Tài liệu Chuỗi cung ứng nông sản: Bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP: 80
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG SẢN: BƯỚC ĐI CẦN THIẾT ĐỂ
VIỆT NAM THAM GIA TPP
Từ Minh Thiện*
TÓM TẮT
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, tên tiếng Anh: “Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement”, viết tắt: TTP, là một hiệp định thương mại tự do nhiều
bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ thứ 2 với mục tiêu thiết lập một mặt bằng
tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với sự tham gia của các nền kinh tế
lớn trên thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia...), TPP trở thành khu vực kinh tế hơn 790 triệu
dân, đóng góp 40% GDP và chiếm 1/3 thương mại toàn cầu.
Chuỗi cung ứng nông sản, bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP. Trong khuôn khổ
bài báo này, tác giá phân tích lợi điểm và đưa ra một số mô hình ứng dụng cho nông nghiệp Việt
Nam khi tham gia TPP.
Từ khóa: TPP, chuỗi cung ứng nông sản, lợi điểm, mô hình ứng dụng
AGRICULTURAL SUPPLY CHAIN: THE NECESSARY STEPS FOR...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuỗi cung ứng nông sản: Bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
80
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG SẢN: BƯỚC ĐI CẦN THIẾT ĐỂ
VIỆT NAM THAM GIA TPP
Từ Minh Thiện*
TÓM TẮT
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, tên tiếng Anh: “Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement”, viết tắt: TTP, là một hiệp định thương mại tự do nhiều
bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ thứ 2 với mục tiêu thiết lập một mặt bằng
tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với sự tham gia của các nền kinh tế
lớn trên thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia...), TPP trở thành khu vực kinh tế hơn 790 triệu
dân, đóng góp 40% GDP và chiếm 1/3 thương mại toàn cầu.
Chuỗi cung ứng nông sản, bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP. Trong khuôn khổ
bài báo này, tác giá phân tích lợi điểm và đưa ra một số mô hình ứng dụng cho nông nghiệp Việt
Nam khi tham gia TPP.
Từ khóa: TPP, chuỗi cung ứng nông sản, lợi điểm, mô hình ứng dụng
AGRICULTURAL SUPPLY CHAIN: THE NECESSARY STEPS FOR
VIETNAM TO JOIN TPP
ABSTRACT
Trans-Pacific Partnership, the English name “Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement”, abbreviated: TTP, is a free trade agreement more parties, regarded as
a trade agreement free trade 2nd generation with an aim to establish common ground for liberal
countries in Asia - Pacific. With the participation of the largest economies in the world (such as the
US, Japan, Australia ...), TPP become more economical region 790 million, contributing 40% of
GDP and accounts for 1/3 of injuries global trade.
Agricultural supply chain, a necessary step for Vietnam to join the TPP. In the framework of
this paper, the authors analyze the advantages and give some models for agricultural applications
Vietnam joining the TPP.
Keywords: TPP, Agricultural supply chain, advantages, application model.
* ThS. Ban quản lý Khu Nông Nghiệp Công Nghệ Cao TPHCM (AHTP). ĐT: 0913 914400. Email: thientuminh@yahoo.com
81
Chuỗi cung ứng . . .
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lần đầu tiên, TPP có 4 nước: Singapore,
Chile, Newzealand, Brunei ký Hiệp định
này vào ngày 3/6/2005 và có hiệu lực ngày
28/5/2006.
Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn
tham gia đàm phán TPP, sau đó tháng 11/2008
các nước Australia, Peru cũng tuyên bố tham
gia, tiếp đến là Canada tham gia vào tháng
10/2012 và mới đây nhất, Nhật Bản tham gia
đàm phán vào tháng 3/2013.
Việt Nam đã tuyên bố tham gia TPP với tư
cách là thành viên đầy đủ từ ngày 13/11/2010.
Như vậy, đến thời điểm này, TPP gồm
12 nước thành viên: Australia, Brunei,
Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,
Newzealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và
Việt Nam.
Phạm vi điều chỉnh của TPP rất rộng, một
thoả thuận toàn diện bao quát tất cả các khía
cạnh chính của một hiệp định thương mại tự
do bao gồm trao đổi hàng hoá, các quy định
về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch
vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của
chính quyền về vấn đề môi trường, lao động,
chống tham nhũng... TPP nhắm đến việc cắt
giảm thuế quan tại các nước và đặt tiêu chuẩn
chung cho các vấn đề khác. Hiện nay, thỏa
thuận thuế quan đối với các hàng hóa nhạy
cảm là thách thức lớn nhất cho việc đạt được
thỏa thuận chung giữa 12 nước tham gia đàm
phán TPP. Nếu như Hiệp định WTO mang
tính đàm phán một chiều, Việt Nam phải mở
cửa thị trường cho các nước thành viên WTO
và không có quyền đòi hỏi họ mở cửa cho
mình thì Hiệp định TPP là một hiệp định
“có đi có lại”, các nước muốn Việt Nam mở
thị trường cho họ và họ cũng mở thị trường
cho Việt Nam.
Tác động của TPP đến những nước có
mức phát triển thấp hơn sẽ có cơ hội phát triển
mạnh mẽ hơn. Trong nhiều nghiên cứu định
lượng của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam
là một trong những nước hưởng lợi lớn từ TPP
(phần lớn các nước có lợi khoảng 1-2 điểm %
từ TPP, riêng Việt Nam khoảng 5%). Bên cạnh
đó, trong số 11 đối tác đang đàm phán với Việt
Nam, hiện có 7 đối tác có quan hệ thương mại
tự do với nước ta; 4 đối tác còn lại (Hoa Kỳ,
Canada, Mexico, Peru), chưa thiết lập quan hệ
thương mại tự do nên cơ hội chủ yếu của Việt
Nam sẽ mở rộng ở 4 thị trường này. Việt Nam
sẽ là một trong những nước có nhiều lợi ích
khi gia nhập TPP vì mục tiêu chính của TPP
là giảm thuế và những rào cản hàng hoá cho
dịch vụ. Khi các dòng thuế giảm xuống, Việt
Nam có thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày
dép và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh
của mình vào các thị trường lớn, đặc biệt là thị
trường Hoa Kỳ mà không phải cạnh tranh với
sản phẩm của một số nước khác. TPP sẽ tạo ra
một cơ hội rất lớn cho các quốc gia thành viên
hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu
vực cũng như thế giới và tăng cường năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước;
gia tăng hàng hóa xuất khẩu cũng như gia
tăng GDP của quốc gia.
Dưới con mắt các chuyên gia kinh tế kỳ
cựu tham gia các cuộc đàm phán, hoặc quan
sát các hiệp định, TPP mang lại những kỳ
vọng lớn cho nền kinh tế nước nhà, bởi có
phạm vi rộng hơn nhiều so với WTO. Theo
nghiên cứu của VCCI (Phòng Thương mại và
Công nghiệp VN), VN có thể có thêm 64 tỷ
USD, có tốc độ tăng trưởng 13% nhờ quy mô
xuất khẩu sẽ tăng 37% trong TPP. TPP có thể
giúp VN đảo ngược tình thế nhập siêu quá lớn
từ Trung Quốc. Đặc biệt, liên quan đến thể
chế, TPP tạo áp lực cho khu vực DNNN, vốn
bị coi là trì trệ, nhiều yếu kém phải thay đổi và
82
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phải cạnh tranh bình đẳng với các thành phần
kinh tế khác. Mọi sự hỗ trợ trực tiếp, gián tiếp
đối với DNNN đều phải theo quy định trong
TPP (VietNamNet, ngày 6/10).
Tuy nhiên, TPP cũng đặt ra không ít thách
thức. Việc giảm thuế chắc chắn sẽ dẫn đến sự
gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu
từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cả
cạnh tranh. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là
doanh nghiệp đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt cả trong thị trường nội địa lẫn thị trường
xuất khẩu, thị phần hàng hóa của Việt Nam sẽ
bị thu hẹp, thậm chí là nguy cơ sụt giảm mạnh
hoặc mất luôn cả thị phần trong nước. Nguy
cơ này đặc biệt nghiêm trọng đối với nhóm
hàng nông sản, vốn gắn liền với đối tượng dễ
bị tổn thương trong hội nhập, đó là nông dân.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Nông
lương Liên Hiệp Quốc (FAO), nếu như trong
năm 2001 chúng ta mới phải nhập khẩu 0,5
triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi này thì
năm 2011 lên tới 2,7-2,8 triệu tấn. Năm 2013,
theo số liệu của Bộ NN&PTNT, nếu tính cả
lượng nhập khẩu bắp, đậu nành và lúa mì Việt
Nam đã chi ra trên 4 tỉ USD nhập thức ăn
chăn nuôi và các loại nguyên liệu. Nhiều loại
cây trồng nội địa như đậu nành, ca cao, mía...
sẽ có nguy cơ biến mất khi Việt Nam tham gia
các hiệp định thương mại.
Đánh giá mang tính định tính cho thấy
ngành hàng trong nước có thể gặp khó khăn
là ngành nông nghiệp với các mặt hàng thịt
gà , heo, bò là ngành lợi thế của Hoa Kỳ hoặc
mặt hàng đường là thế mạnh của Australia thì
các ngành hàng tương ứng của ta cũng có thể
gặp khó khăn.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của
nông sản Việt Nam cũng như nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
trong lĩnh vực nông nghiệp khi hiệp định TPP
chính thức được thông qua, cần có sự đồng bộ
trong đề xuất và thực hiện các giải pháp cũng
như sự quyết tâm và cộng lực của cả bộ máy
quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp
trong nước. Trong đó, tôi đặc biệt quan tâm
giải pháp phát triển chuỗi cung ứng nông
sản, một trong những điểm yếu của chúng ta
khi hội nhập kinh tế thế giới và cũng là điểm
mấu chốt quan trọng để nâng cao khả năng
hội nhập kinh tế thế giới và nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam, Chuỗi là một loạt các hoạt động
kinh doanh (hay chức năng) có quan hệ với
nhau, từ việc cung cấp các đầu vào cụ thể cho
một sản phẩm nào đó, đến sơ chế, chuyển đổi,
marketing đến bán sản phẩm đó cho người
tiêu dùng. Chuỗi là yếu tố làm phẳng thế giới
(Thomas Friedman trong “thế giới phẳng”).
Xây dựng các chuỗi cung ứng nội địa và tham
gia vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn
cầu là giải pháp hữu hiệu để tái cấu trúc nền
kinh tế nước ta thành công. Tham gia chuỗi
là hàng loạt các doanh nghiệp (nhà vận hành)
thực hiện các chức năng, nghĩa là nhà sản
xuất, nhà chế biến, nhà buôn bán và nhà phân
phối một sản phẩm cụ thể nào đó. Các doanh
nghiệp kết nối nhau bằng một loạt các giao
dịch kinh doanh trong đó, sản phẩm được
chuyển từ tay nhà sản xuất đến tay người tiêu
dùng cuối cùng.
Chuỗi cung ứng với việc xây dựng chuỗi
giá trị, sự phân khúc chuỗi giá trị, các rủi ro
trong chuỗi cung ứng không còn là vấn đề
mới mẻ trên thế giới nhưng vẫn chưa được
áp dụng nhiều ở nước ta và trong thời gian
qua, vẫn là vấn đề cần phải được phân tích,
nhìn nhận và ứng dụng trong điều kiện nước
ta dưới góc nhìn của những nhà điều hành
doanh nghiệp lẫn các nhà hoạch định chính
sách. Đối với Việt Nam chúng ta, tiềm năng
83
Chuỗi cung ứng . . .
sản xuất trong nước còn lớn, thị trường tiêu
thụ với hơn 86 triệu dân với sức mua cao hết
sức hấp dẫn, nguồn nhân lực dồi dào. Chúng
ta nên suy nghĩ sâu hơn về chuỗi cung ứng để
tìm được lợi thế và vị trí của mình trong bàn
cờ của thế giới.
2. LỢI ĐIỂM CHUỖI CUNG ỨNG
NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM
y Kết hợp được ưu thế và sở trường của
các nhân tố tham gia trong chuỗi
y Chia sẻ được trách nhiệm, rủi ro và
quyền lợi.
y Nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu
quả trong việc giới thiệu sản phẩm và năng
lực cung ứng.
y Tạo sự an tâm cho các nhà phân phối
cũng như người tiêu dùng
Và để nước ta có thể chen chân vào chuỗi
cung ứng toàn cầu, có thể phát triển chiều
rộng và chiều sâu cluster (cụm liên hoán).
Trong chế biến nông sản do bên mua nắm thế
chủ động, ngày càng có khả năng bên mua
quy định tiêu chuẩn cho cả chuỗi. Ví dụ: CT
group của Thái Lan, họ chuyển từ sản xuất
sang bán lẻ, do bị chuỗi bán lẻ đặt ra các quy
định và họ đang thử nghiệm để nâng cao chất
lượng và giá trị của chuỗi cung ứng. Còn
trong công nghệ chế biến thực phẩm và nông
sản, Việt Nam chúng ta đã đạt tiến bộ trong
ngành chế biến nông sản, tuy nhiên, cần đạt
đến mức độ phát triển chiều sâu trong ngành
chế biến và liên kết chặt chẽ để sản xuất ra
sản phẩm, không chỉ về giá mà còn đáp ứng
kịp thời, đều đặn về số lượng và đáng tin cậy
về chất lượng, an toản vệ sinh thực phẩm. Việt
Nam có thể trở thành nhà cung ứng nông sản
đã chế biến quan trọng cho thế giới. Các tỉnh
Việt Nam nằm nhiều ở biển, chúng ta có lợi
thế rất lớn dễ xuất khẩu bằng đường biển. Ở
Trung Quốc, các tỉnh trong lục địa phát triển
chậm, sau khi chi phí các tỉnh ở biển tăng lên,
người ta mới phát triển sâu vào nội địa.
3. ĐỀ XUẤT CHO MÔ HÌNH ỨNG DỤNG CHO NÔNG SẢN VIỆT NAM
84
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Dựa vào mô hình ứng dụng cho nông
nghiệp Việt Nam, trong phạm vi nghiên cứu
của mình chúng tôi mạn phép đề xuất một số
giải pháp phát triển chuỗi cung ứng nông sản
Việt Nam khi tham gia TPP như sau:
3.1. Đầu tư sâu cho công nghệ sau thu
hoạch
Trước mắt, cần khuyến khích đầu tư các
cơ sở chế biến và bảo quản nông sản tại các
chợ đầu mối nông sản. Hệ thống sơ chế, chế
biến và kho bảo quản này phải bảo đảm đạt
các tiêu chuẩn HACCP hoặc BRC. Đây sẽ là
nơi tập trung thu mua, phân loại, chế biến và
phân phối nông sản phục vụ cho xuất khẩu lẫn
nội tiêu.
Về mặt vĩ mô, cần nhập khẩu cũng như
cung cấp đầy đủ thông tin về một số công
nghệ, chất bảo quản sau thu hoạch của các
nước có nền nông nghiệp và công nghệ sau
thu hoạch tiên tiến như: Mỹ, Úc, Canada để
chuyển giao cho các doanh nghiệp chuyên về
bảo quản, chế biến sau thu hoạch nhằm khắc
phục ngay điểm yếu của ngành chế biến nông
sản và nâng cao khả năng xuất khẩu nông sản
sang thị trường các nước TPP.
3.2. Thiết lập hệ thống truy xuất nguồn
gốc sản phẩm
Đây là hệ thống truy xuất nguồn gốc sản
phẩm được sử dụng khá rộng rãi tại các nước
phát triển với mục đích:
y Tuân thủ các qui định, các luật lệ của
các nước nhập khẩu, các tổ chức phân phối tại
các nước phát triển
y Để tăng hình ảnh công ty theo hướng
phát triển bền vững, minh bạch và hướng về
khách hàng.
y Giải đáp nhanh và đạt độ tin cậy khi có
bất kỳ sự cố nào có liên quan đến vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm trong chuỗi cung ứng
y Đáp ứng yêu cầu của các đối tác, cả
thượng nguồn và hạ nguồn
y Được xem như là một công cụ có hiệu
quả trong nỗ lực chống khủng bố sinh học.
Hệ thống này cho biết nguồn gốc xuất xứ
của sản phẩm, cách thức sản phẩm được sản
xuất ra cũng như đường đi của sản phẩm từ
đồng ruộng đến bàn ăn của người tiêu dùng.
Hệ thống này tạo niềm tin cho người tiêu
dùng khi mua sắm sản phẩm, giúp các thành
viên kiểm tra các khâu trong chuỗi cung ứng,
đề phòng và phát hiện các rủi ro có thể xảy ra
trong từng khâu vận hành của chuỗi.
85
Chuỗi cung ứng . . .
3.3. Đào tạo và huấn luyện đội ngũ nhân
lực đáp ứng sự thay đổi của thị trường và
yêu cầu của khách hàng:
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong
chuỗi cung ứng, cần xây dựng đội ngũ nhân
viên có kỹ năng xúc tiến thương mại và ngoại
ngữ để chủ động trong việc tiếp xúc khách
hàng và tiến hành các hoạt động giao dịch.
Chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp, nhà sản xuất thông
qua việc đào tạo, tổ chức các lớp chuyên đề
về kỹ năng xuất nhập khẩu, làm ăn với thị
trường mục tiêu của các nước, kỹ năng bán
hàng; nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng;
dự đoán xu hướng tiêu dùng, cho các đối
tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu, các hợp
tác xã sản xuất kinh doanh nông sản, các nhà
vườn, Các lớp này cần đi sâu vào thực tiễn
và có thể ứng dụng ngay trong công việc của
các doanh nghiệp.
Ngoài ra, kỹ năng về ngoại ngữ và hiểu biết
về luật pháp của các thị trường mục tiêu cũng
là vấn đề mà các cơ quan quản lý nhà nước,
doanh nghiệp cần quan tâm đầu tư khi xuất
khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang các nước.
Tăng cường mối quan hệ với các hiệp hội
ngành hàng trong nước, các hiệp hội ngành
hàng ở khu vực và thế giới để học hỏi kinh
nghiệm thông qua tham vấn, tham quan, trao
dồi kinh nghiệm, tìm kiếm khách hàng. Hoạt
động này cần được sự chủ động và hỗ trợ tích
cực từ các đơn vị xúc tiến thương mại, các cơ
quan quản lý nhà nước thông qua các buổi kết
nối, các chuyến đi xúc tiến thương mại
Sử dụng mạng lưới chuyên gia và cộng
tác viên, sử dụng các chuyên gia tình nguyện
từ các tổ chức quốc tế (Nhật, Hà Lan) để
tranh thủ học hỏi kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm của họ trong quá trình cùng làm việc
với nhau. Chính phủ của các nước này sẽ hỗ
trợ chuyên gia tiền vé máy bay và thù lao khi
qua công tác ở Việt Nam, còn đơn vị mời sẽ
chịu chi phí ăn, ở, đi lại trong nội địa cho
chuyên gia theo như tiêu chuẩn của đơn vị ở
Việt Nam. Để việc sử dụng nguồn chất xám
này một cách có hiệu quả, cần có sự chuẩn bị
chu đáo về vấn đề vướng mắc đang gặp phải
hoặc vấn đề mà doanh nghiệp cần có thêm sự
hỗ trợ để phát huy hơn nữa, vấn đề nhân sự
giao tiếp với chuyên gia và nhận chuyển giao
công nghệ, kinh nghiệm từ phía bạn. Riêng tổ
chức PUM, hàng năm đã hỗ trợ khoảng 60 dự
án tại Việt Nam.
3.4. Tiếp cận và mở rộng hệ thống phân
phối trong và ngoài nước
Tính bền vững và ổn định của chuỗi chỉ
có thể đạt được trên cơ sở chuỗi liên kết đó
có được hoặc quan hệ tốt hệ thống phân phối
hoặc có được thị trường tiêu thụ ổn định. Do
đó, các doanh nghiệp cần tích cực thâm nhập,
tiếp cận, mở rộng các kênh phân phối sản
phẩm, tìm người đại diện bán hàng tốt vào thị
trường xuất khẩu, tổ chức tốt hệ thống phân
phối sản phẩm đặc biệt là hệ thống bán lẻ,
tăng cường thiết lập quan hệ đối tác trực tiếp
với các nhà nhập khẩu, giảm bớt việc xuất
khẩu qua trung gian gặp gỡ các nhà cung
cấp trong nước với các nhà nhập khẩu, các
nhà phân phối các nước; tổ chức các hội chợ
quốc tế trong nước hoặc tham gia các hội chợ
nước ngoài
3.5. Phát triển các dịch vụ trong lĩnh
vực nông nghiệp
Cần nghiên cứu và triển khai các chính
sách để khuyến khích để xây dựng trung tâm
đấu giá nông sản, phát triển lĩnh vực bảo hiểm
nông nghiệp nhằm tạo sự an tâm trong người
sản xuất cũng như các doanh nghiệp, HTX,
ngoài ra, còn tạo thuận lợi cho sự gắn kết của
các mắt xích trong chuỗi cung ứng nông sản.
86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Người sản xuất nông nghiệp trong nước hiện
nay chưa quen với hoạt động bảo hiểm cũng
như chưa sẵn lòng chi trả cho dịch vụ này.
Vì vậy, việc triển khai nội dung cũng như
lợi ích của dịch vụ bảo hiểm cho người sản
xuất, doanh nghiệp, HTX thông qua các hội
thảo, các lớp tập huấn là điều cần lưu ý song
song với việc ban hành các chính sách khuyến
khích kêu gọi các tổ chức bảo hiểm tham gia
vào dịch vụ này ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp/ HTX cần nghiên cứu
để cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực nông
nghiệp như:
y Dịch vụ nông nghiệp hỗ trợ đầu vào sản
xuất,
y Dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp như
dịch vụ về vốn sản xuất nông nghiệp, dịch vụ
đào tạo, tư vấn kỹ thuật phát triển sản xuất
nông nghiệp an toàn, dịch vụ bảo hiểm sản
xuất nông nghiệp,
y Dịch vụ hỗ trợ đầu ra sản phẩm nông
nghiệp như: Dịch vụ tư vấn xây dựng thương
hiệu nông sản, dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu,
dịch vụ tư vấn nhập hàng nông sản, hàng
nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp,
dịch vụ truy xuất nguồn gốc sản phẩm
y Dịch vụ tư vấn xúc tiến thương mại như
tham dự triển lãm, hội chợ trong nước và quốc
tế, tổ chức gặp gỡ giữa người mua – người
bán cả trong nước lẫn quốc tế.
y Dịch vụ cung cấp thông tin thị trường và
các yêu cầu tiếp cận thị trường xuất khẩu cho
các sản phẩm nông nghiệp, đăng ký nhãn hiệu
và quyền sở hữu trí tuê, quyền tác giả (nếu có)
3.6. Xây dựng thương hiệu nông sản:
Chiến lược xây dựng thương hiệu đòi hỏi
sự đầu tư thỏa đáng, tính nhất quán, sự bền bĩ
và lâu dài. Cần quan tâm đến marketing theo
đúng nghĩa (trong đó, lưu ý đến định vị sản
phẩm). Cần lưu ý 3 nội dung quan trọng:
y Về chất lượng: phải đựơc kiểm soát
nghiêm ngặt, mang tính ổn định
y Về tính an toàn: phải được kiểm soát với
những tiêu chí cho sản phẩm an toàn, được
chứng minh
y Về thông tin: về nguồn gốc, về sản
phẩm, các lợi ích mà người tiêu dùng có thể
có được khi sử dụng sản phẩm. Ngôn ngữ
thông tin cần rõ ràng, mạch lạc và ngắn gọn
Các sản phẩm cần được xây dựng thương
hiệu theo hướng chuyên nghiệp, hỗ trợ về
công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, cung
cấp thông tin cho các doanh nghiệp chủ lực,
các hợp tác xã, hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp.
Nhìn chung, vai trò và hoạt động của các
chuỗi cung ứng hiện nay của nước ta chưa rõ
nét, thị trường hàng hóa nông sản cũng như
các loại hình dịch vụ hỗ trợ phát triển nông
nghiệp chưa được phát triển đầy đủ; khả năng
tiếp cận các hệ thống bán sỉ, bán lẻ hiện đại
cũng như tiếp cận các thị trường xuất khẩu có
giá trị gia tăng cao vẫn còn nhiều hạn chế. Các
chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm nông
nghiệp được ban hành nhưng việc thực thi
vẫn còn một số trở ngại như thủ tục vay ưu
đãi, thời gian cấp vốnđã làm ảnh hưởng đến
ý định đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh
nông sản của người sản xuất. Các vấn đề này
cần được tiếp cận một cách đồng bộ, mới có
thể gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng các
chuỗi cung ứng, cũng như nâng cao khả năng
cạnh tranh cho nông sản của Việt Nam trong
thị trường nội địa cũng như xuất khẩu.
Nhận thức được xu thế phát triển, ý nghĩa
và tác động tích cực của chuỗi cung ứng
nông sản, các giải pháp này cần được thực
hiện một cách đồng bộ, theo nguyên lý vết
dầu loang tức làm từ nhỏ đến lớn, từ ít đến
nhiều, cần làm tốt và lấy hiệu quả kinh tế làm
87
Chuỗi cung ứng . . .
động lực chính chứ không phải chạy theo chủ
nghĩa hình thức, phong trào để lấy thành tích.
Trong giai đoạn đầu, vai trò nhà nước cũng
như các Viện, trường có ý nghĩa và tác động
quan trọng trong việc hình thành và duy trì
các thành viên trong chuỗi cung ứng thông
qua các chính sách, các hỗ trợ kỹ thuật và thị
trường. Sau đó, sẽ giảm dần các hỗ trợ về tài
chính, chỉ còn các hỗ trợ về mặt kỹ thuật, về
xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.
Để dần dần, các chuỗi sẽ được hình thành và
vận hành theo hướng tự giác, dựa trên hiệu
quả kinh tế và sự hợp tác tự nguyện giữa các
thành viên. Điều này sẽ phù hợp với cơ chế
kinh tế thị trường ở nước ta cũng như xu thế
phát triển chuỗi cung ứng trên thế giới, giúp
nước ta hội nhập nhanh và tốt hơn, tận dụng
được nhiều hơn các cơ hội khi tham gia vào
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS Phan Thị Giác Tâm – Đại học Nông Lâm TPHCM, (2008), đề tài “Đánh giá hiệu quả các hệ
thống cung ứng rau tại tỉnh Lâm Đồng”
[2]. TS Trần Thị Ba - Đại học Cần Thơ, (2008), đề tài “Chuỗi cung ứng rau đồng bằng sông Cửu Long
theo hướng GAP”
[3]. TS Nguyễn Xuân Minh – Đại học Ngoại thương, 2011, đề tài “Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
thủy sản của tỉnh Bến Tre – Tiếp cận từ chuỗi giá trị xuất khẩu”
[4]. ThS Từ Minh Thiện, BQL Khu NNCNC TPHCM, (2013), “Nghiên cứu, đánh giá và đề xuất mô
hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”
Các trang tin điện tử:
– Chính phủ Việt Nam
Phòng thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam
- hiệp hội các doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
- Hiệp hội doanh nghiệp trẻ thành phố Hồ Chí Minh
– Câu lạc bộ doanh nhân Sài Gòn
- Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam
- Hiệp hội lương thực Việt nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 65_8405_2122315.pdf