Chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi của đảng bộ khu Tây Bắc

Tài liệu Chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi của đảng bộ khu Tây Bắc: TẠP CHÍ KHOA HỌC Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 60 - 66 60 CHỦ TRƢƠNG TIẾP NHẬN ĐỒNG BÀO MIỀN XUƠI THAM GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NƯI CỦA ĐẢNG BỘ KHU TÂY BẮC Bùi Mạnh Thắng8 Trường Đại học Tây Bắc Tĩm tắt: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), Khu Tự trị Thái - Mèo là địa phương đầu tiên trên miền Bắc tổ chức tiếp nhận đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi. Bài viết tìm hiểu bối cảnh lịch sử và chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuơi của Đảng bộ Khu Tây Bắc. Từ khĩa: chủ trương, đồng bào miền xuơi, kinh tế miền núi, Tây Bắc 1. Mở đầu Khu Tự trị Thái - Mèo đƣợc thành lập ngày 7-5-1955, là địa bàn miền núi biên giới, đất rộng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, cĩ nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, nhƣng lại gặp nhiều khĩ khăn, nhất là tình trạng thiếu hụt lực lƣợng lao động. Nhận thức rõ thực trạng đĩ, Đảng bộ Khu Tây Bắc đã chủ động tiếp thu Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III về chủ trƣ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi của đảng bộ khu Tây Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 60 - 66 60 CHỦ TRƢƠNG TIẾP NHẬN ĐỒNG BÀO MIỀN XUƠI THAM GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NƯI CỦA ĐẢNG BỘ KHU TÂY BẮC Bùi Mạnh Thắng8 Trường Đại học Tây Bắc Tĩm tắt: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), Khu Tự trị Thái - Mèo là địa phương đầu tiên trên miền Bắc tổ chức tiếp nhận đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi. Bài viết tìm hiểu bối cảnh lịch sử và chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuơi của Đảng bộ Khu Tây Bắc. Từ khĩa: chủ trương, đồng bào miền xuơi, kinh tế miền núi, Tây Bắc 1. Mở đầu Khu Tự trị Thái - Mèo đƣợc thành lập ngày 7-5-1955, là địa bàn miền núi biên giới, đất rộng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, cĩ nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, nhƣng lại gặp nhiều khĩ khăn, nhất là tình trạng thiếu hụt lực lƣợng lao động. Nhận thức rõ thực trạng đĩ, Đảng bộ Khu Tây Bắc đã chủ động tiếp thu Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III về chủ trƣơng tổ chức đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi, khẩn trƣơng cụ thể hĩa thành phƣơng hƣớng của Khu Tự trị. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Bối cảnh lịch sử hình thành chủ trương của Đảng bộ Khu Tây Bắc Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) kết thúc thắng lợi, nƣớc Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Trong tình hình mới, Trung ƣơng Đảng xác định phải củng cố vững chắc miền Bắc, đƣa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh giải phĩng miền Nam. Để củng cố miền Bắc, một nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Đảng và Nhà nƣớc phải quan tâm tới sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hĩa miền núi. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) đã khẳng định: “Xây dựng miền núi chủ yếu và trước hết là một vấn đề kinh tế nhằm sử dụng những khả năng dồi dào của miền núi vào việc tăng cường sức mạnh kinh tế của cả miền Bắc nước ta và nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số” [5]. Đồng thời, để khắc phục khĩ khăn của miền núi là tình trạng đất rộng ngƣời thƣa, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhƣng thiếu lực lƣợng lao động, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III đã quyết nghị: “Phải phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều chỉnh sức người giữa các vùng, quy hoạch từng bước các vùng kinh tế, thực hiện sự phân cơng phối hợp giữa các vùng kinh tế với nhau” [5]. Chủ trƣơng đĩ sẽ đƣợc tiến hành trong một thời gian dài, nhƣng phải bắt đầu với một tinh thần thật sự khẩn trƣơng. 8Ngày nhận bài: 8/5/2017. Ngày nhận đăng: 8/7/2017 Liên lạc: Bùi Mạnh Thắng, e - mail:buithangdhtb@gmail.com 61 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954), cùng với các địa phƣơng trên miền Bắc, tồn bộ khu Tây Bắc đƣợc giải phĩng. Đĩ là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, do hậu quả thống trị, bĩc lột của đế quốc, phong kiến và sự tàn phá của chiến tranh, nên sau ngày hịa bình lập lại, Tây Bắc chìm trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Đời sống của đồng bào các dân tộc hết sức khĩ khăn. Tàn dƣ chế độ cũ cùng các hủ tục lạc hậu cịn ảnh hƣởng nặng nề trong đời sống nhân dân. Do cĩ vị trí chiến lƣợc quan trọng, lực lƣợng thổ phỉ, biệt kích thám báo cùng các phần tử phản động điên cuồng chống phá cơ sở Đảng, chính quyền ở Tây Bắc. Trong khi đĩ, chính quyền cơ sở ở Tây Bắc cịn rất non yếu, thiếu cán bộ cốt cán, nhất là cán bộ ngƣời dân tộc. Cá biệt, ở một số địa phƣơng biên giới, chính quyền cơ sở non yếu đến mức khơng cĩ khả năng tổ chức và lãnh đạo nhân dân phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống, ổn định xã hội. Đĩ là một nguy cơ mới đối với Tây Bắc. Trƣớc tình hình trên, ngay sau khi hịa bình lập lại, Đảng, Chính phủ khẩn trƣơng thực hiện các biện pháp “cứu đĩi”, “cứu rách” đối với đồng bào Tây Bắc, huy động quân đội tiễu trừ thổ phỉ, tiêu diệt các tốn biệt kích thám báo, củng cố chính quyền cơ sở, giữ vững an ninh chính trị; mặt khác, đẩy mạnh cơng tác tuyên truyền, giác ngộ để nâng cao nhận thức trong đồng bào. Ngày 28-9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc thành lập Khu Tự trị Thái - Mèo và vận động đồng bào các dân tộc thực hiện. Ngày 29-4-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 230/SL thành lập Khu Tự trị Thái - Mèo. Đến ngày 7-5-1955, Hội đồng nhân dân Khu họp kỳ đầu tiên, cơng bố Sắc lệnh thành lập Khu Tự trị. Khu Tự trị Thái - Mèo là một bộ phận trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, một đơn vị hành chính của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Thời điểm thành lập, Khu Tự trị gồm 16 châu (Mƣờng Tè, Mƣờng Lay, Sình Hồ, Điện Biên, Quỳnh Nhai, Sơng Mã, Tuần Giáo, Thuận Châu, Mƣờng La, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu, Phù Yên, Phong Thổ, Than Uyên, Văn Chấn), đến tháng 10-1955, lập thêm 2 châu Tủa Chùa và Mù Cang Chải, tổng cộng cĩ 18 châu. Thời kỳ 1955 - 1962, Khu Tự trị khơng cĩ cấp tỉnh, hệ thống hành chính gồm 3 cấp: Khu - châu - xã. Ngày 27-10-1962, Quốc hội Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thơng qua Nghị quyết đổi tên Khu Tự trị Thái - Mèo thành Khu Tự trị Tây Bắc và thành lập ba tỉnh thuộc khu, bao gồm: Lai Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ; đổi cấp châu thành cấp huyện. Hệ thống hành chính của Khu từ cuối năm 1962 gồm cĩ 4 cấp: Khu - tỉnh - huyện - xã. Khu Tự trị Thái - Mèo cĩ diện tích 36.759 km2 với tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhà báo Hữu Thọ đã miêu tả: “Đất đai Tây Bắc rộng. Dân số Tây Bắc cĩ 44 vạn người nhưng rộng tới 3 vạn 6 nghìn cây số vuơng, nơi thưa thớt dân cư nhất miền Bắc. Đất đai trồng trọt ở Tây Bắc mới chiếm khoảng 3% diện tích cả khu. Số đất cịn lại, trừ một số núi đá khơng nhiều lắm, cịn đều cĩ thể sử dụng để trồng trọt... Tây Bắc cĩ nhiều đất hoang chưa khai phá. Mới chỉ tính ở một số huyện thì đất hoang cĩ thể khai phá trồng trọt đã được 59.000 mẫu tây...” [8;9]. Cĩ thể thấy, tiềm năng của Khu Tự trị Thái - Mèo là rất lớn. Nhƣng việc phát triển kinh tế - xã hội của Khu Tự trị trong những năm đầu thập kỷ 60 khi bƣớc vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khĩ khăn, trong đĩ, khĩ khăn lớn nhất là tình trạng thiếu hụt lực 62 lƣợng lao động. Mặc dù chiếm tới 1/5 diện tích tồn miền Bắc nhƣng dân số của Khu Tự trị chƣa bằng một nửa dân số tỉnh Hƣng Yên và chỉ bằng một phần ba dân số tỉnh Thái Bình [4;5]. Kết quả điều tra dân số năm 1960 cũng khẳng định: Khu Tự trị Thái - Mèo là khu vực đất rộng, ngƣời thƣa nhất trên miền Bắc. Báo cáo phân tích số liệu điều tra dân số năm 1960 của Khu Tự trị Thái - Mèo chỉ rõ: “Mật độ dân số chung là 12 người trên 1 km2 Tình hình đĩ rất là khĩ khăn, khơng nĩi so sánh với miền xuơi như Thái Bình, Nam Định trên 800 người 1 km 2, nhưng nếu so với các tỉnh miền núi khác như Bắc Cạn 17 người 1 km2, Cao Bằng 29 người 1 km2, Lạng Sơn 42 người 1 km2, Hà Giang 24 người 1 km2 thì cũng thấy được vấn đề một cách rõ rệt và cũng thấy cần thiết phải xĩa bỏ tình trạng đĩ” [7]. Nhận thức rõ thực trạng nêu trên và thấy đƣợc sự “cần thiết phải xĩa bỏ tình trạng đĩ”, cấp ủy Đảng và chính quyền Khu Tự trị Thái - Mèo đã sớm đề ra hƣớng giải quyết: “cần thiết phải tăng thêm lực lượng sản xuất, tăng thêm nhiều nhân lực để khơng những đảm bảo khai thác, đẩy mạnh sản xuất mà cịn củng cố quốc phịng, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở khu ta tiến nhanh hơn nữa” [7]. Đĩ là nhận thức kịp thời, là định hƣớng đƣợc hình thành sớm, phù hợp với chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng. 2.2. Chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi của Đảng bộ Khu Tây Bắc Ngay sau Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III, tháng 11-1960, tỉnh Hƣng Yên đã cử đồn cán bộ lên Khu Tự trị Thái - Mèo thực hiện thăm dị, điều tra địa điểm và xây dựng kế hoạch để tổ chức đồng bào tham gia phát triển kinh tế miền núi. Theo dự kiến, đợt điều chỉnh nhân lực đầu tiên của tỉnh Hƣng Yên gồm 900 đồng bào sẽ lên tới Khu Tự trị vào tháng 12-1960. Sau khi xin ý kiến của Trung ƣơng và Khu ủy Tây Bắc Tỉnh ủy Hƣng Yên đã nhất trí bố trí đồng bào tập trung vào khu vực từ Nà Sản đến Ngã ba Mai Sơn để thuận lợi cho cơng tác chỉ đạo. Đây là đợt thí điểm đầu tiên thực hiện chủ trƣơng tổ chức đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi nên Ban Chấp hành Khu ủy Tây Bắc xác định phải đặc biệt chú trọng cơng tác tuyên truyền giáo dục nhằm gây đƣợc ảnh hƣởng chính trị tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho những đợt bổ sung nhân lực tiếp theo. Ngày 5-12-1960, Ban Tuyên huấn Khu ủy Tây Bắc ban hành Kế hoạch số 86/HC-TH tuyên truyền giáo dục về việc điều chỉnh nhân lực xây dựng mở mang khu tự trị tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bản kế hoạch nêu rõ mục đích, ý nghĩa của việc điều chỉnh nhân lực từ miền xuơi lên Khu Tự trị, trong đĩ nhấn mạnh: “Việc điều chỉnh nhân lực ở miền xuơi lên khu ta xuất phát từ yêu cầu xây dựng mở mang Khu Tự trị để nâng cao khơng ngừng mức sống cho đồng bào các dân tộc; đồng thời cũng xuất phát từ yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc để làm cơ sở đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà” [3]. Kế hoạch dự báo những diễn biến tƣ tƣởng xung quanh việc điều chỉnh nhân lực lên Khu Tự trị, nêu rõ 4 thuận lợi căn bản: Nhân dân các dân tộc sẵn cĩ truyền thống đồn kết; cĩ Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III soi sáng và cổ vũ; nhân dân các dân tộc căn bản đã đƣợc giác ngộ xã hội chủ nghĩa đến mức độ nhất định; nhân lực điều chỉnh đợt đầu tiên đã đƣợc thử thách và rèn luyện trong phong trào hợp tác hĩa nơng nghiệp. Cùng với đĩ, 63 kế hoạch cũng xác định rõ những khĩ khăn phải giải quyết: Trình độ nhận thức của nhân dân các dân tộc cịn hạn chế; ảnh hƣởng của những va chạm, xích mích dân tộc do bọn đế quốc phong kiến reo rắc và để lại vẫn cịn; hoạt động phản tuyên truyền của các thế lực phản động, cùng với quan điểm tƣ hữu cục bộ của ngƣời nơng dân cĩ thể nảy sinh những biểu hiện của tƣ tƣởng dân tộc hẹp hịi và tƣ tƣởng dân tộc lớn đối với cả đồng bào địa phƣơng và đồng bào miền xuơi lên Tây Bắc. Trên cơ sở đĩ, Kế hoạch xác định yêu cầu của cơng tác tuyên truyền giáo dục, trƣớc hết phải làm cho nhân dân nhận thức rõ ý nghĩa, mục đích của việc bổ sung nhân lực, từ đĩ, nâng cao một bƣớc giác ngộ xã hội chủ nghĩa, phấn khởi chấp hành chủ trƣơng của Đảng, vui mừng tiếp đĩn đồng bào miền xuơi, giúp đỡ nhau thực hiện nhiệm vụ chung, đấu tranh chống mọi biểu hiện tƣ tƣởng dân tộc hẹp hịi và dân tộc lớn, tăng cƣờng tinh thần đồn kết dân tộc. Kế hoạch nêu rõ nội dung tuyên truyền là giáo dục sâu rộng ý nghĩa của việc điều chỉnh nhân lực (sự cần thiết của việc điều chỉnh nhân lực; sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đối với sự phát triển của miền núi và các dân tộc thiểu số); nâng cao nhiệt tình yêu nƣớc và giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Đối với đồng bào các dân tộc, phải giúp họ thấy đƣợc tiền đồ phát triển của Khu Tự trị và nhiệm vụ đồn kết giúp đỡ đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi. Đối với đồng bào miền xuơi, cần giáo dục chính sách dân tộc của Đảng để cĩ quan niệm và thái độ đúng đắn với đồng bào miền núi; phổ biến những điều cần thiết về phong tục tập quán, những thuận lợi và khĩ khăn, truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc trong Khu Tự trị; giáo dục truyền thống anh hùng, tự lực cánh sinh để nâng cao tinh thần chịu đựng gian khổ, sẵn sàng vƣợt qua những khĩ khăn ban đầu, phấn đấu hồn thành nhiệm vụ. Kế hoạch chỉ rõ những biện pháp để thực hiện cơng tác tuyên truyền giáo dục, trong đĩ nhấn mạnh: Đảng chỉ đạo chặt chẽ từ khu đến các châu. Riêng với 3 châu (Mƣờng La, Mai Sơn, Thuận Châu), nhất là các xã bản xung quanh nơi tiếp nhận nhân lực đợt đầu tiên, cần cử cán bộ xuống tận nơi để tổ chức tuyên truyền giáo dục bằng hình thức học tập, trao đổi, mạn đàm rộng rãi. Tích cực chuẩn bị những điều kiện để đĩn tiếp, giúp đỡ đồng bào mới lên; tổ chức tốt việc đĩn tiếp từ khâu chuẩn bị khẩu hiệu hoan nghênh, thăm hỏi động viên khi đồng bào dừng chân nghỉ ngơi, chuẩn bị tốt các điều kiện giúp đỡ đồng bào tại nơi đến; phối hợp tổ chức liên hoan văn nghệ nếu cĩ điều kiện; tổ chức kết nghĩa giữa đồng bào miền xuơi với đồng bào địa phƣơng. Ngay sau kế hoạch của Ban Tuyên huấn, ngày 26-12-1960, Ban Chấp hành Khu ủy Tây Bắc ban hành Nghị quyết số 18/NQ-TB về Đề án điều chỉnh nhân lực miền xuơi lên gĩp phần củng cố, mở mang Khu Tự trị. Nghị quyết khẳng định điều chỉnh nhân lực là yêu cầu khách quan của miền Bắc trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội, là một cơng tác vận động và tổ chức quy mơ lớn để chấp hành chính sách dân tộc của Đảng trong giai đoạn mới. Chủ trƣơng điều chỉnh nhân lực miền xuơi lên Khu Tự trị Thái - Mèo là: “trong một thời gian nhất định phải tiếp thu từng bước với tinh thần vững chắc nhưng mạnh dạn, tích cực một lực lượng lớn khoảng nửa triệu người. Trong năm 1961, dự định sẽ đưa lên từ 15.000 đến 20.000 người... số nhân lực tăng thêm cho Khu ta trong thời gian tới sẽ nhằm chủ yếu gĩp phần ra sức phát 64 triển sản xuất nơng nghiệp tồn diện, đồng thời phát triển cơng nghiệp địa phương” [1;6]. Nghị quyết xác định rõ phƣơng hƣớng tổ chức: “Ngay từ lúc đầu nhân dân miền xuơi lên đi thẳng vào thành lập các hợp tác xã nơng nghiệp cấp cao dựa trên cơ sở cơng hữu tồn bộ tư liệu sản xuất (đất cửa nhà nước, nơng cụ, trâu bị, thĩc giống, tiền vốn... do các hợp tác xã miền xuơi cấp vốn hoặc do nhà nước cho vay rồi trả dần). Các hợp tác xã này sẽ kinh doanh nhiều mặt: trồng trọt, chăn nuơi, lâm nghiệp, thủ cơng nghiệp, gĩp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương” [1]. Nhiệm vụ của các hợp tác xã miền xuơi là sản xuất và cung cấp sản phẩm nơng nghiệp, thủ cơng nghiệp cho địa phƣơng; tích lũy vốn mở rộng tái sản xuất đi đơi với cải thiện từng bƣớc đời sống cho xã viên; đồn kết chặt chẽ với các hợp tác xã và nhân dân địa phƣơng, hỗ trợ lẫn nhau cùng hồn thành nhiệm vụ. Các hợp tác xã khai hoang của đồng bào miền xuơi cần nắm vững phƣơng châm: “Trên cơ sở nâng cao nhiệt tình yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và tình đồn kết giữa các dân tộc, tiến hành phải khẩn trương tích cực nhưng chắc chắn, lấy tự lực cánh sinh là chính đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, từ quy mơ nhỏ đến quy mơ lớn, nơi dễ làm trước, nơi khĩ làm sau, kinh doanh nhiều mặt, lấy ngắn nuơi dài, lực lượng lên trước chuẩn bị cơ sở cho lực lượng lên sau” [1]. Nghị quyết chỉ rõ nguyên tắc triển khai các hợp tác xã của nhân dân miền xuơi là: Nơi dễ làm trƣớc, nơi khĩ làm sau, gần đƣờng giao thơng làm trƣớc, các vùng sâu làm sau, bảo đảm chắc thắng bƣớc đầu để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở sản xuất, từ đĩ, mở rộng diện tích ra những nơi xa, sâu, trong tồn Khu. Đồng thời, cần cĩ sự điều hịa thích đáng với kế hoạch mở rộng của các nơng trƣờng quốc doanh để vừa tiện cho việc khai hoang của đồng bào, vừa khơng cản trở việc thực hiện quy hoạch của các nơng trƣờng. Khu vực bố trí bƣớc đầu cho các hợp tác xã miền xuơi là một số châu dọc đƣờng cái tƣơng đối gần sự chỉ đạo, sau sẽ dần mở rộng ra tồn Khu. Những nội dung nêu trên là phác thảo ban đầu của Đảng bộ Khu Tây Bắc hƣởng ứng chủ trƣơng tổ chức đồng bào miền xuơi tham gia phát triển kinh tế miền núi của Trung ƣơng Đảng, mở ra khả năng và cơ sở tiếp nhận đồng bào miền xuơi lên khai hoang, tổ chức sản xuất, xây dựng và phát triển Khu Tự trị. Ngày 14-11-1961, Hội nghị Ban Chấp hành Khu ủy Tây Bắc ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TB về vấn đề phát triển nơng lâm nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Về phƣơng hƣớng tổ chức và hoạt động của các cơ sở khai hoang của đồng bào miền xuơi, Nghị quyết khẳng định: “Khai hoang sẽ làm ở vùng thấp, nơi gần dễ làm trước, sau sẽ làm ở vùng cao, nơi xa. Về đơn vị tổ chức, tùy theo quy mơ của hợp tác xã, cĩ thể tổ chức thành một xã mới hoặc thành một bản của một xã; nơi nào hợp tác xã địa phương đã lên quy mơ tương đối lớn và củng cố tốt, chi bộ lãnh đạo vững, trình độ giác ngộ của quần chúng xã viên khá và yêu cầu nhân lực thì cĩ thể tiến hành điều chỉnh thẳng vào các hợp tác xã địa phương. Chú trọng bố trí xen kẽ lực lượng khai hoang với hợp tác xã địa phương cho liền cư, liền canh để tạo điều kiện sau này mở rộng quy mơ hợp tác xã, lợi cho phát triển sản xuất và đồn kết dân tộc” [6;799]. 65 Để kịp thời sắp xếp, ổn định tổ chức cho những đơn vị khai hoang, ngày 16-11-1961, Ban Tổ chức Khu ủy Tây Bắc ra Thơng tri số 8-TT/TC ban hành Quy định tạm thời về tổ chức bộ máy Đảng, chính, dân ở các hợp tác xã khai hoang. Thơng tri nêu rõ: “Những đơn vị khai hoang mới lên lúc đầu vẫn do tỉnh sở quản trực tiếp quản lý lãnh đạo là chính và đến khi mọi mặt đã tương đối ổn định Khu ủy sẽ cùng với tỉnh sở quản quyết định giao cho các châu và lúc ấy châu mới chính thức trực tiếp quản lý. Trong thời gian Khu chưa chính thức giao về cho châu trực tiếp quản lý nhưng châu vẫn cĩ nhiệm vụ hướng dẫn giúp đỡ cụ thể mọi mặt cả về mặt tổ chức làm sao cho hợp tác xã nhanh chĩng ổn định về các mặt để cĩ thể khu giao hợp tác xã này về cho châu trực tiếp quản lý càng sớm càng tốt” [2]. Căn cứ yêu cầu, nguyên tắc của việc tiếp thu nhân lực và tình hình thực tế, bản quy định tạm thời khẳng định cơ sở khai hoang của đồng bào miền xuơi tại Tây Bắc cĩ thể theo hai hình thức: thứ nhất, những đơn vị khai hoang mới lên tổ chức thành một hợp tác xã lớn cĩ từ 200 lao động chính trở lên, kinh doanh với một diện tích đất đai rộng cịn cĩ khả năng tiếp tục phát triển tăng thêm nhân lực, về vị trí hành chính cĩ thể coi ngang một đơn vị xã và trực thuộc ủy ban hành chính châu; thứ hai, những đơn vị khai hoang mới lên tổ chức thành một hợp tác xã nhỏ kinh doanh trong phạm vi diện tích nhỏ, sử dụng chừng 200 lao động chính trở xuống, về vị trí hành chính cĩ thể coi ngang một đơn vị bản trực thuộc ủy ban hành chính xã. Trên cơ sở đĩ, Khu ủy tạm thời quy định tổ chức bộ máy của các cơ quan: Tổ chức Đảng, bộ máy hành chính, tổ chức các đồn thể đối với từng hình thức. Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng và Khu ủy Tây Bắc, từ tháng 12-1960, Khu Tự trị Thái - Mèo đi tiên phong tiếp nhận đồng bào của hai tỉnh Hƣng Yên và Thái Bình, xây dựng thí điểm hai hợp tác xã khai hoang là Hồng Văn Thụ của đồng bào Hƣng Yên ở châu Mai Sơn (thành lập tháng 1-1961) và Bình Thuận của đồng bào Thái Bình ở châu Thuận Châu (thành lập tháng 2-1961). Đây chính là hai hợp tác xã khai hoang thí điểm đầu tiên trên miền Bắc của đồng bào miền xuơi trong cuộc vận động tham gia phát triển kinh tế miền núi. Đƣợc chính quyền và nhân dân địa phƣơng giúp đỡ, hai hợp tác xã đã nhanh chĩng ổn định nơi ăn chốn ở cho đồng bào, khẩn trƣơng tổ chức khai hoang, phát triển sản xuất, phấn đấu tự túc lƣơng thực. Trên cơ sở những thành cơng bƣớc đầu của hai hợp tác xã này, Khu Tự trị tiếp tục mở rộng việc tiếp nhận đồng bào miền xuơi tham gia khai hoang. Những nội dung trên đây bƣớc đầu đã xác định mơ hình tổ chức của đồng bào miền xuơi trên quê hƣơng mới - mơ hình hợp tác xã nơng nghiệp nhƣ những gì đồng bào vừa xây dựng ở đồng bằng trong phong trào hợp tác hĩa. 3. Kết luận Cĩ thể thấy, tiếp thu Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ III, Khu Tự trị Thái - Mèo đã khẩn trƣơng chuẩn bị đĩn tiếp đồng bào miền xuơi lên tham gia phát triển kinh tế văn hĩa miền núi. Chủ trƣơng của Đảng bộ Khu Tây Bắc đã cho thấy sự chủ động, sáng tạo, kịp thời trong nhận thức tình hình và vận dụng Nghị quyết của Trung ƣơng Đảng. Với tinh thần chủ động, sự chuẩn bị khẩn trƣơng và chu đáo, Khu Tự trị Thái - Mèo đã trở thành địa phƣơng đầu tiên trên miền Bắc tiếp nhận và bố trí lực lƣợng khai hoang của các tỉnh miền xuơi, mở đầu cho một cuộc vận động lớn trên tồn miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX. 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban Chấp hành Đảng bộ Khu Tây Bắc. Nghị quyết số 18/NQ/TB ngày 26-12-1960 về Đề án điều chỉnh nhân lực miền xuơi lên gĩp phần củng cố mở mang Khu Tự trị (đã đƣợc Khu ủy thơng qua ngày 8-12-1960). Hồ sơ 7626. Phơng Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Tây Bắc, Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia III. [2] Ban Tổ chức Khu ủy Tây Bắc. Thơng tri số 8/TT/TC ngày 16-11-1961 ban hành Quy định tạm thời về tổ chức bộ máy Đảng, Chính, Dân ở các đơn vị hợp tác xã khai hoang. Hồ sơ 1301. Phơng Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Tây Bắc, Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia III. [3] Ban Tuyên huấn Khu ủy Tây Bắc. Kế hoạch số 86/HC/TH ngày 05-12-1960 về tuyên truyền giáo dục về việc điều chỉnh nhân lực, xây dựng mở mang Khu Tự trị tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ sơ 1265. Phơng Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Tây Bắc. Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia III. [4] Ban Tuyên huấn Khu ủy Tây Bắc (1961). Hoan nghênh đồng bào miền xuơi lên tham gia xây dựng mở mang khu tự trị. [5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện Đảng tồn tập (Tập 21) (1960). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện Đảng tồn tập (Tập 22) (1961) ). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] Phịng Thống kê Khu Tự trị Thái - Mèo. Báo cáo phân tích số liệu điều tra dân số năm 1960 (ngày 15-4-1960). Hồ sơ 3018. Phơng Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Tây Bắc. Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia III. [8] Hữu Thọ (1963). Đi khai hoang Tây Bắc). Nhà xuất bản Nơng thơn, Hà Nội. THE NORTHWEST PARTY COMMITTEE’S POLICY IN ENGAGING PLAINMEN TO DEVELOP MOUNTAINNOUS REGION’S ECONOMY Bui Manh Thang Tay Bac University Abstract: To perform the Resolution of the Third National Congress of the Communist Party of Vietnam (9/1960), the Thai - Meo autonomous area was the first region in the North receiving plainsmen to develop mountainous area’s economy. This article attempts to get to know about historical background and policy of the Northwest Area Party Committee in getting lowlanders. Keywords: Policy, plainsmen, mountainous area’s economic, the Northwest.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1_1145_2135943.pdf
Tài liệu liên quan