Tài liệu Chính sách “Xoay trục về châu Á” của Mỹ thời kì Tổng thống Barack Obama (2009 – 2016) dưới góc độ kinh tế: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
25
Chính sách “Xoay trục về châu Á”
của Mỹ thời kì Tổng thống Barack Obama
(2009 – 2016) dưới góc độ kinh tế
The US “Pivot to Asia” Policy in the President Barack Obama Period (2009 – 2016)
from an Economic Perspective
TS. Lê Tùng Lâm,
Trường Đại học Sài Gòn
Le Tung Lam, Ph.D.,
Saigon University
Tóm tắt
Đầu thế kỉ XXI, sự trỗi dậy mạnh mẽ của châu Á – Thái Bình Dương và các cường quốc như Ấn Độ,
Trung Quốc đã làm suy giảm vai trò của Mỹ ở đây. Vì thế, Tổng thống Barack Obama thực hiện chính
sách “Xoay trục về châu Á” để tăng cường vai trò của Mỹ ở khu vực này. Trong lĩnh vực kinh tế, Tổng
thống Obama đẩy mạnh hợp tác với các nước trong khu vực thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Khi Tổng thống Obama rời khỏi Nhà trắng, Mỹ đã thành công trong việc thúc đẩy
TPP và đẩy mạnh quan hệ kinh tế với các nước châu Á – Thái Bình Dương. Đây là thắng lợi bước đầu
trong chính s...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách “Xoay trục về châu Á” của Mỹ thời kì Tổng thống Barack Obama (2009 – 2016) dưới góc độ kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
25
Chính sách “Xoay trục về châu Á”
của Mỹ thời kì Tổng thống Barack Obama
(2009 – 2016) dưới góc độ kinh tế
The US “Pivot to Asia” Policy in the President Barack Obama Period (2009 – 2016)
from an Economic Perspective
TS. Lê Tùng Lâm,
Trường Đại học Sài Gòn
Le Tung Lam, Ph.D.,
Saigon University
Tóm tắt
Đầu thế kỉ XXI, sự trỗi dậy mạnh mẽ của châu Á – Thái Bình Dương và các cường quốc như Ấn Độ,
Trung Quốc đã làm suy giảm vai trò của Mỹ ở đây. Vì thế, Tổng thống Barack Obama thực hiện chính
sách “Xoay trục về châu Á” để tăng cường vai trò của Mỹ ở khu vực này. Trong lĩnh vực kinh tế, Tổng
thống Obama đẩy mạnh hợp tác với các nước trong khu vực thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Khi Tổng thống Obama rời khỏi Nhà trắng, Mỹ đã thành công trong việc thúc đẩy
TPP và đẩy mạnh quan hệ kinh tế với các nước châu Á – Thái Bình Dương. Đây là thắng lợi bước đầu
trong chính sách xoay trục của Mỹ thời kì Tổng thống Barack Obama.
Từ khóa: Barack Obama, chính sách “Xoay trục về châu Á”, Mỹ, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP).
Abstract
In the early 21
st
century, the quick rising of the Asia-Pacific and the powers such as India and China has
degraded the US’s roles in this region. Therefore, President Barack Obama implemented the “Pivot to
Asia” policy to strengthen the US’s roles there. In the economic field, President Obama promoted
cooperation with countries in this region through the Trans-Pacific Partnership Agreement (TPP). When
President Obama left the White House, the US had succeeded in promoting TPP and economic relations
with Asia-Pacific countries. This was an initial victory of the US “Pivot to Asia” policy in the President
Barack Obama period.
Keywords: Barack Obama, the “Pivot to Asia” policy, US, Trans-Pacific Partnership Agreement
(TPP).
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai
đến nay, Mỹ luôn là cường quốc số một thế
giới về kinh tế, quân sự. Chính sách đối
ngoại truyền thống của Mỹ vẫn tập trung
chủ lực vào cuộc “chạy đua Đông - Tây”,
cạnh tranh sức mạnh với các nước châu Âu
là chủ yếu. Trong đó, Mỹ tìm cách để hạn
chế sức mạnh của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa. Sau Chiến tranh lạnh, Trật
tự hai cực Yalta tan rã, Liên Xô cũng giải
thể. Để tiếp tục thực hiện âm mưu xây
dựng thế giới “đơn cực”, Mỹ tập trung chủ
CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC VỀ CHÂU Á” CỦA MỸ THỜI KÌ TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
26
lực vào phát triển quan hệ với các nước
châu Âu. Có thể nói, một thời gian khá dài
(từ thập niên 70 của thế kỉ XX đến đầu thế
kỉ XXI), Washington đã “bỏ quên” khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đầu
thế kỉ XXI, chính quyền của Tổng thống
Barack Obama đã triển khai thực hiện một
chiến lược ngoại giao mới - chính sách
Xoay trục về châu Á - Thái Bình Dương.
1. Sự ra đời Chính sách “Xoay trục
về châu Á” của Mỹ
“Xoay trục về châu Á” (Pivot to Asia)
là một thuật ngữ dùng chỉ sự chuyển hướng
trọng tâm chiến lược từ châu Âu về khu
vực châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ
trong thời kì cầm quyền của Tổng thống
Barack Obama. Chiến lược này được đề ra
từ năm 2009 khi Ngoại trưởng Haillary
Clinton tuyên bố tại cuộc họp báo ở Thái
Lan về vấn đề an ninh của khối các quốc
gia ASEAN rằng “Mỹ đã trở lại châu Á”.
Năm 2010, Ngoại trưởng H.Clinton một
lần nữa khẳng định “Tương lai của Mỹ gắn
chặt với tương lai châu Á - Thái Bình
Dương và tương lai của khu vực này phụ
thuộc vào Mỹ” [13, tr.37]. Có thể nói, các
tuyên bố của Ngoại trưởng H.Clinton đã
mở đầu một chiến lược ngoại giao mới của
Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.
Năm 2009, Barack Obama đắc cử và
trở thành Tổng thống thứ 44 của Hợp
Chủng quốc Hoa Kì trong bối cảnh thế giới
và khu vực châu Á - Thái Bình Dương có
rất nhiều biến động. Ở châu Âu, Mỹ phần
nào “thắng lợi” trong cuộc chiến chống chủ
nghĩa xã hội khi Liên Xô tan rã. Tuy nhiên,
khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang
ngày càng trở nên quan trọng với tất cả các
cường quốc trên thế giới.
Châu Á - Thái Bình Dương là một khu
vực gồm các nước châu Á và các nước bao
quanh Thái Bình Dương, với diện tích lục
địa là 44 triệu km2 (chiếm 29,4% diện tích
của thế giới) và số dân hơn 3 tỷ người. Đây
là khu vực rộng lớn và đông dân nhất trên
thế giới. Kinh tế khu vực châu Á - Thái
Bình Dương gần 20 năm nay đã tăng
trưởng khá lớn, tốc độ tăng trưởng bình
quân gấp 3 lần so với châu Âu. Tổng giá trị
sản phẩm quốc dân toàn khu vực châu Á
năm 1965 chiếm tỷ trọng chưa đến 9%
trong tổng sản phẩm quốc dân thế giới, đến
thời kì sau thập niên 80 tăng vọt lên trên
20%. Đến cuối thế kỉ XX, các nước châu Á
chiếm khoảng 35% tổng giá trị sản phẩm
thế giới, sẽ dần bỏ xa Tây Âu (chỉ chiếm
24,6%) và Bắc Mĩ chiếm 18%” [3, tr.254].
Chính vì vậy, từ sau Chiến tranh lạnh, khu
vực này đang ngày càng trở nên quan trọng
trong các chiến lược, chính sách đối ngoại
của Mỹ.
Về mặt vị trí, châu Á - Thái Bình
Dương có vị trí đặc biệt quan trọng về mặt
kinh tế lẫn chính trị vì tiếp giáp các đại
dương, kết nối các châu lục và là cửa ngõ
nối liền một số nước lớn như Mỹ, Trung
Quốc, Nga, với thế giới. Đây cũng là
khu vực có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt rất
lớn, đồng thời cũng là nơi diễn ra sự trỗi
dậy kinh tế của nhiều nước. Chính vì vậy,
châu Á cũng là nơi tập trung nhiều mâu
thuẫn về lợi ích và cạnh tranh vai trò, ảnh
hưởng của các nước lớn.
Châu Á còn là khu vực phát triển năng
động nhất trong mấy thập kỉ gần đây, đặc
biệt là sau Chiến tranh lạnh. “Nếu tính
chung cả khu vực, thì từ năm 2002 đến
năm 2008, châu Á đạt mức tăng trưởng
kinh tế bình quân hằng năm là 5,0% (tính
theo giá trị tuyệt đối USD theo thời giá) và
6,1% (tính theo PPP - giá trên cơ sở sức
mua)” [5, tr.68]. Rõ ràng, sự năng động của
khu vực châu Á - Thái Bình Dương có
phần trái ngược với sự phát triển “chậm
LÊ TÙNG LÂM
27
chạm” và thiếu ổn định của châu Âu trong
thập niên đầu thế kỉ XXI. Sức mạnh tài
chính của châu Á sau hai thập niên phát
triển gần đây đang vượt qua khả năng tài
chính của Mỹ và châu Âu, vốn đang chìm
trong khủng hoảng. Chính điều này đã góp
phần nâng cao ảnh hưởng chính trị cho
châu Á trên trường quốc tế. Điều này đã
thu hút sự quan tâm của các cường quốc
đối với khu vực này.
Mặt khác, vai trò của Trung Quốc
trong khu vực cũng đang ngày càng được
mở rộng và nâng cao hơn. Trung Quốc
đang dần nổi lên như một “thế lực mới” ở
phương Đông. Năm 2003, Trung Quốc trở
thành nước thu hút đầu tư nhiều nhất trên
thế giới với 57,24 tỷ USD” [4, tr.19]. Đồng
thời, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở
thành nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ hai thế
giới sau Mỹ. Theo đánh giá của cơ quan
năng lượng quốc tế (IEA), “đến năm 2020,
80% nhu cầu dầu của Trung Quốc sẽ phải
dựa vào nhập khẩu” [4, tr.24]. Do đó,
Trung Quốc đang tìm cách đa dạng hóa
nguồn cung cấp nhiên liệu. Ngoài khu vực
Trung Đông, Trung Quốc cũng hi vọng vào
nguồn dầu mỏ của Nga và các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á. Nếu không có
sự điều chỉnh cơ cấu phù hợp đảm bảo an
ninh năng lượng và nguồn cung đầu vào
nói chung sẽ rất khó bảo đảm được xu
hướng phát triển cao ổn định. Vì vậy,
Trung Quốc đang ngày càng tăng cường
ảnh hưởng của mình trong khu vực Đông
Nam Á. Đặc biệt, Trung Quốc đã phát triển
rất nhanh và trở thành “chủ nợ” lớn nhất
của Mỹ. Trung Quốc đang có nhiều hành
động để tăng cường vị thế của họ tại khu
vực. Vì thế, Mỹ rất quan ngại và cho rằng
“Trung Quốc là mối thách thức lớn nhất
đối với những lợi ích an ninh của Hoa Kì ở
châu Á” [1]. Đây là một thách thức thực sự
đối với chính quyền B.Obama.
Ngược lại, Barack Obama lên cầm
quyền trong lúc nước Mỹ đang phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn. Theo thống kê
do Bộ Tài chính, đến tháng 6-2012, Ngân
sách Mỹ đang thâm hụt nghiêm trọng và
các khoản nợ nước ngoài cũng đang tăng
gấp đôi chỉ trong vòng vài năm. Lượng trái
phiếu kho bạc Mỹ do các chủ nợ nước
ngoài nắm giữ đã lên tới 5,3 nghìn tỷ USD,
trong đó Trung Quốc nắm giữ 1.164,3 tỷ
USD và Nhật Bản nắm giữ 1.119,3 tỷ USD
[17]. Đến tháng 7-2013, Trung Quốc và
Nhật Bản trở thành “chủ nợ” nước ngoài
lớn nhất của Mỹ khi nắm giữ tổng cộng
gần 2.500 tỷ USD trái phiếu Chính phủ [9].
Chính những nhân tố này làm cho vị thế
của Mỹ trên trường quốc tế bị suy giảm và
vai trò của Mỹ tại châu Á - Thái Bình
Dương bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, chính quyền
Obama phải có những chính sách cụ thể,
cần thiết để có thể gia tăng ảnh hưởng và
củng cố vai trò của Mỹ ở khu vực đầy năng
động này. Từ ngày 12-1 đến ngày 20-1-
2010, Ngoại trưởng Hoa Kì - Hillary
Rodham Clinton tiến hành chuyến công du
đến một số nước châu Á nhằm tranh thủ sự
ủng hộ của các nước trong khu vực. Trong
thông điệp đầu tiên tại Honolulu (Hawaii),
Ngoại trưởng H.Clinton nhấn mạnh rằng
“người Mỹ đã quay trở lại khu vực này” và
khu vực châu Á - Thái Bình Dương là ưu
tiên hàng đầu của Mỹ, “tương lai của Mỹ
gắn chặt với tương lai khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, tương lai khu vực này
phụ thuộc vào Mỹ” [13, tr.37]. Phát biểu
của Ngoại trưởng H.Clinton đã thể hiện rõ
quan điểm trong chiến lược ngoại giao của
Mỹ là gia tăng vai trò ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương. Vì thế, giới cầm quyền
Mỹ bắt đầu đề ra và thực hiện chính sách
CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC VỀ CHÂU Á” CỦA MỸ THỜI KÌ TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
28
“Xoay trục về châu Á”.
Chính sách “Xoay trục về châu Á”
(Pivot to Asia) hoặc chính sách “Tái cân
bằng” (Rebalancing) là một thuật ngữ được
các nhà khoa học và các nhà hoạch định
chính sách của Mỹ dùng để chỉ quá trình
chính phủ đẩy mạnh can dự và sự hiện diện
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương để
củng cố và tăng cường các lợi ích của Mỹ
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và quân
sự. Theo đó, chính sách xoay trục gồm bốn
trụ cột chính là: “thắt chặt quan hệ với các
đồng minh truyền thống, phát triển quan hệ
đối tác với các trung tâm quyền lực đang
nổi lên, hình thành mối quan hệ mang tính
xây dựng với Trung Quốc, và tích cực
tham gia các cơ chế đa phương” [8]. Sự
quan tâm hàng đầu của Tổng thống Obama
là thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ với
đồng minh lâu đời của Mỹ ở châu Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước Đông
Nam Á Đồng thời, Mỹ phải mở rộng các
quan hệ với những nước đang phát triển
mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, Australia...
Trong đó, nội dung trọng tâm là phát triển
các mối quan hệ kinh tế với các nước.
2. “Xoay trục về kinh tế” đối với
châu Á - Thái Bình Dương của chính quyền
Brack Obama
Sự trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế của
một số cường quốc trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương như Trung Quốc, Ấn Độ,
Australia đã ảnh hưởng không nhỏ đến
chính sách đối ngoại của Mỹ. Vì thế, chính
quyền Obama đã có nhiều hoạt động đẩy
mạnh quan hệ hợp tác về kinh tế với các
nước trong khu vực, kể cả đối với Trung
Quốc.
Đối với khu vực Đông Bắc Á
Đông Bắc Á gồm những nước là
“đồng minh tin cậy” của Mỹ như Nhật
Bản, Hàn Quốc và một thách thức mới của
Mỹ là Trung Quốc. Tổng thống Obama rất
quan tâm đến an ninh chính trị và sự phát
triển kinh tế của khu vực này. Từ ngày 23-
4 đến ngày 29-4-2014, Tổng thống
B.Obama đã đến các nước Đông Bắc Á
như Nhật Bản, Hàn Quốc để tái khẳng định
chiến lược “ái cân bằng” của Washington
tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trong chuyến công du này, Tổng thống
Obama hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản -
Shinzo Abe và Tổng thống Hàn Quốc -
Park Geun-hye, nhằm thảo luận về các biện
pháp tăng cường quan hệ đồng minh, cũng
như các vấn đề khu vực mà các bên quan
tâm, như tranh chấp Hoa Đông và nguy cơ
hạt nhân Triều Tiên. Tổng thống Obama và
những người đứng đầu Nhật Bản, Hàn
Quốc chú trọng đến tiến trình đàm phán
của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) mà Mỹ và các nước đang
thực hiện. Trong đó, các bên đều chú trọng
đến quá trình hình thành một thị trường
chung cho các nước. Hoa Kì chú trọng đến
lợi ích cơ bản của họ trên các lĩnh vực như:
sự ổn định chính trị, tự do thương mại, thúc
đẩy dân chủ - nhân quyền để gia tăng vị thế
của Mỹ ở đây.
Đối với Trung Quốc
Sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung
Quốc trong thập niên đầu thế kỉ XXI mang
đến sự quan ngại của các nước trong khu
vực và cả trên thế giới. Các cường quốc
châu Âu cùng Mỹ, Ấn Độ đều lo lắng trước
sự bành trướng mạnh mẽ của Bắc Kinh
không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi, Mĩ
Latin. Đối với Trung Quốc, chính quyền
của Tổng thống Obama có hai tiếp cận: 1-
tái khẳng định và củng cố quan hệ hợp tác;
2- thiết lập một sự hiện diện mạnh mẽ và
đáng tin cậy của Mỹ ở châu Á để khuyến
khích hành vi mang tính xây dựng của
Trung Quốc cũng như cung cấp sự tự tin
LÊ TÙNG LÂM
29
cho các nhà lãnh đạo khu vực của Trung
Quốc [7, tr.54-55]. Tuy nhiên, trong bối
cảnh “trở lại châu Á”, Mỹ đã chú trọng
hướng thứ hai hơn.
Trong cuộc gặp gỡ tại Nhà Trắng hồi
tháng 2-2012 với Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình, Tổng thống Barack Obama đã
khéo léo cân bằng giữa hai hướng để tránh
xung đột với “gã khổng lồ” châu Á. Tổng
thống Obama đưa ra khẳng định để Mỹ
tăng cường các mối quan hệ trong khu vực,
thúc đẩy thượng mại và trở thành “một đối
tác mạnh mẽ và hiệu quả với khu vực châu
Á - Thái Bình Dương” quan trọng là có
một mối quan hệ mạnh mẽ và hiệu quả đối
với Trung Quốc” [7, tr.55]. Rõ ràng, Tổng
thống Obama hiểu được vị trí và vai trò của
Trung Quốc ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Mặt khác, trong xu thế toàn cầu
hóa, sự khác biệt về hệ thống chính trị
không còn giữ vai trò quyết định, Tổng
thống Obama tìm cách để tăng cường vị
thế kinh tế của Mỹ trên thế giới. Do đó,
Tổng thống Obama đã nhấn mạnh “Hoa Kì
luôn luôn hoang nghênh sự trỗi dậy hòa
bình của Trung Quốc, tin rằng một Trung
Quốc mạnh mẽ và thịnh vượng có thể giúp
mang lại sự ổn định và thịnh vượng cho
khu vực và thế giới” [7, tr.55]. Washington
nhận thấy sự phát triển của Bắc Kinh trong
hòa bình là một điều kiện cần thiết cho sự
ổn định và phát triển của khu vực, điều đó
có lợi hơn cho sự “trở lại châu Á” của Mỹ.
Đồng thời, Trung Quốc là một thị trường
rộng lớn bậc nhất thế giới với hơn 1,3 tỷ
dân. Do đó, quan hệ hợp tác với Trung
Quốc sẽ có nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư
Mỹ vào đây.
Trước khi bắt đầu nhiệm kì Tổng
thống thứ hai, Obama đã tích cực tiếp xúc,
giao lưu với Bắc Kinh để xây dựng mối
quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Tổng
thống Obama đã cử Bộ trưởng Tài chính
cùng với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu
trưởng liên quân và Cố vấn An ninh Quốc
gia đến Trung Quốc để đẩy mạnh quá trình
hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia. Bắc
Kinh đã rất hoan nghênh và cùng hợp tác
phát triển sáng kiến này của Mỹ. Những
chính sách tích cực của Tổng thống Obama
với Trung Quốc đã làm cho mối quan hệ
giữa Mỹ và Trung Quốc giảm bớt sự căng
thẳng trong cuộc chạy đua chiến lược giành
vị trí hàng đầu thế giới.
Đối với Ấn Độ
Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ trong
thập niên đầu thế kỉ XXI càng làm cho vị
thế Ấn Độ trên trường quốc tế nâng cao
hơn. Ấn Độ và Mỹ đều cùng “lo lắng”
trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Vì thế,
Mỹ cũng tích cực đẩy mạnh quan hệ hợp
tác với Ấn Độ. Quan hệ thương mại Ấn Độ
- Mỹ có những chuyển biến tích cực. Ấn
Độ ngày càng trở thành thị trường quan
trọng của Mỹ. Theo một nghiên cứu của
Liên Hiệp Quốc về xu hướng dân số toàn
cầu dự báo, đến năm 2030, Ấn Độ sẽ có
dân số lớn nhất thế giới và là nền kinh tế
lớn thứ ba. Đây là một thị trường khổng lồ
đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Mỹ.
Vì vậy, Mỹ nhận thấy cần phải đẩy mạnh
hơn nữa sự hợp tác với Ấn Độ. Tổng
thống Obama từng đánh giá cao sự phát
triển của Ấn Độ và cho rằng “từ Chính
sách Hướng Đông cho đến những đóng góp
cho an ninh hàng hải của Ấn Độ lẫn việc
họ tham gia nhiều hơn vào các tổ chức khu
vực, Ấn Độ có thể làm được nhiều điều
cho châu Á và thế giới” [12]. Đồng thời,
Tổng thống Obama cũng cho rằng “trong
thập kỷ qua, Ấn Độ và Hoa Kì đã phát triển
một quan hệ đối tác toàn cầu quý giá, hai
quốc gia chúng ta đã thực hiện một quan hệ
đối tác mới về năng lượng sạch, huy động
CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC VỀ CHÂU Á” CỦA MỸ THỜI KÌ TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
30
hàng tỷ đôla đầu tư công và tư vào các dự
án năng lượng mặt trời, gió, và năng lượng
thay thế ở Ấn Độ. Chúng ta mong tăng
cường trên trên nhiều lĩnh vực trong mối
quan hệ của chúng ta” [12]. Rõ ràng, tuyên
bố trên đã chứng minh cho vai trò ngày
càng quan trọng của Ấn Độ trong chính
sách của Mỹ ở châu Á. Mỹ cần ở Ấn Độ vì
đây là một thị trường rộng lớn với hơn 1,3
tỷ dân (gấp gần 4 lần Mỹ), trình độ phát
triển khoa học công nghệ thuộc tốp đầu
trên thế giới. Quan trọng hơn, Ấn Độ lại rất
hiệu quả trong chính sách “Hành động
phương Đông” để đưa nền kinh tế tăng
trưởng liên tục trong những năm đầu thế kỉ
XXI.
Ngược lại, Thủ tướng Ấn Độ cũng
quyết tâm giữ một vai trò lớn hơn trong
việc giải quyết các vấn đề tại châu Á với
chính sách mang tên “hành động Phương
Đông”. Chính sách “hành động Phương
Đông” của Ấn Độ cũng gần giống với
chính sách xoay trục sang châu Á của Mỹ.
Mục đích chung của hai nước nhằm kiềm
chế sự trỗi dậy về mọi mặt Trung Quốc
trong khu vực châu Á. Nhận định về những
động thái này, tờ South China Morning
Post cho rằng “chuyến thăm và sự hiện
diện của Tổng thống Hoa Kì Barack
Obama với tư cách khách mời danh dự tại
lễ diễu hành nhân Ngày Cộng hòa của Ấn
Độ hôm 26-1 (2015) đã làm nổi bật mối
quan hệ đang ngày càng khăng khít hơn
giữa hai nước, đồng thời gửi đi thông điệp
rằng nếu cần thiết, Ấn Độ và Mỹ có thể sẽ
bắt tay để cùng chống lại Trung Quốc” [6].
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giữa Hoa
Kì và Ấn Độ sẽ ký kết nhiều thỏa thuận
thương mại và hợp tác nhằm tạo động lực
thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ song phương
trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, mục đích
lớn hơn của Tổng thống Obama là tìm cách
lôi kéo Ấn Độ vào trục ảnh hưởng để đối
trọng với mối quan hệ Nga - Trung ngày
càng chặt chẽ và những thay đổi cục diện
địa chính trị ở châu Á.
Đối với khu vực Đông Nam Á
“Cuộc chạy đua” vào khu vực Đông
Nam Á giữa Mỹ và Trung Quốc cũng diễn
ra mạnh mẽ. Đông Nam Á là khu vực có
nhiều nguồn tài nguyên phong phú, vị trí
chiến lược quan trọng, là cửa ngõ nối liền
châu Âu với châu Á. Do đó, Trung Quốc
đã đẩy mạnh vai trò đối với khu vực này.
Trung Quốc đã phát huy vai trò trong các
cơ chế hợp tác ở Đông Nam Á như
ASEAN 3, Diễn đàn An ninh khu vực
ASEAN. Các nhà lãnh đạo cao cấp của
Trung Quốc như Hồ Cẩm Đào, n ia Bảo
liên tục thực hiện các chuyến viếng thăm
các nước như Brunei, Indonesia,
Campuchia Trung Quốc liên tiếp gây ra
những chiêu thức “cương nhu” khác nhau
để nhằm tỏ r sức mạnh ở Biển Đông, gây
ra tình trạng bất ổn khu vực để buộc các
nước liên quan phải thừa nhận sức mạnh
của Trung Quốc và chấp nhận đàm phán
song phương. Tiến sĩ Alan ichard
Sweeten cho rằng “trên khắp thế giới,
Trung Quốc sử dụng quyền lực mềm dưới
dạng các cầu nối bạn b , viện trợ nước
ngoài và các học viện Khổng Tử để tăng
cường phạm vi quốc tế của mình”
[2, tr.513]. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
buộc Chính phủ Mỹ phải có những bước
thay đổi cần thiết trong chính sách đối với
khu vực này.
Sau khi tái đắc cử nhiệm kì thứ hai
(ngày 6-11-2012), Tổng thống Obama đã
tiến hành chuyến công du đến vùng Đông
Nam Á. Từ ngày 18-11 đến ngày 20-11-
2012, Tổng thống Obama đã đến 3 nước
Thái Lan, Myanmar và Campuchi. Tại
Thái Lan, Tổng thống Obama gặp Thủ
LÊ TÙNG LÂM
31
tướng Yingluck Shinawatra để tái khẳng
định sức mạnh của liên minh giữa hai
nước. Tại Myanmar, Tổng thống Obama có
cuộc gặp với Tổng thống Thein Sein và
Thủ lĩnh đảng Liên đoàn quốc gia vì dân
chủ đối lập Aung San Suu Kyi. Tại
Campuchia, Tổng thống Obama tham dự
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và tổ chức
các cuộc gặp song phương với giới lãnh
đạo các nước thành viên thuộc Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Mục
đích chuyến công du của Tổng thống
Obama là “triển vọng tăng trưởng kinh tế
và tạo việc làm thông qua thúc đẩy quan hệ
đối tác và thương mại, hợp tác an ninh và
năng lượng cũng như các giá trị chung”
[14] với các nước ASEAN. Theo giới
nghiên cứu, việc Obama thực hiện chuyến
công du đầu tiên của mình sau khi tái đắc
cử để gặp các nhà lãnh đạo của các nước
ASEAN và Đông Á chứng minh châu Á
vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách
đối ngoại của Mỹ.
Bằng những nỗ lực của mình, Tổng
thống B.Obama đã cải thiện quan hệ với
các nước ASEAN, ký Hiệp ước Thân thiện
và Hợp tác, nhấn mạnh nguyên tắc không
can thiệp và cam kết thường xuyên tham
dự Diễn đàn Khu vực ASEAN [10, tr.109]
- điều mà chính quyền G.W.Bush không
làm được trước đó. Có thể nói, những hành
động mang tính “thân thiện” của Mỹ đã tác
động đến tình hình khu vực Đông Nam Á.
Mỹ rất cần gia tăng sự hiện diện ở Đông
Nam Á vì ASEAN là thị trường năng động
với hơn 600 triệu dân, sức mạnh gộp lại
của 10 quốc gia ASEAN hiện là 2.500 tỷ
USD, đứng thứ 3 châu Á (chỉ sau Trung
Quốc và Nhật Bản). ASEAN đã trở thành
nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới. Tiềm năng
phát triển của ASEAN trong tương lai là
rất triển vọng với cơ cấu dân số trẻ, trái
ngược với lực lượng lao động đang ngày
càng già đi ở khu vực Bắc Á.
Có thể nói, Tổng thống Obama đã
dành một sự quan tâm đặc biệt đến khu vực
châu Á – Thái Bình Dương trong thời gian
cầm quyền của mình. Trong chính sách
“Xoay trục về châu Á” của Tổng thống
Obama có nhiều vấn đề quan tâm như:
chính trị, an ninh quân sự, văn hóa xã
hội nhưng có lẽ vấn đề quan trọng nhất
của Obama là thúc đẩy phát triển kinh tế
với các nước trong khu vực. Trong đó, TPP
là một điển hình về sự nỗ lực của Mỹ thời
Tổng thống B.Obama.
3. Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP): Chiến lược tăng
cường vai trò kinh tế của Hoa Kì ở châu Á
Đầu thế kỉ XXI, trong bối cảnh toàn
cầu hóa, để tăng cường tính cạnh tranh và
hợp tác cùng có lợi, ngày 3-6-2005, bốn
nước Singapore, Chile, New Zealand,
Brunei đã tiến hành ký kết Hiệp định hợp
tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình
Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement - còn gọi là P4)
nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa các nước
thành viên. Sự kiện này đã nhanh chóng
thu hút sự quan tâm của Mỹ.
Tháng 9-2008, Mỹ quyết định tham
gia đàm phán P4 mở rộng và chính thức
tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa
thị trường dịch vụ tài chính với các nước
P4. Sự tham gia của một thị trường lớn
nhất thế giới vào P4 đã tạo ra một cơ hội
rất lớn cho những nước này xuất khẩu sang
thị trường Mỹ. Từ thời điểm này, đàm phán
mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Tháng 9-2010, Malaysia đã được
đồng ý tham gia TPP. Đến tháng 10-2010,
Việt Nam cũng tham gia hiệp định TPP.
Tháng 10-2012, Canada cũng tuyên bố
CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC VỀ CHÂU Á” CỦA MỸ THỜI KÌ TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
32
tham gia TPP, sau đó Nhật Bản, Malaysia,
Mexico cũng tuyên bố tham gia đàm phán
TPP, nâng thành viên tham gia lên 12
nước. TTP là hiệp định thương mại tự do
nhiều bên, một hiệp định thương mại tự do
thế hệ thứ 2 với mục tiêu thiết lập một mặt
bằng tự do chung cho các nước khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
Ngày 12-11-2011, Lãnh đạo các nước
tham gia TPP đã ra bản Tuyên bố chung và
xác định “mục tiêu cuối cùng là hướng tới
tự do thương mại tại khu vực Thái Bình
Dương” [11]. Cũng trong ngày 12-11, các
Bộ trưởng Thương mại cũng ra một báo
cáo và xác định tương lai của 9 nước TPP
là “theo đuổi một hiệp định toàn diện và
tham vọng trên tất cả các lĩnh vực, trong đó
xóa bỏ thuế quan và các hàng rào khác đối
với thương mại và đầu tư. Chín thành viên
đều cho rằng thành công của Hiệp định có
thể thúc đẩy tốt nhất thương mại và đầu tư
giữa các quốc gia TPP, tạo ra và duy trì
việc làm thông qua hoạt động thương mại.
Đồng thời, mục tiêu chung là “xây dựng
một hiệp định khu vực toàn diện nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho thương mại và phát
triển chuỗi sản xuất và cung ứng giữa các
thành viên TPP, hỗ trợ mục tiêu tạo việc
làm và nâng cao mức sống và cải thiện
phúc lợi tại các nước thành viên” [11]. TPP
hiện nay nhận được sự quan tâm của các
quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương.
Với vị thế nền kinh tế dẫn đầu thế giới,
Mỹ cũng đang tham gia vào quá tình đàm
phán xây dựng và hướng đến lãnh đạo
trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). TPP là một cấu trúc hợp tác
kinh tế hoàn toàn mở, mà bất kỳ một quốc
gia nào đáp ứng được những yêu cầu của
nó đều có thể gia nhập. Hiệp định này
hướng đến xóa bỏ những rào cản thương
mại và đầu tư, không chỉ về thuế quan và
hàng rào kỹ thuật, mà còn ở các vấn đề
minh bạch hóa đầu tư công, luật sở hữu trí
tuệ, bảo vệ môi trường, quy hoạch nguồn
lao động Từ ngày 19 đến 24-10-2014,
Hội nghị Bộ trưởng và Trưởng các đoàn
đàm phán của các nước TPP đã nhóm họp
tại Sydney (Australia) và ra Thông báo
chung kết luận rằng đã tiến hành “đàm
phán về tiếp cận thị trường và đàm phán về
các quy tắc trong thương mại và đầu tư”
[15]. Những bước tiến này sẽ góp phần
định hình và thống nhất khu vực TPP khi
Hiệp định chính thức có hiệu lực. Các quốc
gia TPP đang nỗ lực để TPP chính thức có
hiệu lực.
Sau hơn 5 năm đàm phán với hơn 30
phiên làm việc ở cấp kỹ thuật và hơn 10
cuộc đàm phán ở cấp Bộ trưởng, Bộ trưởng
phụ trách Thương mại của 12 quốc gia đàm
phán TPP đã chính thức ký kết Hiệp định
vào ngày 5-10-2015 tại Hội nghị Bộ trưởng
diễn ra ở Atlanta (Mỹ). Ngày 4-2-2016, Bộ
trưởng phụ trách Thương mại của 12 nước
tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) đã tham dự Lễ ký kết
để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại
Auckland, Newzealand. Hiện tại, các nước
thành viên đang tiến hành các thủ tục nội
bộ để thông qua Hiệp định. Dự kiến TPP sẽ
có hiệu lực từ năm 2018. Có thể nói, TPP
là nỗ lực quan trọng nhất của Tổng thống
B.Obama trong hai nhiệm kì cầm quyền.
Tổng thống Obama muốn thống thông qua
TPP để can thiệp sâu vào tình hình kinh tế
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. TPP là
một trong những thỏa ước thương mại rộng
lớn nhất thế giới. Nếu TPP chính thức có
hiệu lực, nền kinh tế Mỹ sẽ được cộng
thêm nhiều tỉ USD. Quan trọng hơn, Mỹ sẽ
tăng cường các cam kết chính trị, tài chính,
và quân sự đối với khu vực Thái Bình
Dương trong nhiều thập kỷ tới. Vì thế,
LÊ TÙNG LÂM
33
chính quyền Obama rất tích cực thúc đẩy
TPP được thông qua.
Theo báo cáo ngày 18-5-2016 của Ủy
ban Thương mại quốc tế Hoa Kì (USITC),
TPP có thể đem lại tác động tích cực, mặc
dù những tác động tích cực này có thể
tương đối nhỏ so với tổng thể kinh tế Mỹ.
Vào năm thứ 15 của TPP (năm 2032), tổng
thu nhập hàng năm của Mỹ có thể ở mức
57.3 tỷ USD, cao hơn khoảng 0.23% so với
mức tham chiếu; GDP thực tế có thể ở
ngưỡng 42.7 tỷ USD (cao hơn 0.15%) và
tỷ lệ việc làm có thể tăng 0.07%. Xuất,
nhập khẩu của Hoa Kì có thể đạt mức 27.2
tỷ USD và 48.9 tỷ USD, cao hơn mức tham
chiếu lần lượt là 1% và 1.1%. Xuất khẩu từ
Mỹ sang các quốc gia tham gia TPP được
dự đoán tăng 34.6 tỷ USD (tương đương
18.7%) và nhập khẩu từ các quốc gia đó
cũng có thể tăng 23.4 tỷ USD (tương
đương 10.4%)[16]. Như vậy, theo báo cáo,
lợi ích nhiều nhất của Mỹ trong TPP là tạo
ra giá trị thặng dư trong cán cân xuất -
nhập khẩu. Thị trường được mở rộng là lợi
thế lớn cho các mặt hàng xuất khẩu của
Mỹ. Đồng thời, TPP là tiền đề cho hội
nhập kinh tế của Mỹ với khu vực châu Á-
Thái Bình Dương. Quan trọng hơn, Mỹ có
thể dùng TPP là một “đối trọng” trong việc
đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Vì
vậy, TPP là nỗ lực rất quan trọng trong
việc “Xoay trục về châu Á” của chính
quyền Barack Obama. Nỗ lực này có kết
quả bước đầu là TPP bắt đầu hình thành và
chuẩn bị đi vào hoạt động. Tuy nhiên, sự
thắng lợi của Donal Trump trong cuộc bầu
cử tổng thống tháng 11-2016 cùng tuyên
bố rút khỏi TPP của Tổng thống D.Trump
đã làm cho TPP đang gặp nhiều khó khăn.
4. Kết luận
Đầu thế kỉ XXI, các quốc gia châu Á -
Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc
đang có sự trỗi dậy mạnh mẽ. Châu Á -
Thái Bình Dương trở thành khu vực quan
trọng và năng động nhất thế giới. Trong
khi Trung Quốc, Ấn Độ đang ra sức nâng
cao ảnh hưởng, vị thế trong lĩnh vực kinh
tế thì Mỹ lại đối mặt với nhiều khó khăn
trong nước. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đối
với chính quyền Barack Obama phải
“Xoay trục về châu Á”. Tổng thống Obama
chú trọng ưu tiên vào những thỏa thuận
thương mại với các nước. Để tăng cường
sự can dự và vai trò ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, Mỹ đã thúc đẩy quan hệ
hữu nghị với tất cả các nước ở Đông Bắc
Á, Đông Nam Á. Trong đó, TPP là minh
chứng rõ nét cho vai trò của Mỹ về kinh tế
đối với khu vực châu Á - Thái Bình
Dương.
Ở Đông Bắc Á, Mỹ cũng cố quan hệ
với các nước đồng minh truyền thống như
Nhật Bản, Hàn Quốc, và quan hệ mềm dẽo
với Trung Quốc. Nhật Bản và Hàn Quốc
không còn công khai bày tỏ hoài nghi về
những cam kết đảm bảo an ninh của Mỹ
đối với họ. Đặc biệt, Nhật Bản là thành
viên của TPP cũng là một nhân tố quan
trọng để củng cố thêm nữa vai trò của Mỹ
với đồng minh truyền thống này.
Ở Đông Nam Á, Tổng thống Obama
cũng tìm cách gia tăng sự ảnh hưởng đối
các nước Đông Nam Á. Các nước Đông
Nam Á cũng cần có một “chỗ dựa” tin cập
để đối phó với những “hành động leo
thang” của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy
nhiên, Tổng thống Obama thực hiện đường
lối thiên về hướng một nhà kiến tạo hòa
bình hơn là đồng minh thực thụ với
ASEAN. Mỹ và ASEAN dường như chưa
tìm thấy sự thật tâm của nhau. Nhưng dù
sao, việc các nước Việt Nam, Brunei,
Malaysia tham gia TPP và Thái Lan cũng
đang muốn gia nhập vào TPP cũng sẽ làm
CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC VỀ CHÂU Á” CỦA MỸ THỜI KÌ TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
34
cho vai trò của Mỹ ở đây tăng lên. Đó cũng
có thể xem là một thành công trong chính
sách “Xoay trục về châu Á” của tổng thống
Barack Obama.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Asia in U.S. Foreign and National Security
Policy in the Next Millennium, Address by
U.S. Representative Doug Bereuter, 02/02/2000.
2. Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành (đồng cb,
2012), uan hệ uốc t th i hiện đ i – nh ng
v n đề m i đ t ra, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
3. Lý Thực Cốc (1996), Mỹ thay đổi l n chi n
lược toàn cầu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Vũ Văn Hà (2008), Cục diện Châu Á Thái
Bính Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Vũ Lê Thái Hoàng (2012), “Sức mạnh thông
minh, thế kỷ Thái bình dương và học thuyết
Obama”, Tạp chí nghiên cứu quốc tê, số 1
(88), 3/2012.
6. Vũ Hoàng (2015), Mỹ - Ấn tăng hợp tác,
Trung Quốc thêm lo âu, nguồn:
tich/my-an-tang-hop-tac-trung-quoc-them-lo-
au-3139955.html.
7. Hoàng Minh Hằng (2015), An ninh Đông Bắc
Á trư c sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia
tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
8. Bùi Quốc Khánh (2-8-2013), Mỹ trở l i Thái
Bình Dương: Một chính sách, hai cách gọi,
Nguồn:
my-tro-lai-thai-binh-duong--mot-chinh-sach--
hai-cach-goi.html.
9. Thùy Linh (14-10-2013), To n c nh nợ công
Mỹ. Nguồn:
10. Mayang A. ahawestri (2010), “Obama’s
Foreign Policy in Asia: More Continuity than
Change”, Security Challenges, Vol. 6, No. 1
(Autumn 2010).
11. Mô t các lĩnh vực đ m phán chính của Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương,, Nguồn:
ve-hiep-dinh-doi-tac-xuyen-thai-binh-duong-
tpp-tai-hoi-nghi-cap-cao-apec-19. Truy cập
ngày 8-3-2015.
12. Susan E. ice (2013), “America’s Future in
Asia”, Remarks As Prepared for Delivery by
National Security Advisor at Georgetown
University, Gaston Hall, Washington, D.C.
Wednesday November 20, 2013.
office/2013/11/21/remarks-prepared-delivery-
national-security-advisor-susan-e-rice.
13. Lê Khương Thùy, “Sự điều chỉnh chính sách
Đông Nam Á của chính quyền B. Obama”,
T p chí Châu Mỹ ngày nay, số 12 (2010).
14. Tổng thống Obama công du 3 nư c Đông
Nam Á, Nguồn:
6c50/tong-thong-obama-cong-du-3-nuoc-
dong-nam-a.htm.
15. Tuyên bố chung của Bộ trưởng v Trưởng các
đo n đ m phán TPP sau Hội nghị Bộ trưởng
t i Sydney tháng 10-2014, Nguồn:
cua-bo-truong-va-truong-cac-doan-dam-phan-
tpp-sau-hoi-nghi-bo-truong-tai-sydney. Truy
cập ngày 8-3-2015.
16. Ủy ban Thương m i quốc t Hoa Kỳ (USITC)
công bố Báo cáo nhằm dự đoán tác động của
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), nguồn
thuong-mai-quoc-te-hoa-ky-usitc-cong-bo-
bao-cao-nham-du-doan-tac-dong-cua-hiep-
dinh-doi-t.
17. Vnexpress (18-8-2012), ợ nư c ngo i của
Mỹ cao k lục. Nguồn
Ngày nhận bài: 26/6/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63_3269_2215115.pdf