Tài liệu Chương 5: Chất thải rắn y tế: Chương 5:
Chất thải rắn y tế
83
Chương 5:
CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
5.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN
CÁC BỆNH VIỆN VÀ CƠ SỞ KHÁM
CHỮA BỆNH
Hệ thống các bệnh viện, cơ sở khám chữa
bệnh trên địa bàn toàn quốc được phân cấp
quản lý theo tính chất chuyên khoa. Cụ thể,
Bộ Y tế quản lý 11 bệnh viện đa khoa tuyến
trung ương, 25 bệnh viện chuyên khoa tuyến
trung ương; địa phương quản lý 743 bệnh
viện đa khoa tuyến tỉnh/thành phố, 239 bệnh
viện chuyên khoa tuyến tỉnh/thành phố, 595
bệnh viện đa khoa quận/huyện/thị xã và
11.810 trung tâm y tế các cấp; các đơn vị
khác quản lý 88 Trung tâm/Nhà điều dưỡng/
bệnh viện tư nhân. (Cục Khám chữa bệnh -
Bộ Y tế, 2009).
Mức độ đáp ứng nhu cầu chữa trị tính
chung trong cả nước tăng lên rõ rệt trong
những năm gần đây, năm 2005 là 17,7
giường bệnh/1 vạn dân, đến năm 2009 là 22
giường bệnh/1 vạn dân (TCTK, 2011). Việc
tăng số lượng giường bệnh thực tế do tăng
nhu cầu về ...
15 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 801 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương 5: Chất thải rắn y tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
83
Chương 5:
CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
5.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN
CÁC BỆNH VIỆN VÀ CƠ SỞ KHÁM
CHỮA BỆNH
Hệ thống các bệnh viện, cơ sở khám chữa
bệnh trên địa bàn toàn quốc được phân cấp
quản lý theo tính chất chuyên khoa. Cụ thể,
Bộ Y tế quản lý 11 bệnh viện đa khoa tuyến
trung ương, 25 bệnh viện chuyên khoa tuyến
trung ương; địa phương quản lý 743 bệnh
viện đa khoa tuyến tỉnh/thành phố, 239 bệnh
viện chuyên khoa tuyến tỉnh/thành phố, 595
bệnh viện đa khoa quận/huyện/thị xã và
11.810 trung tâm y tế các cấp; các đơn vị
khác quản lý 88 Trung tâm/Nhà điều dưỡng/
bệnh viện tư nhân. (Cục Khám chữa bệnh -
Bộ Y tế, 2009).
Mức độ đáp ứng nhu cầu chữa trị tính
chung trong cả nước tăng lên rõ rệt trong
những năm gần đây, năm 2005 là 17,7
giường bệnh/1 vạn dân, đến năm 2009 là 22
giường bệnh/1 vạn dân (TCTK, 2011). Việc
tăng số lượng giường bệnh thực tế do tăng
nhu cầu về khám chữa bệnh đồng nghĩa với
việc tăng khối lượng chất thải y tế cần phải
xử lý.
5.2. PHÁT SINH CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
5.2.1. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế
Nguồn phát sinh chất thải y tế chủ yếu
là: bệnh viện; các cơ sở y tế khác như: trung
tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản
phụ khoa, nhà hộ sinh, phòng khám ngoại
trú, trung tâm lọc máu...; các trung tâm xét
nghiệm và nghiên cứu y sinh học; ngân hàng
máu... Hầu hết các CTR y tế đều có tính chất
độc hại và tính đặc thù khác với các loại CTR
khác. Các nguồn xả chất lây lan độc hại chủ
yếu là ở các khu vực xét nghiệm, khu phẫu
thuật, bào chế dược (Bảng 5.1).
(*) Không tính số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân
Biểu đồ 5.1. Sự phát triển của các điều kiện
chăm sóc sức khỏe
Nguồn: TCTK, 2011
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
84
5.2.2. Lượng phát sinh chất thải rắn y tế
Theo nghiên cứu điều tra mới nhất của
Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế và Viện Kiến
trúc, Quy hoạch Đô thị và Nông thôn - Bộ
Xây dựng, năm 2009-2010, tổng lượng CTR y
tế trong toàn quốc khoảng 100-140 tấn/ngày,
trong đó có 16-30 tấn/ngày là CTR y tế nguy
hại. Lượng CTR trung bình là 0,86 kg/giường/
ngày, trong đó CTR y tế nguy hại tính trung
bình là 0,14 - 0,2 kg/giường/ngày.
CTR y tế phát sinh ngày càng gia tăng ở
hầu hết các địa phương, xuất phát từ một số
nguyên nhân như: gia tăng số lượng cơ sở y tế
và tăng số giường bệnh; tăng cường sử dụng
các sản phẩm dùng một lần trong y tế; dân số
gia tăng, người dân ngày càng được tiếp cận
nhiều hơn với dịch vụ y tế.
Loại CTR Nguồn tạo thành
Chất thải
sinh hoạt
Các chất thải ra từ nhà bếp, các
khu nhà hành chính, các loại
bao gói..
Chất thải
chứa các vi
trùng gây
bệnh
Các phế thải từ phẫu thuật, các
cơ quan nội tạng của người sau
khi mổ xẻ và của các động vật
sau quá trình xét nghiệm, các
gạc bông lẫn máu mủ của bệnh
nhân..
Chất thải bị
nhiễm bẩn
Các thành phần thải ra sau khi
dùng cho bệnh nhân, các chất
thải từ quá trình lau cọ sàn nhà...
Chất thải
đặc biệt
Các loại chất thải độc hại hơn
các loại trên, các chất phóng
xạ, hóa chất dược... từ các khoa
khám, chữa bệnh, hoạt động
thực nghiệm, khoa dược
Bảng 5.1. Nguồn phát sinh các loại CTR
đặc thù từ hoạt động y tế
Bảng 5.2. Khối lượng chất thải y tế của một số địa phương năm 2009
Ghi chú: (*) Số liệu năm 2006; (**) Số liệu năm 2007
Nguồn: Báo cáo Hiện trạng môi trường địa phương 2006-2010, Sở TN&MT các địa phương, 2010
Loại đô
thị
Tỉnh/Tp.
Lượng
CTR y tế
(tấn/năm)
Loại
đô thị
Tỉnh/Tp.
Lượng
CTR y tế
(tấn/năm)
Loại
đô thị
Tỉnh/Tp.
Lượng
CTR y tế
(tấn/năm)
Tỉnh có
đô thị
loại I
Đắk Lắk 276,3
Tỉnh
có đô
thị
loại
III
Bạc Liêu 134,8 Tỉnh
có đô
thị
loại III
Quảng Trị 272,116
Khánh Hòa 365 Bình Dương 1.241 Sóc Trăng 266,7
Lâm Đồng 209,3 Điện Biên 79,1 Sơn La 175
Nam Định 488 Hà Giang 405 Trà Vinh 400 (**)
Nghệ An 187,6 Hà Nam 967 Vĩnh Long 340,26
Tỉnh có
đô thị
loại II
An Giang 320,1 Hậu Giang 634,8 (*) Yên Bái 108,542
Cà Mau 159,5 Kiên Giang 642,4
Đô thị
loại
đặc
biệt
Hà Nội ~5000
Đồng Nai 430,8 Long An 369
Tp. Hồ Chí
Minh
2800(**)
Phú Thọ 126,54 Quảng Nam 602,25
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
85
Tính riêng cho 36 bệnh viện thuộc Bộ Y
tế quản lý, theo khảo sát năm 2009, tổng
lượng CTR y tế phát sinh trong 1 ngày là
31,68 tấn, trung bình là 1,53 kg/giường/
ngày. Lượng chất thải phát sinh tính theo
giường bệnh cao nhất là bệnh viện Chợ Rẫy
3,72 kg/giường/ngày, thấp nhất là bệnh viện
Điều dưỡng - Phục hồi chức năng Trung
ương và bệnh viện Tâm thần Trung ương 2
với 0,01 kg/giường/ngày.
Lượng CTR y tế phát sinh trong ngày khác
nhau giữa các bệnh viện tùy thuộc số giường
bệnh, bệnh viện chuyên khoa hay đa khoa,
các thủ thuật chuyên môn được thực hiện tại
bệnh viện, số lượng vật tư tiêu hao được sử
dụng... (Bảng 5.3).
Biểu đồ 5.2. Gia tăng chất thải y tế của một số
địa phương giai đoạn 2005 - 2009
Nguồn: Sở TN&MT các địa phương, 2010
Khoa
Tổng lượng chất thải phát sinh
(kg/giường/ngày)
Tổng lượng chất thải y tế nguy hại
(kg/giường/ngày)
BV TW BV Tỉnh
BV
Huyện
Trung
bình
BV
TW
BV
Tỉnh
BV Huyện
Trung
bình
Bệnh viện 0,97 0,88 0,73
0,86
0,16 0,14 0,11
0,14
Khoa hồi sức
cấp cứu
1,08 1,27 1,00 0,30 0,31 0,18
Khoa nội 0,64 0,47 0,45 0,04 0,03 0,02
Khoa nhi 0,50 0,41 0,45 0,04 0,05 0,02
Khoa ngoại 1,01 0,87 0,73 0,26 0,21 0,17
Khoa sản 0,82 0,95 0,74 0,21 0,22 0,17
Khoa mắt/TMH 0,66 0,68 0,34 0,12 0,10 0,08
Khoa cận lâm sàng 0,11 0,10 0,08 0,03 0,03 0,03
Trung bình 0,72 0,7 0,56 0,14 0,13 0,09
Bảng 5.3. Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Nguồn: Quy hoạch quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế, 2009
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
86
5.2.3. Thành phần chất thải rắn y tế
Hầu hết các CTR y tế là các chất thải sinh
học độc hại và mang tính đặc thù so với các
loại CTR khác. Các loại chất thải này nếu
không được phân loại cẩn thận trước khi xả
chung với các loại chất thải sinh hoạt sẽ gây
ra những nguy hại đáng kể.
Xét về các thành phần chất thải dựa trên
đặc tính lý hóa thì tỷ lệ các thành phần có
thể tái chế là khá cao, chiếm trên 25% tổng
lượng CTR y tế, chưa kể 52% CTR y tế là các
chất hữu cơ.
Trong thành phần CTR y tế có lượng lớn
chất hữu cơ và thường có độ ẩm tương đối
cao, ngoài ra còn có thành phần chất nhựa
chiếm khoảng 10%, vì vậy khi lựa chọn công
nghệ thiêu đốt cần lưu ý đốt triệt để và không
phát sinh khí độc hại.
Biểu đồ 5.3. Thành phần CTR y tế dựa trên
đặc tính lý hóa
Nguồn: Kết quả điều tra của dự án
hợp tác giữa Bộ y tế và WHO, 2009
Phân loại và lưu giữ CTR y tế tại một số bệnh viện
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
87
5.3. PHÂN LOẠI, THU GOM VÀ VẬN
CHUYỂN CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
Công tác thu gom, lưu trữ CTR y tế nói
chung đã được quan tâm bởi các cấp từ Trung
ương đến địa phương, thể hiện ở mức độ thực
hiện quy định ở các bệnh viện khá cao.
Chất thải y tế phát sinh từ các cơ sở khám
chữa bệnh trực thuộc sự quản lý của Bộ Y tế,
phần lớn được thu gom và vận chuyển đến
các khu vực lưu giữ sau đó được xử lý tại các
lò thiêu đốt nằm ngay trong cơ sở hoặc ký
hợp đồng vận chuyển và xử lý đối với các cơ
sở xử lý chất thải đã được cấp phép tại địa
bàn cơ sở khám chữa bệnh đó.
Đối với các cơ sở khám chữa bệnh ở địa
phương do các Sở Y tế quản lý, công tác thu
gom, lưu giữ và vận chuyển CTR chưa được
chú trọng, đặc biệt là công tác phân loại và
lưu giữ chất thải tại nguồn (chất thải y tế
thông thường, chất thải y tế nguy hại...).
Trong vận chuyển CTR y tế, chỉ có 53%
số bệnh viện sử dụng xe có nắp đậy để vận
chuyển chất thải y tế nguy hại; 53,4% bệnh
viện có mái che để lưu giữ CTR... đây là
những yếu tố để đảm bảo an toàn cho người
bệnh và môi trường.
Khung 5.1. Thống kê mức độ phân loại, thu
gom chất thải trong các bệnh viện
Có 95,6% bệnh viện đã thực hiện phân loại
chất thải trong đó 91,1% đã sử dụng dụng cụ tách
riêng vật sắc nhọn. Theo báo cáo kiểm tra của
các tỉnh và nhận xét của đoàn kiểm tra liên Bộ,
còn có hiện tượng phân loại nhầm chất thải, một
số loại chất thải thông thường được đưa vào chất
thải y tế nguy hại gây tốn kém trong việc xử lý.
Có 63,6% sử dụng túi nhựa làm bằng nhựa
PE, PP. Chỉ có 29,3% sử dụng túi có thành dày
theo đúng quy chế.
Chất thải y tế đã được chứa trong các thùng
đựng chất thải. Tuy nhiên, các bệnh viện có các
mức độ đáp ứng yêu cầu khác nhau, chỉ có một
số ít bệnh viện có thùng đựng chất thải theo
đúng quy chế (bệnh viện trung ương và bệnh
viện tỉnh).
Hầu hết ở các bệnh viện (90,9%) CTR được
thu gom hàng ngày, một số bệnh viện có diện
tích chật hẹp nên gặp khó khăn trong việc thiết
kế lối đi riêng để vận chuyển chất thải. Chỉ có
53% số bệnh viện chất thải được vận chuyển
trong xe có nắp đậy. Có 53,4% bệnh viện có nơi
lưu giữ chất thải có mái che, trong đó có 45,3%
đạt yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải y tế.
Nguồn: Kết quả khảo sát 834 bệnh viện của
Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường năm 2006 và
báo cáo của các Sở Y tế từ các địa phương từ 2007-2009
Các yêu cầu theo quy chế quản lý CTYT Tỷ lệ tuân thủ (%)
Túi đựng chất thải đúng quy cách về bề dày và dung tích 66,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về màu sắc 30,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về buộc đóng gói 81,33
Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách 93,9
Thùng đựng có nắp đậy 58,33
Thùng đựng có ghi nhãn 66,67
Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách 93,9
Bảng 5.4. Hiện trạng thu gom, phân loại chất thải y tế tại các bệnh viện trên địa bàn
thành phố Hà Nội năm 2010
Nguồn: Số liệu thống kê trung bình của Sở Y tế từ kết quả khảo sát
74 bệnh viện Hà Nội năm 2009-2010
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
88
Phương tiện thu gom chất thải còn thiếu và chưa
đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn. Nguyên nhân
do có rất ít nhà sản xuất quan tâm đến mặt hàng này,
do vậy mua sắm phương tiện thu gom CTR đúng tiêu
chuẩn của các bệnh viện gặp khó khăn. Theo báo
cáo của JICA (2011), các cơ sở y tế của 5 thành phố
điển hình là Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và
thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các bệnh viện sử
dụng thùng nhựa có bánh xe, xe tay, các dụng cụ vận
chuyển bằng tay khác. Một số khu vực lưu trữ CTR
trước khi xử lý tại chỗ hoặc tại các khu vực xử lý bên
ngoài được trang bị điều hoà và hệ thống thông gió
theo Quy định.
Nhìn chung các phương tiện vận chuyển chất
thải y tế còn thiếu, đặc biệt là các xe chuyên dụng.
Hoạt động vận chuyển chất thải y tế nguy hại từ
bệnh viện, cơ sở y tế đến nơi xử lý, chôn lấp hầu hết
do Công ty môi trường đô thị đảm nhiệm, không có
các trang thiết bị đảm bảo cho quá trình vận chuyển
được an toàn.
Các phương thức chuyên chở và vận chuyển
CTR y tế tại một số bệnh viện
Bảng 5.5.Thực trạng các trang thiết bị thu gom lưu giữ CTR y tế tại một số thành phố
Nguồn: Nghiên cứu Quản lý môi trường đô thị tại Việt Nam - Tập 6. Nghiên cứu về quản lý CTR
ở Việt Nam, JICA, tháng 5 - 2011.
Loại đô thị
Thành
phố
Số lượng
đơn vị trả lời
phiếu điều tra
Dụng cụ thu gom
tại chỗ
Lưu trữ chất thải
Xe
tay
Thùng có
bánh xe
Khác
Có điều
hoà và
thông
gió
Không có
điều hoà và
thông gió
Phòng
chung
Không
có khu
lưu trữ
Đô thị loại
đặc biệt
Hà Nội 61 32 25 15 24 13 15 9
Tp.HCM 51 30 27 7 38 11 1 1
Đô thị
loại I
Đà Nẵng 20 9 5 6 2 13 2 3
Hải Phòng 17 2 4 11 1 3 8 5
Huế 23 1 14 0 1 5 5 12
Tổng 172 74 75 39 66 45 31 30
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
89
5.4. XỬ LÝ VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN
Y TẾ THÔNG THƯỜNG
CTR y tế không nguy hại ở hầu hết các
tỉnh, thành phố đều do Công ty môi trường
đô thị thu gom, vận chuyển và được xử lý tại
các khu xử lý CTR tập trung của địa phương.
Hoạt động thu hồi và tái chế CTR y tế tại
Việt Nam hiện đang thực hiện không theo
đúng quy chế quản lý CTR y tế đã ban hành.
Chưa có các cơ sở chính thống thực hiện
các hoạt động thu mua và tái chế các loại
chất thải từ hoạt động y tế ở Việt Nam. Quy
chế Quản lý chất thải y tế (2007) đã bổ sung
nội dung tái chế CTR y tế không nguy hại
làm căn cứ để các cơ sở y tế thực hiện. Tuy
nhiên, nhiều địa phương chưa có cơ sở tái
chế, do vậy việc quản lý tái chế các CTR y tế
không nguy hại còn gặp nhiều khó khăn. Một
số vật liệu từ chất thải bệnh viện như: chai
dịch truyền chứa dung dịch huyết thanh ngọt
(đường glucose 5%, 20%), huyết thanh mặn
(NaCl 0,9%), các dung dịch acide amine,
các loại muối khác; các loại bao gói nilon và
một số chất nhựa khác; một số vật liệu giấy,
thuỷ tinh hoàn toàn không có yếu tố nguy hại,
có thể tái chế để hạn chế việc thiêu đốt chất
thải gây ô nhiễm.
Năm 2010, đã phát hiện nhiều hiện tượng
đưa CTR y tế ra ngoài bán, tái chế trái phép
thành các vật dụng thường ngày. Việc tái sử
dụng các găng tay cao su, các vật liệu nhựa
đã và đang tạo ra nhiều rủi ro cho những
người trực tiếp tham gia như các nhân viên
thu gom, những người thu mua và những
người tái chế phế liệu. Tái chế và tái sử dụng găng tay khám bệnh để bán
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
90
5.5. CHẤT THẢI Y TẾ NGUY HẠI
5.5.1. Phát sinh chất thải y tế nguy hại
Trong CTR y tế, thành phần đáng quan tâm
nhất là dạng CTNH, do nguy cơ lây nhiễm
mầm bệnh và hóa chất độc cho con người.
Lượng CTNH y tế phát sinh không đồng đều
tại các địa phương, chủ yếu tập trung ở các
tỉnh, thành phố lớn. Xét theo 7 vùng kinh tế
trong cả nước (trong đó vùng Đông Bắc và
vùng Tây Bắc Bắc Bộ được gộp chung vào 1
vùng), vùng Đông Nam Bộ phát sinh lượng
thải nguy hại lớn nhất trong cả nước (32%),
với tổng lượng thải là 10.502,8 tấn/năm, tiếp
đến là vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm
21%). Các tỉnh có mức thải CTNH lớn (> 500
tấn/năm) tính trong cả nước theo thứ tự như
sau: Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa,
Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Khánh Hòa,
Thừa Thiên Huế, An Giang, Cần Thơ, Nghệ
An, Phú Thọ, Hải Phòng, Long An.
Lượng CTNH y tế phát sinh khác nhau giữa
các loại cơ sở y tế khác nhau. Các nghiên cứu
cho thấy các bệnh viện tuyến trung ương và
tại các thành phố lớn có tỷ lệ phát sinh CTNH
y tế cao nhất. Tính trong 36 bệnh viện thuộc
Bộ Y tế, tổng lượng CTNH y tế cần được xử lý
trong 1 ngày là 5.122 kg, chiếm 16,2% tổng
lượng CTR y tế. Trong đó, lượng CTNH y tế
tính trung bình theo giường bệnh là 0,25 kg/
giường/ngày. Chỉ có 4 bệnh viện có chất thải
phóng xạ là bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện
Đa khoa Trung ương Huế, bệnh viện Đa khoa
Trung ương Thái Nguyên và Bệnh viện K. Các
phương pháp xử lý đặc biệt đối với CTNH y
tế đắt hơn rất nhiều so với các CTR sinh hoạt,
do vậy đòi hỏi việc phân loại chất thải phải
đạt hiệu quả và chính xác.
Theo số liệu điều tra của Cục Khám chữa
bệnh - Bộ Y tế và Viện Kiến trúc, Quy hoạch
Biểu đồ 5.4. Mức độ phát sinh CTNH y tế theo các
vùng kinh tế
Nguồn: Cục Khám chữa bệnh, Bộ Y tế; Viện Kiến trúc,
Quy hoạch đô thị và nông thôn, Bộ Xây dựng, 2010
Loại bệnh viện Năm 2005 Năm 2010
Bệnh viện đa khoa TW 0,35 0,42
Bệnh viện chuyên khoa
TW
0,23-0,29 0,28-0,35
Bệnh viện đa khoa tỉnh 0,29 0,35
Bệnh viện chuyên khoa
tỉnh
0,17-0,29 0,21-0,35
Bệnh viện huyện, ngành 0,17-0,22 0,21-0,28
Bảng 5.6. Sự biến động về khối lượng chất thải y tế nguy
hại phát sinh tại các loại cơ sở y tế khác nhau
ĐVT: kg/giường bệnh/ngày
Nguồn: Bộ Y tế, 2010
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
91
Đô thị và Nông thôn - Bộ Xây dựng thực hiện
năm 2009 - 2010, cũng như số liệu tổng kết
của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về thành phần
CTR y tế tại các nước đang phát triển có thể
thấy lượng CTR y tế nguy hại chiếm 22,5%,
trong đó phần lớn là CTR lây nhiễm (Biểu đồ
5.5). Do đó, cần xác định hướng xử lý chính là
loại bỏ được tính lây nhiễm của chất thải.
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
Đà
Nẵng
Quảng
Nam
Quảng
Ngãi
Bình
Định
Phú
Yên
Khánh
Hoà
Ninh
Thuận
Bình
Thuận
tấn/ngày
Tây Nguyên
Duyên hải Nam Trung bộ
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Biểu đồ 5.5. Phát sinh chất thải y tế nguy hại tại một số tỉnh, thành phố qua các năm
Nguồn: TCMT, 2011
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
92
5.5.2. Xử lý và tiêu hủy chất thải y tế
nguy hại
Khối lượng CTR y tế nguy hại được xử
lý đạt tiêu chuẩn chiếm 68% tổng lượng
phát sinh CTR y tế nguy hại trên toàn
quốc. CTR y tế xử lý không đạt chuẩn
(32%) là nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng tới sức khỏe cộng
đồng. Các thành phố lớn như Tp. Hồ
Chí Minh và Hà Nội đã có xí nghiệp
xử lý CTR y tế nguy hại vận hành tốt,
tổ chức thu gom và xử lý, tiêu huỷ CTR
y tế nguy hại cho toàn bộ cơ sở y tế
trên địa bàn. CTR y tế nguy hại của các
tỉnh, thành phố khác hiện được xử lý và
tiêu huỷ với các mức độ khác nhau: một
số địa phương như Thái Nguyên, Hải
Phòng, Cần Thơ đã tận dụng tốt lò đốt
trang bị cho cụm bệnh viện, chủ động
chuyển giao lò đốt cho công ty môi
trường đô thị tổ chức vận hành và thu
gom xử lý CTR y tế nguy hại cho toàn
tỉnh, thành phố; Nghệ An có lò đốt đặt
tại bệnh viện tỉnh xử lý CTR y tế nguy
hại cho các bệnh viện khác thuộc địa
bàn thành phố, thị xã.
Một số thành phố lớn đã bố trí lò đốt
CTR y tế nguy hại tập trung tại khu xử lý
chung của thành phố. Tỷ lệ lò đốt CTR
y tế phân tán được vận hành tốt chỉ
chiếm khoảng xấp xỉ 50% số lò được
trang bị, có vùng chỉ đạt 20%. Nếu xét
mức độ xử lý của các cơ sở y tế theo
tuyến trung ương và địa phương, các sở
sở trực thuộc Bộ Y tế có mức độ đầu tư
xử lý CTR y tế nguy hại cao hơn hẳn
các cơ sở tuyến địa phương. Bên cạnh
lí do về công nghệ và trình độ quản
lý, thì thiếu kinh phí vận hành là yếu
tố quan trọng dẫn đến các lò đốt hoạt
động phân tán không đạt hiệu quả.
Khung 5.2. Công tác xử lý CTR y tế nguy hại tại 7 vùng
trong cả nước
Vùng Đồng bằng sông Hồng có 244 cơ sở khám chữa
bệnh cấp địa phương trong đó 98 cơ sở có trang bị lò đốt
CTR y tế (chiếm 40%), số lò đốt còn hoạt động tốt là 63
(chiếm 64%). Đối với các cơ sở y tế chưa được trang bị lò
đốt, hoặc lò đốt không hoạt động, CTR y tế nguy hại xử lý
tập trung tại khu xử lý CTR chung. Có 8/11 tỉnh của vùng đã
bố trí xử lý CTR y tế tại khu xử lý CTR chung, số cơ sở y tế
cấp địa phương xử lý tại khu xử lý tập trung chiếm 65%. Tại
3 tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam và Vĩnh Phúc 100% CTR y tế xử
lý phân tán tại các bệnh viện.
Vùng Đông Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ có 209 cơ sở khám
chữa bệnh cấp địa phương 93 cơ sở có trang bị lò đốt CTR y
tế (chiếm hơn 44%), số lò đốt còn hoạt động tốt là 42 (chiếm
trên 45%). Có 9/15 tỉnh của vùng đã bố trí xử lý CTR y tế tại
khu xử lý CTR chung của tỉnh và thành phố. Chỉ có 31 cơ
sở y tế xử lý tại các khu xử lý CTR chung, tương đương gần
15%. Một số tỉnh đã có khu vực xử lý CTR y tế chung nhưng
rất ít cơ sở vận chuyển đến như Cao Bằng, Bắc Kạn Phần
lớn CTR y tế ở các tỉnh như Bắc Kạn, Điện Biên, Lai Châu,
Sơn La... được xử lý tại chỗ, không đạt yêu cầu.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 236
cơ sở khám chữa bệnh cấp địa phương trong đó 168 cơ
sở có trang bị lò đốt CTR y tế (chiếm 50%), số lò đốt còn
hoạt động tốt là 79 (chiếm 47%). Có 12/14 tỉnh đã bố trí
xử lý CTR y tế tại khu xử lý CTR chung của tỉnh; 47% số cơ
sở y tế xử lý tại khu xử lý tại khu xử lý CTR tập trung. Đối
với bệnh viện tuyến Trung ương tập trung tại Đà Nẵng thì
100% CTR y tế nguy hại được đưa về lò đốt CTR tại khu xử
lý Khánh Sơn.
Vùng Tây Nguyên có 32/74 cơ sở khám chữa bệnh cấp
địa phương trang bị lò đốt CTR y tế (43 %), trong đó 23 lò
còn hoạt động tốt (chiếm 72%). Với 4/5 tỉnh đã bố trí xử lý
CTR y tế tại khu xử lý CTR chung của tỉnh và thành phố. 38
cơ sở (51%) xử lý tại khu xử lý CTR tập trung.
Vùng Đông Nam Bộ có 34/100 cơ sở khám chữa bệnh
cấp địa phương có trang bị lò đốt CTR y tế (chiếm 34%),
trong đó có 7 lò đốt hoạt động tốt (20%). Tại Tp. Hồ Chí
Minh 100% CTR y tế nguy hại được đưa về lò đốt CTR của
thành phố.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 110/164 cơ sở khám
bệnh cấp địa phương (chiếm 67%), số lò đốt hoạt động tốt
là 64 lò (58%). Có 10/13 tỉnh đã bố trí xử lý CTR y tế tại khu
xử lý CTR chung của tỉnh và thành phố. Với 74 cơ sở (45%)
số cơ sở xử lý tại khu xử lý CTR tập trung.
Nguồn: Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý CTR y tế nguy hại đến
năm 2025 - Bộ Xây dựng, 2010.
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
93
Đến năm 2006, hơn 500 lò đốt đã được
lắp đặt tại các cơ sở y tế tại Việt Nam, tập
trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Tuy nhiên,
trong số đó có tới hơn 33% số lò không được
hoạt động do nhiều lý do khác nhau.
Thống kê về tình hình quản lý và xử lý
chất thải y tế của Cục Quản lý Môi trường Y
tế (năm 2009) cho thấy, đối với các cơ sở y tế
nằm trong danh sách Quyết định 64/2003/
QĐ-TTg thì công tác thu gom, xử lý chất thải
y tế đã được quan tâm, đầu tư kinh phí vận
hành với các lò đốt chất thải hiện đại, được
kiểm soát chất lượng... Với tuyến y tế cấp
tỉnh, CTR y tế phần lớn được thuê xử lý (rủi
ro, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, khó
kiểm soát chất lượng), công tác tự xử lý bằng
lò đốt chỉ chiếm số lượng không nhiều. Còn
với tuyến y tế cấp huyện, công tác xử lý chất
thải y tế hết sức đa dạng, phong phú với nhiều
loại hình khác nhau và khó có thể kiểm soát
(Biểu đồ 5.6).
Khung 5.3. Công nghệ xử lý CTR y tế nguy hại
ở các thành phố lớn
Tại Hà Nội sử dụng lò đốt chất thải y tế DEL-
MONEGO công suất 200 kg/h ở Cầu Diễn do
Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Môi
trường đô thị (URENCO) quản lý để xử lý chất
thải y tế trong địa bàn Hà Nội.
Tại Đà Nẵng, sử dụng lò đốt HOVAL công suất
200 kg/h ở khu xử lý chất thải rắn Khánh Sơn do
Công ty Môi trường đô thị quản lý để xử lý chất
thải y tế trong địa bàn thành phố (CITENCO).
Tại Tp. Hồ Chí Minh, sử dụng hai lò đốt HO-
VAL công suất 150 kg/h và 300 kg/h đặt tại Nhà
máy xử lý chất thải rắn y tế và công nghiệp do
Công ty Môi trường thành phố quản lý để xử lý
chất thải y tế nguy hại cho các cơ sở y tế trong
và ngoài thành phố.
Nguồn: Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường,
TCMT, 2010
Biểu đồ 5.6. Thành phần chất thải y tế nguy hại
Nguồn: Cục Khám chữa bệnh; Bộ Y tế;
Viện Kiến trúc, Quy hoạch đô thị và nông thôn, Bộ Xây dựng, 2010
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
94
Nhìn chung các lò đốt CTR y tế nguy hại
còn nhiều hạn chế, tập trung vào các vấn
đề sau: Chi phí đầu tư, hiệu suất vận hành,
chi phí xử lý khí thải lớn. Giá nhiên liệu quá
cao dẫn đến nhiều cơ sở không đốt hoặc đốt
không đảm bảo. Thiếu phân tích những yếu tố
ảnh hưởng đến hiệu suất đốt và chất thải (khí,
tro, nước thải từ bồn ngưng tụ xử lý khí). Hơn
nữa, do chất đốt thường được sử dụng là dầu
Diezel nên rất khó đảm bảo đủ và đúng yêu
cầu nhiệt độ khi vận hành (nhiệt trị của dầu
thấp, và bắt buộc phải lưu thông khí khi đốt).
Nếu phân loại rác không đúng sẽ gây tốn kém
khi đốt cả rác thường, không kiểm soát được
khí thải lò đốt, dẫn đến phí xử lý khí thải lớn.
Biểu đồ 5.7. Tình hình xử lý chất thải y tế của hệ thống cơ sở y tế các cấp
Nguồn: Cục Quản lý Môi trường Y tế, 2009
Khí thải gây ô nhiễm môi trường
Minh họa về hạn chế của công nghệ đốt
chất thải y tế nguy hại
Không kiểm soát
được tro thải
79 cơ sở y tế nằm trong
Quyết định 64/2003/QĐ-TTg
Các cơ sở y tế tuyến tỉnh Các cơ sở y tế tuyến huyện
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
95
Hiện nay có hai loại công nghệ thân thiện
với môi trường chủ yếu được lựa chọn thay
thế các lò đốt chất thải y tế là công nghệ khử
khuẩn bằng nhiệt ẩm (autoclave) và công
nghệ có sử dụng vi sóng. Trong đó, công nghệ
sử dụng vi sóng kết hợp hơi nước bão hòa là
loại công nghệ tiên tiến nhất hiện nay bởi có
hiệu quả khử tiệt khuẩn cao và thời gian xử
lý nhanh, hiện đang được áp dụng tại Trung
tâm y tế Viesovpetro Vũng Tàu. Định hướng
trong tương lai sẽ hạn chế việc sử dụng các lò
đốt để xử lý chất thải y tế nguy hại, từng bước
thay thế chúng bằng các thiết bị sử dụng công
nghệ khử khuẩn bằng nhiệt ướt, vi sóng hoặc
các phương pháp tiên tiến khác.
Áp dụng vi sóng kết hợp hơi nước bão hòa để xử lý
chất thải y tế nguy hại
Trung tâm y tế Viesovpetro Vũng Tàu - Công suất 20 kg/giờ
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
97
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_5_8671_126.pdf