Chu vi vòng eo là yếu tố tiên đoán cho việc gia tăng lượng mỡ cơ thể ở học sinh cấp II: Kết quả từ nghiên cứu đoàn hệ 5 năm tại TP Hồ Chí Minh

Tài liệu Chu vi vòng eo là yếu tố tiên đoán cho việc gia tăng lượng mỡ cơ thể ở học sinh cấp II: Kết quả từ nghiên cứu đoàn hệ 5 năm tại TP Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 226 CHU VI VÒNG EO LÀ YẾU TỐ TIÊN ĐOÁN CHO VIỆC GIA TĂNG LƯỢNG MỠ CƠ THỂ Ở HỌC SINH CẤP II: KẾT QUẢ TỪ NGHIÊN CỨU ĐOÀN HỆ 5 NĂM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Tăng Kim Hồng*, Nguyễn Hoàng Hạnh Đoan Trang* TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định biến số nhân trắc có khả năng tiên đoán tốt nhất cho tình trạng tăng cân ở học sinh Trung học cơ sở (THCS) TP. Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 nam và 36 nữ học sinh chưa dậy thì trong 759 học sinh của 18 trường THCS trong nghiên cứu đoàn hệ (2004-2009) được lựa chọn để phân tích số liệu thứ cấp. Số liệu được thu thập bao gồm chiều cao, cân nặng, chu vi vòng eo (CVVE) và bề dày nếp gấp da (BDNGD) cơ tam đầu và dưới vai. Hệ số tương quan Person và ma trận được thiết lập để khảo sát sự tương quan đa biến giữa biến số BMI lúc kết thúc và các biến số BMI nền, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 327 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chu vi vòng eo là yếu tố tiên đoán cho việc gia tăng lượng mỡ cơ thể ở học sinh cấp II: Kết quả từ nghiên cứu đoàn hệ 5 năm tại TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 226 CHU VI VÒNG EO LÀ YẾU TỐ TIÊN ĐOÁN CHO VIỆC GIA TĂNG LƯỢNG MỠ CƠ THỂ Ở HỌC SINH CẤP II: KẾT QUẢ TỪ NGHIÊN CỨU ĐOÀN HỆ 5 NĂM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Tăng Kim Hồng*, Nguyễn Hoàng Hạnh Đoan Trang* TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định biến số nhân trắc có khả năng tiên đoán tốt nhất cho tình trạng tăng cân ở học sinh Trung học cơ sở (THCS) TP. Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 nam và 36 nữ học sinh chưa dậy thì trong 759 học sinh của 18 trường THCS trong nghiên cứu đoàn hệ (2004-2009) được lựa chọn để phân tích số liệu thứ cấp. Số liệu được thu thập bao gồm chiều cao, cân nặng, chu vi vòng eo (CVVE) và bề dày nếp gấp da (BDNGD) cơ tam đầu và dưới vai. Hệ số tương quan Person và ma trận được thiết lập để khảo sát sự tương quan đa biến giữa biến số BMI lúc kết thúc và các biến số BMI nền, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BDNGD, % mỡ cơ thể. Sau đó, mô hình hồi quy tuyến tính đa biến và hồi quy Poisson được xây dựng để khảo sát mối liên quan giữa BMI lúc kết thúc cũng như nguy cơ thừa cân-béo phì và các yếu tố kể trên. Kết quả: Các biến số BMI nền, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD sau vai, tổng BDNGD, % mỡ cơ thể đều tương quan mạnh với BMI lúc kết thúc (p <0,001). Trong các mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, mô hình thể hiện sự liên quan giữa CVVE nền (và tuổi) với BMI lúc kết thúc nghiên cứu giải thích cho sự thay đổi của BMI lúc kết thúc nghiên cứu nhiều nhất (R-square = 0,8035, p<0,001). Ngoài ra, kết quả của hồi quy Poisson cũng cho thấy cứ mỗi cm tăng lên của CVVE, nguy cơ thừa cân-béo phì tăng lên 1,57 lần. Kết luận: CVVE là chỉ số nhân trắc đơn giản có thể được sử dụng để tiên đoán nguy cơ thừa cân-béo phì ở trẻ em tiền dậy thì. Từ khóa: thừa cân-béo phì, trẻ em, chưa dậy thì, chu vi vòng eo ABSTRACT WAIST CIRCUMFERENCE CAN PREDICT FAT GAIN IN JUNIOR HIGH SCHOOL STUDENTS: RESULTS FROM A 5-YEAR COHORTS STUDY Tang Kim Hong, Nguyen Hoang Hanh Doan Trang * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 226-233 Objectives: To identify the anthropometric parameter with the highest prediction of overweight-obesity in junior high school students in HCMC. Methods: 44 male and 36 female prepubertal students in sample of 759 adolescents from a cohort study (2004-2009) were selected for a secondary data analysis study. Data collected include height, weight, waist circumference (WC) and triceps and subscapular skinfold thickness (SFT). Pearson correlation coefficients and matrix were calculated in order to investigate the multi-variate correlations between BMI at the end and baseline BMI, triceps and subscapular SFT, sum of SFT and percentage of body fat (%BF). Multi-variate linear regression and Poisson regression models were created to assess the relationship between BMI at the end as well as the risk of being overweight and obesity with all listed variables. *Khoa Y tế Công Cộng – Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: PGS.TS. Tăng Kim Hồng ĐT: 0909 405675 Email: hong.tang@pnt.edu.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 227 Results: Baseline BMI, WC, triceps, subscapular SFT, sum of SFT and %BF are all strongly correlated with BMI at the end (p <0.001). Among multiple linear regression models, one including just WC and age explain most the variation of final BMI (R-square = 0.8035, p<0.001). Furthermore, results of Poisson regression also showed that each centimeter increase of WC at the age of pre-pubertal stage increased the risk of being overweight- obesity greater 1.57 times higher than that at the end. Conclusion: The results of this study showed that WC measured at baseline simply perform and easily use to assess adiposity as well as to predict overweight at puberty. Key words: overweight-obesity, children, prepubertal, waist circumference ĐẶT VẤN ĐỀ Đã từ lâu, các số đo nhân trắc vẫn thường được sử dụng rộng rãi trong các cuộc điều tra như là một chỉ số thể hiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe, nhất là trong giai đoạn vị thành niên, các số đo nhân trắc cho phép đánh giá tình trạng phát triển về mặt sinh lý hoặc bệnh lý trong giai đoạn quan trọng này trong cuộc sống của trẻ. Ngày nay, thừa cân-béo phì ở trẻ em và trẻ vị thành niên đang trở thành một vấn đề sức khỏe công cộng quan trọng trên thế giới(10). Riêng tại Việt Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng, trong vài năm qua, thừa cân-béo phì đang ngày càng tăng lên ở mọi độ tuổi, đặc biệt là ở trẻ vị thành niên do sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế-xã hội(8,19). Để phòng ngừa hiệu quả sự gia tăng của tình trạng thừa cân-béo phì ở trẻ em, việc đưa ra những chỉ số dự báo dễ sử dụng như các số đo nhân trắc, có thể giúp ích cho việc cảnh báo các nguy cơ về sức khỏe. Từ trước tới nay, BMI đã được sử dụng rất phổ biến, tuy nhiên nhiều tác giả đã chỉ ra rằng BMI có thể giúp mô tả chung về tình trạng béo phì trong cộng đồng trẻ em khỏe mạnh, tuy nhiên, sự chính xác trong việc tiên đoán tình trạng béo phì ở từng cá thể thì không cao. Vì vậy, việc sử dụng các chỉ số đánh giá béo phì khác, vừa tiện lợi, kinh tế và có đủ độ tin cậy đã được nghĩ đến. Hơn nữa, việc xác định một chỉ số nhân trắc có thể dùng được trong giai đoạn trẻ còn nhỏ đồng thời có mức độ tiên đoán cho tình trạng béo phì – khì trẻ lớn lên là rất quan trọng và cần thiết. Câu hỏi đặt ra là chu vi vòng eo (CVVE) có thể tiên đoán tình trạng gia tăng mỡ cơ thể (được đánh giá thông qua BMI lúc kết thúc nghiên cứu) được không? Mục tiêu của bài báo này là nhằm xác định biến số nhân trắc có khả năng tiên đoán tốt nhất cho tình trạng tăng cân ở trẻ chưa dậy thì, đo ở 5 năm về sau. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Đây là một phân tích số liệu thứ cấp của một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu được thực hiện trong vòng 5 năm từ năm 2004 đến 2009, với mẫu được rút ra từ nghiên cứu cắt ngang trên học sinh Trung học cơ sở (THCS) TP. Hồ Chí Minh vào năm 2004 (dùng kỹ thuật chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn theo phương pháp PPS). Từ 31 trường với 2660 học sinh được chọn trong nghiên cứu cắt ngang, chúng tôi sử dụng phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống để chọn ra 18 trường. Trong mỗi trường, chọn một lớp thuộc khối 6-7. Có 759/784 học sinh đồng ý tham gia nghiên cứu đoàn hệ. Chi tiết về nghiên cứu này đã được công bố trước đây(16). Do sự phát triển cơ thể của trẻ em thay đổi theo tuổi, giới và giai đoạn dậy thì nên để kiểm soát ảnh hưởng yếu tố dậy thì, đối tượng nghiên cứu trong đề tài này chỉ khu trú lại ở nhóm tiền dậy thì - là giai đoạn trẻ đạt được sự phát triển đỉnh (pubertal peak). Từ 759 học sinh đã được chọn cho nghiên cứu đoàn hệ, chúng tôi chỉ chọn lọc trẻ ở giai đoạn tiền dậy thì để khảo sát trong đề tài này. Do đó, bài báo này chỉ phân tích số liệu của 80 trẻ gồm 44 nam và 36 nữ chưa dậy thì vào thời điểm đầu nghiên cứu. Từ bảng tự đánh giá của học sinh dựa vào hình vẽ gồm 5 giai đoạn dậy thì của Tanner(20), đồng thời cho biết ngày có chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên (đối với nữ) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 228 cũng như thời điểm bị “vỡ giọng” (đối với nam), việc xác định giai đoạn “tiền dậy thì” dựa vào định nghĩa của WHO(23): Ở nữ: ngực ở giai đoạn 1 và chưa có kinh nguyệt, ở nam: cơ quan sinh dục ngoài ở giai đoạn 1 hay 2 và chưa “vỡ giọng”. Số liệu nhân trắc được thu thập hàng năm bao gồm chiều cao, cân nặng, chu vi vòng eo (CVVE) và bề dày nếp gấp da (BDNGD). Chiều cao học sinh được đo bằng thước đo chiều cao đứng (Microtoise) và cân nặng học sinh được đo bằng cân điện tử (Tanita). Chiều cao học sinh được đo với độ chính xác đến 0,1 cm khi học sinh không mang giày và đứng thẳng, tựa gót, mông, chẩm đầu vào mặt phẳng cứng, trong khi cân nặng học sinh được đo với độ chính xác đến 0,1 kg khi học sinh không mang giày và mặc đồng phục nhẹ. CVVE được đo bằng thước dây tại đường giữa điểm thấp nhất của xương sườn và giới hạn trên của mào chậu, với độ chính xác đến 0,1 cm. BDNGD được đo bằng thước đo Harpender Skinfold Caliper (England, UK) tại 4 điểm: cơ tam đầu, sau vai, bụng và bắp chân, mỗi điểm đo 2 lần. BDNGD tại mỗi điểm là trung bình cộng của 2 lần đo. Trong bài báo này chúng tôi chỉ sử dụng số đo của BDNGD cơ tam đầu và BDNGD dưới vai. Phân tích, xử lý số liệu Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính bằng công thức cân nặng/(chiều cao)2 và được phân nhóm thành thừa cân và béo phì theo định nghĩa của International Obesity Task Force (IOTF)(2), để có 2 nhóm: cân nặng bình thường, và thừa cân- béo phì. BMI z-score được tính bằng lệnh zanthro trong STATA. Do BMI ở trẻ em thay đổi theo tuổi và giới nên BMIz-score thường được khuyến cáo sử dụng thay cho BMI. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, trong các nghiên cứu cắt dọc thì việc sử dụng BMI thực tế tốt hơn sử dụng BMI z-score(3,6). Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng số đo BMI thực tế tại các thời điểm ban đầu (BMI nền) và thời điểm kết thúc (BMI sau/BMI lúc kết thúc nghiên cứu). Tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể (Percent Body Fat – BF%) được tính dựa theo phương pháp của Slaughter và cộng sự(18). Trong nghiên cứu này, chỉ số để xác định việc tăng lượng mỡ cơ thể là BMI lúc kết thúc nghiên cứu hoặc tình trạng thừa cân-béo phì ở thời điểm kết thúc nghiên cứu. Các số đo đặc điểm nền được mô tả với trung bình ± độ lệch chuẩn nếu dữ liệu phân phối bình thường. Do các biến số: CVVE, BDNGD tam đầu và BDNGD sau vai đều có phân phối bị lệch phải về phía giá trị cao hơn, nên các phân phối này được trình bày với trung vị và tứ phân vị (interquartiles). Hệ số tương quan Pearson được tính cho biến số BMI sau và từng chỉ số đánh giá béo phì lúc ban đầu (BMI nền, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BDNGD, BF%). Ma trận (matrix) được thiết lập để khảo sát sự tương quan đa biến giữa biến số BMI sau và các biến số nêu trên. Sau đó, mô hình hồi quy tuyến tính đa biến được xây dựng để khảo sát mối liên quan giữa BMI sau và từng biến số, trong đó, BMI sau là biến số phụ thuộc và CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BDNGD, BF% là các biến số độc lập. Ngoài ra còn các biến số tuổi và giới cũng được đưa vào xem xét. Để đánh giá mức độ tiên đoán của CVVE lên nguy cơ thừa cân béo-phì ở trẻ, chúng tôi thực hiện hồi quy Poisson đa biến (để có RR) với việc lựa chọn mô hình theo phương pháp loại dần (backward elimination) và việc đánh giá mô hình dựa vào kiểm định Chi bình phương Goodness-of-fit. Đầu tiên, hồi quy Poisson đơn biến được sử dụng để lựa ra những biến số có liên quan với tình trạng thừa cân-béo phì với p< 0,25, sau đó những biến số liên quan một cách có ý nghĩa trong phân tích đơn biến sẽ được đưa vào mô hình đa biến với p<0,05 là ngưỡng xác định có mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Toàn bộ phân tích được thực hiện bằng phần mềm STATA 15.0. KẾT QUẢ Đặc điểm của 80 trẻ ở giai đoạn tiền dậy thì vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu được trình Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 229 bày trong bảng 1. Trong bảng 1, chúng tôi cũng đồng thời mô tả đặc điểm của 80 trẻ này sau 5 năm (lúc kết thúc nghiên cứu). Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (80 học sinh ở giai đoạn tiền dậy thì lúc bắt đầu và lúc kết thúc nghiên cứu đoàn hệ) Lúc bắt đầu (n = 80) Lúc kết thúc (n = 80) Giá trị p* TB ± ĐLC TB ± ĐLC Tuổi (năm) 10,95 ± 0,03 14,40 ± 0,28 <0,001 Giới (tỉ số nam/nữ) 44/36 44/36 BMI 18,25 ± 3,06 20,20 ± 3,50 0,0002 BMI z-score 0,08 ± 1,18 0,88 ± 0,97 <0,001 Trung vị (Khoảng tứ vị) Trung vị (Khoảng tứ vị) Giá trị p** BDNGD cơ tam đầu (mm) 14,65 (10,73 – 18,13) 15,05 (10,30 – 18,63) 0,3847 BDNGD dưới vai (mm) 11,38 (7,50 – 16,25) 12,18 (10,05 – 15,93) 0,1031 CVVE (cm) 63,00 (55,50 – 69,50) 65,90 (61,80 – 71,30) <0,001 * Giá trị p của t test bắt cặp, ** Giá trị p của Wilcoxon paired match test Sau 5 năm theo dõi, số lượng học sinh được đưa vào khảo sát trong nghiên cứu này vẫn được duy trì là 80 học sinh với tỉ số nam/nữ là 11/9. Kết quả của t-test bắt cặp cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa của chiều cao, cân nặng, BMI và CVVE ở học sinh sau 5 năm. Trong khi đó, BDNGD cơ tam đầu và dưới vai lại thể hiện sự gia tăng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Đồ thị 1 trình bày kết quả của ma trận tương quan giữa BMI sau với một số chỉ số đánh giá béo phì lúc ban đầu bao gồm: BMI nền, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, và BF%, trong đó, r thể hiện hệ số tương quan của từng cặp biến số. Các biến số BMI nền, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD sau vai, tổng BDNGD, BF% đều tương quan với BMI sau và tương quan với nhau khá mạnh (r đều ở mức từ 0,7 trở lên) và sự tương quan này đều có ý nghĩa về mặt thống kê (p đều <0,001) (Đồ thị 1). Trong các sự tương quan này, tương quan giữa BMI (nền và sau) và CVVE với từng số đo BDNGD là thấp nhất. Khi sử dụng tổng BDNGD, mối tương quan này được cải thiện tốt hơn. Riêng trong sự tương quan của các biến số nêu trên và BF%, thì sự tương quan giữa BMI sau và CVVE nền với BF% có độ mạnh thấp hơn sự tương quan giữa BMI nền và BF%. BMI sau BMI nền CVVE nền BDNGD cơ tam đầu BDNGD dưới vai Tổng BDNGD BF % 15 20 25 30 10 20 30 10 20 30 40 60 80 40 60 80 0 10 20 30 0 10 20 30 0 20 40 0 20 40 0 20 40 60 0 20 40 60 0 20 40 60 r = 0,8834 r = 0,8159 r = 0,7674 r = 0,7954 r = 0,8161 r = 0,7880 r = 0,9099 r = 0,8388 r = 0,8218 r = 0,8704 r = 0,8397 r = 0,7540 r = 0,7892 r = 0,8114 r = 0,7770 r = 0,8147 r = 0,9431 r = 0,9326 r = 0,9450 r = 0,9858 r = 0,9612 Đồ thị 1: Ma trận tương quan giữa các biến số: BMI nền, BMI sau, CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BDNGD, phần trăm mỡ cơ thể Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 230 Bảng 2: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với BMI lúc kết thúc nghiên cứu là biến số phụ thuộc, biến số độc lập bao gồm: CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BCNGD, BF% Biến số phụ thuộc: BMI lúc kết thúc nghiên cứu R-squared Hệ số hồi quy SE** Giá trị p* Mô hình 1: Biến số độc lập - CVVE nền - Tuổi 0,8035 0,29 17,39 0,04 9,16 <0,001 0,004 Mô hình 2: Biến số độc lập - BDNGD cơ tam đầu - Giới - Tuổi 0,6608 0,39 1,81 17,49 0,05 0,65 9,61 <0,001 0,008 0,05 Mô hình 3: Biến số độc lập - BDNGD dưới vai - Giới 0,6631 0,33 1,24 0,05 0,68 <0,001 0,04 Mô hình 4: Biến số độc lập - Tổng BDNGD - Giới 0,6825 0,20 1,33 0,06 0,63 <0,001 0,04 Mô hình 5: Biến số độc lập - BF% - Giới 0,6833 0,26 1,81 0,06 0,63 <0,001 0,006 * Giá trị p của t test trong phương trình hồi quy, thể hiện sự liên quan của biến số được xét với yếu tố y (BMI lúc kết thúc nghiên cứu) ** SE = Standard Error = Sai số chuẩn Bảng 2 trình bày kết quả của các mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, thể hiện mối liên quan giữa một số chỉ số với BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Các chỉ số này bao gồm: CVVE nền, BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BDNGD, BF%. Kết quả cho thấy Trong mô hình 1 Khảo sát sự liên quan giữa CVVE nền với BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Sau khi hoàn tất mô hình, kết quả chỉ có những biến số sau đây còn liên quan đến BMI lúc kết thúc nghiên cứu là: tuổi và CCVE nền. Các biến số còn lại không liên quan một cách có ý nghĩa với BMI lúc kết thúc nghiên cứu nên bị loại ra. Mô hình này giải thích cho khoảng 80% sự thay đổi của BMI lúc kết thúc nghiên cứu (R-square = 0,8035, p<0,001). Trong mô hình 2 Khảo sát sự liên quan giữa BDNGD cơ tam đầu với BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Sau khi hoàn tất mô hình, kết quả chỉ có BDNGD cơ tam đầu, giới tuổi là còn liên quan đến BMI lúc kết thúc nghiên cứu, các biến số còn lại không liên quan một cách có ý nghĩa. Mô hình này giải thích cho khoảng 66% sự thay đổi của BMI lúc kết thúc nghiên cứu (R-square = 0,6608, p<0,001). Trong mô hình 3 Khảo sát sự liên quan giữa BDNGD dưới vai với BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Sau khi hoàn tất mô hình, kết quả chỉ có BDNGD dưới vài và giới là còn liên quan đến BMI lúc kết thúc nghiên cứu, các biến số còn lại không liên quan một cách có ý nghĩa. Mô hình này giải thích cho khoảng 66% sự thay đổi của BMI lúc kết thúc nghiên cứu (R-square = 0,6631, p<0,001). Trong mô hình 4 Khảo sát sự liên quan giữa tổng BDNGD với BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Sau khi hoàn tất mô hình, kết quả chỉ có tổng BDNGD và giới là còn liên quan đến BMI lúc kết thúc nghiên cứu, các biến số còn lại không liên quan một cách có ý nghĩa. Mô hình này giải thích cho khoảng 70% sự thay đổi của BMI lúc kết thúc nghiên cứu (R- square = 0,7028, p<0,001). Trong mô hình 5 Khảo sát sự liên quan giữa BF% với BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Sau khi hoàn tất mô hình, kết quả chỉ có BF% và giới là còn liên quan đến BMI lúc kết thúc nghiên cứu, các biến số còn lại không liên quan một cách có ý Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 231 nghĩa. Mô hình này giải thích cho khoảng 68% sự thay đổi của BMI lúc kết thúc nghiên cứu (R-square = 0,6833, p<0,001). Như vậy, trong các mô hình, mô hình có CVVE nền giải thích cho sự thay đổi BMI lúc kết thúc nghiên cứu nhiều nhất (hơn 80%) và trong mô hình đó, có 2 yếu tố liên quan đến BMI lúc kết thúc nghiên cứu là CVVE nền và tuổi (Bảng 2). Kết quả của bảng 3 cho thấy CCVE lúc ban đầu và tuổi là các yếu tố tiên đoán cho tình trạng thừa cân-béo phì của học sinh lúc kết thúc nghiên cứu. Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy Poisson đa biến với tình trạng thừa cân-béo phì lúc kết thúc nghiên cứu là biến số phụ thuộc Biến số RRthô RRhiệu chỉnh KTC 95% Giá trị p* - CVVE nền - Tuổi 1,47 1,66 1,57 1,43 1,25 - 1,98 1,57 – 11,1 <0,001 0,0035 * Giá trị p của Wald’s test BÀN LUẬN Kết quả của nghiên cứu của chúng tôi cho thấy CCVE lúc bắt đầu nghiên cứu là yếu tố tiên đoán tốt nhất cho tình trạng thừa cân-béo phì của học sinh lúc kết thúc nghiên cứu. Trong các mô hình được khảo sát, mô hình có CVVE có giá trị R-squared (r2) lớn nhất – chứng tỏ mô hình này giải thích nhiều nhất cho BMI lúc kết thúc nghiên cứu. Trong mô hình này, chỉ riêng biến số CVVE nền đã giải thích 78% cho BMI lúc kết thúc nghiên cứu, biến số tuổi thêm vào chỉ giúp giải thích thêm khoảng 2%. Trên thực tế, có nhiều số đo nhân trắc được đề nghị sử dụng để đánh giá tình trạng mỡ cơ thể trong các nghiên cứu dịch tễ học và cả trong thực hành lâm sàng(11). Ngoài BMI được sử dụng như một phương pháp kinh điển để đánh giá tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em và cả người lớn, do dễ thực hiện, ít tốn kém, có độ tin cậy cao giữa nhiều lần đo của một người cũng như giữa nhiều lần đo(14). Tuy nhiên, việc sử dụng BMI làm công cụ đánh giá thừa cân-béo phì cũng đã được nhiều chuyên gia chỉ ra với nhiều hạn chế, đặc biệt tác giả Dietz WH cũng đã từng chứng minh trong một nghiên cứu so sánh việc sử dụng BMI và khối mỡ (đo bằng phương pháp DXA) trên 979 trẻ, đã thấy rằng BMI là một yếu tố tiên đoán yếu tình trạng béo phì với sai số chuẩn lên tới 4,7 – 7,3%(4). Những chỉ số nhân trắc khác đã từng được đề nghị sử dụng để đánh giá tình trạng béo phì ở trẻ em là CCVE và BDNGD. Trong số các BDNGD, BDNGD cơ tam đầu và BDNGD dưới vai thường được sử dụng nhất. Dù nhiều nghiên cứu đã chứng minh được mối liên quan giữa BDNGD và tình trạng thừa cân-béo phì(1), tuy nhiên việc sử dụng BDNGD cũng còn có nhiều ý kiến trái chiều. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng BDNGD là yếu tố tiên đoán mỡ cơ thể tốt hơn BMI và cả CVVE(9,17). Ngược lại, cũng có những nghiên cứu cũng đã đề cập đến việc đo BDNGD có độ chính xác và độ tin cậy thấp hơn BMI(22). Vì vậy dù BMI và BDNGD đã được khuyến cáo(1), số nghiên cứu sử dụng BDNGD làm thang đo để đánh giá mỡ cơ thể vẫn còn hạn chế. Hơn nữa, việc sử dụng BDNGD đòi hỏi phải có một phương trình thích hợp, trong khi các phương trình được đề nghị vẫn chưa có sự thống nhất và vẫn còn thiếu các nghiên cứu kiểm định độ chính xác và độ tin cậy của phương trình ước tính mỡ cơ thể - trước khi sử dụng rộng rãi(22). Ngược lại, đo CVVE là một kỹ thuật đơn giản, rẻ tiền, dễ áp dụng, cho kết quả chính xác trong các nghiên cứu nhi khoa(15). Ở người lớn CVVE thường được sử dụng như một phương pháp đánh giá “mô mỡ bụng” và có thể được đo qua các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh, đóng vai trò rất quan trọng trong việc tiên đoán các yếu tố nguy cơ tim mạch và rối loạn chuyển hóa. Đối với trẻ em ở giai đoạn tiền dậy thì mối liên quan này không mạnh như ở người lớn(13). Tuy vậy, trong nghiên cứu này của chúng tôi, mẫu được chọn cũng chỉ khu trú ở nhóm trẻ em tiền dậy thì để có thể xác định rõ ảnh hưởng của tình trạng béo phì (hay không), với phương pháp đo bằng CVVE (cùng với một số số đo nhân trắc khác) lên tình trạng béo phì của trẻ lúc kết thúc nghiên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 232 cứu. Trong nghiên cứu này, sai số chuẩn của biến CCVE trong mô hình tiên đoán cho BMI lúc kết thúc nghiên cứu là 4%, thấp hơn sai số chuẩn của nhiều biến số tiên đoán khác (BDNGD cơ tam đầu, BDNGD dưới vai, tổng BDNGD, BF%) trong khi mô hình này lại giải thích nhiều nhất cho biến số kết cục. Kết quả này tương tự như vài nghiên cứu khác: CVVE là một chỉ số tiên đoán tốt cho tình trạng béo phì ở trẻ em trong những nghiên cứu ở trẻ chưa dậy thì(13,21). Khi sử dụng biến số kết cục là một biến nhị thức, CVVE và tuổi cũng thật sự liên quan một cách có ý nghĩa với tình trạng thừa cân-béo phì ở trẻ em lúc kết thúc nghiên cứu. Điều này thêm một lần nữa khẳng định những kết quả đã được tìm thấy trong nghiên cứu trước đây cũng ở trẻ chưa dậy thì(12), nhất là nghiên cứu này và nghiên cứu trước đây của Maffels cũng là những nghiên cứu đoàn hệ. Những kết quả này càng khẳng định thêm vai trò của CVVE là yếu tố tiên đoán cho nguy cơ thừa cân-béo phì ở trẻ vị thành niên. Điểm mạnh của nghiên cứu này là thiết kế nghiên cứu cắt dọc và nhiều chỉ số nhân trắc được sử dụng để đánh giá tình trạng thừa cân- béo phì ở trẻ em, qua đó, có thể so sánh vai trò của từng chỉ số lên tình trạng thừa cân-béo phì của học sinh lúc kết thúc nghiên cứu. Ngoài ra, việc khảo sát tình trạng dinh dưỡng lúc kết thúc nghiên cứu với biến số liên tục hoặc biến số nhị thức với sự có mặt của các yếu tố khác càng giúp khẳng định giả thiết nghiên cứu: CVVE là biến số tiên đoán tốt cho tình trạng thừa cân-béo phì trong nghiên cứu này: cứ mỗi cm tăng lên của CVVE, nguy cơ thừa cân-béo phì (được đánh giá thông qua định nghĩa cùa IOTF) tăng lên 1,57 lần. Điểm yếu trong nghiên cứu này là số lượng đối tượng nghiên cứu không nhiều, chỉ có 80 học sinh thỏa điều kiện ở giai đoạn chưa dậy thì được đưa vào khảo sát (trong số 759 học sinh được lựa chọn lại trong nghiên cứu đoàn hệ từ 2660 học sinh của nghiên cứu cắt ngang). Do tình trạng thừa cân-béo phì của trẻ em chịu ảnh hưởng của tuổi, giới, giai đoạn dậy thì(23), việc khu trú lại chỉ khảo sát trẻ chưa dậy thì là cần thiết nhằm loại bỏ ảnh hưởng của yếu tố gây nhiễu. Trong nghiên cứu này, thời gian khảo sát là 5 năm – có thể chưa đủ để đánh giá ảnh hưởng của tình trạng thừa cân-béo phì lúc đầu (đo qua CVVE ban đầu) lên tình trạng thừa cân- béo phì khi kết thúc nghiên cứu (đo qua BMI lúc kết thúc nghiên cứu). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng thừa cân-béo phì ở giai đoạn nhỏ sẽ đưa đến thừa cân-béo phì ở người lớn(7) và như tác giá Dwyer nhận định: “những trẻ em bị thừa cân hay đơn giản chỉ là hơi quá ký ở giai đoạn ban đầu thì sẽ có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch hơn bạn đồng trang lứa”(5). Ngoài ra, việc sử dụng BMI lúc kết thúc nghiên cứu là chỉ số xác định việc tăng lượng mỡ cơ thể chưa phản ánh chính xác tình trạng béo phì của trẻ, tuy nhiên, trong điều kiện thực hiện trên thực tế ở cộng đồng đây là số đo khả thi và dễ áp dụng nhất. Các nghiên cứu sau này, nếu có điều kiện nên sử dụng chỉ số nhân trắc chính xác hơn. Từ kết quả của nghiên cứu này, chúng ta thấy rằng nhiều số đo nhân trắc đơn giản, dễ thực hiện, có độ tin cậy cao như CVVE cần được khuyến khích sử dụng trong các nghiên cứu cắt dọc nhằm xác định sớm những dấu hiệu của nguy cơ tăng tình trạng thừa cân-béo phì ở giai đoạn sớm trong đời cũng như biến chứng của của rối loạn chuyển hóa đi kèm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Boeke CE, Oken E, Kleinman KP, Rifas-Shiman SL, Taveras EM, Gillman MW (2013). “Correlations among adiposity measures in school-aged children”. BMC Pediatrics, 13(1):99. 2. Cole TJ, Bellizzi MC, Flegal KM, Dietz WH (2000). “Establishing a standard definition for child overweight and obesity worldwide: international survey”. BMJ, 320(7244):1240-3. 3. Cole TJ, Faith MS, Pietrobelli A, Heo M (2005). “What is the best measure of adiposity change in growing children: BMI, BMI %, BMI z-score or BMI centile?”. European Journal of Clinical Nutrition, 59(3):419-25. 4. Dietz WH, Bellizzi MC (1999). “Introduction: the use of body mass index to assess obesity in children”. Am J Clin Nutr, 70(1):123s-5s. 5. Dwyer JT, Stone EJ, Yang M, Feldman H, Webber LS, Must A et al (1998). “Predictors of overweight and overfatness in a multiethnic pediatric population. Child and Adolescent Trial for Cardiovascular Health Collaborative Research Group”. Am J Clin Nutr, 67(4):602-10. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 233 6. Freedman DS, Butte NF, Taveras EM, Goodman AB, Blanck HM (2017). “Longitudinal changes in BMI z-scores among 45 414 2-4-year olds with severe obesity”. Annals of Human Biology, 44(8):687-92. 7. Harris K, Perreira KM, Lee D (2009). “Obesity in the transition to adulthood: Predictions across race/ethnicity, immigrant generation, and sex”. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine, 163(11):1022-8. 8. Huynh TD, Dibley MJ, Sibbritt DW, Hanh TT (2009). “Trends in overweight and obesity in pre-school children in urban areas of Ho Chi Minh City, Vietnam, from 2002 to 2005”. Public Health Nutr, 12(5):702-9. 9. Kriemler S, Puder J, Zahner L, Roth R, Meyer U, Bedogni G (2010). “Estimation of percentage body fat in 6- to 13-year-old children by skinfold thickness, body mass index and waist circumference”. The British Journal of Nutrition, 104(10):1565-72. 10. Lobstein T, Jackson-Leach R, Moodie ML, Hall KD, Gortmaker SL, Swinburn BA et al (2015). “Child and adolescent obesity: part of a bigger picture”. Lancet, 385(9986):2510-20. 11. Lohman TG (1986). “Applicability of body composition techniques and constants for children and youths”. Exercise and Sport Sciences Reviews, 14:325-57. 12. Maffeis C, Grezzani A, Pietrobelli A, Provera S, Tato L (2001). “Does waist circumference predict fat gain in children? International journal of obesity and related metabolic disorders”. Journal of the International Association for the Study of Obesity, 25(7):978-83. 13. Maffeis C, Pietrobelli A, Grezzani A, Provera S, Tato L (2001). “Waist circumference and cardiovascular risk factors in prepubertal children”. Obesity research, 9(3):179-87. 14. Marks GC, Habicht JP, Mueller WH (1989). “Reliability, dependability, and precision of anthropometric measurements. The Second National Health and Nutrition Examination Survey 1976-1980”. Am J Epidemiol, 130(3):578-87. 15. Mueller WH, Kaplowitz HJ (1994). “The precision of anthropometric assessment of body fat distribution in children”. Annals of Human Biology, 21(3):267-74. 16. Nguyen Hoang Hanh Doan Trang, Tang Kim Hong, Dibley MJ et al (2012). “Cohort profile: Ho Chi Minh City Youth Cohort-- changes in diet, physical activity, sedentary behaviour and relationship with overweight/obesity in adolescents”. BMJ Open, 2(1):e000362. 17. Sarria A, Garcia-Llop LA, Moreno LA, Fleta J, Morellon MP, Bueno M (1998). “Skinfold thickness measurements are better predictors of body fat percentage than body mass index in male Spanish children and adolescents”. European Journal of Clinical Nutrition, 52(8):573-6. 18. Slaughter MH, Lohman TG, Boileau RA, Horswill CA, Stillman RJ, Van Loan MD et al (1988). “Skinfold equations for estimation of body fatness in children and youth”. Human Biology, 60(5):709-23. 19. Tang Kim Hong, Dibley MJ, Sibbritt D, Binh PN, Trang NH, Hanh TT (2007). “Overweight and obesity are rapidly emerging among adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam, 2002-2004”. Int J Pediatr Obes, 2(4):194-201. 20. Tanner JM (1962). “Growth at adolescence; with a general consideration of the effects of hereditary and environmental factors upon growth and maturation from birth to maturity”. 2nd ed. Oxford: Blackwell. 21. Taylor RW, Jones IE, Williams SM, Goulding A (2000). “Evaluation of waist circumference, waist-to-hip ratio, and the conicity index as screening tools for high trunk fat mass, as measured by dual-energy X-ray absorptiometry, in children aged 3-19 y”. Am J Clin Nutr, 72(2):490-5. 22. Wells JCK, Fewtrell MS (2006). “Measuring body composition”. Archives of Disease in Childhood, 91(7):612-7. 23. WHO Expert Committee (1995). “Physical status: The use and interpretation of anthropometry: report of a WHO expert committee (WHO Technical Report Series; 854)”. World Health Organization, Geneva, pp.454 Ngày nhận bài báo: 16/01/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/02/2019 Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchu_vi_vong_eo_la_yeu_to_tien_doan_cho_viec_gia_tang_luong_m.pdf
Tài liệu liên quan