phần vốn góp. Do đó các kết quả hoạt động của công ty đều có những tác động tới tất cả mọi thành viên trong công ty. Điều này làm nâng cao tinh thần làm việc của các thành viên trong công ty.
Việc tạo lập vốn trong công ty cổ phần cũng giống như các công ty khác, nó cũng bao gồm các hình thức truyền thống như tạo lập vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu và từ nguồn tín dụng. Tuy nhiên trong công ty cổ phần có một số điểm khác biệt là được phép phát hành cổ phiếu một hình thức tạo lập vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu. Đây là điểm thuận lợi nhất đối với riêng công ty cổ phần mà ở các hình thức công ty khác không có. Trong trường hợp có nhu cầu vốn chủ sở hữu doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức này để tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc phát hành cổ phiếu phải được sự thông qua của các cấp có liên quan. Cổ phiếu của công ty cổ phần được chia thành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên. Tính chất và đặc điểm của từng loại này đã được làm rõ trong phần phân loại vốn.
Chương II: thực trạng tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần may thăng long
2.1 Khái quát chung về công ty
Tên đầy đủ: Công ty cổ phần May Thăng Long
Tên thường gọi: Công ty May Thăng Long
Tên giao dịch đối ngoại: Thanhlong Garment joint stock Company
Tên viết tắt: Thaloga
Trụ sở chính: 250 – Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Nà Nội
2.1.1 Quá trình hình thành phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của CTCP May Thăng Long
2.1.1.1 Quá trình hình thành phát triển:
Công ty may Thăng Long được thành lập ngày 8/5/1958 theo quyết định của Bộ ngoại thương. Khi mới thành lập công ty có tên là Công ty may mặc xuất khẩu thuộc tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm, trụ sở văn phòng công ty đóng tại số nhà 15 phố Cao Bá Quát – Hà Nội, với số cán bộ ban đầu chỉ có 28 người, cơ sở gia công có 2000 người và khoảng 1700 máy may. Đây là những con số rất khiêm tốn nên những ngày đầu bước vào sản xuất công ty đã gặp không ít khó khăn. Mặt khác trong điều kiện khoa học kỹ thuật còn lạc hậu sản xuất còn nhỏ lẻ chưa có kinh nghiệm, sản phẩm của công ty là mặt hàng may mặc xuất khẩu, mặt hàng chưa có tiền lệ ở Việt Nam, bản thân công ty phải tự tìm tòi nghiên cứu để tìm hướng đi trong sản xuất cũng như trong tiêu thụ. Công ty đã phát động các phong trào thi đua sản xuất: “ nhiều, nhanh, tốt, rẻ”, cùng với việc đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, hạ giá thành, được triển khai ở tất cả các xí nghiệp nhà máy, công ty đã hoàn thành xuất sắc các kế hoạch năm. Trong năm đầu công ty đã đạt được 391.192 sản phẩm tương đương 112,8% kế hoạch. Trong những năm tiếp theo cùng với việc sản xuất thêm nhiều mặt hàng mới, công ty đã liên tục có thêm nhiều khách hàng nước ngoài là Đức, Liên Xô, Mông Cổ…công ty đã nhiều lần thay đổi địa điểm để phù hợp với nhu cầu sản xuất. Đến 7/1961 công ty chuyển trụ sở làm việc về 250 Minh Khai là trụ sở chính của công ty ngày nay. Về địa điểm mới với đầy đủ mặt bằng, tổ chức sản xuất được ổn định các bộ phận phân tán trước được thống nhất tạo thành dây chuyền sản xuất khép kín hoàn chỉnh từ khâu nguyên liệu đến cắt may, là, đóng gói.
Năm 1986 cơ chế bao cấp xoá bỏ, thay vào đó là cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình bạn hàng và đối tác. Năm 1990 Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, thị trường của công ty ngày càng thu hẹp, đứng trước thách thức khó khăn đó lãnh đạo công ty đã quyết định đầu tư mua sắm trang thiết bị mới thay thế máy móc thiết bị cũ đã lỗi thời lạc hậu, đồng thời cải tiến bộ máy quản lý để phù hợp hơn với yêu cầu mới. Công ty đã đầu tư hơn 20 tỷ đồng để thay thế toàn bộ thiết bị cũ, đồng thới nâng cấp nhà xưởng, cải tạo khu văn phòng làm việc… Theo định hướng công ty ngay từ năm 90 công ty đã hết sức chú trọng vào tìm kiếm và mở rộng thị trường mới, công ty đã kí kết nhiều hợp đồng bán sản phẩm cho nhiều công ty của Pháp, Đức, Thuỵ Điển, đồng thời đặt nền móng vào thị trường nội địa và thị trường Châu á như Hàn Quốc, Nhật Bản.
Năm 1991 công ty là đơn vị đầu tiên trong ngành may mặc được nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp. Tháng 6/1992, theo quyết định số 218/CN ngày 24/03/1993 của bộ công nghiệp nhẹ chuyển đổi tổ chức từ xí nghiệp thành công ty. Công ty may Thăng Long chính thức ra đời và là đơn vị đầu tiên trong các xí nghiệp phía bắc được chuyển sang mô hình tổ chức công ty.
Nắm bắt được xu thế phát triển của ngành công ty đã mạnh dạn đầu tư mở rộng địa bàn: xây dựng trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm tại 93 Ngô Quyền, Hà Nội; xây dựng khu kho ngoại quan và xưởng sản xuất ở Hải Phòng. Năm 1996 đầu tư 6 tỷ đồng để cải tạo nhà xưởng mua sắm thiết bị thành lập xí nghiệp may Nam Hải tại Nam Định.
Bắt đầu từ năm 2000 công ty thực hiện theo hệ thống ISO 9001 – 2000, hệ thống theo tiêu chuẩn SA 8000 và hiện đang xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000.
Năm 2003 công ty bắt đầu thực hiện tiến trình cổ phần hoá. Đầu năm 2004 công ty chính thức cổ phần hoá theo quyết định số 165/2003/QĐ/BCN ngày 14/10/2003 với vốn điều lệ hơn 23 tỷ đồng.
Công ty cổ phần may Thăng Long đã trải qua một chặng đường dài xây dựng và phát triển, là chặng đường đầy gian nan và thử thách. Nhưng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Công ty đã được đảng và nhà nước trao tặng nhiều huân chương cao quí.
2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của CTCP May Thăng Long
Công ty may Thăng Long là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, trực thuộc Tổng công ty dệt may, được tổ chức theo 2 cấp: cấp công ty và cấp xí nghiệp.
ỉ Cấp công ty
Từ ngày 1/1/2004 công ty may Thăng Long chuyển sang hoạt động theo phương thức cổ phần hoá. Do đó phương thức tổ chức quản lý của công ty đã chuyển từ tính chất tập trung vào một vài cá nhân lãnh đạo và chịu sự chi phối của cấp trên sang tính chất được tự quyết, lãnh đạo và kiểm soát của một tập thể những người đóng góp cổ phần.
ỉ Cấp xí nghiệp
Trong các xí nghiệp thành viên có ban giám đốc xí nghiệp gồm giám đốc xí nghiệp, các tổ trưởng sản xuất, nhân viên tiền lương… Dưới các trung tâm và cửa hàng có các cửa hàng trưởng và các nhân viên cửa hàng.
Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty được thực hiện như sau:
XN dịch vụ đời sống
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Tổng giám đốc
GĐ điểu hành sản xuất
GĐ điều hành kỹ thuật
GĐ điều hành nội chính
VP công ty
P.kỹ thuật chất lượng
P. kế hoặch thị trường
P. kế toán tài vụ
Phòngchuẩn bị sản xuất
P.kinh doanh nội địa
TTTM và giới thiệu SP
Cửa hàng thời trang
GĐ các xí nghiệp
Các xí nghiệp
Nhân viên thống kê xưởng
Nhân viên thống kê XN
Sơ đồ 1: sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty cổ phần may Thăng Long
2.1.2 Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp lớn thực hiện kinh doanh nhiều sản phẩm khác nhau như may mặc, các mặt hàng công nghệ thực phẩm, các sản phẩm vật liệu điện, điện tử…, kinh doanh khách sạn nhà hàng, vận tải,..và một số những ngành nghề khác phù hợp với quy định của pháp luật. ở đó mặt hàng chủ đạo của công ty là may mặc với các loại sản phẩm cơ bản như quần áo sơ mi, áo jacket, áo khoác các loại, quần áo trẻ em…
Xuất phát từ tính chất của sản phẩm, đi đôi với sản xuất và xuất nhập khẩu các sản phẩm này là việc nghiên cứu để tạo ra các mẫu mã mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Công ty sản xuất sản phẩm theo một quy trình công nghệ từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối. Các giai đoạn này bao gồm: Cắt, may, là, đóng gói, đóng hòm, nhập kho. Nguyên liệu chế biến chính chủ yếu là vải. Sản phẩm sản xuất thường mang tính chất hàng loạt.
Quy trình công nghệ của một sản phẩm may mặc tuân theo quy trình từ A đến Z. Công ty sử dụng máy móc chuyên dụng để sản xuất hàng hoá với số lượng lớn tuân theo quy trình đã định trước. Trong quy trình này có rất nhiều giai đoạn phức tạp trước khi có được một thành phẩm, chu kỳ sản xuất thường là ngắn và liên tục. Sau đây là mô hình sản xuất của công ty:
Công
ty
Xí nghiệp I
Xí nghiệp II
Xí nghiệp III
Xí nghiệp IV
Xí nghiệp V
XN May Hải Phòng
XN may Nam Hải
Cửa hàng thời trang
Phân xưởng mài
XN phụ trợ
Phân xưởng thêu
Văn phòng XN
Tổ cắt
Tổ may
Tổ hoàn thiện
Tổ bảo quản
Sơ đồ 2: sơ đồ mô hình sản xuất của công ty
Công ty có 7 xí nghiệp thành viên chính là XN I, XN II, XN III, XN IV,XN V , 5 xí nghiệp này đóng tại Hà Nội; XN Hải Phòng đóng tại Hải Phòng, xí nghiệp Nam Hải đóng tại Nam Định. Các xí nghiệp được chuyên môn hoá theo từng mặt hàng:
Xí nghiệp I: chuyên sản xuất hàng cao cấp áo sơ mi, Jachet
Xí nghiệp II: chuyên sản xuất áo Jacket dày, mỏng.
Xí nghiệp III, IV: chuyên sản xuất hàng bò.
Xí nghiệp Hải Phòng: kho ngoại quan có chức năng nhận lưu, gửi trang thiết bị, phụ tùng thay thế, nguyên phụ liệu ngành dệt may chờ xuất khẩu và nhập khẩu.Ngoài ra, xí nghiệp may Hải Phòng còn có một xưởng sản xuất nhựa và một xưởng may. Xưởng sản xuất nhựa chủ yếu phục vụ cho nhu cầu trong công ty và cũng bán sản phẩm ra bên ngoài.
Xí nghiệp may Nam Hải: Được thành lập theo sự chỉ đạo của tổng công ty dệt may Việt Nam với mục đích chính là đầu tư giúp đỡ dệt may Nam Định.
Mỗi xí nghiệp đều tổ chức ra thành 5 bộ phận: văn phòng xí nghiệp, tổ cắt, tổ may, tổ hoàn thiện, tổ bảo quản, đảm bảo quá trình sản xuất khép kín từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
Cửa hàng thời trang có tác dụng giới thiệu và bán sản phẩm.
Các xí nghiệp phụ trợ có tác dụng phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm. Xí nghiệp phụ trợ gồm phân xưởng thêu và phân xưởng mài.
2.1.3 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty một số năm qua
Công ty cổ phần may Thăng Long thực hiện kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm:
Sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu các sản phẩm may mặc, các loại nguyên liệu thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, thiết bị tạo mẫu thời trang và các sản phẩm khác của ngành dệt may.
Kinh doanh, xuất nhập khẩu các mặt hàng công nghệ thực phẩm công nghiệp tiêu dùng, trang thiết bị văn phòng, nông, lâm, hải sản, thủ công mỹ nghệ
Kinh doanh các sản phẩm vật liệu điện, điện tử, cao su, ô tô, xe máy, mỹ phẩm, rượu; kinh doanh nhà đất cho thuê, văn phòng
Kinh doanh kho vận, kho quan ngoại, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, vận tải, du lịch, lữ hành trong nước
Kinh doanh các mặt hàng khác phù hợp với qui định của pháp luật.
Trong đó mặt hàng kinh doanh chủ đạo hiện nay là may mặc. Các sản phẩm may của công ty được chào bán rộng rãi trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hiện nay công ty đã chú trọng nhiều hơn đến thị trường trong nước nhưng doanh thu của công ty chủ yếu được đem lại từ xuất khẩu.
Bước vào nền kinh tế thị trường, các chính sách nhà nước có nhiều thay đổi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tự do hơn nhưng lại mang đầy tính cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chịu nhiều sức ép lớn. Các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh trong nước mà còn phải sự cạnh tranh gay gắt hơn ở thị trường quốc tế. Công ty may Thăng Long cũng đặt trong điều kiện đó, gặp nhiều trở ngại nhưng công ty đã đạt được một số kết quả.
Sau đây là bảng tổng kết kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh qua 3 năm trở lại đây:
Biểu 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty qua 3 năm( 2001 - 2003)
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Tỷ lệ
2003/2002
2004/2003
BQ
Tổng doanh thu
116.328.197.522
128.539.949.338
142.705.051.425
110,50
111,02
111,90
Doanh thu hàng xuất khẩu
95.837.890.380
107.229.336.991
123.989.289.235
111,89
115,63
115,05
Các khoản giảm trừ
0
0
0
1. Doanh thu thuần
116.328.197.522
128.539.949.338
142.705.051.425
110,50
111,02
111,90
2. Giá vốn hàng bán
97.585.612.128
104.674.964.742
114.357.398.956
107,26
109,25
111,49
3. Lợi nhuận gộp
18.742.585.394
23.864.984.596
28.347.652.469
127,33
118,87
113,78
4.Chi phí bán hàng
5.833.773.469
5.984.162.234
7.345.100.234
102,58
129,22
115.9
5.Chi phí quản lý doanh nghiệp
7.387.697.072
10.409.245.348
12.792.944.368
140,90
122,90
131,90
6. Lợi nhuận thuần từ hoạt động sxkd
5.521.114.853
7.471.577.014
8.209.607.867
140,76
126.89
124,28
7. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
(4115033450)
(6175473213)
(6500487600)
150,07
145,54
124,67
8. Lợi nhuận bất thường
(10623640)
25000000
16000000
(253,32)
120,35
58,17
9. Tổng lợi nhuận trước thuế
1.395.457.763
1.321.103.801
1.725.120.267
116,17
130,58
119,65
10. Lợi nhuận sau thuế
984.911.279
1.102.350.585
1.242.086.592
116,17
112,68
119,65
Nguồn phòng kế toán tài vụ Công ty cổ phần May Thăng Long
Qua biểu 1 ta thấy doanh thu của công ty tăng đều qua các năm. Năm 2002 đạt 116 tỷ; năm 2003 đạt 128,54 tỷ tăng 10,5%; năm 2004 đạt 145 tỷ, bình quân tăng 11,2%. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh có những bước tiến, lợi nhuận thuần thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được 8,2 tỷ năm 2004 tăng 26,89% so với năm 2003.
Mặt khác thấy giá vốn hàng bán so với tổng doanh thu đạt tỷ lệ khá cao,; năm 2003 đạt 81,43%, năm 2004 đạt 81%. Cho thấy chi phí sản xuất của công ty chưa được sử dụng hợp lý.
Doanh thu hàng xuất khẩu qua các năm đều chiếm tỷ lệ rất cao. Năm 2002 đạt 82,38%; năm 2003 đạt 83,42% tăng 11,18%; năm 2004 đạt 86,88% tăng 15,63%. Chứng tỏ hàm lượng xuất khẩu của công ty rất lớn. Như vậy doanh thu nội địa của công ty chỉ chiếm 16,58% năm 2003; và đạt 13,12% năm 2004. Đây là con số rất khiêm tốn chứng tỏ thị phần nội địa còn rất thấp.
Bảng cân đối kế toán phản ánh rõ nét hơn hoạt động của công ty trong thời gian qua:
Biểu 2: Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty qua 3 năm (2002 - 2003)
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
A. Tài sản
107.182.724.768
119.578.355.374
134.560.957.882
I. TSLĐ và ĐTNH
57.674.477.909
63.341.713.645
71.278.099.163
1. Tiền
250.049.377
952.199.374
1.071.504.564
2. Các khoản phải thu
25.952.339.991
24.354.375.006
27.405.851.069
3. Hàng tồn kho
30.276.324.204
3.754.739.206
40.359.915.950
4. TSLĐ khác
1.195.764.337
1.280.400.059
2.440.827.580
II. TSCĐ và ĐTDH
49.508.246.859
56.236.641.729
63.282.858.719
1. TSCĐ
46.639.576.122
44.229.082.472
49.599.682.326
2. Các khoản đầu tư TCDH
475.000.000
1.000.000.000
650.000.000
3. Chi phí XD cơ bản dở dang
2.393.670.737
11.007.559.257
12.033.176.393
B. Nguồn vốn
107.182.724.768
119.578.355.374
134.560.957.882
I. Nợ phải trả
89.014.041.892
98.543.501.855
110.233.768.530
1. Nợ ngắn hạn
56.970.374.020
64.053.276.205
84.138.958.865
2. Nợ dài hạn
32.043.667.872
34.490.225.650
26.094.809.665
II. Nguồn vốn chủ sở hữu
18.168.682.877
21.034.853.519
24.327.189.352
1. Nguồn vốn, quỹ
18.385.925.758
21.347.397.240
23.459.365.972
2. Nguồn kinh phí, quỹ khác
-217.242.882
-312.543.721
867.823.380
Nguồn phòng kế toán tài chính công ty cổ phần May Thăng Long
Qua biểu 2 ta thấy tổng tài sản và nguồn vốn của công ty có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 2003 tăng 11,15% so với 2002 và năm 2004 tăng 12,53% so với năm 2003; như vậy mức tăng bình quân là 11,84%. Đây là con số tuy không cao nhưng cũng phản ảnh được mức tăng trưởng của công ty.
Thông qua bảng cân đối kế toán ta có một số các chỉ tiêu tài chính rút ra:
Hệ số nợ = nợ phải trả/ Tổng tài sản
Tỷ suất thanh toán hiện thời = Tổng tài sản lưu động/ Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ suất thanh toán nhanh = (Tổng tài sản lưu động – Hàng tồn kho)/ Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ suất tài trợ TSCĐ = Vốn chủ sở hữu/ TSCĐ
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Hệ số nợ
0.83
0.82
0.82
Tỷ suất thanh toán hiện thời
1.01
0.99
0.85
Tỷ suất thanh toán nhanh
0.48
0.41
0.37
Tỷ suất tài trợ TSCĐ
0.36
0.37
0.38
Hệ số nợ cho thấy khả năng thanh toán của công ty, xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích hệ số này vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì các khoản nợ đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp phá sản. Hệ số nợ của công ty khá cao và tỷ lệ này chưa được cải thiện qua các năm. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Và cho thấy doanh nghiệp sử dụng nguồn tín dụng lớn.
Tỷ suất thanh toán hiện thời cho thấy khả năng thanh toán hiện hành của công ty. Năm 2003 là 0,99; năm 2004 là 0,85 đều thấp hơn chỉ tiêu trung bình ngành là 1. Điều đó cho thấy tình hình tài chính của công ty không được đảm bảo. Đây là một khó khăn rất lớn cần phải được khắc phục đảm bảo cho doanh nghiệp hệ số an toàn tối thiểu, cân bằng được cán cân thanh toán.
Tỷ số thanh toán nhanh < 0,7 chứng tỏ doanh nghiệp gặp khó khăn trong công tác thanh toán. Con số này ở công ty chỉ có 37% năm 2004, thấp hơn rất nhiều so với mặt bằng chung. Đây là một điều đáng lo ngại trong công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tỷ suất tài trợ cho tài sản cố định thấp. Năm 2003 là 0,37; năm 2004 thay đổi không đáng kể 0,38; cho thấy vốn chủ sở hữu chỉ đủ để tài trợ cho 38% tài sản cố định, còn lại là sử dụng từ nguồn đi vay. Điều này giải thích tại sao các tỷ số thanh toán của doanh nghiệp ở mức thấp.
Dựa vào hai biểu trên, ta có một số các chỉ tiêu phân tích tài chính:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm= Thu nhập sau thuế/ Doanh thu
Doanh lợi vốn chủ sở hữu( ROE)= Thu nhập sau thuế/ Vốn chủ sở hữu
Doanh lợi tài sản (ROA) = Thu nhập sau thuế/ Tài sản
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
1. DL tiêu thụ sp
0.82
0.86
0.87
2. ROE
5.22
5.24
5.10
3. ROA
0.89
0.92
0.93
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của công ty qua các năm có sự thay đổi không đáng kể, trung bình đạt 0,85% thấp hơn so với trung bình ngành. Doanh nghiệp chỉ đạt được 0,85% số lợi nhuận sau thuế trên một trăm đồng doanh thu, điều này cho thấy chi phí cho sản xuất của doanh nghiệp là rất lớn.
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu đã được phân tích trong bảng trên cũng phản ánh khả năng sinh lợi thấp của vốn chủ sở hữu. Năm 2003 có tỷ lệ cao nhất trong 3 năm nhưng chỉ có 5,24% thấp hơn so với trung bình chung của ngành. Nguyên nhân là do doanh thu có tăng nhưng chi phí lại tăng mạnh hơn, dẫn đến lợi nhuận sau thuế thấp, do đó khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu thấp.
Chỉ tiêu doanh lợi tài sản qua các năm cũng có sự thay đổi tăng lên nhưng mức tăng không đáng kể. Chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập doanh nghiệp đạt được trên đồng vốn đầu tư vào tài sản cố định, phản ánh mức sử dụng hiệu quả tài sản cố định. Tỷ số này còn rất thấp ở công ty.
Trên đây là vài nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong vài năm qua. Doanh thu của công ty có tăng qua các năm và phần lớn được thu từ xuất khẩu. Nhưng bên cạnh đó thì các chi phí cho sản xuất kinh doanh cũng tăng, thậm chí mức tăng còn nhanh hơn cả doanh thu đã khiến cho các chỉ tiêu tài chính ở mức thấp. Đặc biệt là các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán và chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi. Công ty cần có các giải pháp chiến lược dài hạn cho nguồn vốn, và sử dụng nguồn có hiệu quả nhằm cải thiện được tình trạng này.
2.2 Thực trạng việc tạo lập vốn ở Công ty CP May Thăng Long
2.2.1 Cơ cấu vốn của công ty
Nguồn vốn của công ty được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn tín dụng. Cũng như các doanh nghiệp khác công ty có một lượng vốn ban đầu là vốn điều lệ hay vốn tự có là cơ sở để thành lập doanh nghiệp, cũng là nguồn cơ sở để đầu tư sản xuất. Để đáp ứng cho nhu cầu cho sản xuất kinh doanh thì chỉ vốn chủ sở hữu không đủ, công ty tiến hành huy động vốn ở bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau như tín dụng, thuê mua, … nhưng chiếm phần lớn là tín dụng.
Sau đây là bảng cơ cấu nguồn vốn của công ty:
Biểu 3: Cơ cấu nguồn vốn của công ty may Thăng Long
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
I. Nợ phải trả
89.014.041.892
98.423.957.175
110.233.768.530
1. Nợ ngắn hạn
56.970.374.020
70.705.523.712
84.138.958.865
Trong đó: Vay ngắn hạn
40.848.658.164
58.608.000.682
69.745.732.541
2. Nợ dài hạn
32.043.667.872
27.718.433.463
26.094.809.665
Trong đó: Vay dài hạn
30.954.233.410
26.809.759.454
25.239.568.239
II. Nguồn vốn chủ sở hữu
18.168.682.877
21.154.398.200
24.327.189.352
1. Nguồn vốn, quỹ
18.385.925.758
21.009.040.493
23.459.365.972
Trong đó: nguồn vốn kinh doanh
18.099.044.010
20.769.951.130
23.191.983.256
2. Nguồn kinh phí, quỹ khác
-217.242.882
145.357.707
867.823.380
Tổng nguồn
107.182.724.769
119.578.355.375
134.560.957.882
Nguồn phòng kế toán tài chính công ty May Thăng Long
Dựa vào bảng cơ cấu nguồn vốn của công ty ta có tỷ trọng cơ cấu nguồn:
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Tổng nợ / Tổng nguồn
0.83
0.823
0.819
Nguồn vốn chủ sở hữu / Tổng nguồn
0.17
0.177
0.181
Nợ phải trả / Nguồn vốn chủ sở hữu
4.9
4.62
4.53
Nợ ngắn hạn / Tổng nợ
0.64
0.72
0.76
Cơ cấu nguồn vốn của công ty qua các năm đều có tỷ trọng nợ chiếm hơn 80 % tổng nguồn vốn, tỷ trọng vốn chủ sở hữu chỉ chiếm dưới 20%. Đây là cơ cấu chưa cân đối, tỷ lệ nợ quá cao. Mặc dù việc sử dụng nợ là có lợi trong việc tiết kiệm được chi phí nhờ thuế, nhưng với tỷ trọng cao sẽ làm giảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Nếu ta đem so sánh giữa tổng nợ và vốn chủ sở hữu thì qua các năm ta thấy đều trên 4 lần, năm 2002 là 4,9 lần; năm 2003 là 4,62; năm 2004 là 4,53 lần. Rõ ràng đây là một bất cập trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Xem xét tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ của doanh nghiệp thấy nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ lớn, năm 2004 nợ ngắn hạn chiếm 76% trong tổng nợ, khả năng thanh toán của công ty sẽ gặp rủi ro rất cao vì nguồn tài trợ ngắn hạn thường không vững chắc.
Nguồn vốn của công ty được phân bổ vào tài sản gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Đây là cơ cấu vốn sử dụng của công ty, phản ánh việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thông qua cơ cấu này cho thấy được hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Sau đây là bảng cơ cấu tài sản của công ty qua một số năm:
Biểu 4: cơ cấu vốn phân theo tài sản
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Tổng tài sản
107.182.724.768
119.578.355.374
134.560.957.882
I/ TSLĐ và ĐTNH
57.674.477.909
63.341.713.645
72.278.099.163
II/ TSCĐ và ĐTDH
49.508.246.859
56.236.641.729
62.282.858.719
Tỷ trọng
1. TSLĐ / Tổng tài sản
0,54
0,53
0,54
2. TSCĐ / Tổng tài sản
0,46
0,47
0,46
3. TSLĐ / TSCĐ
1,165
1,126
1,160
Nguồn phòng kế toán tài vụ công ty may Thăng Long
Qua biểu 4 ta thấy được sự phân bổ nguồn vốn cho các loại tài sản. Là doanh nghiệp sản xuất nên công ty sử dụng nguồn vốn chia cho tài sản cố định và tài sản lưu động cũng tương đối đồng đều qua các năm, sự thay đổi không đáng kể. Năm 2004 tỷ trọng tài sản cố định chiếm 46% tổng tài sản, còn lại là tài sản lưu động chiếm 54%. Tài sản lưu động luôn chiếm tỷ trọng cao hơn, gấp 1,16 lần ( năm 2004) so với tài sản cố định. Nhưng với tỷ lệ hơn 45% tài sản cố định của công ty cũng chiếm tỷ trọng rất lớn. So sánh với tỷ lệ nguồn trong cơ cấu nguồn vốn phân tích ở trên thì doanh nghiệp sử dụng nguồn tín dụng khá lớn để đầu tư tài sản cố định. Với doanh nghiệp sản xuất như công ty thì tài sản cố định thường là những tài sản lớn, có thời gian sử dụng lâu, tức là thời gian khấu hao dài.Do đó doanh nghiệp phải sử dụng một lượng vốn lớn vào tài sản cố định.
Bắt đầu từ 1/1/2004 doanh nghiệp chuyển sang hoạt động dưới hình thức cổ phần nên cơ cấu vốn của công ty cũng có sự thay đổi. Thay vì trước đây nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn do ngân sách cấp thì dưới hình thức cổ phần nguồn vốn chủ sở hữu công ty được tạo lập từ phát hành cổ phiếu, nhà nước đóng vai trò là một cổ đông chiếm 51% số cổ phần, số còn lại được chào bán cho các thành viên công ty. Công ty thực hiện tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập, thoát khỏi chế độ bảo hộ nhà nước, do đó vấn đề sở hữu vốn và việc sử dụng vốn có tính cấp thiết hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các thành viên công ty.
Trên đây là cơ cấu nguồn vốn của công ty, việc phân bổ nguồn vốn có vai trò rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí vốn, tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp sử dụng chủ yếu nguồn vốn tín dụng để đầu tư sản xuất kinh doanh. Tuỳ vào từng giai đoạn phát triển mà doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một cơ cấu vốn tối ưu, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.2 Các phương thức tạo lập vốn ở công ty hiện nay
Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp sản xuất có quy mô rộng, hàng năm sản xuất với số lượng lớn các sản phẩm cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước, mang lại doanh thu lớn. Đồng thời là việc đầu tư để sản xuất cũng ở mức rất cao. Do đó mà doanh nghiệp thường xuyên phải sử dụng một lượng vốn lớn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này được mang lại thông qua các phương thức tạo lập vốn của công ty.
Công tác huy động vốn được coi là một mặt hoạt động quan trọng trong quản trị tài chính của công ty. Nó được tiến hành bởi sự điều hành trực tiếp của tổng giám đốc và sự tham gia của các bộ phận tài chính nhằm đảm bảo huy động đủ vốn kịp thời với chi phí và độ rủi ro thấp nhất.
Các phương thức tạo lập vốn hiện nay của công ty:
2.2.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn đầu tiên trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được hình thành từ ngay khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại. Vào thời gian trước đây khi công ty còn là một doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn này được tạo dựng từ nguồn ngân sách nhà nước, và một phần từ nguồn vốn tự bổ sung. Sau đây là kết cấu vốn chủ sở hữu trước cổ phần:
Bảng 5: Kết cấu nguồn vốn chủ sở hữu đến ngày 31/12/2003
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Giá trị
(tr.đ)
Tỷ trọng
%
Giá trị
(tr.đ)
Tỷ trọng
%
1. Vốn NSNN
13,085
70,77
14,991
72,17
2. Vốn tự bổ sung
5,305
29,23
5,779
27,83
Tổng
18,49
100
20,77
100
Nguồn báo cáo quyết toán tài chính các năm 2002 – 2003
Như vậy vốn ngân sách nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn, hơn 70% trong cơ cấu tổng nguồn vốn chủ sở hữu mà công ty tạo lập. Điều này phản ánh mức lệ thuộc rất lớn vào ngân sách nhà nước của công ty. Nguồn vốn tự bổ sung bằng lợi nhuận giữ lại còn ở mức thấp, chưa đến 30%. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhất trong các phương thức huy động, nhưng công ty vẫn chưa sử dụng được lợi thế này. Ngoài ra đến năm 2003 doanh nghiệp không phải nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước mà được giữ lại bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi chuyển sang hình thức cổ phần thì nguồn ngân sách nhà nước cấp được chuyển sang cổ phần công ty mà người sở hữu nhà nước đóng vai trò là cổ đông. Vốn điều lệ công ty là 23,3 tỷ đồng ( làm tròn) được chia thành 233.067 cổ phần, mệnh giá mỗi cổ phần là 100.000. Trong đó nhà nước chiếm 51% vốn điều lệ tức là 118.864 cổ phần, tương ứng 11,89 tỷ đồng. Số cổ phần còn lại 114203 cổ phần tương ứng 11,42 tỷ được mang chào bán cho các cổ đông là thành viên công ty với các qui định về cổ phần ưu đãi và cổ phần thường. Có 111.437 CP được bán theo giá ưu đãi là 70.000 / CP ; còn lại 2.766 CP là cổ phần thường bán theo mệnh giá. Việc tổ chức đăng ký bán cổ phần và thu tiền bán cổ phần được thanh toán tập trung tại phòng kế toán.
2.2.2.2 Nguồn vốn vay nợ
Ta nghiên cứu bảng cơ cấu nợ phải trả của công ty qua một số năm qua:
Bảng 6: cơ cấu nợ phải trả các năm từ 2002 - 2004
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Giá trị (tr.đ)
tỷ trọng(%)
giá trị (tr.đ)
tỷ trọng(%)
giá trị(tr.đ)
tỷ trọng(%)
1. Vay ngân hàng
71.802
80,66
84.818
86,18
94.490
85,72
trong đó: Vay ngắn hạn
40.848
45,89
58.008
58,94
69.010
62,60
Vay dài hạn
30.954
34,77
26.810
27,24
25.480
23,11
2. Tín dụng thương mại
12.197
13,7
9.071
9,22
10.135
9,19
3. Phải trả công nhân viên
1.886
2,12
2.587
2,63
2.890
2,62
4. Phải trả thuế
1.623
1,82
432
0,44
1.306
1,18
5. Các khoản phải trả khác
1.506
1,7
1.516
1,53
1.413
1,19
Tổng nợ phải trả
89.014
100
98.424
100
110.234
100
Nguồn phòng kế toán tài chính công ty may Thăng Long
Qua bảng 6 ta thấy trong cơ cấu nợ của phải trả của công ty vay ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất và với giá trị rất lớn hơn 80%. Có thể coi đây là nguồn vốn chủ đạo của công ty. Ngoài nguồn vốn vay ngân hàng công ty còn sử dụng nguồn tài trợ tín dụng thương mại từ số tiền phải trả cho người bán. Nguồn này có tỷ trọng lớn thứ hai sau nguồn vay ngân hàng, chiếm hơn 10% trong tổng nợ của công ty. Số còn lại công ty sử dụng hình thức tạo lập từ các khoản phải trả công nhân viên, phải trả thuế và các khoản phải trả khác. Những đối tượng này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu tổng nợ của doanh nghiệp. Sau đây chúng ta tìm hiểu chi tiết về cách thức tạo lập vốn của từng nguồn:
Ê Vay ngân hàng
Đây là nguồn vốn vay chủ yếu của hầu hết các doanh nghiệp, và cũng là phương thức tạo lập vốn chủ yếu ở công ty May Thăng Long. Công ty đã sử dụng với một tỷ trọng rất lớn, và tỷ lệ không thay đổi nhiều trong các năm qua. Năm 2002 là 80,66%; tỷ lệ này tăng lên 86,18% vào năm 2003 và giảm xuống không đáng kể còn 85,72% năm 2004. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn vay ngân hàng.
Trong những năm qua công ty đã có quan hệ tín dụng với một số ngân hàng thương mại. Đó là ngân hàng ngoại thương, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, ngân hàng CTCT, ngân hàng Indo, ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội. Khi vay vốn ngân hàng công ty thường vay theo hình thức tín chấp, các hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản không nhiều, công ty đặt được niềm tin trong lòng các ngân hàng, do đó mà công ty đã tận dụng khai thác triệt để nguồn tạo lập này nhằm mục đích cho cả đầu tư và bổ sung nguồn vốn thiếu hụt.
S Vay dài hạn
Với doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc như công ty May Thăng Long thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị là những bộ phận thiết yếu, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho quá trình sản xuất được hoàn thành. Những dây chuyền này có thời gian sử dụng lâu dài, cũng chính vì thế mà giá trị của nó rất đắt, chỉ bản thân công ty với nguồn vốn chủ sở hữu không đủ khả năng mua sắm, vì còn phải chi cho nhiều mục đích khác nữa. Do đó mà công ty đều hướng tới các nguồn vay dài hạn. Với nguồn dài hạn công ty có khả năng chi trả hàng năm, mà không phải lo tới kỳ hạn thanh toán. Trong bảng 6 ở trên cho thấy nguồn vay dài hạn của công ty chiếm tỷ trọng khá lớn, năm 2002 chiếm 34,77% trong tổng nợ của doanh nghiệp, giá trị tuyệt đối là 30.954 triệu đồng. Sang các năm sau tỷ trọng này có giảm xuống nhưng vẫn còn ở mức cao. Năm 2003 vay dài hạn ngân hàng là 26.810 triệu đồng chiếm 27,24% trong tổng nợ. Năm 2004 giảm xuống còn 25.480 triệu tương đương 23,11%. Sở dĩ có sự giảm xuống này là do nhu cầu cho đầu tư tài sản cố định giảm xuống.
Mặt khác có thể doanh nghiệp đã tìm được nguồn khác thay thế như hình thức thuê tài chính. Đây là hình thức mới mẻ ở nước ta đã được công ty áp dụng trong việc thuê tài sản. Công ty đã thực hiện thuê ô tô các loại như ô tô 7 – 8 chỗ, ô tô 16 chỗ, ô tô tải nhằm phục vụ cho nhu cầu vận chuyển của mình. ở đây đối tác với công ty là công ty cho thuê tài chính, công ty áp dụng hình thức cho thuê vận hành. Sử dụng hình thức này công ty được sử dụng tài sản trong thời hạn hợp đồng, chỉ mất khoản tiền thuê nhất định mà không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đầu tư mua nó, tránh được tình trạng thiếu hụt vốn. Tuy nhiên hình thức này mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp: các tài sản thuê là ô tô, chưa được mở rộng sang các tài sản khác. Do hình thức này còn mới mẻ và ở nước ta thị trường này chưa thực sự phát triển nên việc áp dụng còn hạn chế.
S Vay ngắn hạn
Với sản phẩm may mặc công ty phải chuẩn bị một số lượng lớn các nguyên phụ liệu với nhiều chủng loại và nhiều kích cỡ màu sắc khác nhau như vải các loại, chỉ, nhãn, hộp, cúc, túi PE, khoá… Những nguyên liệu may doanh nghiệp chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài nên khả năng dự trữ là thấp, một số các nguyên phụ liệu doanh nghiệp cũng tìm được nguồn hàng trong nước nhưng chỉ chiếm tỷ trọng thấp, còn lại là hầu hết nhập từ nước ngoài, do đó nhu cầu đầu tư cho tài sản lưu động thường xuyên là rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư, nên biện pháp vay nợ ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Vay ngắn hạn ngân hàng công ty có thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư trực tiếp kịp thời và thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Do công ty có quan hệ thường xuyên với các ngân hàng nên có thể có các hình thức vay phù hợp đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, như vay theo hạn mức các thời hạn theo chu kì kinh doanh hay theo nguồn hàng 6 tháng, 9 tháng,… , vay thấu chi, vay từng lần. Thông qua bảng 6 ở trên cho thấy hàm lượng vay ngắn hạn ở công ty có tỷ trọng cao nhất so với các nguồn vay nợ khác. Năm 2002 vay ngắn hạn ngân hàng là 40.848 triệu chiếm 45,89% tổng nợ. Tỷ trọng này tăng dần qua các năm: đến 2003 là 58.008 triệu tương đương 58,94%; năm 2004 tăng 19% so với năm trước tương đương với 69.010 triệu. Để nhận thấy rõ hơn ta có biểu mô tả sự biến động dư nợ ngân hàng qua các năm:
Biểu đồ 1: Thống kê dư nợ ngân hàng qua các năm 2002 - 2003
Rõ ràng nhìn trên biểu đồ ta thấy nhu cầu về vốn lưu động của công ty ngày càng tăng, và mức tăng cũng nhanh, chứng tỏ quy mô sản xuất của công ty đang ngày càng mở rộng vì nhu cầu cho nguyên phụ liệu nhiều hơn, số lượng công việc lớn hơn. Tuy nhiên với tỷ trọng nợ ngắn hạn lớn như hiện nay công ty gặp khó khăn trong công tác thanh toán.
ÊVay đối tượng khác
Ngoài hình thức tạo lập vốn từ phía ngân hàng, công ty còn tiến hành huy động vốn qua phương thức huy động trực tiếp. Công ty nhận vốn gửi từ phía các khách hàng là tổ chức cá nhân trong và ngoài công ty, cam kết trả trong thời gian hạn định với mức lãi suất qui đinh tuỳ vào thời hạn. Đây cũng là hình thức huy động tích cực thay vì vay ngân hàng công ty trực tiếp nhận tiền gửi và cuối kỳ thanh toán cả gốc và lãi. Công ty có các chiến lược huy động cụ thể nhằm thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong các tổ chức dân cư: lãi suất công ty áp dụng trong thời điểm này là 0,85%/ tháng, mức huy động thấp nhất là 200.000, với các thời hạn từ 6 tháng, 12 tháng và các năm, trả gốc vào cuối kỳ…với mỗi lần gửi và thanh toán đều thực hiện ghi sổ sách, chứng từ xác nhận tạo cơ sở vững chắc niềm tin cho khách hàng.
Thông qua hình thức vay này một phần vốn huy động cho sản xuất kinh doanh đầu tư cho tài sản lưu động được đảm bảo. Mặc dù nguồn vốn này còn nhỏ lẻ nhưng công ty có thể chủ động hơn trong công tác huy động đồng thời tạo thêm được nhiều cơ hội kinh doanh mới.
Ê Tín dụng thương mại
Như đã được đề cập trong phần tổng quan, tín dụng thương mại là hình thức tạo lập vốn thông qua việc sử dụng các nguồn phải trả nhà cung cấp và nguồn trả trước của khách hàng. Hình thức tạo lập này được nhiều doanh nghiệp sử dụng vì nó có ưu thế nhất định như vừa có ngay hàng hóa phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình lại vừa có được mối quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng. Tuy nhiên việc sử dụng hình thức này phải xuất phát từ hai phía đối tác, vì nó liên quan đến quyền lợi kinh doanh của mỗi bên, do đó mà tỷ trọng thường thấp hơn so với hình thức tín dụng ngân hàng.
Tạo lập vốn bằng tín dụng thương mại ở công ty May Thăng Long chiếm tỷ trọng không cao mặc dù chỉ đứng sau hình thức vay ngân hàng. Công ty chỉ có hình thức nợ thanh toán nhà cung cấp trong tín dụng thương mại. Năm 2002 tỷ trọng của hình thức này là 13,7% trong cơ cấu tổng nợ của doanh nghiệp. Sang năm 2003 có giảm xuống còn 9,22% tương đương với 9.071 triệu. Năm 2004 cũng giảm xuống còn 9,19% với số tuyệt đối là 10.135 triệu. Qua các năm tỷ trọng giảm xuống, nhưng ở năm 2002 là năm có mức cao nhất thì tỷ trọng vẫn chiếm vị trị nhỏ trong cơ cấu tổng nợ. Sở dĩ như vậy là vì các nguyên phụ liệu cho sản xuất kinh doanh của công ty đa phần là nhập khẩu từ các nước về như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan…chỉ có một số ít được cung ứng trong nước. Các hàng hoá nhập khẩu thường thì phải thanh toán tiền ngay, trực tiếp mở L/C qua ngân hàng chứ ít được mua chịu. Đa số các khoản tín dụng thương mại có thời hạn dưới 1 năm. Đây là một thiệt thòi đối với công ty bởi vì nguồn vốn này có chi phí thấp, có nhiều lợi thế.
Ê Nguồn khác:
Nguồn này bao gồm các khoản phải nộp ngân sách nhà nước nhưng chưa nộp như thuế và các khoản phải nộp khác; tiền lương chưa trả công nhân viên và một số khoản khác nữa. Đây cũng là nguồn quan trọng vì khi chưa đến hạn trả công ty có thể sử dụng vào các mục đích khác tạm thời đang thiếu hụt hoặc giải quyết các nhu cầu cấp bách. Tuy nhiên nguồn này chỉ mang tính chất tạm thời. Theo bảng 6 thì tổng các nguồn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ của doanh nghiệp. Năm 2001 chỉ có 5,64% tương ứng với 5015 triệu đồng. Tỷ trọng này giảm xuống còn 4,6 % năm 2003 (tương ứng 4535 triệu đồng). Sang 2004 chiếm 4,99% trong tổng nợ, số tuyệt đối là 5609 triệu đồng. Cơ cấu của các khoản mục này nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp thực hiện tốt các khoản phải trả như nghĩa vụ thuế với nhà nước, trách nhiệm với cán bộ công nhân viên trong công ty.
Xét một cách tổng quan giá trị và tỷ trọng của nợ phải trả trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu cho thấy các phương thức huy động nợ rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu từng loại tài sản mà công ty đã có các phương thức tài trợ phù hợp. Với tài sản cố định, bản chất là loại tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài, năm khấu hao nhiều như nhà cửa, máy móc, trang thiết bị,… do đó mà doanh nghiệp thường áp dụng hình thức vay nợ dài hạn và hình thức thuê tài chính. Ngược lại tài sản lưu động có tuổi thọ ngắn, thời gian sử dụng nhanh, hầu hết mang tính chu kỳ như nguyên vật liệu cho sản xuất, các phụ gia khác…vốn đầu tư cho tài sản lưu động có vòng quay nhanh, thời gian thu hồi nhanh và hầu hết không phải lập quỹ khấu hao. Đầu tư vào tài sản lưu động công ty thường sử dụng các nguồn vốn vay ngắn hạn, vốn huy động trực tiếp, các nguồn tín dụng thương mại và một số các nguồn khác. Công ty May Thăng Long là một doanh nghiệp may mặc với sản lượng hàng năm rất cao do đó mà nhu cầu đầu tư cho tài sản lưu động là rất lớn. Các nguồn vốn này ngày càng trở lên thiết yếu và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Trên đây chúng ta đã có những tìm hiểu về tình hình tạo lập và các phương thức tạo lập vốn của công ty trong thời gian qua từ sự tăng giảm từng nguồn cho tới việc sử dụng các nguồn đó để tài trợ cho các hoạt động đầu tư như thế nào. Có nguồn được tài trợ là quan trọng nhưng để nguồn tài trợ đó có hiệu quả, mang lại giá trị tăng thêm cho chủ sở hữu thì vấn đề sử dụng vào mục đích nào, hiệu quả vốn đạt được bao nhiêu mới là kết quả đích thực.
2.2.3 Thực trạng sử dụng vốn của công ty
Tạo lập vố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH158.doc