Tài liệu Chữ hán từ phồn thể đến giản thể: Một cái nhìn trên những khía cạnh lịch sử và phương pháp: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
21
CHỮ HÁN TỪ PHỒN THỂ ĐẾN GIẢN THỂ: MỘT CÁI NHÌN
TRÊN NHỮNG KHÍA CẠNH LỊCH SỬ VÀ PHƯƠNG PHÁP
Võ Thị Minh Phụng1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 17/04/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
19/07/2018
Ngày chấp nhận đăng:
08/2018
Title:
Chinese characters: From the
Complicated form to the
Simplified form – A look at the
historical and systematic
aspects
Keywords:
Chinese word, traditional
characters, simplified
characters, transform
Từ khóa:
Chữ Hán, phồn thể, giản thể,
chuyển đổi
ABSTRACT
There are two forms of a written Chinese word: One form consists of many
strokes, another of fewer strokes. The former called “Traditional type” or
“Complicated type” and the later, “Simplified type” or “Simple form.” It is
the pure form that was encouraged and asked to be generally used by many
patriots in the Chinese intelligentsia who took part in The...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 620 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chữ hán từ phồn thể đến giản thể: Một cái nhìn trên những khía cạnh lịch sử và phương pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
21
CHỮ HÁN TỪ PHỒN THỂ ĐẾN GIẢN THỂ: MỘT CÁI NHÌN
TRÊN NHỮNG KHÍA CẠNH LỊCH SỬ VÀ PHƯƠNG PHÁP
Võ Thị Minh Phụng1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 17/04/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
19/07/2018
Ngày chấp nhận đăng:
08/2018
Title:
Chinese characters: From the
Complicated form to the
Simplified form – A look at the
historical and systematic
aspects
Keywords:
Chinese word, traditional
characters, simplified
characters, transform
Từ khóa:
Chữ Hán, phồn thể, giản thể,
chuyển đổi
ABSTRACT
There are two forms of a written Chinese word: One form consists of many
strokes, another of fewer strokes. The former called “Traditional type” or
“Complicated type” and the later, “Simplified type” or “Simple form.” It is
the pure form that was encouraged and asked to be generally used by many
patriots in the Chinese intelligentsia who took part in The Reformation
Movement in 1909. Until 1958, the China Government accepted the
simplified characters as the official script of the Nation. At present, in the
academic circle as well as in international trading, both of these two forms
are being used in parallel, generally and officially. Therefore, an initial
examination of two types from the historical and systematic angle may
contribute to enhancing understanding for those who are interested in
Chinese language, culture, history, etc.
TÓM TẮT
Có hai hình thức viết của chữ Hán: một dạng gồm nhiều nét và một dạng ít
nét hơn. Dạng trước được gọi là “kiểu truyền thống” hoặc “phồn thể”, dạng
sau gọi là “kiểu tinh giản hóa” hay “giản thể”. Loại giản thể được cổ vũ và
đòi hỏi phải được phổ biến do các nhà trí thức Trung Quốc yêu nước trong
phong trào vận động cải cách năm 1909. Đến năm 1958, chính phủ Trung
Quốc chấp nhận loại chữ này là chữ viết chính thức của đất nước. Hiện nay,
trong giới học thuật cũng như trong thương mại quốc tế, cả hai dạng chữ này
đang được sử dụng song hành một cách phổ biến và chính thức. Do vậy, một
khảo sát sơ bộ về hai hình thức chữ Hán này từ góc độ lịch sử và phương
pháp, có thể đóng góp vào việc nâng cao hiểu biết cho những ai quan tâm
đến ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, v.v của Trung Quốc.
1. HAI CÁCH VIẾT CHỮ HÁN: NHỮNG
TÊN GỌI
Điểm qua 3 Từ điển, chúng ta thấy:
① Từ điển Hán Việt, Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ
Lương chủ biên, trong bản Mục lục ghi: 汉字简
化字和繁体字对照表 (Hán tự giản hóa tự hòa
phồn thể tự đối chiếu biểu) và tiếp theo là dòng
dịch Việt ngữ: Bảng đối chiếu chữ đơn giản hóa
và chữ nhiều nét, mở trang ấy, có dòng chữ Việt
in khổ chữ lớn đầu trang: BẢNG ĐỐI CHIẾU
CHỮ HÁN GIẢN HÓA VÀ CHỮ NHIỀU NÉT.
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
22
Trang 177, trong mục từ Phồn, cụm từ 繁体字
[fántǐzì] (Phồn thể tự) định nghĩa: “Chữ Hán viết
nhiều nét theo lối cũ, ví dụ như chữ 禮 nay viết
đơn giản là 礼.
Trang 322: 简化[jiǎnhuà] (giản hóa): đơn giản
hóa (lược 2 ví dụ).
Trang 323: 简体字[jiǎntǐzì] (giản thể tự): chữ
giản thể / chữ đơn giản hóa.
Như vậy, từ điển này cung cấp 2 tên gọi trong
Hán ngữ về loại chữ ít nét: giản hóa tự và giản thể
tự; đồng thời đưa ra 3 cách dịch sang Việt ngữ:
chữ giản thể, chữ đơn giản hóa, chữ Hán giản hóa
(Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương, 2011, tr. 177,
322, 323).
② Từ điển Hán – Việt, Trần Văn Chánh chủ
biên, tại Phụ lục I ghi: Bảng tra nhanh chữ Hán
Giản thể – Phồn thể / Phồn thể - Giản thể theo số
nét. Dòng chữ Hán (dạng “Phồn thể”) ghi ngay
dưới dòng Việt ngữ: 筆畫簡化字繁體字速查表
(Bút họa giản hóa tự - phồn thể tự tốc tra biểu)
(Trần Văn Chánh, 2005, tr. 2303).
③ Mathews’ Chinese – English Dictionary:
Mục từ số 1788, trang 256, số tiểu từ (particle)
1788_25 簡繁: (giản phồn): a complex and
simple.
Mục từ số 837, trang 115, các tiểu từ:
(a).2: 簡單: simple, as opposed to complex, 複雜
(phức tạp).
(a).4: 簡單化: simplification.
(a).7: 簡字 (Giản tự): a form of phonetic writing.
(a).25: 簡體字(Giản thể tự): abbreviated
characters. (Mathews, 1971, tr. 256,115) .
Chúng ta chú ý tại (a).7, chỉ có giải thích
(explication), không có định nghĩa (definition); tại
(a).25., cụm từ Giản thể tự vừa được giải thích
vừa được định nghĩa là: Những chữ được viết tắt
hay những chữ được rút ngắn. Ngoài ra, trong các
sách Đài Loan gọi tên thể chữ nhiều nét là 正體字
(傳統字)chữ Chính thể (chữ Truyền thống) và
chữ ít nét hơn là簡體字(俗體字)chữ Giản thể
(chữ Tục thể) (Hoàng Bái Vinh, 2009, tr. 5; Lưu
Dung, 2017, tr. 328 - 320). Trong bài viết này,
chúng tôi thống nhất dùng chữ “phồn thể” và
“giản thể” theo cách gọi tương đối phổ biến trong
giới học thuật.
2. LƯỢC SỬ PHỒN THỂ VÀ GIẢN THỂ
CỦA CHỮ HÁN
Lịch sử chữ Hán cho thấy có hai dạng chữ viết
chính là phồn thể và giản thể. Chữ phồn thể còn
được gọi là chữ truyền thống; chữ giản thể, một
dạng chữ viết ít nét hơn, được vận động sử dụng
như một bước ngoặt đột phá trong công cuộc cải
cách đổi mới tại Trung Quốc. Sự vận động này
khởi đầu từ năm 1909 và sau đó liên tục có nhiều
lời kêu gọi, phương án, đề xuất, nhưng đến năm
1986 chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa chấp nhận dùng chữ giản thể làm chữ viết
chính thức thống nhất trên cả nước.
Lịch sử chữ Hán bắt đầu từ chữ tượng hình Giáp
cốt thời Ân Thương (1600 TCN – 1046 TCN) và
Kim văn thời nhà Chu (1046 TCN- 256 TCN). Từ
thời chữ tượng hình này đã có chữ phồn thể và
giản thể. Ví dụ: Chữ “xa” (chiếc xe) trong Giáp
cốt văn viết là , Kim văn viết là . Chữ
viết này chính là mô phỏng toàn bộ thân xe, càng
xe và bánh xe. Sau đó, chữ “xa” dần dần giản hóa
chỉ còn hình tượng một bánh xe trong Tiểu triện
, Lệ thư , Khải thư (Lý Lạc Nghị,
1997, tr. 882).
Vào thời Xuân Thu Chiến quốc (770 – 221 TCN),
xu hướng giản hóa chữ Hán có phần rõ hơn. Mặc
dầu loại chữ Đại Triện, qua thời gian vẫn còn giữ
lại tính chất: hình dạng chữ viết mô phỏng hình
dạng vật thể (nên thường được gọi là chữ tượng
hình), tuy nhiên chúng ta thấy số nét chữ đã dần
được giản lược. Tần Thủy Hoàng sau khi thống
nhất Trung Quốc lập nên triều đại nhà Tần, đã
thực thi chính sách “Thư đồng văn”. Theo Hứa
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
23
Thận trong Bài tựa của sách Thuyết văn giải tự
giải thích rằng: “Vào thời Chiến quốc, 7 nước chư
hầu không phục vua Chu, mỗi nước cát cứ một
phương, độc lập tự chủ theo hướng riêng của mỗi
nước, từ đó xuất hiện tình trạng “Ngôn ngữ dị
thanh, văn tự dị hình” (tiếng nói khác nhau, chữ
viết khác nhau). Tần Thủy Hoàng sau khi thống
nhất 6 nước, do tình trạng ngôn ngữ bất đồng này
nên việc quản lý đất nước gặp khó khăn, do đó
nhà vua thực hiện chính sách lấy chữ Tiểu triện
đang thông hành tại nhà Tần làm thể chữ chính
thống, đồng thời loại bỏ những thể chữ khác. Đây
là nội dung của chính sách “Thư đồng văn” của
nhà Tần” (Lưu Hựu Tân, 1998, tr. 16).
Việc Tần Thủy Hoàng chọn lối viết chữ theo Tiểu
triện là phương tiện để làm điểm thống nhất về
văn tự trong toàn quốc đã ghi một dấu mốc lịch sử
trong sự thống nhất cách viết chữ Hán. Chữ Tiểu
triện số nét ít hơn so với các thể chữ trước. Tuy
nhiên, loại chữ viết này với đặc điểm nét cong
tròn và đối xứng, cần nhiều công phu khi viết, nên
chỉ phù hợp với giai cấp thượng lưu. Vì vậy, trong
các quan phủ dần dần hình thành một thể chữ viết
đáp ứng nhu cầu nhanh gọn trong công việc của
lính lệ, nên gọi là Lệ thư. Ở giai đoạn đầu, Lệ thư
còn giữ lại phần nào hình dáng, đường nét của
chữ Tiểu triện, nhưng sau đó những nét mác lượn
sóng tăng dần, trở thành đặc điểm nổi bật của loại
chữ này. Lệ thư xuất hiện, làm cơ sở cho Thảo thư
và Khải thư sau này, đó là giai đoạn Cổ văn tự (古
文字) chuyển sang giai đoạn Kim văn tự (今文字
).
Thảo thư định hình dần trên cơ sở của Lệ thư, chữ
Thảo là biến thể của chữ Lệ viết nhanh, nên còn
gọi là Thảo Lệ. Sau này, lối viết chữ Thảo được
phổ biến rộng rãi, hình thành một cách viết chữ
nghệ thuật. Sự xuất hiện của chữ Thảo là một thể
giản hóa nổi bật của chữ Hán. Nó thay đổi từ
đường nét viết cho đến cách viết, không ít chữ
giản thể hiện nay phỏng theo thể chữ này.
Nhưng Lệ thư với đặc điểm nhiều nét mác lượn
sóng không thuận trong khi viết. Vì thế vào cuối
đời Hán cho đến thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều
(năm 220 – 581) còn lưu hành một thể chữ mới
vuông vắn, nét viết bằng và thẳng, đáng được xem
là thể chữ chuẩn mực khuôn mẫu dùng để viết các
công văn, thư trát v.v, nên gọi là Khải thư. Vào
thời Tùy Đường (năm 589 – 907), việc sử dụng
Khải thư càng trở nên thành thục, phổ biến trong
các giai tầng xã hội. Khải thư, với sự cấu tạo đơn
giản, các nét phẩy, nét chấm v.v thanh tú, rất
thuận tiện cho cây bút lông thuận đà viết chữ. Vì
vậy, những bộ phận chữ, nằm một bên (được gọi
là “bộ thủ”), hay một phần chữ (phần hình thanh
hay hội ý) trong chữ Lệ, đã dần dần chuyển
thành những nét mềm trong dạng có hình vuông
của chữ Khải. Do đó, chữ Khải còn được gọi là
“Phương khối tự” 方块字:chữ hình vuông. Từ
đó, chữ Hán còn có tên là chữ Khối vuông (方块
字). Từ thời Đường về sau, chữ Khải là thể chữ
chính thức được sử dụng trong các cơ quan hành
chính nhà nước và thi cử.
Trên thực tế, từ sau nhà Tần, qua những triều đại
kế tiếp như Hán, Ngụy, Tấn, Tùy, Đường, cho đến
Tống, Nguyên, Minh, Thanh, chữ Hán dạng phồn
thể Khải thư là thể chữ chính thống, có một vị thế
tôn nghiêm trong pháp lệnh của các hoàng đế
Trung Hoa. Như vậy, Khải thư đã trải qua gần
2000 năm lịch sử. Tuy nhiên, trong dân chúng vẫn
tồn tại song hành cách viết chữ theo lối giản thể.
Xu hướng ấy thể hiện rõ trong các kinh sách, bia
mộ và tác phẩm văn học đương thời (Đặng Tuyết
Cầm, 1999, tr. 67).
Trung Quốc, vào cuối đời nhà Thanh, kinh tế kiệt
quệ, mọi sinh hoạt trong xã hội yếu kém, trì trệ.
Nhận rõ đất nước đang bị nguy cơ trước sự bành
trướng, xâm lấn của những cường quốc kinh tế,
quân sự ở Phương Tây, những nhà trí thức yêu
nước của Trung Quốc hô hào cải cách đất nước.
Sự cách tân ấy, theo các vị, phải bắt đầu sự đổi
mới hệ thống chữ viết, cách hành văn. Năm 1909,
số đầu tiên của Tạp chí Giáo dục với bài mở đầu
của học giả Lục Phí Quỳ với bài nghiên cứu Giáo
dục Phổ thông cần áp dụng chữ Thông dụng (chữ
giản thể) (普通教育应当采用俗体字) do Thương
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
24
vụ Ấn thư quán phát hành tại Thượng Hải, số đầu
tiên vào ngày 15 tháng 2 năm 1909, nêu lên 3 lý
do về sự cần thiết của chữ giản thể, mở đầu cho
các cuộc vận động chữ giản thể như sau:
(1) Loại chữ dễ viết, dễ lưu hành nhất không gì
bằng chữ giản thể. Loại chữ viết này đơn
giản, không thể so sánh với chữ phồn thể.
Ví dụ: phồn thể viết 體, giản thể viết 体.
Đây là ưu điểm thứ nhất.
(2) Chữ giản thể ngoài thi cử ra, dễ dàng ứng
dụng khắp nơi. Nếu áp dụng vào giáo dục
phổ thông sẽ thuận tiện trong các công việc
giáo dục. Đây là ưu điểm thứ hai.
(3) Chữ giản thể không chỉ giảm nhẹ sức học
cho người học, mà còn tăng số lượng người
biết chữ, thuận tiện khi viết chữ, khắc chữ.
Năm 1922, Lục Phí Quỳ tiếp tục đăng bài Ý kiến
về chỉnh lý chữ Hán (整理汉子的意见). Trong
bài này, ông không chỉ nêu bật tính ứng dụng của
chữ giản thể vào giáo dục thổ thông, mà còn đưa
ra hai phương pháp giản hóa chữ Hán, cụ thể như
sau:
(1) Giới hạn phạm vi chữ giản thể khoảng
2000 chữ, lấy tính ứng dụng làm căn cứ.
(2) Để giản lược số nét của chữ Hán, bước thứ
nhất: thu thập những chữ đã có trong dân
gian, bước thứ 2: chọn lấy những chữ nhiều
nét thay đổi hình thể chữ, giản lược số nét.
Lục Phí Quỳ là người đầu tiên đưa ra đề nghị giản
thể hóa chữ Hán, nhưng đưa vào ứng dụng vào
thực tế là Tiền Huyền Đồng. Năm 1920, Tiền
Huyền Đồng đưa ra Đề nghị giản lược số nét chữ
Hán (减省汉字笔画的提议). Đến năm 1922,
trong Đại hội trù bị thống nhất chữ Quốc ngữ,
ông tiếp tục đưa ra Phương án giản hóa số nét
chữ Hán hiện hành(减省现行汉字的笔画案).
Phương án này có ý nghĩa quan trọng trong lịch
sử chữ Hán, đã công nhận chữ giản thể lưu hành
trong dân gian là thể chữ quy phạm chính thức
(Diệp Hiểu Vi, 2013, tr. 20). Từ năm 1928 đến
1934, nhiều bài viết với chủ trương dùng chữ giản
thể đăng tải trên hơn 20 tạp chí toàn quốc.
Tháng 8 năm 1935, Bộ Giáo dục tại Nam Kinh
công bố 324 chữ Hán từ Phương án giản hóa số
nét chữ Hán hiện hành. Nhưng sau đó, Đới Lý
Đào, một thành viên của Chính phủ đương thời,
đại diện cho nhóm người không đồng tình với
phương án giản thể chữ Hán đã kịch liệt phản đối.
Tháng 2 năm 1936, Chính phủ Nam Kinh bãi bỏ
phương án này.
Trong thời gian kháng chiến chống Nhật và
Giải phóng (7/1937 - 8/1945), chữ giản thể
được dùng trong các khẩu hiệu và thư tín của
khu Giải phóng. Vì vậy, một số chữ giản thể
còn có tên gọi là chữ Giải phóng.
Năm 1950, Bộ Giáo dục Trung Quốc tiến hành
thu thập chữ giản thể. Năm 1952, Bộ Giáo dục
tiếp tục thành lập Hội Nghiên cứu Cải cách
Văn tự. Hội có mục đích triển khai chỉnh lý và
giản thể hóa chữ Hán. Tháng 1/1955, Quốc vụ
viện công bố bản thảo Phương án giản hóa
chữ Hán. Tháng 1/1956, năm sau chính thức
công bố Phương án giản hóa chữ Hán. Theo
Trần Quang Nghiêu thống kê, trong phương án
này giản hóa 515 chữ với tổng số nét trước khi
giản thể là 8745, bình quân mỗi chữ là 16,08
nét. Sau khi giản hóa, tổng số nét là 4206, bình
quân mỗi chữ còn 8,16 nét (Trần Quang
Nghiêu, 1956, tr. 54).
Tháng 5/1964, Quốc vụ viện tiếp tục phê
chuẩn tổng số chữ giản thể lên đến 2236 chữ.
Ngày 10/10/1986, Quốc vụ viện tiếp tục công
bố Tổng biểu chữ giản thể là 2235 chữ sau khi
đã chỉnh sửa (Tô Bồi Thành, 2003).
3. PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN PHỒN THỂ
SANG GIẢN THỂ
Nghiên cứu có tính hệ thống về diễn biến những
cách viết chữ trong lịch sử Trung Quốc và phương
pháp chuyển phồn thể sang giản thể, học giả Đài
Loan Lý Hiếu Định trong nghiên cứu Luận về
khởi nguồn và diễn biến của chữ Hán (汉子的起
源与演变论丛) quy nạp cách chuyển đổi phồn thể
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
25
sang giản thể gồm có 8 phương pháp sau: (1)
Lược giản hình thể chữ nhiều nét, lược lấy hình
thể chữ tương tự, ví dụ: 龜——龟. (2) Thu thập
chữ Thảo đã có trong dân gian, ví dụ: 為——为.
(3) Chỉ viết một bộ phận từ chữ nhiều nét, ví dụ:
聲——声. (4) Chỉ lấy một số nét đại diện từ bộ
phận của chữ nhiều nét, ví dụ: 觀——观. (5) Thu
thập chữ cổ xưa, ví dụ: 禮——礼. (6) Giản lược
bộ phận biểu âm, ví dụ: 運——运. (7) Tạo chữ
giản thể mới, ví dụ: 竈——灶. (8) Mượn chữ
khác để thay thế, ví dụ: 幾——几 (Lý Hiếu Định,
1997, tr. 176).
Theo Hoàng Bái Vinh trong nghiên cứu Lý luận
và thực tiễn dạy học chữ Hán (漢字教學的理論
與實踐) đã khảo sát hơn 400 nhóm chữ phồn –
giản thể, từ đó quy nạp thành 9 phương pháp
chuyển từ phồn thể sang giản thể, cụ thể như sau:
(1) Chọn lấy những thể chữ đã phổ biến trong dân
chúng (65 nhóm, một bộ phận giản hóa từ Thảo
thư và thay thế bộ phận chỉ âm), ví dụ: 電——电.
(2) Thay thế bộ phận biểu ý (8 nhóm, bao gồm
chữ dị thể), ví dụ: 貓——猫. (3) Rút thay bộ phận
biểu âm (75 nhóm), ví dụ: 樣——样. (4) Giản
lược bộ phận hình thể (57 nhóm), ví dụ: 啟——启
. (5) Giản hóa hình chữ đồng thời loại suy (135
nhóm, một bộ phận lấy giản thể từ Thảo thư và rút
thay bộ phận biểu âm), ví dụ: 言——讠计订讣认
讥评许讨让训议记 v.v (6) Tạo chữ mới (14
nhóm), ví dụ: 護——护. (7) Khải thư giản thể
theo Thảo thư (20 nhóm), ví dụ: 蓋——盖. (8)
Dùng ký hiệu riêng biệt thay thế bộ phận có kết
cấu phức tạp (33 nhóm, một bộ phận từ Khải thư
giản thể theo Thảo thư), ví dụ: 帥——帅. (9)
Thay thế chữ đồng âm (59 nhóm), ví dụ: 鹹——
咸. (10) Phương pháp khác (18 nhóm) (Hoàng Bái
Vinh, 2009, tr. 7 - 15). Kế thừa thành quả nghiên
cứu của người đi trước, chúng tôi nghiên cứu diễn
biến những cách viết chữ Hán, nhận thấy những
dạng phồn thể khi muốn viết theo dạng giản thể
dựa trên những nguyên tắc sau:
1. Chữ cổ: chỉ số chữ giản thể dùng chung với
chữ phồn thể từ Giáp cốt văn, Kim văn và Đại
triện có từ trước thời Tần năm 221 TCN. Ví
dụ: chữ “tài” 才[cái]: nhân tài, tài năng. Theo
Thuyết văn giải tự, nét ngang chỉ mặt đất,
mầm non của cây cỏ từ dưới đất nhô lên, là
bước đầu của cây cỏ. Chữ “tài” trải qua các thể
chữ như sau:
(Lý Lạc Nghị, 1997, tr. 606)
Từ diễn tiến lịch sử chữ Hán qua các thời kỳ Giáp
cốt văn, Kim văn, Tiểu triện, Lệ thư, Khải thư,
Thảo thư, chúng ta thấy chữ “tài” 才 từ xưa đến
nay có cùng một thể chữ: phồn thể và giản thể.
Ngoài ra, chữ 干 “can” [gān]: thập can, là một
loại vũ khí làm bằng chạc cây. Người xưa dùng
chạc cây này có thể đè cổ người hoặc dã thú. Đồ
hình dưới đây cho thấy về căn bản, hình dạng chữ
“can” không thay đổi:
Giáp cốt văn Kim văn Tiểu triện Lệ thư Khải thư Thảo thư
Giáp cốt văn Kim văn Tiểu triện Lệ thư Khải thư Thảo thư Giản thể
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
26
(Lý Lạc Nghị, 1997, tr. 63)
Chữ “tài” và “can” trên được dùng chung trong
hai cách viết phồn thể và giản thể.
2. Thay bộ phận biểu ý, ví dụ:
牆 — 墙 Tường [qiáng]: vách che chắn. Chữ
“tường” do chữ 啬 “sắc” (thu hoạch thóc lúa) và
bộ 爿 “tường”, nghĩa là xây tường để cất giữ
lương thực. Chữ giản thể đã thay bộ 爿 “tường”
thành bộ 土 “thổ” và chữ 嗇 “sắc” giản lược thành
chữ 啬 “sắc” ít nét hơn.
貓 — 猫 Miêu [máo]: con mèo. Chữ “miêu”
phồn thể do bộ 豸 “trĩ”, một loài sâu không chân
kết hợp với chữ 苗 “miêu”, cây lúa non. Chữ giản
thể đã thay bộ 豸 “trĩ” thành bộ 犭 “khuyển”, chó
con và lúa non.
豬 — 猪 Trư [zhū]: con heo. Dạng phồn thể
của Trư có bộ 豕 “thỉ”: loài heo. Dạng giản thể
thay bộ 豕 “thỉ” bằng bộ 犭 “khuyển”.
3. Giản lược bộ phận biểu âm, ví dụ:
樣 — 样 Dạng [yàng]: kiểu, mẫu. Chữ 樣
“dạng”, thuộc phồn thể đã được giản lược bộ phận
biểu âm 羕 “dạng” [yàng]: nước chảy thành chữ
羊 “dương”[yáng]: dê, cừu.
態 — 态 Thái [tài]: hình dạng, trạng thái. Chữ
態 “thái”, phồn thể với bộ phận 能 “năng”[
néng]: khả năng, được lược giản thành chữ 太
“thái”[tài]: to lớn.
極 — 极 Cực [ jí ]: cực, tột bậc. Chữ 極, phồn
thể với bộ phận biểu âm chữ 亟 “cức”[jí]: gấp
vội, đã giản lược thành chữ 及 “cập”[jí]: đến,
kịp.
4. Thu gọn thể chữ, ví dụ:
啟 — 启 Khải[qǐ]: mở, bóc. Hình chữ “khải”
phồn thể trong Giáp cốt văn là một bàn tay mở
cửa, nghĩa gốc là “mở”. Chữ giản thể đã lược bỏ
phần chữ 攵, thuộc bộ攴 “phộc”: đánh khẽ.
孫 — 孙 Tôn[sūn]: cháu, chắt. Chữ “tôn”
phồn thể do chữ 子 “tử” và chữ 糸 “mịch” tạo
thành. “Mịch” có nghĩa là kế thừa, liên tiếp, cho
nên “tôn” chính là cháu trai nội. Chữ “tôn” giản
thể đã thay chữ 糸 “mịch” thành chữ 小 “tiểu” có
ít nét hơn.
離 — 离 Li[lí]: xa cách. Chữ “li” trong Giáp
cốt văn là hình cái vợt dài bắt được một con chim.
Chữ giản thể đã lược bỏ chữ 隹 “chuy”[zhuī]
nghĩa: chim đuôi ngắn.
5. Tạo chữ mới khác, ví dụ:
響 — 响 Hưởng[xiǎng]: tiếng vang, tiếng ồn,
âm thanh, tiếng dội lại.
淚 — 泪 Lệ[lèi]: nước mắt.
寶 — 宝 Bảo[bǎo]: những đồ vật quý.
6. Giản lược và loại suy, ví dụ:
言 — 讠:計——计,訂——订,認——认,討——讨,話——话
門 — 门:問——问,悶——闷,閑——闲,間——间,聞——闻
韋 — 韦:偉——伟,違——违,葦——苇,煒——炜,瑋——玮
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
27
7. Giản hóa từ Thảo thư, ví dụ:
為 — 为 Vi[wéi]: hành vi. Chữ 為 “vi”
trong Giáp cốt văn là hình bàn tay dắt con voi làm
việc cho con người, nghĩa gốc là “làm”. Từ Khải
thư đến Thảo thư rồi giản thể, ta thấy chữ giản thể
hiện nay mô phỏng từ Thảo thư và viết lại ngay
ngắn, thể chữ như sau:
(Lý Lạc Nghị, 1997, tr.857)
盡 — 尽 Tận [jìn]: cùng tận. Chữ 盡 “tận”
trong Giáp cốt văn là hình ảnh một tay cầm giẻ
chùi rửa đồ đựng thức ăn, chỉ ý đã ăn xong, hoàn
tất, cùng tận. Từ Giáp cốt văn, Khải thư, Thảo thư
và giản thể hiện nay, có thể thấy chữ giản thể hiện
nay là viết lại chân phương từ chữ Thảo, hình thể
như sau:
(Lý Lạc Nghị, 1997, tr. 632)
書—书 Thư [shū]: viết, ghi chép. 書 Thư là chữ hình thanh. Phần chữ 聿: “duật” chỉ
nghĩa “viết”, “ghi chép”. Hình thể chữ Thư giản thể, xưa và nay được thể hiện như sau:
(Lý Lạc Nghị, 1997, tr. 719)
8. Dùng ký hiệu để thay bộ phận phức tạp, ví dụ:
僅— 仅Cẩn[jǐn]: chỉ, mới.
權— 权Quyền[quán]: quả cân, quyền biến.
層— 层 Tằng[céng]: tầng, từng.
9. Thay thế chữ đồng âm, ví dụ:
Giản Phồn Âm Nghĩa
發 fā
phát
① Phát ra, gửi đi: phát lương 发工资;gửi thư đi 发信. ② Phát biểu 发表声
Giáp cốt văn Khải thư Thảo thư Giản thể
Giáp cốt văn Khải thư Thảo thư Giản thể
Kim văn Khải thư Thảo thư Giản thể
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
28
发 明 Ra bản tuyên ngôn. ③ Bắn. ④ Viên (đạn). ⑤ Phát huy. ⑥ Triển khai /
mở rộng. ⑦ Khai quật / vạch trần. ⑧ Lộ ra (tình cảm). ⑨ Biến chất. ⑩
Cảm thấy. ⑪ Lên đường. ⑫ Dấy lên / dẫn tới.
髮 fà
phát
Tóc: đầu tóc 头发; tóc bạc 白发; cắt tóc 理发
复
複 fù
phục
① Phúc / gồm hai bộ phận giống nhau: 复制 phúc chế. ② Phức tạp / kép:
复分数 phân số phức tạp.
復 fù
phục
① Trở đi trở lại: 反复/ 往复. ② Trả lời: 复信 thư trả lời. ③ Khôi phục: 复
原 phục nguyên. ④ Báo phục: 复仇 trả thù. ⑤ Trở lại: 一去不复返 một đi
không trở lại.
覆 fù
phúc
① Che / phủ: 天覆地载 trời che đất chở. ② Đổ/ lật/ úp: 复舟 Thuyền bị lật.
干
干 cān
can
① Cái mộc, một thứ đồ binh làm bằng da để chống đỡ các mũi nhọn và tên
đạn. ② Phạm: 干犯 can phạm. ③ Dính dáng / liên can. ④ Phạm vào: 有干
禁例 phạm vào điều cấm. ⑤ Bờ sông: 江干 | 河干.
乾 gān
can
① Khô / hanh / ráo. ② Hết / cạn / trống không: 外强中干ngoài mạnh trong
rỗng. ③ Mất công: 干看 xem uổng công. ④ Suông/ chỉ. ⑤ Nuôi: 干妈 mẹ
nuôi ;干儿子 con nuôi.
幹 gàn
cán
① Thân cây: 树干. ② Cốt cán / chính / chủ yếu: 高干 cán bộ cấp cao. ③
Làm. ④ Có năng lực / giỏi. (Hầu Hàn Giang, 2011, tr. 172,175, 199, 201,
204, 207)
Trong 9 quy tắc trên có thể thấy rằng, ngoài quy
tắc thứ 5: tạo chữ mới ra, còn lại 8 quy tắc đều đặt
căn bản trên cách dùng lại chữ cũ, hoặc rút gọn,
hoặc thay đổi, hoặc giản hóa một bộ phận hay
toàn bộ để tạo ra chữ giản thể. Ngoài ra, việc dùng
lại chữ cũ rồi đưa thêm vào ý nghĩa mới, hay lấy 1
chữ để ghi lại nhiều chữ vốn có ý nghĩa khác
nhau, cách này tạo ra vấn đề “1 chữ đa dụng”. Đã
xảy ra sự kiện nực cười trong “Phương án giản
hóa chữ Hán” năm 1956 của Quốc vụ viện Trung
Quốc quy định: 3 chữ 複, 復, 覆 đều chuyển đổi
thành 1 chữ 复. Nhưng đến năm 1986, khi công
bố “Tổng biểu giản hóa chữ Hán” cơ quan này lại
ra tuyên bố: 覆 không được giản hóa thành复, cần
phải giữ nguyên chữ truyền thống của nó! Sự kiện
này cho thấy, việc giản hóa số nét trong chữ Hán
cũng “có vấn đề”. Chọn cách tạo chữ mới qua
phương pháp 9: dùng chữ đồng âm có ít nét hơn
để thay thế (ví dụ về chữ 干 nêu trên); hoặc gom
các từ đồng âm nhưng dị nghĩa và cho chung một
hình thức (2 ví dụ về 发 Phát và 复 Phúc). Những
chữ giản thể theo cách này (số lượng không ít) đã
làm cho người học Tiếng Hoa (kể cả người bản
xứ) khi muốn chuyển những chữ này sang dạng
phồn thể trong nhiều cụm từ khác nhau đều gặp
khó khăn. Muốn chuyển đúng chữ dạng phồn thể,
ít nhất người học phải có sự hiểu biết căn bản về
những cách cấu tạo chữ Hán cổ (6 cách), ý nghĩa,
tự dạng của 214 bộ thủ, v.v Trong nhiều năm
qua, các nhà ngôn ngữ học và lập trình máy tính
hai miền Trung Quốc đại lục và Đài Loan tích cực
nghiên cứu phần mềm chương trình chuyển đổi
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
29
Phồn - Giản, Giản - Phồn ứng dụng trên máy tính,
để giảm bớt những trở ngại cho người sử dụng
Hán ngữ, cũng như thu ngắn khoảng cách khác
biệt giữa 2 hệ thống chữ viết Trung Hoa đang
song hành sử dụng ở hai vùng.
4. KẾT LUẬN
Theo dõi quá trình hình thành chữ Hán, chúng ta
thấy có một số lượng đáng kể trong chữ Hán được
sử dụng ở cả 2 dạng phồn thể và giản thể, ví dụ:
是、在、都 Chúng ta thấy một trong những
nội dung trọng tâm mà phong trào năm 1909 đòi
hỏi là cải cách chữ viết. Sở dĩ yêu cầu bức thiết
như vậy vì các nhà trí thức tiến bộ thuở ấy cho
rằng, sự cải cách chữ viết một cách toàn diện là
tiền đề, làm động lực đi đầu để kéo theo, để tạo
điều kiện cho những cải cách trong các lĩnh vực
khác. Sự nhanh, gọn khi viết; số nét chữ ít sẽ dễ
nhớ, dễ thuộc, thúc đẩy mọi hoạt động trong xã
hội tiến nhanh. Tuy nhiên, việc giản hóa chữ viết
của Trung Quốc đã làm mất không ít đặc trưng
của chữ Hán, điều này khiến chữ Hán giảm giá trị
văn hóa, triết học trong bản thân chữ viết. Vì vậy,
Đài Loan kiên trì sử dụng chữ phồn thể, một mặt
để giữ gìn truyền thống văn hóa của chữ viết, mặt
khác thể hiện ý thức tự chủ so với Trung Quốc.
Bên nào cũng có cái lợi và cái hại của nó. Theo
thời gian, cái hại của việc giản hóa chữ Hán ngày
càng thấy rõ ràng hơn. Yêu cầu cải cách chữ viết
này được đáp ứng chính thức vào năm 1956 với
sự kiện chính phủ Trung Quốc công bố “Phương
án giản hóa chữ Hán”. Đến năm 1986, Quốc vụ
viện Trung Quốc công bố 2235 chữ giản thể mà 9
cách chuyển phồn thể sang giản thể là quá trình
thu thập, nghiên cứu chuyển đổi của các học giả
Trung Quốc cận hiện đại. Lịch sử chữ Hán có thể
phân làm 2 thời kỳ chính: thời kỳ Cổ Trung đại và
thời kỳ Cận Hiện đại, lấy thời điểm cuộc cách
mạng văn hóa cuối nhà Thanh 1840 làm mốc.
Suốt thời kỳ Cổ, Trung đại, từ nhà Hán đến nhà
Thanh, trải qua gần 2000 năm, lối Khải thư phồn
thể luôn được các triều đại công nhận là chữ viết
chính thức. Cho nên trong các chiếu, chỉ, công
văn, bài thi,v.v Khải thư là dạng chữ yêu cầu
cần sử dụng. Tuy vậy, một dạng chữ viết khác
cũng diễn ra song hành: dạng chữ dị thể, kiểu chữ
viết khác đi, ít nét hơn. Nó phù hợp để thư từ,
ngâm vịnh bằng hữu, để trò ghi nhanh lời thầy
giảng, v.v Vì thế, “biện” 辦 từ 16 nét chỉ còn
办 4 nét, “tòng, tùng” 從 từ 11 nét, rút lại thành
从 4 nét, “đối” 對 14 nét giảm thành 对 5 nét,
v.v Có thể nói, chữ dị thể được chính thức hóa,
được chính phủ Trung Quốc thu thập, nghiên cứu
và tạo chữ mới. Như vậy, hiện nay có hai dạng
chữ Hán đều được song hành sử dụng một cách
phổ biến và chính thức. Cộng đồng Trung Quốc
đại lục lấy chữ giản thể làm chuẩn, còn cộng đồng
người Hoa tại Đài Loan và một số nơi khác trên
thế giới thì lấy chữ truyền thống – phồn thể làm
chuẩn. Mặc dầu vậy, trong giới kinh doanh /
thương nhân và học thuật tại Trung Quốc, từ điển
được xem là chính thống và được nhiều người sử
dụng là Từ điển Hán ngữ Hiện đại 现代汉语词,
do Thương vụ Ấn thư quán tại Bắc Kinh xuất bản.
Trong từ điển này, mỗi mục chữ giản thể nếu có
dạng phồn thể đều được viết song hành đặt trong
ngoặc đơn, ví dụ: 断 (斷). Một loại từ điển khác
lưu hành phổ biến tại Trung Quốc: Từ điển Hán -
Việt 汉越词典 do Thương vụ Ấn thư quán xuất
bản tại Bắc Kinh. Từ điển này được biên soạn cho
người Trung Quốc học tiếng Việt Nam, chữ giản
thể và phồn thể cũng được đặt song hành. Tại Việt
Nam, tự điển truyền thống thông dụng và phổ
biến đối với người học và nghiên cứu Hán ngữ
gồm có: Hán – Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán
– Việt từ điển của Đào Duy Anh. Trong cả hai
quyển từ điển này, các tác giả đều lấy chữ phồn
thể làm chính. Từ cách trình bày của từ điển cho
thấy, một mối liên hệ mật thiết giữa 2 thể cùng 1
chữ khi học chữ Hán. Trong giới học thuật cũng
như thương mại quốc tế, cả hai dạng chữ viết này
đang được sử dụng song hành và chính thức. Do
vậy, học cách chuyển đổi 2 thể của chữ Hán là
việc cần thiết để thích ứng với xu thế về Hán ngữ
đang diễn ra hiện nay.
Về phương pháp học chữ phồn thể và giản thể
trong chữ Hán, người học nên học thuộc các thể
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
30
phồn hoặc giản mà bạn có tài liệu trong tay; cần
thường xuyên tra cứu tự điển và từ điển, chú ý đến
các dạng thể khác của cùng một chữ. Trong các
giải pháp được đề nghị để giải quyết về 1 chữ giản
thể tương ứng với nhiều chữ phồn thể, Tô Bồi
Thành (2003, tr. 121 - 128), Vương Ninh (2007,
tr. 9 - 12) đều cho rằng nên học chữ truyền thống
(dạng phồn thể). Đọc nhiều, chú ý ngữ cảnh của
chữ khi học, Vương Lập Quân, Vương Hiểu Minh
và Ngô Kiến (2013, tr. 80) trong bài nghiên cứu
Mối quan hệ tương ứng Giản thể – Phồn thể và
chuyển đổi giữa 2 thể Giản – Phồn cho rằng, ta
nên chú ý đến yếu tố “Tự cảnh” (字境 bối cảnh
của chữ), nghĩa là một chữ nào đó luôn có sự kết
hợp với những chữ khác trong câu văn. Học bối
cảnh của chữ không chỉ mở rộng phạm vi ngôn
ngữ, mà còn mở rộng đến nội hàm của mỗi chữ.
Ngoài ra, người học cần tận dụng công năng
chuyển đổi phồn thể – giản thể trên máy tính và
Internet. Ví dụ: Từ điển Hán ngữ trực tuyến của
Bộ Giáo dục Đài Loan 教育部重编国语词典
cung cấp đầy đủ
thông tin của chữ và từ, đi từ nghĩa truyền thống
cho đến hiện nay. Trung Quốc đại lục có các từ
điển trực tuyến như Đại từ điển Hán ngữ (汉语大
词典) Từ điển Hán ngữ
tại tuyến (在线汉语词典)
v.v...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Diệp Hiểu Vi. (2013). Nghiên cứu chữ Hán giản
thể. Luận văn Thạc sĩ Đại học Tunku Abdul
Rahman.
叶晓薇. (2013).《现代简化字研究》拉曼大学
中华研究院.
Đặng Tuyết Cầm. (1999). Suy nghĩ lại về lịch sử
quy phạm Giản thể chữ Hán. Báo khoa học Triết
học xã hội, Kỳ 4, năm 1999.
邓雪琴. 关于汉子简化规范化的历史回顾与思.
考.哲学社会科学报, 第4期, 1999.
Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương chủ biên.
(2011). Từ điển Hán –Việt. Bắc Kinh: Thương vụ
Ấn thư quán.
侯寒江,主编. (2011).汉越词典. 北京:商务
印书馆.
Hoàng Bái Vinh. (2009). Lý luận và Thực tiễn dạy
học chữ Hán. Đài Bắc: Nhà xuất bản Lạc Học.
黄培荣.(2009).汉字教学的理论与实践. 台北
:乐学书局有限公司.
Lưu Hựu Tân. (1998). Một số vấn đề về lịch sử
phát triển chữ Hán. Tạp chí Xây dựng Ngữ văn,
Kỳ 12, năm 1998.
刘又辛.关于汉子发展史的几个问题. 语文建设,
1998,第12期.
Lưu Dung. (2017). Chữ Hán có ý nghĩa – Vui học
chữ Hán cùng với gia đình Lưu Dung. Đài Bắc:
Nhà xuất bản Liên hợp Văn học.
刘墉.(2017).汉字有意思!跟着刘墉一家趣
味玩汉字. 台北:联合文学出版社.
Lý Lạc Nghị. (1997). Tìm về cội nguồn chữ Hán.
Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.
Lý Hiếu Định. (1997). Luận về khởi nguồn và
diễn biến của chữ Hán. Đài Bắc: Liên kinh Xuất
bản Sự nghiệp Công ty.
李孝定. (1997). 字的起源与演变论丛. 台北:
联经出版事业公司.
Mathews’ Chinese – English Dictionary. (1971).
Massachusets: Harward University Press, Ninth
Printing.
Thiểu Chửu. (2002). Hán - Việt Từ Điển. TP.
HCM: Nhà xuất bản TP. HCM.
Tô Bồi Thành. (2003). Xem xét lại quá trình giản
hóa chữ Hán. Tạp chí Khoa học Đại học Bắc
Kinh, Quyển 40, tháng1. 2003.
苏培成. (2003).重新审视简化字. 北京大学学
报, 第40卷, 第1期.
Trần Quang Nghiêu. (1956). Nghiên cứu chữ Hán
Giản thể. Bắc Kinh: Trung Hoa Thư Cục.
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 21 – 31
31
陈光尧. (1956). 简化汉字字体说明. 北京:中华
书局.
Trần Văn Chánh. (2005). Từ điển Hán – Việt. TP.
HCM: Nhà xuất bản Trẻ.
Vương Lập Quân, Vương Hiểu Minh, Ngô Kiến.
(2013). Mối quan hệ tương ứng Giản – Phồn và
chuyển đổi Giản – Phồn. Tạp chí Khoa học Thông
tin Trung văn, Quyển 27, Kỳ 4.
王立军,王晓明,吴建.(2013).简繁对应关系
与简繁转换. 中文信息学报, 第27卷, 第4期。
Vương Ninh. (2007). Xây dựng nguyên tắc
chuyển đổi Phồn – Giản thể chữ Hán trên cơ sở
cân bằng kho ngữ liệu. Ứng dụng Ngôn ngữ Văn
tự, Quyển 4, 11/2007.
王宁.(2007). 基于简繁汉字转换的平衡语料库
建设原则. 语言文字应用,第4期,11月2006年
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1566294590_03_vo_thi_minh_phung_xpdf_8194_2189581.pdf