Tài liệu Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của tầng lớp trí thức thừa thiên huế từ nhà trường thuộc Pháp nửa đầu thế kỷ XX: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
131
CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC, TINH THẦN DÂN TỘC
CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC THỪA THIÊN HUẾ
TỪ NHÀ TRƯỜNG THUỘC PHÁP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Patriotism and nationalism of Thua Thien Hue intellectual class
from French schools in the first half of the twentieth century
ThS. Lê Hoài Nam
Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM
Tóm tắt
Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của các dân tộc trên
thế giới. Với dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc không chỉ là một tình cảm tự
nhiên, mà còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tầng
lớp trí thức Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng ở đầu thế kỉ XX, dù được học tập trong
nền giáo dục của thực dân Phá...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của tầng lớp trí thức thừa thiên huế từ nhà trường thuộc Pháp nửa đầu thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
131
CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC, TINH THẦN DÂN TỘC
CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC THỪA THIÊN HUẾ
TỪ NHÀ TRƯỜNG THUỘC PHÁP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Patriotism and nationalism of Thua Thien Hue intellectual class
from French schools in the first half of the twentieth century
ThS. Lê Hoài Nam
Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM
Tóm tắt
Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của các dân tộc trên
thế giới. Với dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc không chỉ là một tình cảm tự
nhiên, mà còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tầng
lớp trí thức Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng ở đầu thế kỉ XX, dù được học tập trong
nền giáo dục của thực dân Pháp lập nên, nhưng vẫn luôn nuôi dưỡng chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân
tộc, trở thành động lực đưa họ đến với con đường cách mạng; góp phần vào cuộc đấu tranh giành lại
độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Từ khóa: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, Thừa Thiên Huế, trí thức
Abstract
Patriotism and nationalism are fundamental values in the traditional value system of peoples in the
world. With the Vietnamese nation, patriotism and nationalism are not only a natural sentiment, but also
a product of history that has been molded from thousands of years of building and maintaining the
country. Despite being educated in the French colonial education at the beginning of the twentieth
century, the intellectual class of Vietnam in general and Thua Thien Hue in particular always nurtured
patriotism and nationalism. It becomes a driving force for them to come to the revolutionary path,
contributing to the struggle for independence and freedom for the Vietnamese people.
Keywords: national spirit, patriotism, Thua Thien Hue, Intellectuals
1. Đặt vấn đề
Thừa Thiên Huế trước Cách mạng
tháng Tám 1945 là kinh đô, trung tâm
chính trị - xã hội của cả nước, là nơi tập
trung các cơ quan đầu não của chế độ quân
chủ phong kiến; nơi đóng Tòa Khâm sứ
Trung Kỳ thuộc Pháp và nơi đóng Trường
Thanh niên tiền tuyến Huế thuộc chính
phủ Trần Trọng Kim thân phát xít Nhật.
Do đó, Huế là nơi hội tụ đông đảo đội ngũ
nhân sĩ, trí thức của cả nước về đây làm
việc, học tập, sinh sống. Đội ngũ đó bao
gồm trí thức quan lại, trí thức hoàng tộc,
trí thức làm việc trong các công sở, trường
học, nhà máy của chính quyền Pháp và
Nhật. Ngay từ những ngày đầu thực dân
Email: hoainambthcm@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)
132
Pháp xâm lược, đất nước mất đi nền độc
lập, dân chúng sống trong cảnh lầm than,
hầu hết trí thức yêu nước Thừa Thiên Huế
đã đứng lên đấu tranh chống đế quốc thực
dân, trở thành người tổ chức và lãnh đạo
đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược.
Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945,
họ trở thành lực lượng xung kích đi đầu
trong việc đi tìm đường lối cứu nước mới
lúc bấy giờ.
2. Hệ thống cơ sở giáo dục của Pháp
ở Huế trước năm 1945
Đầu thế kỷ XX, phong trào Đông Du
(1905 - 1908) diễn ra sôi nổi khiến người
Pháp hết sức lo ngại. Người Việt Nam đã
có thể vượt trùng dương, kết nối với thế
giới bên ngoài để kiếm tìm những tri thức
mới. Mặt khác, không thể phủ nhận nhu
cầu về nhân lực có trình độ phục vụ cho
chính quyền thuộc địa cũng tạo áp lực lên
nền giáo dục bản xứ. Một sự thay đổi trong
nền giáo dục Đông Dương đã được thực
dân Pháp thực hiện.
Bên cạnh các chính sách về chính trị,
kinh tế, thực dân Pháp từng bước xây dựng
và phát triển một nền giáo dục mới ở Việt
Nam thông qua hai đợt cải cách giáo dục
quy mô lớn: lần thứ nhất từ 1906 đến 1916
và lần thứ hai từ 1917 đến 1929, gắn liền
với tên tuổi của hai viên Toàn quyền Pháp
là Paul Beau và Albert Sarraut.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần
nhất (1897 - 1914), thực dân Pháp tiến
hành cải cách giáo dục bằng biện pháp cho
mở rộng hệ thống trường phổ thông Pháp -
Việt, hệ thống trường nghề và hệ thống
trường Đại học (1). Đồng thời, thay đổi
một số nội dung môn học và hình thức
trong các trường Hán học cho phù hợp với
tình hình mới. Ở Huế, thực dân Pháp cho
cải tổ lại trường Quốc Tử Giám (1896) (2),
đồng thời thành lập một số trường mới học
theo chương trình Pháp – Việt nhằm đào
tạo ra đội ngũ trí thức Tân học phục vụ cho
công cuộc khai thác thuộc địa, như trường
Quốc học Huế (1896) (3), trường Canh
nông Huế (1898) (4), trường Bách công
Huế (1899) (5). Sang đầu thế kỷ XX, Pháp
cho xây dựng thêm trường Tiểu học Pháp -
Việt Đông Ba (1905) (6), trường Hậu bổ
(1911) (7). Trường Hậu bổ được thành lập
nhằm dạy chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp cho
các cử nhân, tú tài và ấm sinh, những
người còn chưa có chức vụ gì trong bộ máy
hành chính Nam triều, đang trong thời gian
chờ bổ dụng (hậu bổ) "để họ phục vụ chính
quyền thuộc địa một cách dễ dàng hơn, cần
thiết hơn và ngay lập tức" (Đào Thị Diến,
2006, tr.43-50). Tuy vậy, số lượng người
được đi học ở hệ thống trường Pháp rất ít.
Trong làng xã, trường dạy chữ Hán vẫn tồn
tại phổ biến. Theo thống kê của Dumoutier,
năm 1900 ở Huế chỉ có 400 học sinh theo
học ở các trường Tây (Phan Trong Báu,
2006, tr.61).
Trong điều kiện tồn tại đồng thời hai
hệ thống giáo dục của Pháp và giáo dục
Hán học truyền thống, nên đầu thế kỷ XX
ở Thừa Thiên Huế có cả hai bộ phận trí
thức là trí thức Hán học và trí thức Tân học
khá đông đảo. Riêng trí thức Hán học (trí
thức quan lại phong kiến) chiếm một số
lượng lớn, như một ký giả viết trên báo
Tiếng Dân năm 1938 vẫn gọi họ là "thổ
sản" của Huế (8) (Ủy Ban nhân dân Thừa
Thiên Huế, 2005, tr.269-270).
Trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ
hai (1919 - 1929), hệ thống giáo dục Việt
Nam được hoàn chỉnh một bước. Trong
giai đoạn này, chính quyền thuộc địa đã
xóa bỏ toàn bộ hệ thống giáo dục Hán
học (sau kỳ thi Hội cuối cùng vào 1919)
LÊ HOÀI NAM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
133
và xác lập vị trí của hệ thống giáo dục
Pháp - Việt.
Nền giáo dục Pháp - Việt thời kỳ này,
được chia thành 3 cấp: tiểu học, trung học,
cao đẳng và đại học. Ở Thừa Thiên Huế
thực dân Pháp cho xây dựng nhiều trường
lớp từ cấp làng xã cho đến tỉnh, bao gồm
trường công lẫn trường tư dành cho người
Việt và người Pháp.
Ở cấp tiểu học có các trường mới được
xây dựng như: Trường nữ tiểu học Đồng
Khánh (nay là trường Mầm Non I, số 17
Đống Đa, P. Phú Nhuận, TP. Huế), Trường
Nam tiểu học (trường Trần Quốc Toản, số
10 Lâm Mộng Quang, P. Thuận Thành, TP.
Huế), Trường Phú Xuân (nằm trên đường
Chi Lăng, P. Phú Cát, TP. Huế), Trường
Jeanne d’Arc (nay là trường THPT Nguyễn
Trường Tộ, số 03 Nguyễn Tri Phương, P.
Phú Nhuận, TP. Huế), trường Chaigneau
(nay là trường tiểu học Lê Lợi, số 01
Nguyễn Tri Phương, P. Phú Nhuận, TP.
Huế), Trường Paul Bert (nay là trường tiểu
học Phú Hòa, số 51 Trần Hưng Đạo, P.
Phú Hòa, TP. Huế).
Về hệ thống trường trung học, thực
dân Pháp cho xây thêm trường Cao đẳng
tiểu học Đồng Khánh (1917) (9), đồng thời
cho phép trường Trung học Khải Định
(Quốc học) được đào tạo và cấp bằng Tú
tài phần 1 cho học sinh (1936) (10). Bên
cạnh hệ thống trường công lúc này thực
dân Pháp cũng cho thành lập một số trường
tư như: Trường Instiution Thuận Hóa
(1934) (11), Trường tư thục Hồ Đắc Hàm
(12), Trường tư thục Việt Anh (13).
Ngoài ra, tại Huế bấy giờ còn có các
trường tư thục Công giáo cấp tiểu học do
các cha cố dòng Cứu Thế (Rédemptoriste)
và dòng Thiện giáo (Frères Jésuites)
mở như Trường Pèllerin (Bình Linh -
1904) (14) và Trường Institut de la
Providence (Thiên Hựu - 1931) (15).
Trường Providence theo hệ thống giáo dục
của Pháp đào tạo từ lớp sáu (sixième) lên
tới lớp Nhất (Première), rồi đi thi Tú tài
phần 1 chung với học sinh Trường Trung
học Khải Định, còn Trường dòng Pèllerin
chỉ nhận học sinh vào năm thứ nhất để
luyện thi Tú tài (Đinh Xuân Lâm, 2006,
tr.17-20).
Tính đến năm 1922, nếu toàn bộ hệ
thống trường tiểu học và trung học trên
phạm vi Việt Nam có 3039 trường với
163.110 học sinh thì riêng khu vực Trung
Kỳ có 820 trường với 32.665 học sinh;
trong đó, hai trường Cao đẳng tiểu học
Đồng Khánh và Quốc học Huế có 335 học
sinh theo học (Phan Trọng Báu, 2006,
tr.92). Theo số liệu của Trung kỳ bảo hộ
Quốc ngữ công báo tổng kết từ năm 1925
đến 1937, các trường học ở Thừa Thiên
Huế đã đào tạo được 1376 học sinh (Trung
Kỳ bảo hộ công báo, 1937).
Qua những số liệu ở trên, không thể
phủ nhận một thực tế, đó là nền giáo dục
Pháp - Việt tuy mới ra đời trong những
thập niên đầu thế kỉ XX nhưng có tính thực
nghiệp cao hơn so với nền giáo dục Nho
học truyền thống; phù hợp với nhu cầu
phát triển của xã hội đương thời. Học sinh
hào hứng với nền giáo dục Tây học, một
phần vì không còn sự lựa chọn nào khác và
một phần bởi tính mới lạ, thực dụng nên
phần đông thanh niên, học sinh thời bấy
giờ chọn trường Tây để học. Do đó, đa
phần trí thức Việt Nam nói chung và Thừa
Thiên Huế nói riêng trong nửa đầu thế kỷ
XX đều được trưởng thành từ nền giáo dục
thuộc Pháp. "Chính sách đồng hóa học
đường dường như đã thắng lợi với người
Pháp" (Vũ Quan Hiển, Trần Viết Nghĩa,
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)
134
2008, tr.83-92).
Kết quả, người Pháp đã đào tạo nên
một tầng lớp trí thức có kiến thức chuyên
môn trên nhiều lĩnh vực, phục vụ cho công
cuộc cai trị thuộc địa của họ. Tuy nhiên,
những tính toán và hành động của của
người Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở thuộc
địa đã đưa lại một hệ quả ngoài sự mong
đợi của họ. Một bộ phận tầng lớp trí thức
Việt Nam được đào tạo dưới nền giáo dục
Pháp lại trở thành những hạt giống cho sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, là
lực lượng trí thức nòng cốt có nhiều đóng
góp quan trọng trong công cuộc kiến tạo
đất nước sau ngày giành được độc lập.
3. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
dân tộc của giới trí thức Thừa Thiên
Huế từ nhà trường thuộc Pháp
Cho đến những năm 20 của thế kỷ XX
đã hình thành nên một tầng lớp trí thức Tây
học đông đảo ở Việt Nam. Nho học đã lụi
tàn. Tây học đã thắng thế. Học sinh Việt
Nam học trường Tây được kỳ vọng sẽ biến
thành những công cụ dễ bảo, trung thành
và tận tụy phục vụ cho lợi ích của "mẫu
quốc". Tầng lớp trí thức đó là những người
trực tiếp chịu ảnh hưởng của nền giáo dục
thực dân, nhưng phần lớn học sinh không
chịu “nhận người Gaulois (Gô-loa) làm tổ
tiên” của mình như ý định của thực dân
Pháp. Với ý thức dân tộc mạnh mẽ, những
học sinh Tây học đã đứng lên đấu tranh
chống Pháp, giải phóng dân tộc. Họ vô
cùng căm phẫn, uất ức vì nòi giống, dân
tộc bị sỉ nhục, bị chà đạp. Càng bị người
Pháp lăng mạ thì tinh thần phản kháng dân
tộc của học sinh càng lên cao. Vì vậy, ngay
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, những
học sinh ấy đã tham gia vào nhiều phong
trào yêu nước như phong trào Duy Tân;
phong trào Đông kinh Nghĩa thục.
Mở đầu cho phong trào phản kháng,
chống lại chính sách cai trị của thực dân,
thể hiện tinh thần dân tộc luôn cháy bỏng
trong tâm thức của tầng lớp trí thức Tân
học đó là phong trào cắt tóc ngắn, phong
trào kháng thuế Trung kỳ (04/1908) mà
người khởi xướng, đi tiên phong chính là
Nguyễn Tất Thành. Khi đó, ông đang là
học sinh của Trường Quốc học Huế (Học
viện hành chính Quốc gia, 2006, tr.35-36).
Học tập trong nền giáo dục thực dân,
nhưng Nguyễn Tất Thành cùng nhiều học
sinh khác vô cùng thấm thía nỗi nhục mất
nước, không chấp nhận trật tự khuôn khổ
của chế độ thực dân. Sống giữa kinh thành
Huế - nơi là trung tâm văn hóa của đất
nước lúc đó, Nguyễn Tất Thành và nhiều
học sinh, giáo viên ở Quốc học thể hiện
lòng tự tôn dân tộc và lòng yêu nước tha
thiết. Trong sự vươn dậy của phong trào
Duy Tân, nhiều thầy giáo như: thầy Hoàng
Thông, thầy Lê Văn Miến, thầy Nguyễn
Đình Hòe và học sinh Quốc học trực tiếp
tham gia truyền bá "Tân thư", "Tân văn",
phổ biến thơ văn của Đông kinh Nghĩa
thục, hưởng ứng việc dùng hàng nội hóa,
mặc áo ngắn, cắt tóc ngắn.
Sự tham gia của Nguyễn Tất Thành và
nhóm học sinh từ trường Tây là đánh dấu
sự nổi dậy của tinh thần dân tộc trong lòng
nền giáo dục Pháp – Việt, trực tiếp đánh
vào chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.
Có thể coi "Hiện tượng Nguyễn Sinh Cung
mãi mãi là bài học nhớ đời cho bất kỳ một
nền giáo dục nào muốn hướng đến những
mục tiêu phi nghĩa, bất nhân" (Đỗ Bang,
2006, tr.9-12).
Vào đầu thập niên 20 của thế kỷ XX,
khi người học trò Trường Quốc học –
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đi tìm đường
cứu nước, tiếp cận với Chủ nghĩa Mác -
LÊ HOÀI NAM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
135
Lênin rồi sau này truyền bá vào Việt Nam
thì ở Huế, đội ngũ trí thức, thanh niên, học
sinh yêu nước cũng sôi nổi tìm đọc các
sách báo tiến bộ, mong tìm kiếm con
đường cứu nước, cứu dân.
Năm 1921, học sinh lớp Đệ tam của
trường Quốc học bãi khóa để phản đối giáo
sư người Pháp bạc đãi, nhục mạ học sinh,
trong số học sinh tham gia có Trần Phú
(sau này là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng
Cộng sản Đông Dương). Vào những năm
1925 - 1927, hưởng ứng phong trào đấu
tranh học đường nổ ra trên phạm vi cả
nước đòi ân xá Phan Bội Châu, để tang
Phan Châu Trinh, ở Thừa Thiên Huế, học
sinh các trường lớn cũng liên tiếp đứng lên
đấu tranh và thực hiện các cuộc bãi khóa.
Tháng 3-1926, học sinh Trường kỹ
nghệ thực hành Huế bãi khoá, đưa ra 3 yêu
sách: nâng cao chương trình học, không
đánh đập chửi mắng học sinh và thầy hiệu
trưởng, sửa đổi chế độ nội trú và cải thiện
đời sống học sinh.
Năm 1927, học sinh các Trường Quốc
học, Trường Đồng Khánh đứng lên “bãi
khóa” chống lại tư tưởng khủng bố, miệt
thị, bài ngoại... của thầy giáo người Pháp
đối với học sinh (Nguyễn Phước Tương,
1996, tr.98-99). Sau sự kiện này, nhiều học
sinh của Trường Quốc học đã đi vào con
đường hoạt động cách mạng như Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Khoa Văn (tức
Hải Triều).
Phong trào bãi khóa năm 1927 của học
sinh hai Trường Quốc học và Đồng Khánh
đã có ảnh hưởng lớn tới học sinh các
trường khác, thôi thúc họ đứng lên đấu
tranh. Nhóm học sinh của Trường Thuận
Hóa đã thành lập nên tổ chức Tân Việt ở
Huế gồm các thầy giáo và học sinh: Đào
Duy Anh, Võ Liêm Sơn, Trần Hữu Duẫn,
Phạm Văn Đại, Nguyễn Chí Diễu, Nguyễn
Khoa Văn, Nguyễn Hoàng (Ban liên lạc
cựu học sinh Thuận Hóa, 2006, tr.15).
Những thầy giáo, học sinh trong tổ chức
Tân Việt trước sự tác động ảnh hưởng của
phong trào cách mạng vô sản một bộ phận
đã đi theo con đường cách mạng vô sản và
thành lập nên tổ chức Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn (9/1929), là một trong 3 tổ
chức Cộng sản nòng cốt thành lập nên
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Sự
chuyển biến trong tư tưởng đó đã lan truyền
sang các Trường Kỹ nghệ Thực hành,
Trường Đồng Khánh, Trường Việt Anh.
Đến cuối năm1936 đầu năm 1937, hầu hết
các trường học ở Thừa Thiên Huế đều có
Đoàn thanh niên dân chủ với một tinh thần
đoàn kết đứng lên đấu tranh chống kẻ thù,
giành lại quyền độc lập dân tộc.
Như vậy, sau khi rời ghế nhà trường,
với kiến thức tiếp thu được từ nền giáo dục
thực dân, đại đa số học sinh - trí thức của
Thừa Thiên Huế đã cống hiến cho sự
nghiệp đấu tranh chống Pháp, giải phóng
dân tộc trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất
Thành - Hồ Chí Minh vốn là học sinh
trường Pháp - Việt Đông Ba rồi trường
Quốc học. Người thiếu niên yêu nước ấy
đã học được nhiều điều từ chính những
thầy giáo người Việt lẫn người Pháp, thấy
được phần nào bản chất của thực dân
Pháp, của chế độ cai trị chúng đang duy trì
ở Việt Nam. Đó là nguyên nhân khiến
người học trò này rời trường vào thời gian
sau đó để đi vào phía Nam, ra đi tìm con
đường giải phóng dân tộc và hoàn thành
tâm nguyện bằng cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Võ Nguyên Giáp, học sinh Trường
Quốc học Huế từ niên khóa 1924 - 1925,
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)
136
sau này trở thành Đại tướng Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng - Tổng tư lệnh quân đội Nhân
dân Việt Nam, trực tiếp chỉ huy đánh
thắng hai đế quốc là Pháp và Mỹ. Trong
quãng đời học sinh, Đại tướng vừa học,
vừa tham gia phong trào yêu nước và cách
mạng, một trong những người lãnh đạo
tiên phong trong các cuộc bãi khóa ở
Trường Quốc học trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Các học sinh Trần Phú, Hà Huy Tập,
Lê Duẩn đã trở thành Tổng Bí thư của
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kì.
Nguyễn Chí Diễu là nhà cách mạng tiền
bối, Anh hùng lao động, Đặng Văn Ngữ trở
thành Giáo sư – bác sĩ, sau này đi theo
kháng chiến. Tại núi rừng của chiến khu
Việt Bắc, trong điều kiện gian khổ, khó
khăn ông đã điều chế thành công thuốc
Penicillin - loại thuốc kháng sinh góp phần
rất lớn trong điều trị chống nhiễm khuẩn
cho thương binh và nhân dân trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhiều
người khác trở thành những nhà lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam như:
Phạm Văn Đồng, Trần Quỳnh, Tố Hữu,
Mai Chí Thọ; những nhà khoa học, nhà văn
hóa có tên tuổi trong nước và trên thế giới
như: Giáo sư - Bác sĩ Tôn Thất Tùng,
GS.VS Nguyễn Khánh Toàn, nhà thơ Xuân
Diệu, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, nhà
toán học Nguyễn Cảnh Toàn; các nhà giáo
nhân dân như GS. Ngụy Như Kontum, GS.
Trần Đình Gián, GS. Đinh Xuân Lâm, GS.
Hoàng Thiếu Sơn, GS. Lê Trí Viễn, GS.
Đoàn Trọng Tuyến, GS. Nguyễn Lân, GS.
Hoàng Tụy; các danh nhân khác như Đào
Duy Anh, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Đinh
Ngọc Lân, Hoài Thanh.
Như vậy, mặc dù người Pháp đã ra sức
tuyên truyền “công ơn khai hóa”, lôi kéo,
mua chuộc trí thức, nhưng tầng lớp này một
khi được giác ngộ, đã ly khai khỏi ảnh
hưởng của người Pháp để đứng về phía dân
tộc. Do đó, chúng ta không lấy làm lạ là trí
thức dù xuất thân dưới mái trường của thực
dân Pháp, nhưng vẫn đi với cách mạng dân
tộc và người Pháp đã thất bại trong ý đồ
“Pháp hóa” trí thức cũng như đồng hóa dân
tộc Việt Nam. Như lời của một thầy giáo
người Pháp đã viết về người học trò Võ
Nguyên Giáp của mình: "Võ Nguyên Giáp
vào trường trung học sau một sự việc đã
mang tính cách mạng; anh này hăng hái
trau dồi bổ dưỡng những kiến thức lịch sử;
giờ đây, tôi như thấy mình đang bày chi tiết
trên bảng chiến thuật điều quân trong trận
Austerlitz, trong khi ấy, không giống như
bạn học của mình, anh ta chăm chú ghi
chép" (Vũ Quang Hiển, Trần Viết Nghĩa,
2008, tr.83-92). Chính người học trò đam
mê học Sử đó bằng chiến lược chiến tranh
nhân dân đã đặt dấu chấm hết vĩnh viễn cho
sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Thế hệ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên
Giáp... đã làm sụp đổ nền giáo dục và chế
độ thực dân. Họ bị thực dân Pháp coi là
những phần tử phản loạn trong trường học,
nhưng họ lại là những người con ưu tú của
dân tộc Việt Nam. Qua phong trào đấu
tranh trong trường học thực dân ở Thừa
Thiên Huế, đội ngũ trí thức và học sinh đã
dần dần khẳng định được vị trí của mình
trong công cuộc đấu tranh chung vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhìn lại các biến cố lịch sử từ đầu thế
kỷ XX cho đến năm 1945, đều có thể nhận
ra sự đóng góp không nhỏ của tầng lớp trí
thức ba miền với những nhân vật được chú
ý (16). Trong cuộc chiến đấu chống lại
thực dân cũ và mới, đa số trí thức đều cùng
một trận tuyến đánh giặc, cứu nước. Thế hệ
LÊ HOÀI NAM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
137
trí thức ấy chính là sản phẩm của một giai
đoạn lịch sử, bị chi phối bởi những điều
kiện kinh tế, xã hội và tư tưởng nhất định
trong dòng chảy của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc trường tồn trong lịch sử
Việt Nam.
4. Kết luận
Dưới thời thuộc Pháp, tầng lớp trí thức
chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền kinh tế, xã
hội Việt Nam trong quá trình chuyển biến
từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu sang nền kinh tế mang tính chất tư bản
chủ nghĩa. Dưới chính sách cai trị của chủ
nghĩa thực dân Pháp, đội ngũ trí thức Việt
Nam tiếp tục tăng nhanh chóng về số
lượng. Đa số họ được đào tạo trong các
trường học thực dân, một số từ các trường
Nho học và canh tân. Có thể nói, khối
lượng kiến thức và trình độ hiểu biết của
tầng lớp trí thức mới này phong phú, toàn
diện hơn so với các thế hệ trí thức Nho học
trước đó. Sự ra đời của tầng lớp trí thức
Tân học đã tác động mạnh mẽ đến quá
trình chuyển đổi vị thế của các tầng lớp trí
thức Việt Nam nói chung và Thừa Thiên
Huế đầu thế kỷ XX nói riêng. Đây là điều
kiện thuận lợi để họ sớm tiếp thu được các
tư tưởng mới, tích cực góp phần vào sự
nghiệp giành độc lập dân tộc năm 1945 và
xây dựng, bảo vệ đất nước sau này.
Chú thích:
(1). Năm 1906, Toàn quyền Pháp ra Nghị định thành lập Đại học Đông Dương (Université
Indochinoise) với 5 trường cao đẳng gồm: Trường Luật và Pháp chính, Trường Khoa học -
Đào tạo, Trường Y khoa, Trường Xây dựng, Trường Văn chương ở Hà Nội.
(2). Quốc Tử Giám là trường đại học tại Kinh đô Huế. Nguyên trường Quốc Tử Giám được thành
lập lần đầu tiên năm 1076, dưới thời Lý ở Hà Nội. Đến đầu triều Nguyễn (1802), sau khi thống
nhất đất nước, vua Gia Long đã quyết định xây trường Quốc Tử giám ở kinh đô tại Huế.
Tháng 8 năm 1803, một trường học mang tính quốc gia đã được thành lập tại đây với tên gọi
là Đốc Học Đường (hay Quốc Học Đường). Tháng 3 năm 1820, vua Minh Mạng đổi tên
trường thành Quốc Tử Giám và tên này tồn tại mãi đến năm 1945 khi trường Quốc Tử Giám
chấm dứt vai trò của mình cùng với sự sụp đổ của vương triều Nguyễn.
(3). Trường Quốc Học (thường gọi là Quốc Học hay Quốc Học Huế; tên chính thức hiện nay:
Trường THPT chuyên Quốc Học) là một ngôi trường nổi tiếng ở cố đô Huế, Việt Nam. Thành
lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896 theo Chỉ dụ của vua Thành Thái và Nghị định ngày 18-
11-1896 do toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau ký. Trường Quốc học lập ra nhằm
mục đích đào tạo một lớp công chức mới, cho nên ngay từ đầu, tại Điều 1 của Nghị định đã
quy định rõ: “Pháp văn sẽ chiếm phần lớn trong chương trình dạy, tuy Hán vẫn được chú ý để
các học sinh sẽ vào ngành quan lại có thể dùng đồng thời hai thứ chữ”. Điều 3 quy định về
tuổi: “Ngoài học sinh Trường Quốc tử giám và trường Hành Nhơn cũ, không một học sinh nào
được nhận vào Trường Quốc học nếu chưa đủ 15 tuổi và quá 20 tuổi trừ trường hợp ở Điều 6”.
(4). Ngày 26-10-1898: Vua Thành Thái ra Dụ thành lập Trường Canh nông Huế. Ngày 17-2-1900,
Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định chuẩn y đạo dụ này. Địa điểm trường ngày nay là
Trường Đại học Nông lâm Huế, đường Phùng Hưng, phường Thuận Thành, TP. Huế.
(5). Ngày 12-9-1899: Vua Thành Thái ra Dụ thành lập Trường Bá công Huế (đến năm 1925,
trường đổi tên là Cao đẳng Công nghiệp Huế), số 70 Nguyễn Huệ, phường Vĩnh Ninh,
TP. Huế.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)
138
(6). Trường ngày này không còn, địa điểm của trường là vườn Hoa đường Phan Đăng Lưu,
phường Phú Hòa, TP. Huế.
(7). Trường Hậu Bổ (Phó quan) ở Huế được thành lập theo Dụ của Hoàng đế ngày mồng 7 tháng
4, niên hiệu 5 Duy Tân (5 tháng 3 năm 1911), địa điểm của trường ngày nay là Trung tâm Văn
hóa thành phố Huế, 65 Trần Hưng Đạo, P. Phú Hòa, TP.Huế.
(8). Trước đó, vào năm 1869, ở Thừa Thiên Huế có đến 1394 viên quan lại, trong khi đó một tỉnh
có số quan lại nhiều nhất là Sơn Tây chỉ có 170 người.
(9). Ngày nay là Trường THPT Hai Bà Trưng, số 14 Lê Lợi, P. Vĩnh Ninh, TP. Huế.
(10). Trước năm 1936, ở Thừa Thiên Huế chỉ đào tạo đến cấp Cao đẳng tiểu học, xong cấp này
những học sinh muốn thi Tú tài phải ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn mới có. Vì vậy, đa số học
sinh Thừa Thiên trước năm 1936 muốn học lên cao phải ra Hà Nội học ở trường Bảo hộ
(trường Bưởi) để học tiếp.
(11). Theo lời kể của bác Nguyễn Phước Ưng Ân (82 tuổi), Trưởng Ban liên lạc Đội tuyên truyền
xung phong Việt Minh Trung Bộ 1945-1946. Địa chỉ 23 Hồ Xuân Hương, thành phố Huế.
Phỏng vấn vào ngày 5-5-2010 thì Trường Instiution Thuận Hóa do các thầy giáo, trí thức
như: Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh, Trần Đình Đàn, Nguyễn Đức Nguyên (tức Hoài
Thanh) thành lập nên. Địa điểm trường ngày này là Nhà thi đấu thể thao thuộc trường Cao
đẳng Sư phạm TT. Huế, số 23 Trần Quang Khải, P. Phú Hội, TP. Huế.
(12). Thời Pháp trường nằm trên đường Jeles Ferry, nay là Văn phòng Sở GD&ĐT Thừa Thiên
Huế, số 22 Lê Lợi, TP. Huế. Theo lời kể của bác Nguyễn Phước Xuân Thảo (Tôn Nữ Xích
Thảo) (83 tuổi), cán bộ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945. Địa chỉ 127 Mai Thúc
Loan, thành phố Huế. Phỏng vấn ngày 4-5-2010.
(13). Theo lời kể của bác Vĩnh Mẫn (biệt danh Phan Thắng) (82 tuổi), cán bộ tiền khởi nghĩa Cách
mạng Tháng Tám. Cháu của Hoàng tộc Nguyễn, Địa chỉ số 2/11 Nguyễn Sinh Cung, Vĩ Dạ,
thành phố Huế. Phỏng vấn ngày 27-4-2010, thì địa điểm của trường ngày xưa nằm trên
đường Bobilot, nay là trường THCS Nguyễn Tri Phương, đường Nguyễn Tri Phương, P.
Vĩnh Ninh, TP. Huế.
(14). Theo lời kể của TS. Nguyễn Văn Khoan (83 tuổi), Số 2, ngõ 219/18 Nguyễn Ngọc Vũ, tổ 25,
phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Tác giả và chủ biên cuốn: “Những người trong
Hoàng tộc nhà Nguyễn đi theo cụ Hồ”, Nxb Lao Động, Hà Nội 2010, phỏng vấn ngày 22-5-
2010, thì Trường còn có tên gọi khác là Trường Lasan (lấy theo tên của một vị Thánh trong
đạo Thiên Chúa giáo), địa điểm của trường hiện nay thuộc Học viện âm nhạc Huế, số 01 Lê
Lợi, P. Vĩnh Ninh, TP. Huế.
(15). Địa điểm Trường Institut de la Providence ngày nay là trường Đại học Khoa học Huế, số 77
Nguyễn Huệ, P. Vĩnh Ninh, TP. Huế.
(16). Chỉ tính riêng những người xuất thân học tập từ Trường Quốc học Huế có thể kể đến những
tên tuổi quen thuộc: Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng,
Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Chí Diễu, Tố Hữu, Hoàng Minh Giám, Mai Chí Thọ,
Nguyễn Đình Tứ, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Khánh Toàn, Cao Văn Khánh, Tạ
Quang Bửu, Đào Duy Anh(Nguyễn Phước Tương, 1996, tr.249).
LÊ HOÀI NAM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
139
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban liên lạc cựu học sinh Thuận Hóa. (2006). Kỷ niệm về một ngôi trường tư thục ở Huế
trường Thuận Hóa. NXB Xưa và Nay.
Đỗ Bang. (2006). Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh (Qua những lần tiếp
xúc với cán bộ, nhân sĩ, trí thức ở Thừa Thiên Huế). Tạp chí Huế Xưa và Nay, (55),
tr. 9-12.
Phan Trọng Báu. (2006). Giáo dục Việt Nam thời cận đại. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Đào Thị Diến. (2006). Vài nét về trường Hậu bổ ở Hà Nội (1897-1917). Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, (9). tr. 43-50.
Vũ Quang Hiển, Trần Viết Nghĩa. (2008). Tinh thần dân tộc trong cải cách giáo dục ở Việt
Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (11+12),
tr. 83-92.
Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. (2006). Hồ Chí Minh tiểu sử. Hà Nội: NXB
Chính trị Quốc gia.
Đinh Xuân Lâm. (2006). Trường dòng Pèllerin ở Huế trước năm 1945. Tạp chí Huế Xưa
và Nay, số (78), tr. 17-20.
Trung kỳ bảo hộ Quốc ngữ công báo 1926, 1927, 1928, 1929, 1930, 1931, 1932, 1933,
1934, 1935, 1936, 1937. Tài liệu Trung tâm lưu trữ tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nguyễn Phước Tương, (1996). Cuộc bãi khóa của học sinh Quốc học năm 1927. Đặc san
kỷ niệm 100 trường Quốc học Huế, tr. 98-99.
Ủy Ban nhân dân Thừa Thiên Huế. (2005). Địa chí Thừa Thiên Huế, phần lịch sử. Hà
Nội: NXB Khoa học xã hội.
Ngày nhận bài: 22/02/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 54_1543_2214959.pdf