Tài liệu Chương trình sàng lọc sơ sinh tại bệnh viện phụ sản Hải Phòng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 226
CHƯƠNG TRÌNH SÀNG LỌC SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG
Lưu Vũ Dũng*, Nguyễn Cao Hà Phương*, Vũ Văn Tâm*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chương trình sàng lọc bệnh lý sơ sinh đã và đang thức hiện ở nhiều quốc gia với mục đích phát
hiện sớm, tham vấn và điều trị kịp thời giúp trẻ phát triển thể chất và tinh thần bình thường nhằm cải thiện chất
lượng dân số. Xác định tỷ lệ mắc 1 trong 5 bệnh sàng lọc trước sinh và một số yếu tố liên quan ở trẻ sơ sinh mắc
bệnh này tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Tất cả trẻ sơ sinh được lấy máu gót chân từ 48 giờ tuổi trở lên làm
xét nghiệm sàng lọc sơ sinh tại Bệnh viện phụ sản Hải Phòng. Mô tả cắt ngang hồi cứu.
Kết quả: Từ tháng 10/2017 đến tháng 9/2018 có 6953 trẻ sơ sinh được sàng lọc 5 bệnh hay gặp. Tỷ lệ tầm
soát là 56% trẻ sơ sinh tại bệnh viện. Tỷ lệ phát hiện thiếu men G6PD là ...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương trình sàng lọc sơ sinh tại bệnh viện phụ sản Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 226
CHƯƠNG TRÌNH SÀNG LỌC SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG
Lưu Vũ Dũng*, Nguyễn Cao Hà Phương*, Vũ Văn Tâm*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chương trình sàng lọc bệnh lý sơ sinh đã và đang thức hiện ở nhiều quốc gia với mục đích phát
hiện sớm, tham vấn và điều trị kịp thời giúp trẻ phát triển thể chất và tinh thần bình thường nhằm cải thiện chất
lượng dân số. Xác định tỷ lệ mắc 1 trong 5 bệnh sàng lọc trước sinh và một số yếu tố liên quan ở trẻ sơ sinh mắc
bệnh này tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Tất cả trẻ sơ sinh được lấy máu gót chân từ 48 giờ tuổi trở lên làm
xét nghiệm sàng lọc sơ sinh tại Bệnh viện phụ sản Hải Phòng. Mô tả cắt ngang hồi cứu.
Kết quả: Từ tháng 10/2017 đến tháng 9/2018 có 6953 trẻ sơ sinh được sàng lọc 5 bệnh hay gặp. Tỷ lệ tầm
soát là 56% trẻ sơ sinh tại bệnh viện. Tỷ lệ phát hiện thiếu men G6PD là 0,6%, thiểu năng bẩm sinh tuyến giáp
là 1:6953, tăng sản thượng thận bẩm sinh-CAH là 2:6953. Chưa phát hiện được trẻ sơ sinh nào mắc bệnh
galactosemia và phenylketonuria. Gia đình các trẻ mắc bệnh này sẽ được tư vấn, chẩn đoán khẳng định tại bệnh
viện Nhi Trung Ương và điều trị.
Kết luận: Chương trình sàng lọc sơ sinh taị bệnh viện Phụ sản Hải Phòng đã phát hiện 42 trường hợp thiếu
men G6PD, 1 trường hợp thiểu năng bẩm sinh tuyến giáp, 2 trường hợp tăng sản thượng thận bẩm sinh.
Từ khóa: trẻ sơ sinh
ABSTRACT
HAI PHONG HOSPITAL OF OBSTETRIC AND GYNECOLOGY ’S NEONATAL SCREENING
PROGRAM
Luu Vu Dung, Nguyen Cao Ha Phuong, Vu Van Tam
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 226 - 230
Objectives: The neonatal screening program was developed or being developed in many countries. The goal
of this program is early detecting, counselling and giving treatment to prevent babies from mentally and
physically retardation the population quality will be improved.
Methods: Determine the incidence rate of all newborns identified by neonatal screening program and some
related factors in Hai Phong hospital of Obstetrics and gynecology.
Results: Babies were screened in neonatal screening program. The cover rate is 56%. The proportion of
G6PD deficiency is 0.6%, congenital hypothyroidism 1:6953, Congenital Adrenal Hyperplasia (CAH) is 2:6953.
There is no case of galactosemia and phenylketonuria. Parents of babies with 1 of 5 diseases screened by neonatal
screening program received counselling and treatment.
Conclusions: The neonatal screening program in Hai Phong Obstetrics and Gynecology Hospital detected
42 cases of G6PD deficiency, 1 case of congenital hypothyroidism and 2 cases of Congenital Adrenal
Hyperplasias.
Keywords: newborns
*Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng
Tác giả liên lạc: BS. Lưu Vũ Dũng ĐT: 0904554915 Email: luuvudung1980@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 227
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sàng lọc sơ sinh (SLSS) được triển khai từ
những năm 1960 tại Mỹ(1). Với ý nghĩa thiết thực
mà chương trình sàng lọc sơ sinh mang lại, xét
nghiệm này đã nhanh chóng trở thành xét
nghiệm thường quy cho 100% trẻ em được sinh
ra tại các nước phát triển trên thế giới như Mỹ,
Anh, Đức, Canada. Số lượng bệnh và các bệnh
được sàng lọc ở mỗi quốc gia là khác nhau tùy
thuộc vào tỷ lệ mắc bệnh và điều kiện kinh tế.
Tính đến nay, số bệnh được sàng lọc ở một số
quốc gia phát triển như Mỹ đã lên tới 60 bệnh, ở
Canada là 41 bệnh(1). Bắt kịp với xu thế đó, ở
châu Á, Singapore là nước đầu tiên thực hiện
sàng lọc sơ sinh vào năm 1965. Sau đó, sàng lọc
sơ sinh cũng nhanh chóng được triển khai rộng
khắp các nước khác trong khu vực. Đánh giá
được tầm quan trọng của SLSS, Việt Nam đã
triển khai thực hiện xét nghiệm SLSS nhằm nâng
cao chất lượng dân số và sức khỏe cộng đồng từ
năm 1998. Từ năm 2017 bệnh viện Phụ sản Hải
Phòng đã tiến hành thực hiện chương trình sàng
lọc sơ sinh 5 bệnh thường quy bằng phương
pháp lấy máu gót chân sau đẻ >48 giờ.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ tầm soát 5 bệnh (thiếu men
G6PD, thiểu năng tuyến giáp bẩm sinh, tăng sản
tuyến thượng thận, galactosemia và
Phenylketonuria) ở trẻ sơ sinh tại bệnh viện phụ
sản Hải phòng từ 1/10/2017- 30/9/2018.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ sơ sinh sinh tại bệnh viện phụ sản Hải
Phòng được lấy máu gót chân làm xét nghiệm
sàng lọc 5 bệnh từ 1/10/2017 đến 30/9/2018.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Gia đình bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên
cứu phù hợp với các tiêu chuẩn sau:
Trẻ sơ sinh sinh tại BV Phụ Sản Hải Phòng.
Trẻ sơ sinh từ 24 – 48 giờ tuổi sau sinh và
phải đảm bảo cho bé bú sữa ít nhất là một lần,
được nhân viên y tế lấy máu gót chân.
Bệnh án đầy đủ thông tin phục vụ cho
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh án không đầy đủ thông tin.
Gia đình trẻ sơ sinh không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 1/10/2017 đến 30/9/2018.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu cắt ngang.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
Kỹ thuật thu thập số liệu
Các bé sơ sinh 48 giờ sau sinh sẽ được nhân
viên lấy máu vào mẫu giấy thấm đã in sẵn bao
gồm giấy thấm máu và các thông tin có liên
quan. Các mẫu giấy lấy máu được để khô tự
nhiên ở nhiệt độ phòng. Sau đó được gửi đến
khoa xét nghiệm. Tại đây kĩ thuật viên sẽ kiểm
tra xem mẫu lấy có đạt hay không và tiến hành
chạy trên hệ thống Delali 2 của Perkin Elmer.
Kết quả xét nghiệm
Bảng 1. Kết quả xét nghiệm
Tên xét nghiệm
Giá trị bình
thường
Đơn vị
Thiếu hụt enzym G6PD >2,6 U/g Hb
Suy giáp trạng bẩm sinh-CH >3,5 U/g Hb
Tăng sản thượng thận bẩm sinh- CAH <30 Nmol/L
Galactose máu <18 µU/ml
Phenylketon niệu - PKU <2,1 mg/dL
Nhận định kết quả
Nguy cơ cao
Khi xét nghiệm nằm ngoài khoảng giá trị
bình thường.
Dương tính thật
Những bệnh nhân nguy cơ cao được gửi
lên Bệnh viện nhi Trung ương và được trả lời
khẳng định kết quả là dương tính.
Dương tính giả
Những bệnh nhân nguy cơ cao được gửi
lên bệnh viện nhi Trung ương và được trả lời
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 228
khẳng định kết quả là âm tính.
Xử lý số liệu
Dựa vào phần mềm SPSS 22.0.
KẾT QUẢ
Trong tổng số 6953 ca khảo sát: Số ca có kết
quả tầm soát men G6PD bất thường: 53 ca
(0.76%), trong đó có 8 nữ (15%), 45 nam (85%).
Số ca khảo sát lại men G6PD: 42 ca thiếu men
(0,6%), 2 ca có hoạt độ men bình thường, 9 ca
không liên lạc được. Số ca có kết quả tầm soát
TSH tăng: 1 ca (1/6953). Số ca tầm soát bị tăng
sản thượng thận bẩm sinh (tăng 17 OHP) là 2
trường hợp. Không có trẻ sơ sinh nào nào bị
bệnh galactose huyết hoặc phenylketon niệu
(Bảng 1).
Số trẻ nam được chẩn đoán thiếu G6PD gấp
5 lần trẻ nữ (35/7). Trẻ được chẩn đoán thiếu
men G6PD chủ yếu là trẻ đủ tháng và đủ cân
(Bảng 2).
Bảng 1. Tỷ lệ mắc bệnh trong sàng lọc sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng
Bệnh
Tổng số ca
sàng lọc
Tổng số ca nguy
cơ cao
Dương tính
thật
Dương tính
giả
Khác* Tỷ lệ
Thiếu hụt enzym G6PD 6953 53 42 2 9 0,6%
Suy giáp trạng bẩm sinh-CH 6953 1 1 0 0 1/6953
Tăng sản thượng thận bẩm sinh- CAH 6953 2 2 0 0 2/6953
Galactose máu 6953 0 0 0 0
PKU- Phenylketon niệu 6953 0 0 0 0
*Khác: không liên lạc được với gia đình bệnh nhân, trẻ chết trong thời gian sơ sinh
Bảng 2. Đặc điểm của trẻ sơ sinh được chẩn đoán
thiếu men G6PD
Đặc điểm Số ca %
Giới Nam 35 83,3
Nữ 7 16,7
Tiền sử gia
đình
Có 5 11,9
Không 37 88,1
Cân nặng
lúc sinh
≥2500 gr 38 90,4
<2500 gr 4 9,6
Vàng da Có 12 28,6
Đặc điểm Số ca %
Không 30 71,4
Nhóm tuổi
thai
≥37 tuần 4 7,5
<37 tuần 49 92,5
Trong năm 2018 có 12416 trẻ sơ sinh được đẻ
tại bệnh viện Phụ sản Hải Phòng trong đó số trẻ
được làm sàng lọc sơ sinh 5 bệnh là 6953 trường
hợp chiếm 56%; có 5463 trẻ sơ sinh không tham
gia sàng lọc chiếm tỷ lệ 44% (Hình 1).
56%
44%
Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc
số trẻ được làm sàng lọc sơ sinh
số trẻ không được làm sàng lọc sơ sinh
Hình 1. Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc sơ sinh năm 2018 tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng
BÀN LUẬN
Chương trình sàng lọc sơ sinh thực hiện từ
1/10/2017 đến 30/9/2018 đã sàng lọc được 6953
trẻ. Hiện nay trên thế giới có 2 phương pháp lấy
mẫu máu: mao mạch và tĩnh mạch.
Tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng chúng tôi
lấy máu theo phương pháp lấy mẫu máu mao
mạch. Một số tác giả đưa ý kiến cần hiệu chỉnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 229
kết quả giữa 2 phương pháp lấy máu mao mạch
và lấy máu tĩnh mạch khi xét ngưỡng đọc kết
quả đo hoạt độ men G6PD do lấy máu tĩnh
mạch nhiều hồng cầu hơn và máu từ mao mạch
sẽ có thêm 1 ít mô dịch pha loãng. Nhưng trên
thực tế, chúng tôi sử dụng kỹ thuật đo hoạt độ
men G6PD được hiệu chỉnh theo lượng
Hemoglobin dựa trên mẫu chứng nên kết quả
thu được trên mẫu lấy máu tính mạch hay máu
mao mạch cũng không bị ảnh hưởng và không
cần hiệu chỉnh giữa 2 phương pháp.
Tỷ lệ thiếu men G6PD phát hiện được tại
Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng là 0,6% (sàng lọc
trên 6953 trẻ sơ sinh), tương tự với thống kê tại
Bệnh viện Y Dược thành phố Hồ Chí Minh năm
2005-2006 là 0,734% trong số 5444 ca khảo sát.
Kết quả này thấp hơn so với thống kê tại Bệnh
viện Từ Dũ là 2,06% (có 136.009 trẻ sơ sinh được
sàng lọc)(3). Tỷ lệ thiếu men G6PD cũng tương
đối cao ở các nước: Singgapore 3,2%, Hàn Quốc
3,1%, Trung Quốc 3,94%(2,6).
Số trẻ sơ sinh thiếu G6PD đủ tháng, đủ cân
chiếm đa số vì trong nhóm nghiên cứu hầu hết
là trẻ đủ tháng và đủ cân. Số trẻ nam thiếu G6PD
cao gấp gần 5 lần sơ sinh nữ (45 nam/8 nữ). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với 1 số
tác giả khác: Phạm Vũ Chương (tỷ lệ thiếu men
G6PD của nam/nữ là 4/1), Sarar Mohamed
nam/nữ: 3/1). Phù hợp với lý thuyết vì bệnh di
truyền liên kết nhiễm sắc thể giới tính X(5).
Tuổi thai và cân nặng trung bình của các
trẻ thiếu men G6PD nằm trong giới hạn sơ
sinh đủ tháng và đủ cân. Tất cả độ tuổi và cân
nặng đều có trẻ thiếu G6PD, điều này chứng tỏ
thiếu G6PD là bệnh di truyền, hoạt tính men
được qui định bởi gen, không phụ thuộc tuổi
thai và cân nặng. Tuổi cha mẹ các trẻ thiếu
men G6PD nằm trong giới hạn độ tuổi sinh đẻ
bình thường. Bất kỳ độ tuổi nào của cha, mẹ
cũng đều có khả năng sinh con bị thiếu G6PD
bởi vì đây là một bệnh di truyền, gen đột biến
đã sẵn có trên nhiễm sắc thể X do di truyền từ
các thế hệ trước(8).
Thiếu hụt Glucose-6-phosphate dehydrogenase
gây ra một loạt các đặc điểm lâm sàng bao
gồm tăng bilirubin máu sơ sinh, tan huyết cấp
tính và tan huyết mãn tính(4). Những người có
tình trạng này cũng có thể không có triệu
chứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1/3
bệnh nhân thiếu G6PD có vàng da. Phát hiện
sớm thiếu hụt G6PD là quan trọng để tránh sự
tán huyết cấp tính do sự tiếp xúc với 1 số chất
gây ôxi hóa hemoglobin.
Trong nghiên cứu này phát hiện được 1
trường hợp suy giáp bẩm sinh. Mặc dù bệnh
viện đã triển khai sàng lọc suy giáp ở phụ nữ
mang thai có nguy cơ cao, tuy nhiên bà mẹ này
không quản lý thai nghén tại bệnh viện nên
không phát hiện và điều trị kịp thời trong quá
trình mang thai.
Có 2 trường hợp phát hiện tăng sản thượng
thận bẩm sinh (tăng 17 OHP). Cả hai trường hợp
này trên lâm sàng đều có bất thường bộ phận
sinh dục. Khi được khám tại Bệnh viện Nhi
trung ương làm xét nghiệm khẳng định, chẩn
đoán đây là hai trường hợp tăng sản thượng
thận bẩm sinh thể nhẹ.
Không phát hiện trường hợp nào mắc
Galactosemia và Phenylketonuria vì 2 bệnh này
khá hiếm. Tần suất mắc Galactosemia trên thế
giới là 1:60000 – 1:80000/trẻ sơ sinh. Tần số mắc
PKU ở Mỹ là 1:10000/trẻ sơ sinh(3), trong khi cỡ
mẫu của chúng tôi lại chưa đủ lớn (nghiên cứu
trong vòng 1 năm).
Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc ở bệnh viện
Phụ sản Hải Phòng trong năm 2018 là 56%. Tỷ lệ
này thấp hơn nhiều so với bệnh viện Từ Dũ
khoảng 90%(7). Do vậy cần nỗ lực trong tư vấn
cho các bà mẹ từ lúc mang thai để phủ rộng hơn
nữa số trẻ sơ sinh được sàng lọc sau sinh tại
bệnh viện Phụ sản Hải Phòng.
KẾT LUẬN
Chương trình sàng lọc sơ sinh taị bệnh viện
Phụ sản Hải Phòng đã phát hiện 42 trường hợp
thiếu men G6PD , 1 trường hợp thiểu năng bẩm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 230
sinh tuyến giáp, 2 trường hợp tăng sản thượng
thận bẩm sinh.
ĐỀ XUẤT
Tầm soát sớm các bệnh lý bẩm sinh và di
truyền để chủ động điều trị và dự phòng là một
việc làm hết sức có ý nghĩa trong giai đoạn sơ
sinh và là một khuynh hướng ngày càng phát
triển của y học thế giới. Dù bước đầu triển khai
còn một số khó khăn, nhưng kết quả thu được
vẫn có một ý nghĩa khích lệ cho đơn vị chúng tôi
tiếp tục triển khai chương trình tầm soát này và
có những thống kê lâu dài hơn về tỷ lệ các ca
bệnh lý tầm soát được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beutler E (1991). “Glucose-6-phosphate dehydrogenase
deficiency”. New England Journal of Medicine, 324(3):169-174.
2. Chiang SH, Wu SJ (1990). “Neonatal screening for G6PD
deficiency in Taiwan”. Southeast J Trop Med Public Health,
30(2):70 -76.
3. Kaur G, Srivastav J, Jain S, Chawla D (2010). “Preliminary
Report on Neonatal Screening for Congenital Hypothyroidism,
Congenital Adrenal Hyperplasia and Glucose-6-Phosphate
Dehydrogenase Deficiency”. Indian J Pediatr, 77:969–973.
4. Khan RH (2010). Erythrocyte glucose 6 phosphate
dehydrogenase deficiency and neonatal jaundice. Curr Pediatr,
24(2): 122-126 .
5. Mohamed S, et al (2012). “Newborn screening for Glucose-6-
Phosphate Dehydrogenase Deficiency in Eastern Province,
Saudi Arabia”. Curr Pediatr, 16(2):125-128.
6. Nair H (2009). “Neonatal screening program for G6PD
deficiency in India: need and feasibility”. Indian Pediatr,
46:10451049.
7. Nguyễn Thị Ngọc Phượng và cộng sự (2005) “Thiểu năng tuyến
giáp bẩm sinh, thiếu men G6PD ở trẻ sơ sinh”. Chương trình
tầm soát bệnh lý sơ sinh bệnh viện Từ Dũ 2002-2005.
8. Tạ Thị Tĩnh (2006). “Thiếu Glucose - 6 - Phosphate
Dehydrogenase hồng cầu ở một số dân tộc Việt Nam”, Công
trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành sốt rét - ký sinh trùng
- côn trùng giai đọan 2001-2005. Nhà xuất bản Y học, pp.265 – 269.
Ngày nhận bài báo: 20/05/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 226_9448_2213332.pdf