Tài liệu Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối với dạy học một tri thức toán học - Nguyễn Anh Quốc: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018
44
Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm
đối với dạy học một tri thức toán học
Epistemological Obstacles and Didactic Obstacles to Teaching and Learning
Mathematical Knowledge
TS. Nguyễn Ái Quốc, Trường Đại học Sài Gòn
Nguyen Ai Quoc, Ph.D., Saigon University
TS. Đào Hồng Nam, Trường Đại học Y Dược TP.HCM
Dao Hong Nam, Ph.D., University of Medicine and Pharmacy at HCMC
Tóm tắt
Trong bài báo này, chúng tôi làm rõ hai khái niệm chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối
với việc dạy học một tri thức toán học theo quan điểm của didactic toán. Mỗi chướng ngại là một kiến
thức, một quan niệm chứ không phải là một khó khăn hay một sự thiếu kiến thức. Chướng ngại tri thức
luận được chứng thực trong nguồn gốc lịch sử của một khái niệm và là cấu thành của kiến thức hiện tại.
Chướng ngại sư phạm được xem là những trở ngại sinh ra từ quá trình chuyển hóa sư phạm và phụ thuộc
vào sự l...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối với dạy học một tri thức toán học - Nguyễn Anh Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018
44
Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm
đối với dạy học một tri thức toán học
Epistemological Obstacles and Didactic Obstacles to Teaching and Learning
Mathematical Knowledge
TS. Nguyễn Ái Quốc, Trường Đại học Sài Gòn
Nguyen Ai Quoc, Ph.D., Saigon University
TS. Đào Hồng Nam, Trường Đại học Y Dược TP.HCM
Dao Hong Nam, Ph.D., University of Medicine and Pharmacy at HCMC
Tóm tắt
Trong bài báo này, chúng tôi làm rõ hai khái niệm chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối
với việc dạy học một tri thức toán học theo quan điểm của didactic toán. Mỗi chướng ngại là một kiến
thức, một quan niệm chứ không phải là một khó khăn hay một sự thiếu kiến thức. Chướng ngại tri thức
luận được chứng thực trong nguồn gốc lịch sử của một khái niệm và là cấu thành của kiến thức hiện tại.
Chướng ngại sư phạm được xem là những trở ngại sinh ra từ quá trình chuyển hóa sư phạm và phụ thuộc
vào sự lựa chọn của hệ thống dạy học.
Từ khóa: khó khăn, chướng ngại, chướng ngại sư phạm, chướng ngại tri thức luận.
Abstract
In this paper, we clarify two concepts of epistemological obstacle and didactic obstacle to teaching
mathematical knowledge from the perspective of didactic mathematics. One obstacle can be a certain
knowledge or concept, not necessarily a difficulty or a lack of knowledge. Epistemological obstacles are
attested in the historical genesis of a concept and constitutive of current knowledge. Didactic obstacles
are considered as those resulting from the didactic transposition and depending on the choice of the
educational system.
Keywords: difficulty, obstacle, didactic obstacle, epistemological obstacle.
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình dạy học Toán, việc
người học gặp một số khó khăn khi tiếp cận
tri thức mới hay có một số sai lầm khi giải
toán không phải là những hiện tượng lạ đối
với người dạy. Có loại sai lầm do sự bất cẩn
hay không chú ý, nhưng cũng có loại sai lầm
mang tính hệ thống, bền vững và dai dẳng
qua nhiều thế hệ người học. Loại sai lầm thứ
hai này được các nhà nghiên cứu didactic
toán quan tâm đặc biệt, vì chúng là biểu hiện
của các chướng ngại mang bản chất tri thức
luận gắn liền với lịch sử phát triển của tri
thức hay chướng ngại sư phạm do sự lựa
chọn của hệ thống dạy học gây nên.
Việc xác định rõ các chướng ngại tri
thức luận hay chướng ngại sư phạm của một
tri thức toán học là hoạt động cần thiết đối
với người dạy toán và các nhà nghiên cứu
didactic toán vì đó là bước đầu tiên của quá
NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM
45
trình thiết kế tình huống dạy học giúp người
học vượt qua các khó khăn trong quá trình
lĩnh hội tri thức mới.
Trước khi làm rõ chướng ngại khoa học
luận và chướng ngại sư phạm, chúng tôi
trình bày các khái niệm liên quan sau:
nghiên cứu tri thức luận, chuyển hóa sư
phạm, khó khăn – sai lầm – chướng ngại.
2. Khó khăn – sai lầm – chướng ngại
2.1. Nghiên cứu tri thức luận
Thuật ngữ épistémologie xuất hiện ở
thế kỷ 19, được cấu tạo bởi hai từ gốc Hy
Lạp: épistème có nghĩa là “khoa học” và
logo có nghĩa là “nghiên cứu về”.
Dorier (1997) viết:
“Chúng tôi quan tâm đến épistémologie
chủ yếu ở chỗ nó giúp hiểu rõ hơn mối liên
hệ giữa việc xây dựng tri thức trong cộng
đồng các nhà bác học với việc dạy và học tri
thức này.
Chính là theo cách hiểu này mà chúng
tôi cho rằng tốt hơn là hãy đưa ra một định
nghĩa cho tính từ épistémologique. []
Chúng tôi đề nghị định nghĩa sau: étude
épistémologique nghiên cứu những điều
kiện cho phép nảy sinh tri thức (đối với
chúng tôi là tri thức toán học), quan tâm đến
sự tiến triển của các tri thức hay kiến thức.
Ở đây thuật ngữ tiến triển được hiểu theo
nghĩa rộng nhất: nó có thể liên quan đến sự
biến đổi tình trạng kiến thức của một hệ
thống, một thể chế hay một cá thể. Hơn thế,
nó chú ý không chỉ đến những tư tưởng tiến
bộ mà còn đến cả những trì trệ, những bước
lùi” [7, tr.17].
Thuật ngữ nghiên cứu (hay phân tích)
tri thức luận được chuyển ngữ từ étude
épistémologique, analyse épistémologique
với cách hiểu như trên. Cụ thể hơn, nghiên
cứu tri thức luận là nghiên cứu lịch sử hình
thành tri thức nhằm làm rõ:
- “Nghĩa của tri thức, những bài toán,
những vấn đề mà tri thức đó cho phép giải
quyết;
- Những trở ngại cho sự hình thành tri
thức;
- Những điều kiện sản sinh ra tri thức,
những bước nhảy cần thiết trong quan niệm
để thúc đẩy quá trình hình thành và phát
triển tri thức” [2].
2.2. Chuyển hóa sư phạm
Quá trình chuyển đổi tri thức từ thể chế
này sang thể chế kia, trong đó thể chế đích
là thể chế dạy học, được gọi là quá trình
chuyển hóa sư phạm. Đó là quá trình chuyển
hóa gồm ba mắt xích cơ bản.
Mắt xích thứ nhất, thể chế tạo tri thức
Sự ra đời của một tri thức bác học thuộc
mắt xích đầu tiên. Nó là kết quả của những
hoạt động khoa học gắn liền với lịch sử cá
nhân của nhà nghiên cứu. Để trình bày nó,
các nhà toán học phải diễn đạt nó ở dạng
khái quát nhất có thể được, theo những quy
tắc thông dụng đang lưu hành trong cộng
đồng khoa học mà không trình bày bài toán
dẫn đến việc hình thành tri thức, không nêu
lại quá trình tìm tòi, phát minh của mình, bỏ
qua những sai lầm, chướng ngại gặp phải.
Ta nói là, nhà toán học đã thực hiện hoạt
động phi hoàn cảnh hóa, phi cá nhân hóa và
phi thời gian hóa.
Mắt xích thứ hai, thể chế chuyển hóa
Trong những tri thức toán học được tích
lũy qua lịch sử, các nhà thiết kế chương
trình chọn ra một số vấn đề làm đối tượng
dạy học. Để những tri thức này có thể dạy
được cho một bộ phận công chúng, tri thức
lại tiếp tục bị biến đổi để phù hợp với môi
trường và hệ thống dạy học. Quá trình này
có thể tạo ra một số đối tượng mới. Hệ quả
là, sự xuất hiện một sự chênh lệch khá lớn
giữa tri thức bác học với tri thức quy định
CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN VÀ CHƯỚNG NGẠI SƯ PHẠM ĐỐI VỚI DẠY HỌC MỘT TRI THỨC TOÁN HỌC
46
trong chương trình và thể hiện trong sách
giáo khoa.
Mắt xích thứ ba, thể chế giảng dạy
Khi tri thức cần dạy đã được xác định,
người dạy phải dựa vào trình độ của từng
đối tượng học sinh, cơ sở vật chất, phương
tiện giảng dạy, phương pháp sư phạm của
mình và sẽ chuyển tải những hiểu biết của
mình về tri thức đó đến học sinh sao cho họ
có thể hiểu được. Cách chuyển tải này
đương nhiên cũng phụ thuộc vào quan niệm,
vào các biểu tượng mà người dạy có về tri
thức. Và như vậy, chuyển hóa sư phạm tiếp
tục xảy ra trong hệ thống dạy - học.
2.3. Khó khăn
Theo G. Brousseau, một khó khăn là
một điều kiện, một đặc tính của một tình
huống làm tăng đáng kể xác suất không có
câu trả lời hay câu trả lời sai của các chủ thể
tác nhân liên quan trong tình huống này. Tác
nhân này có thể là một học sinh, cũng có thể
là một giáo viên mà có thể gặp một khó khăn
cho việc học tập mà anh ta dự định.
Do đó các khó khăn có thể quan sát
được, hoặc qua sự lặp đi lặp lại của các hành
động của cùng một cá nhân trong một tình
huống cho trước, hoặc thông qua một tập
hợp các câu trả lời đồng thời của các nhóm
chủ thể được xem là đủ để so sánh và đặt
dưới các biến thể của tình huống.
Các khó khăn có thể liên quan đến
những tiến triển tự nhiên khác nhau của tình
huống: lời giải với việc thực hiện một kiểu
nhiệm vụ, việc đưa ra một quyết định, một
thông báo, một phán quyết, việc học tập một
kiến thức hay việc hình thành một quan
niệm.
Cần lưu ý rằng, mỗi khó khăn là một
đặc trưng của một hệ thống cụ thể: tình
huống được đặt ra dưới các điều kiện như
thế cho các tác nhân là người có “danh mục”
các quan niệm, kỹ thuật hiện có nhiều khó
khăn hơn so với tình huống được đặt ra
trong các điều kiện khác cho các tác nhân có
danh mục khác.
Việc nghiên cứu các nguyên nhân của
khó khăn tương ứng với một vận động tích
cực trong giảng dạy. Nếu các khó khăn có
nguyên nhân, thì bằng cách tác động trên
những nguyên nhân này giáo viên sẽ có thể
làm cho việc lĩnh hội tri thức dễ dàng hơn.
Nhưng thay vì nghiên cứu các khó khăn này
như các tính chất của hệ thống, có lẽ để có
thể rút ra được lợi ích của các kết quả được
đề xuất bởi các khoa học khác (chẳng hạn
tâm lý học, tri thức luận hay sư phạm học)
người ta thường quy lỗi trực tiếp cho một
trong các hệ thống con hoặc một trong các
hệ thống hạ tầng: học sinh, tri thức hay giáo
viên. Chẳng hạn, các kết quả sẽ không đạt
bởi vì học sinh không có kiến thức kỹ thuật,
công nghệ hay lý thuyết trong vốn kiến thức
của họ theo cách quen thuộc mà người ta đã
dạy cho họ trước đây, hoặc ít nhất người ta
đã cố gắng nhưng vì giáo viên dạy kém hoặc
vì học sinh học kém, hay dự án quá tham
vọng. Do đó, cùng một khó khăn có thể được
quy trách nhiệm cho học sinh, cho giáo viên
hay cho tri thức của chính học sinh.
2.4. Sai lầm và chướng ngại
Theo quan điểm của phái Bachelard, sai
lầm không phải là sự kiện thứ yếu xảy ra
trong một quá trình: nó không nằm ngoài
kiến thức mà chính là biểu hiện của kiến
thức.
“Khi nghiên cứu những điều kiện []
cho các bước tiến của khoa học, ta nhanh
chóng đi đến chỗ tin rằng cần phải tiếp cận
vấn đề bằng thuật ngữ chướng ngại. []
Chính là ở đó mà ta tìm thấy nguyên nhân
của sự trì trệ, thậm chí sự thụt lùi. Chính là
ở đó ta phát hiện những nguyên nhân trơ ì
NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM
47
mà ta gọi là chướng ngại. [] Trong thực
tế, ta cần phải biết chống lại một kiến thức
cũ bằng cách loại bỏ đi những kiến thức đã
được xây dựng một cách không hoàn toàn
đúng, bằng cách vượt lên cái nằm trong
chính tư duy và tạo nên chướng ngại cho
nhận thức” [1].
Ngay từ những năm 70, nghiên cứu của
Brousseau đã chỉ ra rằng, một số kiến thức
sai là cần thiết cho học tập: con đường đi
của học sinh phải trải qua việc xây dựng
(tạm thời) từ một số kiến thức sai, và việc ý
thức được sai lầm này sẽ là yếu tố cấu thành
nên nghĩa của kiến thức mà ta muốn xây
dựng cho họ. Kế thừa Bachelard, Brousseau
gọi những điểm buộc phải trải qua này là
những chướng ngại tri thức luận và nhấn
mạnh vai trò của chúng trong lịch sử phát
triển các kiến thức:
“Sai lầm không phải chỉ là hậu quả của
sự không biết, không chắc chắn, ngẫu nhiên,
như cách nghĩ của những người theo chủ
nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa hành vi, mà
còn có thể là hậu quả của những kiến thức
đã có từ trước, đã từng có ích đối với việc
học trước kia, nhưng lại là sai, hoặc đơn
giản là không còn phù hợp nữa đối với việc
lĩnh hội tri thức mới. Những sai lầm thuộc
loại này không phải thất thường hay không
dự đoán được. Chúng tạo thành chướng
ngại. Trong hoạt động của giáo viên cũng
như trong hoạt động của học sinh, sai lầm
bao giờ cũng góp phần xây dựng nên nghĩa
của kiến thức được thu nhận bởi những chủ
thể này” [3, tr. 171].
2.5. Nguồn gốc của chướng ngại
Brousseau phân biệt các chướng ngại
tùy theo nguồn gốc của chúng [2]:
- Chướng ngại thuộc về sự phát triển
cá thể (obstacle ontorénétique) là chướng
ngại gắn liền với những hạn chế về nhận
thức của cá nhân ở một thời điểm nào đó
trong quá trình phát triển của nó.
- Chướng ngại văn hóa (obstacle
culturel) sinh ra từ những kiến thức lưu
truyền qua các bối cảnh văn hóa, đã được
khoa học điều chỉnh, nhưng vẫn luôn luôn
hiện diện.
- Chướng ngại sư phạm (obstacle
didactique) là chướng ngại sinh ra từ sự
chuyển hóa sư phạm, dường như chỉ phụ
thuộc vào sự lựa chọn của hệ thống dạy học.
- Chướng ngại tri thức luận (obstacle
épistémologique) là chướng ngại gắn liền
với lịch sử phát triển của tri thức mà việc
vượt qua nó đóng vai trò quyết định đối với
quá trình xây dựng kiến thức của chủ thể.
Trong học tập, việc vượt qua những chướng
ngại tri thức luận là điều không thể tránh
khỏi, bởi đó là yếu tố cấu thành nên kiến
thức.
2.6. Đặc trưng của chướng ngại [2]
- Mỗi chướng ngại là một kiến thức,
một quan niệm chứ không phải là một khó
khăn hay một sự thiếu kiến thức;
- Kiến thức này tạo ra những câu trả lời
phù hợp trong một bối cảnh nào đó mà ta
thường hay gặp;
- Khi vượt ra khỏi bối cảnh này thì nó
sản sinh những câu trả lời sai để có câu trả
lời đúng cho mọi bối cảnh cần phải có một
thay đổi đáng kể trong quan điểm;
- Hơn nữa, kiến thức này chống lại
những mâu thuẫn với nó và chống lại sự
thiết lập một kiến thức hoàn thiện hơn (việc
có một kiến thức khác hoàn thiện hơn chưa
đủ để kiến thức sai này biến mất, mà nhất
thiết phải xác định được nó và đưa việc loại
bỏ nó vào tri thức mới);
- Ngay cả khi chủ thể đã ý thức được sự
không chính xác của kiến thức chướng ngại
này, nó vẫn tiếp tục xuất hiện dai dẳng và
CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN VÀ CHƯỚNG NGẠI SƯ PHẠM ĐỐI VỚI DẠY HỌC MỘT TRI THỨC TOÁN HỌC
48
không đúng lúc.
Dưới đây, chúng tôi nêu ra một số ví dụ
về các chướng ngại tri thức luận và chướng
ngại sư phạm được trích từ các nghiên cứu
trong khuôn khổ didactic toán.
3. Chướng ngại tri thức luận
Trong tác phẩm “La formation de
l’esprit scientifique”, hiện tượng chướng
ngại tri thức luận đã được Bachelard (1938)
làm rõ lĩnh vực các khoa học (phần lớn là
các khoa học vật lý) và ông cho rằng toán
học miễn nhiễm với các hiện tượng này:
“Trong thực tế, lịch sử toán học là một
điều kỳ diệu về sự đều đặn. Nó biết các giai
đoạn dừng. Nó không biết giai đoạn sai lầm.
Không có một luận đề nào mà chúng ta bảo
vệ trong cuốn sách này nhắm đến kiến thức
toán học” [1].
Bằng cách thay đổi một chút khái niệm
của Bachelard, người ta đã chỉ ra rằng các
hiện tượng chướng ngại cũng ảnh hưởng
đến lịch sử toán học và hơn nữa nó nhất thiết
cũng hiện diện trong quá trình học tập và
giảng dạy.
“Một chướng ngại trong Toán học biểu
hiện bởi một tập hợp các khó khăn chung
đối với nhiều tác nhân hành động (chủ thể
hay thể chế) là những người chia sẻ “một”
quan niệm không thích hợp của một khái
niệm toán học” [3].
Ví dụ 1:
Nhiều nghiên cứu didactic đã quan tâm
đến các khó khăn trong học tập khái niệm
giới hạn, trong đó có Cornu (1983),
Sierpinska (1985), Schneider (1991), Lê
Thái Bảo Thiên Trung (2010).
Cornu đã chỉ ra ở nhiều sinh viên năm
thứ nhất đại học một quan niệm năng động
và đơn điệu của khái niệm giới hạn cản trở
việc thiết lập một số tính chất cơ bản của
khái niệm toán học. Ở đây, chúng tôi trình
bày cụ thể chướng ngại của giới hạn của dãy
số trong nghiên cứu của Cornu (1983): “Một
giới hạn có đạt tới giới hạn hay không?” và
chướng ngại giới hạn hàm số: “Bước chuyển
từ quan điểm xấp xỉ x sang quan điểm xấp xỉ
𝑓(𝑥)” của Lê Thái Bảo Thiên Trung (2010).
3.1. Chướng ngại “Một giới hạn có đạt
tới giới hạn hay không?”
Khi nghiên cứu các giới hạn dạng 0/0
xuất hiện trong bài toán vận tốc tức thời,
Newton đã mô tả giới hạn của tỉ số giữa số
gia quãng đường với số gia thời gian là
“trạng thái cuối cùng của đại lượng vận tốc
trước khi các số gia biến mất”. Câu hỏi đặt
ra cho quá trình nhận thức: liệu ta có đạt
được giới hạn này hay không? Cornu (1983)
đã nghiên cứu hiệu ứng của chướng ngại này
ở HS qua hệ thống câu hỏi trên các dãy số.
Trong câu hỏi số 1, tác giả đưa ra một
dãy số 0,3; 0,33; 0,333; 0,3333; 0,33333;
và nêu các câu hỏi sau:
- “
1
3
có trong dãy này không?”
- “Có số nào trong dãy lớn hơn
1
3
không?”
- “Ta có thể tìm thấy một số 𝑎 <
1
3
, lớn
hơn mọi số trong dãy này không?”
- “Dạng viết 0,3333 có nghĩa là gì?
Nó có biểu diễn cho một số nào không? Là
số nào?...” [6, tr. 144].
Câu trả lời của HS cho thấy họ khó chấp
nhận
1
3
là giới hạn của dãy trên. Nhiều giải
thích cho thấy, HS tin rằng dạng viết thập
phân vô hạn tuần hoàn 0,3333... là giới hạn
và cũng là giá trị cuối cùng của dãy trên, hơn
nữa giá trị này nhỏ nghiêm ngặt hơn
1
3
.
Với giới hạn hàm số, chướng ngại này
sẽ gây ra khó khăn cho HS khi đứng trước
câu hỏi: nếu lim
𝑥→𝑎
𝑓(𝑥) tồn tại thì có tồn tại
giá trị nào của x sao cho 𝑓(𝑥) = 𝐿 hay
NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM
49
không?
3.2. Chướng ngại “bước chuyển từ
quan điểm xấp xỉ x sang quan điểm xấp xỉ
𝒇(𝒙)”
Nghiên cứu tri thức luận về khái niệm
giới hạn hàm số, Lê Thái Bảo Thiên Trung
(2010) chỉ ra hai quan điểm trong lịch sử của
khái niệm giới hạn được ẩn chứa trong kí
hiệu hiện đại lim
𝑥→𝑎
𝑓(𝑥) = 𝐿 như sau:
- Quan điểm xấp xỉ x: biến độc lập x
càng lúc càng gần giá trị a kéo theo 𝑓(𝑥)
càng lúc càng gần L. Nghĩa là, độ xấp xỉ (độ
gần) của x với a sẽ kéo theo độ xấp xỉ của
𝑓(𝑥) với L.
- Quan điểm xấp xỉ 𝑓(𝑥): độ xấp xỉ của
𝑓(𝑥) tới L mà ta mong muốn sẽ quyết định
độ xấp xỉ của x tới a phải chọn. Quan điểm
này chính là nội hàm của định nghĩa chính
xác bằng ngôn ngữ , ngày nay.
Nghiên cứu của Lê Thái Bảo Thiên
Trung cho thấy, học sinh dễ dàng tiếp cận
giới hạn bằng quan điểm xấp xỉ x nhưng gặp
khó khăn rất lớn khi chuyển sang quan điểm
xấp xỉ 𝑓(𝑥). Như vậy, bước chuyển từ quan
điểm trực giác (xấp xỉ x) sang quan điểm
đúng đắn (xấp xỉ 𝑓(𝑥)) thực sự là một
chướng ngại tri thức luận. Chướng ngại này
cũng giải thích lí do tại sao nhiều nước trên
thế giới (Pháp, Mỹ...) chỉ đặt mục tiêu
truyền thụ quan điểm xấp xỉ x trong dạy học
toán phổ thông.
Liên quan đến việc làm rõ các công
trình của Cornu (1983), Sierpinska (1985)
đề xuất danh sách gồm năm kiểu chướng
ngại liên quan đến giới hạn:
1/ chướng ngại gắn liền với tính vô cực.
2/ chướng ngại gắn liền với khái niệm
hàm số: tính đơn điệu, cận trên nhỏ nhất, cận
dưới lớn nhất, dãy giá trị.
3/ chướng ngại hình học: trực giác hình
học như chướng ngại cho việc xây dựng một
định nghĩa chặt chẽ, giới hạn như biên của
một tập hợp.
4/ chướng ngại logic gắn liền với vấn
đề các toán tử.
5/ chướng ngại của ký hiệu.
Ví dụ 2:
Một phân tích tri thức luận đối với việc
dạy học Đại số tuyến tính (trong trường hợp
Không gian vectơ (KGVT)) cho thấy, tồn tại
một số chướng ngại gắn liền với lịch sử phát
triển của khái niệm KGVT mà việc vượt qua
chúng đóng vai trò quyết định đối với quá
trình xây dựng hệ tiên đề định nghĩa KGVT
hay các khái niệm liên quan. Do đó, trong
học tập, việc vượt qua những chướng ngại
này là điều không thể tránh khỏi. Phân tích
tri thức luận về KGVT cho phép chỉ ra một
số khó khăn, trở ngại mà các nhà toán học
đã trải qua trong một quãng thời gian dài,
đặc biệt có liên quan đến sự trừu tượng hóa
của KGVT. Vì vậy, phân tích tri thức luận
của KGVT cho phép chúng tôi rút ra các khó
khăn có thể của sinh viên khi tiếp cận tri
thức này:
“Khó khăn liên quan đến trừu tượng
hóa:
+ Kiểu hệ thống biểu đạt: một đối tượng
tri thức có nhiều cách biểu đạt ngôn ngữ
toán học như ngôn ngữ tự nhiên, ngôn ngữ
ký hiệu hay ngôn ngữ đồ họa. Đối với cấu
trúc KGVT, có thể biểu đạt qua ngôn ngữ tự
nhiên và ngôn ngữ ký hiệu. Như đã phân
tích ở trên, do nhu cầu giải quyết các vấn đề
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như
xây dựng một ngôn ngữ chung để thỏa mãn
cho những nghiên cứu được thực hiện, nên
các nhà toán học phải đưa ra một hệ thống
biểu đạt phù hợp nhất là sự tổng hòa của
nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy mà họ gặp
không ít trở ngại.
+ Kiểu hệ thống tiên đề: hầu hết các
CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN VÀ CHƯỚNG NGẠI SƯ PHẠM ĐỐI VỚI DẠY HỌC MỘT TRI THỨC TOÁN HỌC
50
khái niệm toán học trong thể chế trung học
phổ thông đều được định nghĩa theo kiểu
định danh hay bản chất, trong khi các khái
niệm của KGVT được định nghĩa bằng hệ
tiên đề. Việc chuyển từ làm việc trên các tập
hợp số cụ thể sang làm việc trên các hệ
thống biểu đạt ký hiệu là một trong những
nguồn gốc của các khó khăn mà sinh viên
đại học gặp phải trong học tập KGVT” [9].
Ví dụ 3:
Phân tích tri thức luận đối với khái niệm
nhóm [10] chỉ ra sự tồn tại của chướng ngại
liên quan đến trừu tượng hóa khái niệm này
bằng hệ thống biểu đạt ký hiệu. Kết quả cho
thấy, các thành phần của khái niệm nhóm
xuất hiện rải rác trong nhiều lĩnh vực toán
học khác nhau, tiến triển qua thời gian dài
hơn một thế kỷ và cuối cùng được hợp nhất
trong định nghĩa của V. Dyck năm 1883.
Riêng ở giai đoạn xuất hiện sự trừu tượng và
giai đoạn củng cố khái niệm nhóm trừu
tượng, trong các công trình của Cayley
(1878), Weber (1882) và Von Dyck (1883)
những đặc trưng của nhóm tổng quát được
xây dựng bằng hệ thống biểu đạt ký hiệu và
định nghĩa nhóm tổng quát theo hệ tiên đề
phải trải qua gần 30 năm để được cộng đồng
toán học chấp nhận, hoàn thiện dần.
Mặt khác, từ thực tế giảng dạy cho thấy
sinh viên gặp nhiều lúng túng trong việc tiếp
cận khái niệm nhóm và giải quyết các bài
tập liên quan đến khái niệm này. Một khảo
sát nhỏ trên 8 sinh viên của Trường Đại học
Sư phạm TP.HCM, Trường Đại học Sài Gòn
và Trường Đại học Đồng Nai cho thấy, họ
gặp một số khó khăn liên quan đến ký hiệu
của khái niệm nhóm thương G/N và những
khó khăn này gắn liền với những quan niệm
đã có từ trước, với khái niệm thương và
đồng dư trong số học.
Câu hỏi được đặt ra: “Cho G là một
nhóm và N là nhóm con chuẩn tắc của G,
bạn hãy cho biết mối quan hệ giữa:
1/ nhóm thương G/N và nhóm G;
2/ các phần tử của G/N và của G;
3/ phép toán trong G/N và trong G”.
Kết quả khảo sát cho biết, có 5 sinh viên
không nhận thức rõ bản chất của các phần
tử của nhóm thương G/N cũng như phép
toán của nó. Trong đó, có 2 sinh viên cho
rằng nhóm thương G/N là một nhóm con
của G. Sinh viên thứ nhất giải thích đơn giản
rằng bởi vì nhóm thương G/N cũng là một
nhóm và các phần tử của nó lấy từ nhóm G
ban đầu; sinh viên thứ hai xem nhóm thương
G/N là “tập hợp các lớp bên phải”, đúng hơn
là tương ứng với GN là tích của các phần tử
của G với các phần tử của N, do đó cũng là
một phần tử của G. Sinh viên thứ hai còn
cho rằng hai phép toán trong G/N và G là
trùng nhau. Một sinh viên khác xem nhóm
thương G/N là một nhóm con hay một tập
con của G và nếu “nhân” G/N với N sẽ cho
G. Hai sinh viên còn lại đã liên kết khái
niệm nhóm thương với khái niệm thương
của số học: sinh viên thứ nhất xem nhóm
thương G/N là “phép chia nhóm G cho
nhóm con N” và cho ví dụ Z/2 (Z là “nhóm
được chia cho 2”); sinh viên thứ hai xem
nhóm thương là tập hợp các thương của một
phần tử thuộc nhóm ban đầu với một phần
tử của nhóm con.
Từ kết quả nghiên cứu trên đặt ra câu
hỏi về các khó khăn liên quan chướng ngại
trừu tượng hóa khái niệm nhóm bằng hệ
thống biểu đạt ký hiệu mà sinh viên phải
đương đầu khi học tập khái niệm này.
4. Chướng ngại sư phạm
Đây là chướng ngại sinh ra từ sự chuyển
hóa sư phạm, dường như chỉ phụ thuộc vào
một lựa chọn hay một dự án của hệ thống
giáo dục.
Ví dụ 4:
Kiến thức về số nguyên là chướng ngại
NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM
51
cho việc xây dựng kiến thức về số thập phân
ở học sinh. Một số khía cạnh của kiến thức
về số nguyên được xác định là một chướng
ngại sư phạm như định nghĩa, cách viết; một
số khía cạnh khác là chướng ngại tri thức
luận như kiến thức về số nguyên và các tính
chất của nó cần thiết cho việc xây dựng số
thập phân.
Việc trình bày các số thập phân ở bậc
tiểu học là kết quả của quá trình tiến triển
lâu dài trong khuôn khổ của một lựa chọn sư
phạm do các nhà bách khoa toàn thư thực
hiện. Với tính hữu dụng của chúng, số thập
phân được dạy cho mọi người càng sớm
càng tốt, gắn liền với một hệ thống đo lường
và đề cập đến các kỹ thuật tính toán trong số
nguyên. Vì thế ngày nay, số thập phân đối
với học sinh là cặp số nguyên được đặt cách
nhau bởi một dấu phẩy.
Thực nghiệm [5] được tiến hành trên
các học sinh tiểu học Pháp, cho thấy tồn tại
một chướng ngại đối với học sinh trong việc
xây dựng kiến thức về số thập phân.
Người ta yêu cầu học sinh năm cuối bậc
tiểu học ở Pháp sắp xếp 7 số sau theo thứ tự
tăng dần:
101
50
;
52
100
;
120
50
; 0,375;
13
10
; 1,01; 2,315.
Lời giải học sinh A: 2,02; 0,52; 2,4;
0,375; 1,3; 1,01; 2,315.
Do đó: 0,52 < 0,375 < 1,3 < 1,01 < 2,4
< 2,02 < 2,315.
Lời giải của học sinh B: 2,02; 0,52; 2,4;
0,375; 1,3; 1,01; 2,315.
Do đó: 0,52 < 0,375 < 1,01 < 1,3 < 2,02
< 2,4 < 2,315.
Bình luận:
Cả hai học sinh đều chuyển về so sánh
các số thập phân. Trước hết là so sánh phần
nguyên. Nếu phần nguyên (là một số tự
nhiên) khác nhau: số nào có phần nguyên
lớn hơn thì lớn hơn. Nếu phần nguyên bằng
nhau: học sinh A so sánh phần thập phân
dựa vào độ dài của chúng, còn học sinh B so
sánh chúng như so sánh hai số tự nhiên,
không tính số 0 bên trái.
Một số nghiên cứu đã khẳng định, các
sai lầm của hai học sinh trên có nguồn gốc
từ quan niệm: số thập phân (dương) là hai
số tự nhiên ghép với nhau bởi dấu “phẩy”.
Từ đó, việc so sánh hai số thập phân
(dương) qui về so sánh hai số tự nhiên, theo
qui tắc so sánh hai số tự nhiên.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cách
giải dựa vào quan niệm trên vẫn cho câu trả
lời đúng. Chẳng hạn, nếu dãy số cần sắp xếp
là: 0,23; 0,16; 1,54; 2,43; 1,29; 2,18. Do đó,
quan niệm sai lầm này sẽ được củng cố và
trở nên bền vững hơn, nếu tất cả các bài tập
mà học sinh gặp phải (có thể do tình cờ) đều
có dạng mà nó cho câu trả lời đúng.
Như vậy, học sinh đã gặp phải chướng
ngại sư phạm khi tiếp cận khái niệm số thập
phân dương thay vì số tự nhiên quen thuộc;
cụ thể, một số kiến thức về số tự nhiên trở
thành chướng ngại cho việc xây dựng kiến
thức về số thập phân.
5. Sự khác nhau giữa chướng ngại và
khó khăn
Phân biệt giữa chướng ngại và khó khăn
đối với việc dạy học một tri thức không đơn
giản, vì đòi hỏi phải xem xét chúng theo
những nghĩa xác định nào. Thông thường
chướng ngại đòi hỏi sự vượt qua kiến thức
cũ như là một rào cản chống lại việc lĩnh hội
kiến thức mới. Vì thế, trong phần này chúng
tôi chỉ trình bày một số ví dụ để phân biệt sự
khác nhau của hai khái niệm này.
Việc học sinh lúng túng trong thao tác
vẽ đường biểu diễn cho một elip được xem
là một khó khăn, vì ở đây không cần vượt
qua một kiến thức cũ nào cả. Khó khăn này
có thể khắc phục qua một số lần vẽ nhằm
tăng cường sự khéo léo của đôi tay.
CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN VÀ CHƯỚNG NGẠI SƯ PHẠM ĐỐI VỚI DẠY HỌC MỘT TRI THỨC TOÁN HỌC
52
Trong trường hợp học sinh gặp khó khăn
biểu diễn và vẽ các đối tượng hình học trong
ℝ3 như đường, mặt, các khối trên đó xác
định nhiều loại tích phân khác nhau cần phải
tính toán: nếu xét theo nghĩa “những gì ngăn
cản hay làm trễ nải một hành động” thì có vẻ
đó là một chướng ngại; nhưng nếu xét theo
nghĩa cần vượt qua một kiến thức cũ thì đó
chỉ là các khó khăn.
Trong trường hợp nếu học sinh không
làm việc trên hình học không gian cổ điển ở
bậc trung học phổ thông thì đó có phải là
một chướng ngại sư phạm đối với hình
tượng hóa và do đó đối với khả năng giải các
tích phân bội ở đại học sau này hay không,
vì nó ngăn cản về mặt trí tuệ việc xây dựng
các tương giao của các mặt trong không
gian? Để trả lời câu hỏi này, cần phải kiểm
chứng bằng thực nghiệm về vai trò của hình
học ở trung học phổ thông trong quan niệm
hóa các hình khối của không gian và trong
việc sử dụng hình học tọa độ.
Trên thực tế, việc học sinh không phân
biệt các kiểu biểu diễn hệ thống biểu đạt của
cùng một mặt trong không gian không phải
là một chướng ngại sư phạm, mà là một khó
khăn vì không có một kiến thức cũ nào cần
phải đấu tranh vượt qua.
Đối với chướng ngại tri thức luận,
Brousseau đề nghị thực hiện đồng thời các
tình huống a-didactic và didactic để có thể
tổ chức sự thừa nhận và vượt qua chúng.
6. Kết luận
Việc xác định các chướng ngại của một
tri thức rất cần thiết và quan trọng cho hoạt
động dạy học toán học. Nó giúp cho người
giáo viên có quan điểm đúng đắn về các khó
khăn, trở ngại mà học sinh gặp phải trong
học tập một tri thức mới, đồng thời đặt ra
cho các nhà didactic những câu hỏi về đồ án
dạy học:
Làm thế nào để tránh các chướng ngại?
Có thể tránh được tất cả các chướng ngại
không? Làm thế nào để vượt qua các
chướng ngại mà chúng ta buộc phải đối đầu
với chúng?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bachelard, G. (1938), La formation de l'esprit
scientifique, 13° éd., Paris: Vrin, 1986.
2. Bessot, A., & Comiti, C., & Lê Thị Hoài Châu,
& Lê Văn Tiến (2009). Những yếu tố cơ bản
của didactic Toán. Nhà xuất bản Đại học quốc
gia TP. Hồ Chí Minh.
3. Brousseau, G. (1976). “Les obstacles
épistémologiques et les problèmes en
mathématiques” in La problématique et
l’enseignement de la mathématique. Actes de
la XXVIIe rencontre de la CIEAEM Louvain
la neuve (1976). Texte repris "Recherches en
didactique des mathématiques"; vol 4.2 p 164-
197 (1983).
4. Lê Thị Hoài Châu (2017). Sự cần thiết của
phân tích tri thức luận đối với các nghiên cứu
về hoạt động dạy học và đào tạo giáo viên. Hội
thảo quốc tế về Didactic Toán lần thứ 6. Actes
du sixième colloque international en
didactique des mathématiques. Trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
5. Comiti, C. (1992). Obstacles et construction de
la connnaissance. Cours de DEA
6. Cornu, B. (1983). Apprentissage de la notion
de limite: conceptions et obstacles. Thèse.
Université Scientifique Et Médicale De
Grenoble.
7. Dorier, J-L. (1997). Recherches en histoire et
en didactique des mathématiques sur l'algèbre
linéaire - Perspective théorique sur leurs
interactions. Les cahiers du Laboratoire
Leibniz. Grenoble.
8. Lalande, A. (1991). Vocabulaire technique et
critique de la Philosophie. Vol. 2. Dixième Édition.
Ed. Presses Universitaire de France. Paris.
9. Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thị Thanh Thanh
(2017). Lợi ích của phân tích tri thức luận đối
với dạy học Đại số tuyến tính: trường hợp
không gian vectơ. Hội thảo quốc tế về Didactic
NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM
53
Toán lần thứ 6. Actes du sixième colloque
international en didactique des
mathématiques. Trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thị Vân Khánh
(2017). Một phân tích tri thức luận trong dạy
học đại số cao cấp: trường hợp nhóm. Hội thảo
quốc tế về Didactic Toán lần thứ 6. Actes du
sixième colloque international en didactique
des mathématiques. Trường Đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh.
11. Lê Thái Bảo Thiên Trung (2010). Notion de
limite et décimalisation des nombre réels au
lycée. Édition Universitaire Europénne.
12. Lê Thái Bảo Thiên Trung (2017). Các tình
huống tranh luận khoa học xoay quanh một số
chướng ngại tri thức luận của khái niệm giới
hạn. Hội thảo quốc tế về Didactic Toán lần thứ
6. Actes du sixième colloque international en
didactique des mathématiques. Trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
13. Sierpinska, A. (1985). Obstacles
épistémologiques relatifs à la notion de limite,
RDM, Vol.6.1, tr.5-67.
Ngày nhận bài: 27/10/2017 Biên tập xong: 15/7/2018 Duyệt đăng: 20/7/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 92_7887_2214997.pdf