Tài liệu Chóng mặt do nguyên nhân tổn thương thần kinh trung ương: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 134
CHÓNG MẶT DO NGUYÊN NHÂN TỔN THƯƠNG
THẦN KINH TRUNG ƯƠNG
Phạm Tiến Phương*, Cao Phi Phong**
TÓM TẮT
Mở đầu: Chóng mặt là một trong những nguyên nhân thường gặp tại phòng cấp cứu. Việc chẩn đoán chóng
mặt trung ương đòi hỏi các bác sĩ phải nắm vững các đặc điểm chóng mặt trung ương.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, nguyên nhân và vị trí tổn thương chóng mặt
trung ương.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, mẫu nghiên cứu gồm 109 bệnh nhân được
chẩn đoán chóng mặt do nguyên nhân tổn thương thần kinh trung ương tại khoa Bệnh lý mạch máu não và khoa
Nội thần kinh tổng quát bệnh viện Nhân dân 115 từ tháng 12/2015 đến tháng 4/2016. Tất cả bệnh nhân được hỏi
bệnh sử, khám lâm sàng và khảo sát hình ảnh học CT và/hoặc MRI sọ não. Các số liệu được xử lý thống kê bằng
phần mềm EXCEL 2007 và SPSS 22.
Kết quả: Chóng mặt trung ương thường gặp ở...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chóng mặt do nguyên nhân tổn thương thần kinh trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 134
CHÓNG MẶT DO NGUYÊN NHÂN TỔN THƯƠNG
THẦN KINH TRUNG ƯƠNG
Phạm Tiến Phương*, Cao Phi Phong**
TÓM TẮT
Mở đầu: Chóng mặt là một trong những nguyên nhân thường gặp tại phòng cấp cứu. Việc chẩn đoán chóng
mặt trung ương đòi hỏi các bác sĩ phải nắm vững các đặc điểm chóng mặt trung ương.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, nguyên nhân và vị trí tổn thương chóng mặt
trung ương.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, mẫu nghiên cứu gồm 109 bệnh nhân được
chẩn đoán chóng mặt do nguyên nhân tổn thương thần kinh trung ương tại khoa Bệnh lý mạch máu não và khoa
Nội thần kinh tổng quát bệnh viện Nhân dân 115 từ tháng 12/2015 đến tháng 4/2016. Tất cả bệnh nhân được hỏi
bệnh sử, khám lâm sàng và khảo sát hình ảnh học CT và/hoặc MRI sọ não. Các số liệu được xử lý thống kê bằng
phần mềm EXCEL 2007 và SPSS 22.
Kết quả: Chóng mặt trung ương thường gặp ở bệnh nhân nam (64,5%), tuổi trung bình 61,5 ± 12,22, có ít
nhất một yếu tố nguy cơ mạch máu (98,2%). Kiểu chóng mặt thường gặp là xoay tròn (47,3%) và mất thăng
bằng (42,7%). Đa phần xảy ra cấp, diễn tiến đột ngột (99,1%), kéo dài trên 24 giờ (67,9%), xảy ra lúc đang ngồi
không (33,9%) hoặc mới ngủ dậy (30,3%), không liên quan tư thế (86,2%), cường độ nhẹ (57,8%), không có cơn
tương tự trước đó (91,7%). Đa phần có dấu thần kinh khu trú (82,6%), gặp ở tổn thương thân não nhiều hơn
tiểu não (p=0,001). Test lắc đầu ngang bình thường (97,2%), test lệch nghiêng dương tính (36,7%), nystagmus
ngang đánh hai bên (24,8%), nystagmus dọc hoặc xoay thuần túy (3,7%), và HINTS test dương tính trong tất cả
trường hợp. Nguyên nhân tổn thương thường gặp là nhồi máu não (74,3%), xuất huyết não (24,8%). Vị trí tổn
thương thường gặp là thân não (53,2%) và tiểu não (44%).
Kết luận: Chúng tôi nhận thấy việc thăm khám các dấu hiệu thần kinh khu trú, và sử dụng HINTS test sẽ
giúp định hướng chẩn đoán chóng mặt trung ương.
Từ khóa: chóng mặt trung ương, kiểu chóng mặt, dấu hiệu thần kinh, HINTS test
ABSTRACT
DIZZINESS DUE TO CENTRAL LESIONS
Pham Tien Phuong, Cao Phi Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 134 - 138
Background: Dizziness is one of the most common causes at the emergency department. Diagnosis of central
dizziness requires physicians to know the characteristics of dizziness due to central lesions.
Objective: To study the clinical manifestations, neuroimaging, causes and lesions of central dizziness.
Subjects and Methods: Case series of 109 patients with the diagnosis of dizziness due to central lesions
hospitalized in the departments of neurology and cerebral vascular diseases of People’s hospital 115 from
December 2015 to April 2016.
Results: Central dizziness is common in male patients (64.5%), with average age 61.5 ± 12.2, and at least
one vascular risk (98.2%). Common dizziness types are vertigo (47.3%) and imbalance (42.7%). Most of them are
*Bệnh viện Xuyên Á, **Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Phạm Tiến Phương ĐT: 0986545326 Email:drphamtienphuong@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 135
acute and sudden (99.1%), over 24 hours (67.9%), happen when sitting (33.9%) or getting up (30.3%), not
associated with positions (86.2%), but with mild intensity (57.8%), without another previous rise (91.7%). Most
of them have focal neurologic signs (82.6%) which are more common at the brainstem than the cerebellum
(p=0.001). There are 97.2% patients with normal head impulse test, 36.7% patients with positive test of skew
deviation, 24.8% patients with direction-changing horizontal nystagmus, 100% patients with positive HINTS
test. The common causes are cerebral infarction (74.3%) and cerebral hemorrhage (24.8%). The lesions are
common at brainstem (53.2%) and cerebellum (44%).
Conclusions: We conclude that finding the focal neurologic signs and using HINTS test are useful to
diagnose the causes of dizziness.
Keywords: central dizziness, dizziness types, neurologic signs, HINTS test
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chóng mặt là một triệu chứng thường gặp
tại các phòng khám đa khoa, thần kinh và tai
mũi họng, đồng thời cũng là một trong những
nguyên nhân thường gặp khiến BN phải nhập
viện cấp cứu. Chóng mặt ảnh hưởng đến 20%
đến 30% dân số chung(1).
Nguyên nhân thường gặp nhất của chóng
mặt là các rối loạn tiền đình ngoại biên. Tuy
nhiên, trong tiếp cận chẩn đoán, cần loại trừ các
nguyên nhân chóng mặt do tổn thương thần
kinh trung ương bao gồm bệnh lý mạch máu
não, xơ cứng rải rác, u vùng hố sau, bệnh lý thoái
hóa thần kinh. Đây là các nguyên nhân thường
trầm trọng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng
và cần xử trí cấp cứu.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chóng mặt
chỉ tập trung vào chóng mặt ngoại biên, chủ yếu
là chóng mặt tư thế kịch phát lành tính. Còn
chóng mặt trung ương chỉ dừng lại trong nghiên
cứu trên các nhóm bệnh lý như tai biến mạch
máu não hố sau(5).
Việc chẩn đoán chóng mặt, đặc biệt là chóng
mặt trung ương đòi hỏi người thầy thuốc cần
nắm vững các đặc điểm chóng mặt trung ương.
Đó là các dấu hiệu cảnh báo quan trọng các bệnh
lý thần kinh trung ương đe dọa tính mạng.
Nhưng các đặc điểm lâm sàng chóng mặt do tổn
thương thần kinh trung ương chưa được khảo
sát một cách đầy đủ và có hệ thống.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu: BN chóng mặt do
nguyên nhân tổn thương thần kinh trung ương
nhập khoa Nội thần kinh tổng quát và khoa
Bệnh lý mạch máu não bệnh viện Nhân dân 115
trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2015
đến tháng 4 năm 2016.
Tiêu chuẩn chọn vào
Có triệu chứng chóng mặt.
Được chẩn đoán nguyên nhân tổn thương
thần kinh trung ương có thể gây ra chóng mặt
dựa trên lâm sàng và hình ảnh học.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN có suy giảm ý thức GCS<15 điểm.
BN sa sút trí tuệ nặng, mất ngôn ngữ.
BN có chấn thương cột sống cổ, phẫu thuật
cột sống cổ, bệnh lý tủy cổ hay bệnh lý rễ cổ.
BN có tiền căn chấn thương sọ não trong
vòng 1 tháng trước nhập viện.
BN có thai.
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca. Nghiên cứu được tiến
hành từ tháng 12/2015 đến tháng 4/2016 tại khoa
Thần kinh tổng quát và khoa Bệnh lý mạch máu
não bệnh viện Nhân dân 115.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 136
KẾT QUẢ
Tổng cộng có 109 BN tham gia nghiên cứu,
bao gồm 78 (64,5%) nam, 38 (34,5%) nữ. Tuổi
trung bình 61,5 ± 12.22, từ 33 đến 94 tuổi.
Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ mạch máu.
Yếu tố nguy cơ mạch máu Tỉ lệ (%)
(n=109)
Tăng huyết áp 90,8
Đái tháo đường 25,7
Tăng lipid máu 40,4
Hút thuốc lá 13,6
Uống rượu 11,9
Xuất huyết não 2,8
Nhồi máu não 13,8
Bệnh lý tim mạch 6,4
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 2 (1,8%)
BN không có yếu tố nguy cơ mạch máu nào, 40
(36,7%) BN có 1 yếu tố nguy cơ mạch máu, 34
(31,2%) BN có 2 yếu tố nguy cơ mạch máu, 19
(17,4%) BN có 3 yếu tố nguy cơ mạch máu, 11
(10,1%) BN có 4 yếu tố nguy cơ mạch máu, 3
(2,8%) BN có đủ 5 yếu tố nguy cơ mạch máu.
Bảng 2: Đặc điểm triệu chứng cơ năng.
Triệu chứng cơ năng Tỉ lệ (%)
(n=109)
Kiểu chóng mặt Xoay tròn 47,7
Mất thăng bằng 43,1
Tiền ngất 0,9
Không đặc hiệu 8,3
Khoảng thời gian < 1 phút 5,5
1 phút - < 1 giờ 12,8
1 giờ - < 24 giờ 10,1
≥ 24 giờ 71,6
Khởi phát cấp – diễn tiến đột ngột 99,1
Có liên quan với tư thế 13,8
Cường độ chóng mặt Nặng 12,8
Trung bình 29,4
Nhẹ 57,8
Tiền căn chóng mặt 8,3
Triệu chứng cơ năng
kèm theo
Buồn nôn 68,8
Nôn 62,4
Đi chao đảo 67,9
Đau đầu 57,8
Ù tai 19,3
Phần lớn xảy ra vào buổi sáng từ 4 giờ đến 8
giờ (49,5%), kế đến là buổi chiều tối từ 16 giờ đến
22 giờ (29,4%). Hoàn cảnh khởi phát thường gặp
nhất là khi ngủ dậy (30,3%), và ngồi không
(33,9%). Bảng 2 mô tả đặc điểm triệu chứng cơ
năng chóng mặt và bảng 3 mô tả đặc điểm dấu
hiệu lâm sàng chóng mặt.
Bảng 3: Đặc điểm dấu hiệu lâm sàng.
Dấu hiệu lâm sàng Tỉ lệ (%)
(n=109)
Dấu hiệu thần
kinh khu trú
Nói khó 41,3
Nuốt khó 4,6
Liệt vận nhãn 11,9
Liệt mặt 31,2
Yếu liệt nửa người 34,9
Hội chứng Horner 4,6
Thất điều chi 35,8
Thất điều trục thân 15,6
Mất cảm giác chéo 1,8
Mất cảm giác nửa người 10,1
Chóng mặt đơn độc 17,4
Test lắc đầu ngang Bất thường 2,8
Bình thường 97,2
Test lệch nghiêng Dương tính 34,9
Âm tính 65,1
Nystagmus Ngang 46,8
Dọc hoặc xoay 3,8
Không 49,5
Các phương tiện hình ảnh học được khảo sát
lần lượt là: CT Scan sọ não 97 (89%), MRI sọ não
45 (41,3%). Trong 97 trường hợp được khảo sát
CT Scan sọ não có 76 trường hợp có tổn thương
(78,4%).Tất cả 45 BN được chụp MRI sọ não đều
có tổn thương.
Các nguyên nhân chóng mặt được ghi nhận
như sau: nhồi máu não 81 (74,3%), xuất huyết
não 27 (24,8%), bệnh lý hủy myelin 1 (0,9%).
Vị trí tổn thương được ghi nhận như sau:
thân não 58 (53,2%), tiểu não 48 (44%), đồi thị 2
(1,8%), nhiều ổ 1 (0,9%).
Tổn thương tiểu não gây ra buồn nôn
(p<0,001), nôn (p=0,001) và đau đầu (p=0,001)
nhiều hơn tổn thương thân não. Không có mối
liên quan giữa các đặc điểm khác và vị trí tổn
thương (p>0,05). Dấu hiệu thần kinh khu trú
xuất hiện ở tổn thương thân não nhiều hơn so
với tổn thương tiểu não (p=0,002). Điều đó có
nghĩa là chóng mặt đơn độc xuất hiện ở tổn
thương tiểu não nhiều hơn thân não. Tổn thương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 137
tiểu não gây ra nystagmus đánh ngang hai bên
nhiều hơn tổn thương thân não (p=0,033).
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
chóng mặt trung ương thường gặp ở nam giới
hơn nữ giới, và tuổi trung bình khá cao, kết
quả này cũng tương tự với các nghiên cứu
khác(2,3). Hầu hết BN trong nghiên cứu của
chúng tôi có ít nhất một yếu tố nguy cơ mạch
máu, đây là yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch
máu não, nguyên nhân thường gặp nhất của
chóng mặt trung ương.
Kiểu chóng mặt trong nghiên cứu của chúng
tôi thường gặp nhất là kiểu xoay tròn (47,7%), và
tỉ lệ này là 18/53 BN trong nghiên cứu của
Kerber(3), 53% trong nghiên cứu của Ozono(10).
Chóng mặt kiểu mất thăng bằng, theo kinh điển
gợi ý căn nguyên tổn thương thần kinh trung
ương, trong nghiên cứu chúng tôi, vẫn chiếm tỉ
lệ cao 43,1%, nhưng thấp hơn chóng mặt kiểu
xoay tròn. Hầu hết các nghiên cứu đều cho tỉ lệ
chóng mặt kiểu mất thăng bằng khá cao(3). Mặc
dù vậy, việc dùng phân loại kiểu chóng mặt để
chẩn đoán có độ nhạy không cao. Hơn nữa, việc
sử dụng thuật ngữ đòi hỏi bệnh nhân phải hiểu
rõ để mô tả kiểu chóng mặt. Ở các quốc gia khác
nhau, vấn đề ngôn ngữ được sử dụng khác nhau
nên các từ ngữ BN sử dụng cần sự tham chiếu
với thuật ngữ chuyên ngành. Để làm được việc
đó có lẽ cần một nghiên cứu lớn hơn, có nhóm
chứng tiến hành tại Việt Nam.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận các đặc
điểm của chóng mặt trung ương như sau: đa số
cường độ chóng mặt nhẹ, khởi phát cấp, đột
ngột, vào buổi sáng, lúc đang ngồi không hoặc
mới ngủ dậy, kéo dài trên 24 giờ, không liên
quan với tư thế. Các triệu chứng kèm theo
thường gặp là: buồn nôn, nôn, đi chao đảo, đau
đầu và ù tai. Trong đó, buồn nôn, nôn và đau
đầu thường gặp ở tổn thương tiểu não hơn thân
não. Điều này có lẽ liên quan đến vai trò của tiểu
não trong việc điều hòa con đường tiền đình – tự
động và tổn thương tiểu não thường lớn hơn, tạo
hiệu ứng khối gây tăng áp lực nội sọ nhiều hơn,
gây ra đau đầu nhiều hơn.
Triệu chứng thần kinh khu trú thường gặp
tổn thương thân não hơn tổn thương tiểu não.
Điều đó có nghĩa là các trường hợp chóng mặt
đơn độc lại gặp chủ yếu trong tổn thương tiểu
não, đặc biệt là vùng phân bố PICA. Nghiên cứu
của Mosarrezai ghi nhận chóng mặt đơn độc ở
9,1% BN nhồi máu tiểu não(8). Nghiên cứu của
Lee ghi nhận có 24/25 BN chóng mặt đơn độc do
nhồi máu tiểu não theo phân nhánh PICA(6). Có
thể giải thích bởi nhân nút và lưỡi gà được chi
phối bởi PICA đóng vai trò quan trọng trong tiểu
não tiền đình, và các dấu hiệu tiểu não rất khó
nhận biết hoặc vắng mặt khi nhồi máu PICA,
đặc biệt là nhồi máu nhỏ(7).
Test lắc đầu ngang bình thường ở 106
(97,2%) BN, bất thường ở 3 (2,8%) BN. Trong 3
BN test lắc đầu ngang bất thường, có 2 BN nhồi
máu cuống tiểu não giữa thuộc vùng phân bố
AICA, và 1 BN xuất huyết tiểu não. Tuy nhiên cả
3 BN đều có thất điều chi, lệch nghiêng dương
tính, do đó đều có thể dễ dàng chẩn đoán chóng
mặt trung ương. Việc test lắc đầu ngang bất
thường gặp trong nhồi máu AICA có thể giải
thích bởi AICA cho nhánh động mạch thính giác
trong cung cấp máu cho tiền đình ngoại biên.
Chúng tôi ghi nhận có 38 (34,9%) BN có test
lệch nghiêng dương tính. Trong đó, lệch nghiêng
dương tính có mối liên quan với tổn thương
hành não bên hơn so với các vị trí khác (80% so
với 30,3%; p=0,003). Điều này đã từng được báo
cáo bởi nghiên cứu của Kattah với kết quả test
lệch nghiêng dương tính ở 4% (1/24) tổn thương
tiểu não đơn thuần, 30% (15/50) thân não và cho
thấy có mối liên quan với tổn thương thân não
(p=0,003)(2). Việc tổn thương hành não, cầu não
gây ra test lệch nghiêng dương tính có thể được
giải thích bởi sự gián đoạn con đường soan nang
– vận nhãn.
Kiểu nystagmus thường gặp nhất là
nystagmus đánh ngang hai bên (n=27; 24,8%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 138
Kiểu nystagmus này còn được gọi là nystagmus
ngang đổi hướng khi liếc nhìn bên. Trong
nghiên cứu của Kattah, tỉ lệ nystagmus đánh
ngang hai bên là 21,7%. Nghiên cứu của chúng
tôi ghi nhận tổn thương tiểu não gây ra
nystagmus đánh ngang hai bên nhiều hơn tổn
thương thân não có ý nghĩa thống kê (p=0,033).
Nghiên cứu của Kim và cộng sự cũng ghi nhận tỉ
lệ nystagmus đánh ngang hai bên khá cao trong
nhồi máu tiểu não với 9/18 BN so với nhồi máu
thân não 1/4 BN(4).
HINTS test là phương pháp khám lâm
sàng ba bước bao gồm: test lắc đầu ngang,
nystagmus và test lệch nghiêng. HINTS test
dương tính khi test lắc đầu ngang bình
thường, hoặc nystagmus đánh ngang hai bên,
hoặc test lệch nghiêng dương tính. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, test lệch nghiêng
dương tính trong 100% trường hợp.
Nguyên nhân thường gặp trong nghiên cứu
của chúng tôi là nhồi máu não (74,3%) và xuất
huyết não (24,8%) và chỉ có 1 (0,9%) BN xơ cứng
rải rác. Nhồi máu não tuần hoàn sau luôn là
nguyên nhân thường gặp nhất trong hầu hết các
nghiên cứu. Tuy nhiên, tỉ lệ xuất huyết não khá
thấp trong nghiên cứu của Kattah (5,3%)(2), Navi
(1%)(9) và Vanni (7,1%)(11), trong khi lại khá cao
trong nghiên cứu của chúng tôi (24,8%) và của
Ozono (26,7%)(10). Có thể giải thích điều này vì
mô hình bệnh tật khác nhau giữa các nước, trong
đó tỉ lệ xuất huyết não khá cao ở các quốc gia
châu Á so với châu Âu và Bắc Mỹ.
Vị trí tổn thương thường gặp là tiểu não và
thân não. Đây là các vị trí quan trọng trong tiền
đình trung ương. Đây cũng là các vị trí thường
gặp trong hầu hết các nghiên cứu (2,10,11).
KẾT LUẬN
Chóng mặt do tổn thương thần kinh trung
ương có rất nhiều đặc điểm dễ chẩn đoán lầm
với chóng mặt ngoại biên, đặc biệt là các trường
hợp chóng mặt đơn độc. Do đó việc khảo sát đòi
hỏi cần hỏi bệnh sử, tiền căn kĩ càng, thăm khám
đầy đủ, đặc biệt là các dấu hiệu thần kinh khu
trú. Khi hỏi bệnh sử cần tập trung vào các yếu tố
nguy cơ mạch máu, kiểu khởi phát, diễn tiến,
khoảng thời gian chóng mặt, liên quan đến tư
thế và các triệu chứng đi kèm, thay vì chỉ tập
trung vào kiểu chóng mặt. Bên cạnh việc chú ý
các dấu hiệu thần kinh khu trú, việc sử dụng
HINTS test (test lắc đầu ngang, nystagmus đánh
ngang hai bên và test lệch nghiêng), có độ nhạy
và độ đặc hiệu cao, sẽ góp phần trong việc chẩn
đoán, nhất là những trường hợp chóng mặt đơn
độc, không có dấu thần kinh khu trú.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Della-Morte D, Rundek T (2012). Dizziness and vertigo. Front
Neurol Neurosci, 30, pp. 22-25.
2. Kattah JC, et al (2009) HINTS to diagnose stroke in the acute
vestibular syndrome: three-step bedside oculomotor
examination more sensitive than early MRI diffusion-weighted
imaging. Stroke 40(11), pp. 3504-3510.
3. Kerber KA, Brown DL, Lisabeth LD, Smith MA, Morgenstern
LB (2006). Stroke among patients with dizziness, vertigo, and
imbalance in the emergency department: a population-based
study. Stroke, 37(10), pp. 2484-2487.
4. Kim HA, Yi HA, Lee H (2015). Recent Advances in Cerebellar
Ischemic Stroke Syndromes Causing Vertigo and Hearing Loss.
Cerebellum, pp. 1-8.
5. Lê Tự Phương Thảo (2006), Nghiên cứu tương quan lâm sàng,
hình ảnh học, tiên lượng của nhồi máu não tuần hoàn sau, Luận văn
Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. HCM.
6. Lee H (2014). Isolated vascular vertigo. J Stroke, 16(3), pp. 124-
130.
7. Lee H, Sohn SI, Cho YW, et al (2006). Cerebellar infarction
presenting isolated vertigo: frequency and vascular
topographical patterns. Neurology, 67(7), pp. 1178-1183.
8. Mosarrezai A, Toghae M, Majed M, Aloosh M (2012). Isolated
vertigo and possibility of brain ischemia. Arch Iran Med, 15(8),
pp. 469-471.
9. Navi BB, Kamel H, Shah MP, et al (2012). Rate and predictors
of serious neurologic causes of dizziness in the emergency
department. Mayo Clin Proc, 87(11), pp. 1080-1088.
10. Ozono Y, Kitahara T, et al (2014). Differential diagnosis of
vertigo and dizziness in the emergency department. Acta
Otolaryngol, 134(2), pp. 140-145.
11. Vanni S, Nazerian P, et al (2015). Can emergency physicians
accurately and reliably assess acute vertigo in the emergency
department? Emerg Med Australas, 27(2), pp. 126-131.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chong_mat_do_nguyen_nhan_ton_thuong_than_kinh_trung_uong.pdf