Tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam: Kinh tế
1. Trần Văn Biên: Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến
tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam
1
2. Nguyễn Hoàng Chung: Hiệu ứng của chính sách tiền tệ
và chính sách an toàn vĩ mô đến sự ổn định tài chính tại
Việt Nam
16
3. Bùi Ngọc Toản: Tác động của thanh khoản đến khả năng
sinh lợi trên tài sản của các ngân hàng thương mại
32
4. Nguyễn hị Ngọc Loan: Tín dụng nông nghiệp nông thôn
- định hướng tài chính toàn diện với công cuộc xóa đói giảm
nghèo tại Việt Nam
40
5. Ngô Gia Lưu: Một số vấn đề tín dụng ngân hàng thương
mại đối với kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay
50
6. Hà Nam Khanh Giao, Hà Phương Duy: hái độ và ý
định mua rau Vietgap của người tiêu dùng tại thành phố
Hồ Chí Minh
56
7. Lê Trương Hải Hiếu: Một số chính sách nhằm thúc đẩy
đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố hồ chí minh
72
8. Trần hị Giang Tân, Nguyễn Tiến Đạt, Võ hu Phụng:
Ảnh hưởng kiểm soát nội bộ đến hiệu quả hoạt động tài chính
củ...
134 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế
1. Trần Văn Biên: Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến
tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam
1
2. Nguyễn Hoàng Chung: Hiệu ứng của chính sách tiền tệ
và chính sách an toàn vĩ mô đến sự ổn định tài chính tại
Việt Nam
16
3. Bùi Ngọc Toản: Tác động của thanh khoản đến khả năng
sinh lợi trên tài sản của các ngân hàng thương mại
32
4. Nguyễn hị Ngọc Loan: Tín dụng nông nghiệp nông thôn
- định hướng tài chính toàn diện với công cuộc xóa đói giảm
nghèo tại Việt Nam
40
5. Ngô Gia Lưu: Một số vấn đề tín dụng ngân hàng thương
mại đối với kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay
50
6. Hà Nam Khanh Giao, Hà Phương Duy: hái độ và ý
định mua rau Vietgap của người tiêu dùng tại thành phố
Hồ Chí Minh
56
7. Lê Trương Hải Hiếu: Một số chính sách nhằm thúc đẩy
đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố hồ chí minh
72
8. Trần hị Giang Tân, Nguyễn Tiến Đạt, Võ hu Phụng:
Ảnh hưởng kiểm soát nội bộ đến hiệu quả hoạt động tài chính
của tập đoàn điện lực Việt Nam
81
9. Nguyễn Hoàng Phương: hực trạng và giải pháp đầu tư
du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long
96
10. Nguyễn Quốc Phóng: Phương pháp điều chỉnh giá theo
hệ số điều chỉnh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
103
11. Lê hế Phiệt: Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập
107
Nghiên cứu – Trao đổi
12. Bùi Xuân hanh: Tư tưởng “Quốc dân tự lập” của Phan
Bội Châu trong bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ
19 đầu thế kỷ 20
115
13. Nguyễn Khánh Vân: Vận dụng sáng tạo giá trị tác phẩm
“Đường cách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác
xây dựng đảng ở Việt Nam hiện nay
122
Tổng Biên tập
PGS.TS.NB. Nguyễn Thanh
Phó Tổng Biên tập
TS.NB. Trần Thanh Vũ
Hội đồng Biên tập
Chủ tịch:
TS. Lê Bích Phương
Các ủy viên:
GS.TS.DS. Nguyễn Văn Thanh
GS.TS. Hoàng Văn Châu
GS.TS. Hồ Đức Hùng
GS.TS. Hoàng Thị Chỉnh
PGS.TS. Đỗ Linh Hiệp
PGS.TS. Nguyễn Quốc Tế
PGS.TS. Phạm Văn Dược
PGS.TS. Phương Ngọc Thạch
PGS.TS. Võ Văn Nhị
PGS.TS. Phước Minh Hiệp
PGS.TS. Phùng Đình Mẫn
PGS.TS. Phạm Minh Tiến
TS. Nguyễn Hữu Thân
TS. Nguyễn Tường Dũng
Thư ký Tòa soạn:
ThS. Hà Kiên Tân
Giấy phép Hoạt động Báo chí in
Số: 36/GP-BTTTT cấp ngày
05/02/2013
Số lượng in: 2.000 cuốn
Chế bản và in tại Nhà in:
Liên Tường, Quận 6, Tp. HCM
Tòa soạn & trị sự:
530 Đại lộ Bình Dương, Phường Hiệp Thành, TP. Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương
Email: tapchiktktbd@gmail.com
ISSN: 0866 - 7802SỐ: (20)
12 - 2017
Tạp chí
KINH TEÁ - KYÕ THUAÄT
MỤC LỤC Trang
3 THÁNG 1 KỲ
Economic
1. Tran Van Bien: Exchange rate policy impact on economic
growth, recommendations for Vietnam
1
2. Nguyen Hoang Chung: he efect of monetary policy and
macroprudential policy to inancial stability in Vietnam
16
3. Bui Ngoc Toan: Efects of liquidity on return on assets of
commercial banks
32
4. Nguyễn hị Ngọc Loan: Rural agricultural credit – i-
nancial inclusion orientation with the poverty reduction in
Vietnam
40
5. Ngo Gia Luu: Some problems of commercial banking cred-
it for private economy in vietnam
50
6. Ha Nam Khanh Giao, Ha Phuong Duy: Attitude and
intention to buy Vietgap vegetables Of inhabitants at Ho-
chiminh city
56
7. Lê Trương Hải Hiếu: Some policies to promote investment
and support business development on ho chi minh city
72
8. Tran hi Giang Tan, Nguyen Tien Đat, Vo hu Phung:
he impact of constituent factors of the internal control sys-
tem on the inancial performance of Vietnam electricity
81
9. Nguyen Hoang Phuong: Patterns and solutions to tourism
area not in the mekong delta
96
10. Nguyen Quoc Phong: Method of adjusting the price the
adjusting system of import and export enterprises
103
11. Lê hế Phiệt: Business environment in Vietnam in
congestion conditions
107
Research – Exchange
12. Bùi Xuân hanh: he role of phan boi chau’s thought
that “people have to stand on their own feet” in vietnam
ideological shit in the late nineteenth and early twentieth
centuries
115
12. Nguyễn Khánh Vân: Creative application the value of the
work “đường cách mệnh” of Ho Chi Minh president into into
construction party in Vietnam today
122
Editorial Oice and management:
530 Binh Duong Avenu, HiepThanh Ward, Thu Dau Mot City, Binh Duong Province
Email: tapchiktktbd@ gmail.com
ISSN: 0866 - 7802No: (20)
12 - 2017
TABLE OF CONTENNTS Page
EVERY 3 MONTHS
JOURNAL
ECONOMICS - TECHNOLOGY
Editor - in - chief
Assoc.Prof.Dr. Nguyen Thanh
Deputy Editor - in – chief
Dr. Tran Thanh Vu
Editorial board
Director:
Dr. Le Bich Phuong
Member:
Prof.Dr. Nguyen Van Thanh
Prof.Dr. Hoang Van Chau
Prof.Dr. Ho Đuc Hung
Prof.Dr. Hoang Thi Chinh
Assoc.Prof.Dr. Đo Linh Hiep
Assoc.Prof.Dr. Nguyen QuocTe
Assoc.Prof.Dr. Pham Van Duoc
Assoc.Prof.Dr. Phuong Ngoc Thach
Assoc.Prof.Dr. Vo Van Nhi
Assoc.Prof.Dr. Phuoc Minh Hiep
Assoc.Prof.Dr. Phung Dinh Man
Assoc.Prof.Dr. Pham Minh Tien
Dr. Nguyen Huu Than
Dr. Nguyen Tuong Dung
Managing Editor:
MBA. Ha Kien Tan
Publishing licence: Studying
and following the No: 36/GP-
BTTTT Date 05/02/2013
In number: 2.000 copies
Printing at: Lien Tuong printing,
District 6, HCM city
1Chính sách tỷ giá hối đoái ...
Kinh tế
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TÁC ĐỘNG ĐẾN TĔNG
TRƯỞNG KINH TẾ, KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Trần Vĕn Biên*
TÓM TẮT
Tĕng trưởng kinh tế đóng vai trò quan
trọng đối với bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển. Trong những
nĕm gần đây, có khá nhiều nhà nghiên cứu
tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ
giá hối đoái và tĕng trưởng kinh tế. Có thể
thấy lĩnh vực nghiên cứu về tác động của tỷ
giá hối đoái đến tĕng trưởng kinh tế không
phải là chủ đề mới trên thế giới. Các nghiên
cứu gần đây đã đưa ra khá nhiều các quan
điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tỷ giá
hối đoái và tĕng trưởng kinh tế của các quốc
gia. Qua bài viết này, bằng phương pháp
định lượng tác giả nghiên cứu cùng với 5 yếu
tố thì, tác động của tỷ giá hối đoái đến tĕng
trưởng kinh tế cũng là một yếu tố quan trọng.
Qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị đối
với Việt Nam.
Từ khóa: tĕng trưởng kinh tế, tỷ giá hối
đoái, Việt Nam
EXCHANGE RATE POLICY IMPACT ON ECONOMIC GROWTH,
RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM
ABSTRACT
Economic growth plays an important
role in any country, especially in developing
countries. In recent years, many researchers
have focused on the relationship between
exchange rates and economic growth. It can
be seen that the area of study on the impact of
exchange rates on economic growth is not a new
topic in the world. Recent studies have given a
number of different views on the relationship
between exchange rates and economic growth
of nations. Using this paper, the impact of
exchange rates on economic growth is also an
important factor in quantifying the authors’
contributions. Thereby, the author makes a
number of recommendations to Vietnam.
Key words: economic growth, exchange
rate, Vietnam
* ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. NCS.Trường ĐH. Ngân hang Tp. HCM.
ĐT: 0914678759. Email: dtvbien@gmail.com
1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế và
cũng là một trong những công cụ chính sách
tiền tệ của Nhà nước trong quản lý và điều
hành chính sách kinh tế vĩ mô. Cho đến nay,
2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đã có rất nhiều nhà kinh tế đưa ra các khái
niệm khác nhau về tỷ giá hối đoái như:
Karl Mark (1818-1883) chính là người
đầu tiên đưa ra khái niệm tỷ giá hối đoái.
Trong bộ “Tư bản”(1858) ông viết: “Tỷ giá
hối đoái là một phạm trù kinh tế lịch sử,
gắn với giai đoạn phát triển sản xuất của xã
hội, tính chất, cường độ tác động của nó phụ
thuộc vào trình độ phát triển thị trường và
các giai đoạn cụ thể trong lưu thông tiền tệ
thế giới”. Đây là một khái niệm khá phức tạp
mang nặng tính lý luận hơn nghiên cứu thực
tế song cũng đã thể hiện được phần nào tính
lịch sử cũng như sự vận động của tỷ giá.
Theo nhà kinh tế học Paul Anthony
Samuelson thì tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi
lấy tiền của một nước khác. Đồng quan điểm
với Paul Anthony Samuelson, nhà kinh tế học
Ralph Slatyer định nghĩa tỷ giá là một đồng
tiền của một quốc gia nào đó bằng giá trị của
một số lượng tiền của một quốc gia khác.
1.2. Lý thuyết về tĕng trưởng kinh tế
Ngân hàng thế giới định nghĩa tĕng
trưởng kinh tế là: sự thay đổi hay mở rộng về
số lượng trong nền kinh tế của một đất nước.
Tĕng trưởng kinh tế thường được đo lường
bằng tỷ lệ tĕng của tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
trong một nĕm. Tĕng trưởng kinh tế có hai
hình thức: thứ nhất là tĕng trưởng theo chiều
rộng bằng cách sử dụng nhiều tài nguyên hơn
như vật chất, lao động, vốn tự nhiên; thứ hai
là tĕng trưởng theo chiều sâu bằng cách sử
dụng lượng tài nguyên hiệu quả hơn.
Theo hình thức thứ nhất, nếu tĕng trưởng
kinh tế dựa vào tĕng lao động thì do lao động
tĕng cao nên việc này sẽ không làm tĕng thu
nhập bình quân đầu người; tĕng sử dụng tài
nguyên thì sẽ gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái,
môi trường và làm cạn kiệt tài nguyên quốc
gia. Nhưng nếu tĕng trưởng kinh tế theo hình
thức thứ hai, nghĩa là sử dụng hiệu quả hơn
các nguồn lực như vốn, lao động thì kết quả
thu nhập trung bình trên đầu người sẽ tĕng
lên đồng thời cải thiện được chất lượng cuộc
sống của người dân.
Tóm lại, tĕng trưởng kinh tế là sự tĕng
lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định. Sự tĕng trưởng
được so sánh theo các thời điểm gốc để phản
ánh tốc độ tĕng lên của một nền kinh tế.
2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĔNG
TRƯỞNG KINH TẾ
Theo các nghiên cứu về tĕng trưởng kinh
tế thì các nhân tố ảnh hưởng đến tĕng trưởng
kinh tế thông thường nói tới 5 nhân tố chủ
yếu: vốn (K), lao động (L), tài nguyên đất
đai (R), công nghệ kỹ thuật (T) và nĕng suất
nhân tố tổng hợp (TFP). Trong đó:
2.1. Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào
quan trọng có tác động trực tiếp đến tĕng
trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc
độ vĩ mô được xét vốn vật chất chứ không
phải là dưới dạng tiền (giá trị). Nó là toàn bộ
tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh
tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc
Ở các nước đang phát triển thì tĕng trưởng
thường theo chiều rộng, sự đóng góp của
vốn sản xuất vào tĕng trưởng kinh tế thường
chiếm tỷ trọng cao nhất.
2.2. Lao động (L): trước đây, thường chỉ
quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu
vào giống như yếu tố vốn và được xác định
bằng số lượng dân số, nguồn lao động của
mỗi quốc gia có thể tính bằng đầu người hay
thời gian lao động. Tuy nhiên, những mô
hình tĕng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã
nhấn mạnh đến cả khía cạnh phi vật chất của
lao động gọi là vốn nhân lực, đó là kỹ nĕng,
sáng kiến và phương pháp mới của lao động.
Xét yếu tố lao động theo hai nội dung đó có
3Chính sách tỷ giá hối đoái ...
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân
tích lợi thế và vai trò của lao động trong tĕng
trưởng kinh tế. Hiện nay, tĕng trưởng kinh tế
của các nước đang phát triển xét theo yếu tố
lao động được đóng góp nhiều bởi quy mô,
số lượng lao động hơn là đóng góp của chất
lượng lao động.
2.3. Tài nguyên (R): yếu tố quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố
không thể thiếu được trong việc thực hiện bố
trí các cơ sở kinh tế thuộc các ngành công
nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên từ
trong lòng đất, không khí, rừng và biển được
chia ra làm hai loại: tài nguyên có thể tái tạo
và tài nguyên không thể tái tạo. Tài nguyên
là yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu
tố quan trọng nhất trong tĕng trưởng kinh
tế. Một nền kinh tế nghèo tài nguyên nhưng
được sử dụng hiệu quả thì tĕng trưởng kinh tế
vẫn tốt hơn nước giàu tài nguyên.
2.4. Khoa học công nghệ (T): được coi
là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tĕng
trưởng kinh tế trong điều kiện hiện đại. Yếu
tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ
ở hai góc độ: thứ nhất, khoa học công nghệ
là những thành tựu khoa học, những nguyên
lý thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình
công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, khoa
học công nghệ là sự áp dụng phổ biến các
kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế
nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của
sản xuất.
2.5. Nĕng suất nhân tố tổng hợp (TFP):
thể hiện hiệu quả của yếu tố công nghệ kỹ
thuật hay các tác động của tiến bộ khoa học
kỹ thuật đến tĕng trưởng kinh tế được xác
định bằng phần dư của tĕng trưởng sau khi
đã loại trừ tác động của các yếu tố vốn và lao
động. TFP được là yếu tố chất lượng của tĕng
trưởng hay tĕng trưởng theo chiều sâu. Ngày
nay, tác động của thể chế, chính sách mở cửa,
hội nhập hay phát triển của vốn nhân lực đã
giúp cho các nước đang phát triển tiếp cận
được nhanh chóng những công nghệ hàng
đầu thế giới, tạo nên sự rượt đuổi dựa trên
nĕng suất và sự đóng góp của TFP ngày càng
cao trong quá trình thực hiện mục tiêu tĕng
trưởng nhanh của các nước trên thế giới.
3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC
ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN
TĔNG TRƯỞNG KINH TẾ
3.1. Nghiên cứu của Ofair Razin và Susan
M.Collins (1997)
Ofair Razin và Susan M.Collins(1997)
đã nghiên cứu về tỷ giá hổi đoái thực và tĕng
trưởng nhằm xây dựng một chỉ số để đo lường
mức độ định giá sai lệch của tỷ giá hiệu lực.
Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy để đưa
ra kết quả về việc đánh giá cao hoặc thấp đồng
nội tệ dựa vào mô hình IS-LM. Đồng thời
xem xét mối tương quan giữa tỷ giá và tĕng
trưởng ở những quốc gia đã và đang phát triển.
Nghiên cứu đã chỉ ra được một mối liên hệ phi
tuyến tính giữa tỷ giá hiệu lực và tốc độ tĕng
trưởng của một quốc gia.
Tỷ giá hiệu lực của một quốc gia có thể
được định giá cao hơn hay thấp hơn một tỷ
giá lý tưởng nào đó. Tỷ giá hiệu lực được coi
là bị định giá sai lệch khi nó lệch khỏi tỷ giá
cân bằng. Tỷ giá cân bằng được hiểu là tỷ giá
mà ở đó nền kinh tế đồng thời đạt được trạng
trái cân bằng về sản xuất trong nước cũng
như ngoại thương và nợ nước ngoài. Và việc
đo lường mức độ sai lệch này sẽ giúp giải
thích cho tốc độ tĕng trưởng của nền kinh tế.
Việc định giá cao đồng nội tệ được xem là
rào cản trong khi việc phá giá nội tệ lại được
xem là một chính sách nhằm kích thích nền
kinh tế tĕng trưởng.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa
tỷ giá hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế. Bằng
4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phương pháp hồi quy, tác giả thấy rằng giữa
việc định giá cao đồng nội tệ và tĕng trưởng
kinh tế có ý nghĩa thống kê và có mối quan
hệ ngược chiều nhau. Cụ thể là tỷ giá định
giá cao 10% sẽ làm giảm tốc độ tĕng trưởng
kinh tế 0.6%. Và ngược lại việc định giá thấp
tỷ giá ở một mức độ phù hợp sẽ giúp thúc đẩy
nền kinh tế tĕng trưởng.
3.2. Nghiên cứu của Barry Eichengreen
(2008)
Nghiên cứu này về tỷ giá hối đoái thực
và tĕng trưởng kinh tế đã chỉ ra vai trò quan
trọng của tỷ giá đối với tĕng trưởng kinh tế
cũng như sự cần thiết phải quản lý tỷ giá. Tác
giả bài nghiên cứu cho rằng sử dụng công cụ
tỷ giá hiệu lực sẽ thúc đẩy nguồn lực chảy
vào khu vực sản xuất, từ đó làm gia tĕng thu
nhập quốc gia và tạo điều kiện cho các ngành
khác phát triển theo. Kinh nghiệm của một số
nước như Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore,
Hàn Quốc, Đài Loan và bây giờ là Trung
Quốc đã cho thấy rõ điều đó.
Tuy nhiên, công cụ tỷ giá cũng có hai
mặt của nó, bên cạnh những lợi ích đạt được
thì cũng có một số những tác động tiêu cực
khác. Đặc biệt là nếu một quốc gia theo đuổi
chế độ định giá thấp nội tệ một cách quá
đáng và trong một thời gian dài nó sẽ kéo
theo nhiều hệ quả xấu bên cạnh những lợi ích
về ngoại thương mà quốc gia đó đạt được.
Điển hình của việc định giá thấp nội tệ sẽ
gây nên tình trạng cĕng thẳng trong quan hệ
của quốc gia đó với các nước trên thế giới
có quan hệ ngoại thương. Đồng thời dẫn đến
dự trữ ngoại tệ tĕng đáng kể, lạm phát cũng
gia tĕng. Vì vậy, vấn đề ở đây là chính phủ
cần xây dựng một che độ tỷ giá mang tính ổn
định và cạnh tranh nhất nhằm giúp nền kinh
tế tĕng trưởng.Nghiên cứu cũng chỉ ra tác
động của việc biến động tỷ giásẽ ảnh hưởng
xấu đến ngoại thương và đầu tư - là những
kênh cần thiết cho sự tĕng trưởng. Đặc biệt
những cuộc khủng hoảng tiền tệ sẽ tác động
mạnh mẽ đến tỷ giá và qua đó ảnh hưởng đến
tĕng trưởng kinh tế.
Với số liệu được lấy từ nĕm 1991-2005,
tác giả đã chỉ ra được mối quan hệ nghịch
biến giữa tốc độ tĕng trưởng và độ biến
động tỷ giá hiệu lực.Trong cả ba trường hợp
trênđều cho thấy độ biến động càng lớn thì
đường tĕng trưởng càng có xu hướng dốc
xuống và những nước càng kém phát triển thì
độ biến động tỷ giá hiệu lực càng lớn hơn so
với các nước khác.
3.3. Nghiên cứu của Dani Rodrik (2008)
Dani Rodrik (2008)đã đưa ra bằng chứng
thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ giá thực
hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế ở một số quốc
gia điển hình: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc,
Đài Loan, Uganda, Tanzania, và Mexico.
Tác giả nghiên cứu này đã đưa ra cách
tính toán tỷ giá hiệu lực. Tuy nhiên trong
dài hạn, những hàng hóa phi ngoại thương
ở những nước nghèo hơn thì luôn rẻ hơn nên
tỷ giá hiệu lực cần điều chỉnh theo hiệu ứng
Balassa-Samuelson. Theo đó, tỷ giá hiệu lực
sẽ được hồi quy theo GDP bình quân đầu
người. Và từ đó tác giả tính toán chỉ số định
giá theo thời gian.
Kết quả mà Dani Rodrik tìm được là
hệ số phản ánh mối quan hệ giữa tỷ giá và
thu nhập bình quân đầu người mang dấu âm
(-0.24). Tức là khi thu nhập tĕng lên 10% thì
tỷ giá sẽ bị định giá cao 2.4%, điều này là
đúng theo lý thuyết Balassa Samuelson mà
ông đã trình bày.
Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp
hồi quy để tìm ra mối quan hệ giữa tỷ giá
hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế.
Tác giả giải thích cho quá trình tĕng
trưởng thần kỳ ở những nước đang phát triển
5Chính sách tỷ giá hối đoái ...
là dựa vào ngoại thương. Hai lý do được đưa
ra cho sự phát triển không cân đối giữa nhóm
ngành ngoại thương và phi ngoại thương ở
những nước này bắt nguồn từ sự quản lý yếu
kém của chính phủvà từ những thất bại của
thị trường không hoàn hảo.Cuối cùng, bài
nghiên cứu trình bày một mô hình đơn giản
về mối quan hệ giữa tỷ giá hiệu lực và tĕng
trưởng kinh tế
3.4. Các mô hình nghiên cứu
Trong rất nhiều nghiên cứu về mối quan
hệ giữa tỷ giá hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế,
thì tốc độ tĕng trưởng GDP và tỷ giá hiệu lực
là hai biến được lựa chọn chủ yếu. Với đề tài
này, nhóm nghiên cứu sẽ lựa chọn sử dụng
mô hình của Dani Rodrik (2008). Mô hình đã
giải thích được mối quan hệ giữa tỷ giá thực
hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế, đặc biệt là
ở những nước có thu nhập thấp và thu nhập
trung bình trên thế giới (dưới 6.000 USD/
người/nĕm). Quá trình tác động của tỷ giá hối
đoái thực hiệu lực đến tốc độ tĕng trưởng kinh
tế này được Dani Rodrik giải thích qua sự
phát triển thần kỳ của ngoại thương ở những
nước đang phát triển, mô hình có dạng:
Git = α+ βlnGDPC(it-1) + δlnUNDERVALit +i+ft+uit (1)
Trong đó:
Git: tốc độ tĕng trưởng GDP của quốc gia thứ i ở nĕm t
GDPCit-1: thu nhập bình quân đầu người của quốc gia thứ i kỳ (t -1).
Theo Robert J.Barro (1991), con người
được xem là chìa khóa cốt lõi đi đầu trong
lĩnh vực nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều sản
phẩm mới, hay, ý tưởng mới giúp khoa học
ngày càng phát triển. Vì vậy, ở những quốc
gia mà con người được chú trọng, thu nhập
được cải thiện thì đây được xem là tiền đề
giúp nền kinh tế tĕng trưởng nhanh hơn sau
đó. Đây cũng là nguyên lý được các nhà
nghiên cứu về tĕng trưởng kinh tế ứng dụng
sau này, trong đó có Dani Rodrik. Theo ông,
yếu tố con người hay thu nhập bình quân đầu
người đóng vai trò đặc biệt trong hầu hết mô
hình tĕng trưởng kinh tế.
ft: yếu tố cố định của từng giai đoạn thời gian
fi: yếu tố cố định của từng quốc gia
UNDERVALit: Chỉ số định giá, được xác định thông qua hàm:
lnUNDERVALit= ln REERit- lnit (2)
Trong đó:
REERit: tỷ giá hiệu lực đa phương của quốc gia i ở nĕm thứ t
it: giá trị dự báo của tỷ giá hiệu lực đa
phương của mô hình:
ln REERit= α + β ln GDPCit + ft + (3)
Mô hình (3) của Balassa Samuelson
(1964) giải thích cho sự biến động của tỷ giá
hối đoái thực hiệu lực trong dài hạn. Balassa
Samuelson cho rằng không tồn tại ngang giá
sức mua trong dài hạn, hay nói cách khác tỷ
giá thực hiệu lực trong dài hạn sẽ thay đổi.
Lý thuyết ngang giá sức mua cổ điển giả định
rằng tất cả các loại hàng hóa đều có khả nĕng
trao đổi mậu dịch giữa các quốc gia trên thế
giới. Nhưng trên thực tế hàng hóa trong nền
kinh tế lại được phân thành 2 loại là hàng
hóa có thể trao đổi và hàng hóa không trao
đổi được trên thế giới. Khi giá cả của hàng
hóa có thể trao đổi được thay đổi thì tỷ giá
danh nghĩa cũng thay đổi để phù hợptheo lý
thuyết ngang giá sức mua. Tuy nhiên tỷ giá
danh nghĩa lại không phản ánh được sự thay
đổi giá cả của những hàng hóa không trao
đổi được, vì vậy cũng không phản ánh được
sự thay đổi giá cả tương đối giữa hai rổ hàng
hóa ở hai quốc gia.
6Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Mô hình Balassa Samuelson giả định rằng
tĕng trưởng của một quốc gia chủ yếu dựa
vào sự gia tĕng nĕngsuất lao độngở khuvực
sản xuất hiện đại.Trong khi đó, nĕng suất
lao động ở khu vực sản xuất truyền thống và
dịch vụ lại ít thay đổi. Ta giả định rằng nguồn
nhân lực chỉ có thể dịch chuyển qua lại giữa
các lĩnh vực kinh tế mà không có khả nĕng
dịch chuyển trên phạm vi thế giới. Vì vậy,
khi nĕng suất lao động gia tĕng trong lĩnh
vực sản xuất hiện đại thì mức lương ở lĩnh
vực này cũng gia tĕng, và để giữ cân bằng thì
mức lương ở lĩnh vực truyền thống và dịch
vụ cũng gia tĕng theo.
Như vậy, ở những nước phát triển có nền
khoa học công nghệ tiên tiến, nền sản xuất
hiện đại, sản xuất truyền thống và dịch vụ
cũng phát triển thì mức lương ở lĩnh vực sản
xuất truyền thống và dịch vụ cũng cao hơn
những nước đang phát triển. Hay nói cách
khác, mức sống của người dân (thu nhập bình
quân đầu người) ở những nước này cũng cao
hơn. Do đó, nếu tính chung trong rổ hàng hóa
của một quốc gia, thì những nước phát triển
sẽ có mặt bằng giá cả cao hơn những nước
đang phát triển hay nói cách khác tỷ giá ở
những nước phát triển có khuynh hướng được
định giá cao hơn. Vì vậy,để có ý nghĩatrong
dàihạn,Dani Rodrik đãđiềuchỉnhtỷgiáhiệulực
theohiệu ứng Balassa Samuelson bằng cách
hồi quy theo biến thu nhập bình quân đầu
người (GDPC).
Trong công thức này, theo lý thuyết
Balassa Samuelson mà Giáo sư Dani Rodrik
đã giải thích thì (2) được kỳ vọng mang dấu
âm, tức là ở những nước càng giàu thì tỷ giá
càng có xu hướng được định giá cao hơn. Tuy
nhiên ở Việt Nam, tác giả kỳ vọng (2) có thể
mang dấu dương, vì nước ta vẫn thuộc nhóm
các nước đang phát triển, thu nhập càng cao
thì tỷ giá càng tĕng, tức là nội tệ càng được
định giá thấp.
3.5. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu thứ cấp về các biến trong mô hình
nghiên cứu được tác giả thu thập từ những
nguồn đáng tin cậy, cụ thể:
G: tốc độ tĕng trưởng GDP của 5 quốc gia
trong giai đoạn 1985-2015 được lấy từ công
bố chính thức của Worldbank: Việt Nam,
Indonesia, Singapore, Philipine; Malaysia
GDPCit-1: thu nhập bình quân đầu người của 5 quốc gia trong giai đoạn 1985-2015
được lấy từ công bố chính thức của Worldbank
REERit: tỷ giá hiệu lực đa phương của 5 quốc gia trong giai đoạn 1985-2015 được lấy
từ công bố chính thức của Worldbank
Theo nguyên tắc kinh nghiệm, kích thước
mẫu tối thiểu phải gấp 5 lần số biến trong
mô hình (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Mô hình
nghiên cứu thực nghiệm bao gồm 5 biến, như
vậy kích thước mẫu tối thiểu là 25 quan sát.
Với dữ liệu bảng bao gồm 5 quốc gia được
thu thập theo nĕm từ 1985-2015, như vậy
mẫu nghiên cứu bao gồm 150 quan sát và đáp
ứng yêu cầu về độ phù hợp.
3.5.1. Phương pháp ước lượng
Mô hình nghiên cứu (1) đươc tác giả
đề xuất trên cơ sở các nghiên cứu tác động
của tỷ giá hối đoái thực hiệu lực đến tốc độ
tĕng trưởng kinh tế tại các quốc gia trên thế
giới. Tác giả sử dụng các phương pháp ước
lượng dành cho dữ liệu bảng như tác động
cố định (Fixed Effects), tác động ngẫu nhiên
(Random Effects), ước lượng bình phương
tối thiểu tổng quát khả thi (Feasible General
Least Square – FGLS) để khắc phục hiện
tượng phương sai thay đổi và tự tương quan
nhằm xây dựng mô hình đo lường tác động
của tỷ giá thực hiệu lực đa phương đến tốc độ
tĕng trưởng bằng phần mềm Stata với dữ liệu
bảng (Panel Data).
Mô hình (1) được ước lượng bằng các
phương pháp ước lượng dữ liệu bảng. Cụ thể:
7Chính sách tỷ giá hối đoái ...
Trên dữ liệu bảng, xét mô hình có dạng
yit = B1+ B2 Xit + aZit+ uit
Trong đó: Z là biến đại diện cho đặc điểm
riêng (ở đây ta xét đặc điểm riêng của quốc
gia thứ i). Tùy vào việc xem xét tác động của
đặt điểm riêng Zi lên mô hình sẽ hình thành
các mô hình khác nhau trên dữ liệu bảng.
- Tác động không tính toán được và là
ngẫu nhiên thì ta sử dụng, mô hình Random
effects.
- Ngược lại, tác động tính toán được, xác
định thì ta sử dụng mô hình Fixed effects.
3.5.2. Mô hình tác động cố định (Fixed
effects- FEM).
Với giả định mỗi thực thể đều có những
đặc điểm riêng biệt có thể ảnh hưởng đến các
biến giải thích, Fixed effects phân tích mối
tương quan này giữa phần dư của mỗi thực
thể với các biến giải thích qua đó kiểm soát
và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng
biệt (không đổi theo thời gian) ra khỏi các
biến giải thích để chúng ta có thể ước lượng
những ảnh hưởng thực (net effects) của biến
giải thích lên biến phụ thuộc.
Mô hình ước lượng sử dụng
Yit = Ci +BXit + uit
Trong đó
- Yit: biến phụ thuộc với i: quốc gia thứ i, t: thời gian (quý mấy).
- Xit: biến độc lập
- Ci : hệ số chặn cho từng thực thể quan sát
- B : hệ số góc
- Uit : phần dư
Mô hình trên đã thêm vào chỉ số i cho hệ
số chặn C để phân biệt hệ số chặn của từng
quốc gia khác nhau có thể khác nhau, sự khác
biệt này có thể do đặc điểm khác nhau của
từng quốc gia hoặc do sự khác nhau trong
chính sách quản lý, hoạt động của quốc gia.
3.5.3. Mô hình tác động ngẫu nhiên
(random effects - REM)
Điểm khác biệt giữa mô hình ảnh hưởng
ngẫu nhiên và mô hình ảnh hưởng cố định
được thể hiện ở sự biến động giữa các thực
thể.Nếu sự biến động giữa các thực thể có
tương quan đến biến độc lập – biến giải thích
trong mô hình ảnh hưởng cố định thì trong
mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên sự biến động
giữa các thực thể được giả sử là ngẫu nhiên
và không tương quan đến các biến giải thích.
Chính vì vậy, nếu sự khác biệt giữa các
thực thể có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc thì
REM sẽ thích hợp hơn so với FEM. Trong
đó, phần dư của mỗi thực thể (không tương
quan với biến giải thích) được xem là một
biến giải thích mới.
Ý tưởng cơ bản của mô hình ảnh hưởng
ngẫu nhiên cũng bắt đầu từ mô hình:
Yit = Ci + BXit + uit
Thay vì trong mô hình FEM, Ci là cố định thì trong REM có giả định rằng nó là một
biến ngẫu nhiên với trung bình là C và giá trị
hệ số chặn được mô tả như sau:
Ci = C+ εi với (i=1,2,3...n)
εit là sai số ngẫu nhiên có trung bình bằng 0 và phương sai không đổi
Thay vào mô hình ta có:
Yit = C + BXit + uit+εi
Hay
Yit = C + BXit + wit với wit= εi + uit
εi: Sai số thành phần của các đối tượng khác nhau (đặc điểm riêng khác nhau của
từng quốc gia).
uit : Sai số thành phần kết hợp khác của cả đặc điểm riêng theo từng đối tượng và theo
quốc gia.
Nhìn chung mô hình random effects hay
8Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
ixed effects tốt hơn cho nghiên cứu phụ thuộc
vào giả định có hay không sự tương quan giữa
và biến giải thích X. Nếu giả định rằng không
tương quan thì mô hình Fixed effects phù hợp
hơn và ngược lại. Kiểm định Hausman là một
trong những phương pháp để lựa chọn giữa
random effects hay ixed effects.
3.5.4. So sánh giữa mô hình random
effects hay Fixed effects
Sử dụng kiểm định Hausman:
Ho : Cov (Xit, ui) = 0 ( random effects)
H1: Cov (Xit, ui) ≠ 0 ( ixed effects)
- Nếu p-value < α thì bác bỏ giả thuyết H0.
- Nếu p-value > α thì chấp nhận giả
thuyết H0.
3.5.5. Các kiểm định cần thiết
- Kiểm định Wald được dùng để kiểm
định phương sai thay đổi qua các thực thể.
H0: Phương sai qua các thực thể là không đổi.
Với p-value > 0.05 giả thuyết H0 được
chấp nhận.
- Kiểm định Wooldridge được dùng để
kiểm định tự tương quan trong dữ liệu bảng.
H0: Không có hiện tương tự tương quan.
Với p-value > 0.05 giả thuyết H0 được
chấp nhận.
- Nếu mô hình được chọn có xảy ra hiện
tượng tự tương quan hay phương sai thay
đổi qua các thực thể, tác giả sử dụng phương
pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng
quát khả thi (Feasible General Least Square
– FGLS) để khắc phục hiện tượng này.
3.5.6. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
Tác giả đã xây dựng mô hình nghiên cứu
phản ánh mối quan hệ giữa tỷ giá hiệu lực đa
phương tới tốc độ tĕng trưởng kinh tế của 5
quốc gia Việt Nam, Indonesia, Singapore,
Philippines và Malaysia dựa trên các nghiên
cứu đã được thực hiện trên thế giới. Để ước
lượng mô hình này, tác giả sử dụng phương
pháp ước lượng dữ liệu bảng Fixed effects
và Random effects. Kiểm định hausman cho
thấy mô hình được ước lượng theo phương
pháp ixed effects phù hợp hơn phương pháp
Random effects. Tuy nhiên hiện tượng phương
sai thay đổi và tự tương quan đã xảy ra trong
mô hình ước lượng bằng phương pháp Fixed
effects.Nhóm tác giả khắc phục hiện tượng
này bằng phương pháp Prais-Winsten (PCSE).
Mô hình cuối cùng cho thấy tỷ giá hiệu lực đa
phương (ln UNDERVALit) gia tĕng 1% sẽ có
tác động tích cực làm tốc độ tĕng trưởng kinh
tế của 5 quốc gia tĕng 2,09%.
Việt Nam là một quốc gia được chọn
trong mẫu nghiên cứu do đó cĕn cứ vào kết
quả nghiên cứu định lượng có thể thấy sự gia
tĕng trong tỷ giá hiệu lực đa phương sẽ làm
cho tốc độ tĕng trưởng kinh tế ở Việt Nam
tĕng theo.
4. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI ĐẾN TĔNG TRƯỞNG KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM
4.1. Đánh giá chính sách tỷ giá hối đoái
Việt Nam
Chính sách tỷ giá của Việt Nam là VND
neo cứng theo USD nhưng điều chỉnh theo
biên độ. Hàng ngày NHNN sẽ ban hành tỷ
giá và điều chỉnh biên độ khi cần thiết.
Thứ nhất, với cơ chế điều hành tỷ giá
hiện hành thì đặt câu hỏi: tỷ giá có hỗ trợ cho
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hay không?
Câu trả lời, chỉ có lợi cho các mặt hàng xuất
khẩu mà hàm lượng nhập khẩu thấp.Còn rất
tiêu cực cho hoạt động nhập khẩu và nhập
khẩu phục vụ nhóm hàng xuất khẩu sau đó
(phần lớn, các mặt hàng xuất khẩu có giá trị
của Việt Nam đều có hàm lượng nhập khẩu
9Chính sách tỷ giá hối đoái ...
rất cao). Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
cán cân thanh toán và áp lực lạm phát trong
nước. Hơn nữa, nước ta cần có chính sách
bền vũng để nâng cao lợi thế so sánh hàng
xuất khẩu như xác định mặt hàng có lợi thế
so sánh, còn những mặt hàng không có lợi thế
so sánh thì cần nhập khẩu thỏa mãn nhu cầu
nội địa. Chứ chúng ta dùng công cụ tỷ giá để
can thiệp giá hàng xuất chỉ giải quyết được
phần ngọn chứ cĕn nguyên của giá nằm ở chi
phí sản xuất và lợi thế thương mại.
Thứ hai, lạm phát, cán cân thanh toán và
chính sách tỷ giá Việt Nam là vấn đề đã được
trình bày khá nhiều ở các hội thảo chuyên ngành.
Việt Nam đang cố gắng và chỉ chĕm lo dùng
công cụ tỷ giá để điều chỉnh lạm phát Trong
khi đó, lạm phát do nhiều nguyên nhân khác
nhau, dưới đây là sơ đồ dẫn truyền lạm phát.
Nguồn: Word Bank
Qua đó, tỷ giá chỉ là một trong những
công cụ điều chỉnh lạm phát, nên chĕng nước
ta ưu tiên các công cụ khác ngoài tỷ giá để
kiểm soát lạm phát.Lạm phát ở Việt Nam là
do yếu tố tiền tệ do chi tiêu công quá mức và
phân bổ vốn thiên lệch ở khu vực thị trường
(doanh nghiệp). Điều này có thể giải thích
cụ thể như sau:Chúng ta biết rằng lạm phát
là mức tĕng giá chung của cả nền kinh tế.
Nguyên nhân gây ra lạm phát có thể là từ bên
ngoài (khách quan) hay những vấn đề nội
tại của nền kinh tế (nguyên nhân chủ quan),
nhưng cĕn nguyên của lạm phát chính là yếu
tố tiền tệ.
Thứ ba, với cơ chế neo tỷ giá cứng của
chúng ta, trong khi USD ngày một mạnh lên
thì điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta đang
làm cho VND mạnh hơn, và điều đó tạo ra
chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức
và thị trường tự do. Chuyên gia tài chính
Nguyễn Trí Hiếu phát biểu “Tỷ giá của chúng
ta thấp vì đang theo chính sách đồng tiền
mạnh. Ngoài thị trường, giá trị của tiền đồng
đâu đó vào khoảng 40.000 VND/USD, trong
khi NHNN niêm yết ở mức 22.106 đồng. Nếu
giá rẻ như vậy, những kẻ đầu cơ tha hồ kiếm
hời, ĕn ngay trên sống lưng của NHNN”.
Thứ tư, Với chính sách neo tỷ giá làm
VND lên giá đồng nghĩa giảm nĕng lực cạnh
tranh của Việt Nam trong thương mại quốc
tế và hệ quả là thâm hụt thương mại càng
lớn.Bên cạnh đó, làm nguồn lực nền kinh tế
không được phân bổ một cách hiệu quả mà
còn gây khó khĕn và bất ổn cho các hoạt
động kinh tế khác.
Thứ nĕm,trong bối cảnh toàn cầu hóa
ngày càng sâu rộng như hiện nay, khi sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và các
đồng tiền ngày càng lớn, rất ít quốc gia áp
dụng chế độ cố định tỷ giá (nếu có thì chỉ
10
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
là những quốc gia có nền kinh tế đóng cửa
như Triều Tiên, hay bị bao vây cấm vận như
Cuba). Bởi, neo cứng tỷ giá trong bối cảnh
các đồng ngoại tệ mạnh có biến động lớn sẽ
khiến tỷ giá bị neo cứng, một mặt, không
phản ánh giá trị thực tế của đồng nội tệ.Mặt
khác, gây bất lợi cho chính quốc gia đó trong
quan hệ kinh tế - thương mại với các quốc
gia khác khi đồng nội tệ bị neo giá quá cao
so với giá trị thực của nó sẽ kìm hãm xuất
khẩu, kích thích nhập khẩu. Neo cứng tỷ giá
còn tạo ra chênh lệch rất lớn giữa tỷ giá chính
thức và tỷ giá chợ đen, dẫn đến làm bùng phát
các hoạt động đầu cơ ngoại tệ, gây khó khĕn
trong công tác quản lý ngoại hối.
Trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều loại
chế độ điều hành tỷ giá khác nhau, song có
thể quy về 3 dạng chính sau:
Một là, chính sách cố định tỷ giá hay
neo cứng tỷ giá (ixed hay hard pegged).Các
quốc gia áp dụng chính sách này thường duy
trì một tỷ giá cố định trong một khoảng thời
gian tương đối dài (chẳng hạn trong 1 nĕm)
không phụ thuộc vào sự biến động của các
ngoại tệ mạnh trên thị trường ngoại hối thế
giới.Tác dụng của chế độ neo cứng tỷ giá là
giúp duy trì được sự ổn định của đồng nội tệ
và thị trường tiền tệ trong nước.
Hai là, thả nổi tỷ giá (loat). Các quốc
gia áp dụng chế độ thả nổi tỷ giá cho phép tỷ
giá được dao động hoàn toàn theo cung – cầu
và quan hệ mua – bán giữa đồng nội tệ với
các đồng tiền khác (đặc biệt là các ngoại tệ
mạnh) trên thị trường ngoại hối thế giới.
Hiện nay, hầu hết các nước phát triển
có nền kinh tế thị trường đều áp dụng chế
độ thả nổi tỷ giá.Mặc dù về lý thuyết thì
như vậy, nhưng thực tế rất ít nước (ngay cả
những quốc gia có nền kinh tế thị trường
phát triển) cho phép thả nổi tỷ giá hoàn toàn
(free loat).Trong một số trường hợp đặc
biệt, khi tỷ giá biến động quá lớn (lên hoặc
xuống quá mạnh) gây bất lợi cho nền kinh
tế, thì ngân hàng trung ương sẽ can thiệp
(bằng cách bán ra hoặc mua vào ngoại tệ)
nhằm giữ cho tỷ giá không dao động quá lớn.
Điều đó có nghĩa là điều tiết tỷ giá, nhưng
bằng chính các công cụ tác động vào cung
– cầu theo quy luật thị trường. Tuy nhiên,
khả nĕng can thiệp cũng như hiệu quả của sự
can thiệp phụ thuộc rất lớn vào tiềm lực của
ngân hàng trung ương (lượng dự trữ ngoại
hối nắm giữ) cũng như trình độ xử lý (thời
điểm can thiệp và lượng ngoại hối sử dụng
để can thiệp có thích hợp).
Ba là, neo tỷ giá có điều chỉnh (soft
pegged hay pegged loat).Chế độ này thực
chất là sự lai ghép giữa 2 chế độ neo cứng và
thả nổi.Các quốc gia áp dụng chế độ neo tỷ
giá có điều chỉnh thường neo tỷ giá ở một giá
trị, đồng thời cho phép tỷ giá được dao động
hàng ngày trong một biên độ nhất định (ví dụ
±3%). Khi thị trường ngoại hối thế giới có
biến động lớn và kéo dài, ngân hàng trung
ương sẽ cân nhắc để điều chỉnh tỷ giá. Có khá
nhiều nước trên thế giới hiện áp dụng chế độ
tỷ giá này (trong đó có Việt Nam).
4.2. Kiến nghị
Để việc thực thi chính sách neo tỷ giá có
điều chỉnh đạt được hiệu quả tốt hơn, đề xuất
một số kiến nghị sau:
4.2.1. Neo tỷ giá hối đoái vào một rổ tiền tệ
Khái niệm neo vào một rổ tiền tệ được
hiểu là một nền kinh tế sẽ neo đồng tiền của
mình theo nhiều đồng tiền của những nước
có quan hệ ngoại thương với giá trị lớn. Khi
đó, tỷ giá hối đoái hiệu lực sẽ được xác định
dựa vào nhiều đồng tiền thay vì chỉ một đồng
ngoại tệ.
Khái niệm này đã được nhắc đến rất
nhiều trong các bài báo cũng như bài bình
11
Chính sách tỷ giá hối đoái ...
luận của các chuyên gia kinh tế ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay thì chúng ta đều thấy
đồng VND vẫn neo vào đồng USD là chủ
yếu, Nhà nước cũng cĕn cứ vào biến động
của USD trên thị trường để đánh giá và quản
lý tỷ giá, và hầu như các doanh nghiệp, người
dân trong nước vẫn xem USD là đồng tiền
cần dự trữ và phương tiện thanh toán chính
trong các hoạt động ngoại thương.
Có một thực tế USD là đồng tiền có vai
trò quan trọng hàng đầu trên thị trường thế
giới, đồng thời phần lớn các giao dịch xuất
- nhập khẩu của Việt Nam với nhiều quốc
gia khác nhau được thực hiện bằng USD.
Song, nếu theo giá trị kim ngạch xuất – nhập
khẩu sau thị trường Mỹ chúng ta vẫn có khối
lượng giao dịch đáng kể bằng các đồng tiền
khác, chẳng hạn bằng Euro với EU và bằng
Yen với Nhật Bản (hai thị trường này hiện
chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất - nhập
khẩu của Việt Nam) và Nhân Dân Tệ với
Trung Quốc. Ngoài ra, vay nợ bằng Euro và
Yen cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
tổng nợ nước ngoài. Ngay cả USD là đồng
tiền chuyển đổi cũng được neo theo rổ tiền tệ
gồm: EUR, JPY, GBP, CAD, CHF và SEK.
Do đó, Việt Nam có thể sử dụng một số đồng
tiền mạnh, đồng tiền của các đối tác ngoại
thương lớn để chọn vào rổ tiền tệ của mình.
Điển hình là đồng USD (đôla Mỹ), JPY (Yên
Nhật), CHF( Franc Thụy Sĩ), NDT (nhân dân
tệ), SGD (đôla Singapore), AUD (đôla Úc).
Trong bối cảnh của thế giới và trong nước
hiện nay, thì việc sử dụng khái niệm rổ tiền tệ
trong nền kinh tế là việc nên làm và cần làm
ngay lúc này, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, xét theo quan hệ song phương
giữa Việt Nam và Mỹ thì tổng giá trị ngoại
thương nĕm 2015 chỉ đạt 11%, trong khi con
số này của Trung Quốc là hơn 17% và Nhật
Bản là 11.19%. Như vậy, nếu tính đến các
quan hệ ngoại thương, đồng tiền của Việt
Nam phụ thuộc vào nhiều đồng tiền khác
ngoài đồng USD.
Thứ hai, neo vào một rổ tiền tệ sẽ hạn
chế được những rủi ro cho bản thân nền kinh
tếvĩ mô cũng như cho doanh nghiệp.Với xu
thế hội nhập như hiện nay thì việc tác động
qua lại giữa các nền kinh tế trên thế giới là
rất lớn. Vì vậy, việc lựa chọn nhiều đồng tiền
ngoại tệ mạnh khác vào rổ tiền tệ của mình,
Việt Nam sẽ phần nào tránh được những rủi
ro từ những cuộc khủng hoảng của Mỹ so
với việc neo tỷ giá chỉ theo đồng USD như
hiện nay, từ đó phân bổ rủi ro cho nền kinh tế
trong nước.
Thứ ba, neo vào một rổ tiền tệ sẽ giúp cho
Việt Nam đánh giá tỷ giá thực có hiệu lực một
cách chính xác hơn dựa vào tỷ giá đa phương
với các nước.Tỷ giá hiệu lực phản ánh giá trị
của đồng nội tệ với các nước thường xuyên
có quan hệ ngoại thương đối với Việt Nam.
Vì vậy, việc lựa chọn sử dụng rổ tiền tệ sẽ
giúp phản ánh bức tranh tỷ giá hiệu lực chính
xác và sát với thực tế nền kinh tế hơn.
Thứ tư, neo vào một rổ tiền tệ sẽ tạo ra
nhiều sản phẩm trên thị trường ngoại hối,
giúp thị trường này phong phú hơn, các doanh
nghiệp có nhiều lựa chọn hơn và sẽ gián tiếp
làm phát triển nền kinh tế. Các doanh nghiệp
sẽ tự tìm ra cho mình các hướng đi khác nhau
nhằm dự phòng những rủi ro đến từ tỷ giá,
chủ động lựa chọn loại ngoại tệ an toàn và
can thiết cho các giao dịch của họ. Đây cũng
là cách để giảm bớt cĕng thẳng cho chính phủ
trong việc quản lý nền kinh tế
Do vậy, nên có công thức neo tỷ giá dựa
trên rổ ngoại tệ chủ chốt (USD, Euro, Yen và
Nhân dân Tệ, đô la singapore) có tính đến
quyền số của mỗi ngoại tệ trong tổng kim
ngạch xuất – nhập khẩu, đầu tư, tín dụng và
viện trợ của nước ta.
12
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4.2.2. Phá giá đồng nội tệ ở mức độ vừa
phải
Việt Nam nên cĕn cứ vào tỷ giá thực hiệu
lực để đánh giá nền kinh tế cũng như mức độ
phù hợp của tỷ giá. Tỷ giá thực hiệu lực được
điều chỉnh dựa vào tỷ lệ lạm phát, do đó sẽ
phản ánh được sức khỏe của nền kinh tế và
mức độ ổn định của kinh tếvĩ mô. Đồng thời,
tỷ giá thực hiệu lực cần được đặt trong tương
quan với khái niệm rổ tiền tệ, Nhà nước điều
chỉnh tỷ giá USD trong biên độ cho phép
nhưng cần đặt trong mối quan hệ so sánh với
các loại tỷ giá hiệu lực khác trong rổ tiền tệ.
Ngoài ra, theo lý thuyết Balassa
Samuelson thì tỷ giá hiệu lực còn được điều
chỉnh với các loại hàng hóa không trao đổi và
hàng hóa trao đổi được giữa hai quốc gia có
quan hệ ngoại thương. Theo cách này, tỷ giá
hiệu lực vừa đi sát thị trường vừa phản ánh
được đầy đủ các yếu tố về giá cả hàng hóa
giữa hai quốc gia.
Tuy nhiên, cho dù tỷ giá có được tính
theo cách nào đi nữa thì vai trò của Nhà nước
trong việc quản lý tỷ giá cũng can được quan
tâm. Chính sách tỷ giá phù hợp nhất đối với
Việt Nam vẫn là tỷ giá linh hoạt, mềm dẻo
theo quan hệ cung cầu có sự quản lý của nhà
nước mà chúng ta đang áp dụng. Tuy nhiên,
quan niệm về sự quản lý của Nhà nước cần
được làm rõ hơn, chính xác và đúng đắn hơn
nữa.Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý được
nhiều quốc gia lựa chọn trong giai đoạn hiện
nay, đặc biệt là các nước đang phát triển.Đối
với Việt Nam, cần tập trung xây dựng một
chế độ tỷ giá linh hoạt nhưng nhằm tiến đến
một “tỷ giá mục tiêu”.Tỷ giá này được hiểu
là mức độ tỷ giá đáp ứng được từng mục tiêu
phát triển của một quốc gia trong từng giai
đoạn nhất định.Theo đó, mức độ giảm giá
hay tĕng giá của đồng nội tệ sẽ được điều
chỉnh sao cho phù hợp với mục tiêu của nền
kinh tế.
Một chế độ tỷ giá có xu hướng làm suy
yếu đồng nội tệ sẽ có khả nĕng khuyến khích
xuất khẩu vì hàng hóa trong nước sẽ rẻ hơn
hàng nhập khẩu, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp,
tuy nhiên lại làm tĕng nguy cơ lạm phát.
Ngược lại, một chế độ tỷ giá làm tĕng giá
đồng nội tệ có khả nĕng làm giảm tỷ lệ lạm
phát nhưng lại giảm giá trị xuất khẩu và tĕng
tỷ lệ thất nghiệp.
Với tính toán của tác giả trong nghiên cứu
thực nghiệm, việc giảm giá đồng nội tệ có thể
kích thích tĕng trưởng kinh tế.Tuy nhiên, đó
chỉ là những con số dựa trên tính toán từ công
thức và kết quả trên thực tế còn phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố chủ quan cũng như
khách quan khác. Đồng thời, không phải lúc
nào mục tiêu của chính phủ cũng là tỷ lệ tĕng
trưởng cao, ngoài ra còn có các mục tiêu ổn
định kinh tế, kiềm chế lạm phát và giảm thiểu
áp lực nợ công, từ đó tiến đến mục tiêu tĕng
trưởng bền vững.
Có rất nhiều nước mới nổi đã lựa chọn
chính sách phá giá đồng nội tệ để đạt được
các mục tiêu về tĕng trưởng kinh tế trong
ngắn hạn, như Trung Quốc, Hàn Quốc là
những điển hình. Nhưng họ cũng đang phải
đối mặt với muôn vàn khó khĕn trong thực
tế: như tỷ lệ lạm phát tĕng cao, đời sống nhân
dân bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, với điều kiện
thực tế của Việt Nam hiện nay cần áp dụng
linh hoạt tỷ giá, kiềm chế lạm phát, kéo theo
giảm lãi suất, từ đó tháo gỡ khó khĕn cho
doanh nghiệp trong nước phá giá đồng nội tệ
ở mức độ vừa phải nhằm khuyến khích xuất
khẩu, đồng thời tạo niềm tin cho nhà đầu tư
nước ngoài.
Để thực hiện được điều này, Nhà nước
có một vai trò vô cùng quan trọng.Tỷ giá sẽ
dao động về mức ngang giá trung tâm dưới
sự điều tiết của Nhà nước.Tỷ giá có thể lên
hoặc xuống nhưng dao động với một biên
động thoáng và rộng hơn. Nó chỉ thay đổi
13
Chính sách tỷ giá hối đoái ...
khi tỷ giá hiệu lực dài hạn tính trên rổ tiền tệ
thay đổi, khi mục tiêu phát triển kinh tế bị tác
động, hoặc khi Nhà nước cần điều chỉnh các
yếu tố trong bộ ba bất khả thi hoặc khi cần hạ
nhiệt thị trường ngoại hối
4.2.3. Kết hợp các chính sách tiền tệ và
kiểm soát vốn nhằm kết hợp hài hòa các yếu
tố của bộ ba bất khả thi
Bộ ba bất khả thi là một lý thuyết mà hầu
hết các nước đều quan tâm trong việc lựa
chọn chính sách thích hợp trong điều hành
nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập hiện
nay, thì việc mở cửa hội nhập là điều không
thể thay đổi, chỉ còn lại hai con đường là ổn
định tỷ giá hoặc độc lập tiền tệ
Đối với Việt Nam, chúng ta cần ưu tiên
chính sách tiền tệ độc lập để tạo ra sự linh
hoạt cho Ngân hàng nhà nước (NHNN), vừa
tháo gỡ những khó khĕn về mặt hành chính
vừa tạo cho NHNN khả nĕng chủ động thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô.
Một chính sách tiền tệ độc lập được
hiểu là một quy trình tiến đến độc lập giữa
chính phủ và NHNN, giữa NHNN và các NH
Thương mại.Mục tiêu của chính sách tiền tệ
độc lập là nhằm ổn định giá trị đồng tiền, linh
hoạt lãi suất, kiểm soát lạm phát.Khi Việt
Nam vẫn chưa đạt được một chính sách tiền
tệ độc lập đúng nghĩa, tỷ giá vẫn chịu nhiều
tác động bất ngờ từ phía chính phủ, thì vấn
đề của bộ ba bất khả thi dường như vẫn chưa
được định hình rõ.
Bên cạnh những yếu tố về chính sách
tiền tệ và tỷ giá, Việt Nam cần kiểm soát
lượng vốn chảy vào trong nước một cách
khôn ngoan hơn nữa. Chính phủ cần cụ thể
hóa ưu tiên cho lĩnh vực nào cần đau tư
trước, khu vực nào cần luồng vốn bổ sung
cũng như khu vực nào cần cắt bỏ, đầu tư
công lãng phí sẽ gây ra dư cung VND làm
tỷ giá tĕng, lạm phát khó kiểm soát và làm
lệch các mục tiêu phát triển của chính phủ.
Vì vậy, chỉ thực sự nên đầu tư vào các dự
áncần thiết, phục vụ thiết yếu cho đời sống
nhân dân, kiên quyết cắt bỏ các dự án không
hiệu quả. Và chính phủ cũng cần minh bạch
hơn, rõ ràng hơn trong việc công bố các dự
án công, mức đầu tư cụ thể cho từng dự án
để tĕng cường sự giám sát trong nhân dân,
tránh việc lợi dụng thẩm quyền gây thiệt hại
lớn cho nền kinh tế.
Tóm lại, Việt Nam cần kết hợp hài hòa
các yếu tố trong bộ ba bất khả thi, áp dụng
linh hoạt cho bối cảnh nền kinh tế trong
nước, nhằm đạt được mục tiêu trong trung
và dài hạn.
4.2.4. Phát triển thị trường tài chính đặc
biệt chú trọng thị trường ngoại hối
Một chính sách của chính phủ có khả thi
và đạt được các mục tiêu như mong muốn hay
không còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu
tố. Và các chính sách về tỷ giá trên đây chỉ có
thể thực hiện được khi Việt Nam có một thị
trường tài chính và thị trường ngoại hối đủ
minh bạch và mạnh mẽ.Chính sách của Nhà
nước sẽ tạo điều kiện để phát triển thị trường
này, ngược lại khi thị trường này vận động ổn
định sẽ hỗ trợ cho Nhà nước thực thi nhiều
chính sách khác.
Trong những nĕm gần đây, các chuyên
gia kinh tế đề cập nhiều đến vai trò của dự
trự ngoại hối trong nền kinh tế, và nó còn
được coi là một bộ phận tác động qua lại với
bộ ba bất khả thi.Dự trữ ngoại hối là kết quả
của việc thực thi chính sách bộ ba bất khả thi
khi chính phủ muốn giữ ổn định tỷ giá hoặc
ổn định tiền tệ. Đồng thời dự trữ ngoại hối
lại tạo điều kiện cho chính phủ thực hiện chế
độ linh hoạt tỷ giá, không bị động trong mọi
tình huống rủi ro liên quan đến cán cân thanh
toán.
14
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Khai thông thị trường ngoại hối là việc
làm cấp bách, đây cũng là mong muốn của
hầu hết các doanh nghiệp có nhu cầu chính
đáng về ngoại tệ.Trong bối cảnh áp lực ngoại
tệ cuối nĕm đang lên cao thì việc tạo điều
kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn ngoại
tệ là cần thiết. Nhà nước cần cho phép mở
thêm các trung tâm giao dịch ngoại tệ bên
cạnh việc trao đổi thông qua các Ngân hàng
Thương mại, đồng thời kiểm soát và ngĕn
chặn mọi hành vi liên quan đến việc đầu cơ,
gĕm giữ ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân
trong nền kinh tế.
Các công cụ lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với ngoại tệ nên được sử dụng để
điều tiết ngoại tệ cho nền kinh tế.Lãi suất và
tỷ lệ dữ trữ bắt buộc thấp được coi là biện
pháp nhằm tạo ra cung ngoại tệ cao hơn cho
nền kinh tế. Ngược lại, khi nhà nước cần thu
bớt ngoại tệ từ nền kinh tế, tĕng dự trữ ngoại
hối thì chính sách lãi suất cùng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc cao là một giải pháp toàn vẹn. Tuy
nhiên, hai công cụ này chỉ áp dụng khi áp lực
tỷ giá vượt qua mức chịu đựng của nền kinh
tế (rời xa tỷ giá mục tiêu) và cần được thay
đổi có lộ trình để tránh gây sốc cho các ngân
hàng cũng như nền kinh tế. Ngoài ra, Nhà
nước nên để cho lãi suất vận động theo quy
luật thị trường, tạo nên sự tin tưởng và an tâm
của các doanh nghiệp nắm giữ ngoại tệ, hạn
chế sự cần thiệp quá mức của “bàn tay” Nhà
nước.
Một giải pháp không mới nhưng cũng
không thể thiếu cho sự phát triển thị trường
ngoại hối ở Việt Nam, đó là việc nhân rộng và
áp dụng triệt để các công cụ phòng ngừa rủi
ro tỷ giá.Để giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp
cần chủ động sử dụng các hợp đồng kỳ hạn,
hợp đồng hoán đổi, quyền chọn....qua trung
gian các NH Thương mại.
Tĕng dự trữ ngoại hối bền vững thông
qua biện pháp giảm nhập khẩu, tĕng xuất
khẩu bằng cách tĕng khả nĕng cạnh tranh của
hàng hóa trong nước về chất lượng cũng như
giá cả.
4.2.5. Các biện pháp hành chính khác
Thứ nhất, tránh đưa ra tuyên bố mức điều
chỉnh tối đa của tỷ giá trong nĕm. Việc tuyên
bố mức điều chỉnh tối đa cứng của tỷ giá
trong nĕm có tác dụng tốt là thể hiện quyết
tâm và ý chí của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước muốn duy trì sự ổn định thị trường
và sẵn sàng cần thiệp khi cần để đảm bảo sự
ổn định đó. Tuyên bố này cũng là định hướng
để doanh nghiệp yên tâm lên kế hoạch sản
xuất, kinh doanh nĕm mà không phải lo ngại
sự biến động lớn của tỷ giá.
Tuy nhiên, việc đưa ra mức điều chỉnh tối
đa cứng của tỷ giá trong nĕm sẽ gặp bất lợi
khi tỷ giá trên thị trường ngoại hối quốc tế
biến động mạnh.Chỉ trong khoảng thời gian
từ tháng 6/2014 đến tháng 3/2015, USD đã
lên giá 24%.Trong khi đó, Ngân hàng Nhà
nước đã tuyên bố tỷ giá sẽ được điều chỉnh
không quá 2%/nĕm trong nĕm 2014 và 2015.
Điều đó đã đẩy Ngân hàng Nhà nước vào thế
khó xử.Nếu thực hiện đúng tuyên bố đó để giữ
chữ tín với thị trường, thì VND được định giá
quá cao, gây bất lợi cho doanh nghiệp và nền
kinh tế (như nêu trên). Còn nếu điều chỉnh
tỷ giá vượt quá 2% để đảm bảo phù hợp với
diễn biến thực tế thì Ngân hàng Nhà nước
lại chịu tiếng là không giữ đúng cam kết của
mình, gây mất niềm tin vào những tuyên bố
tiếp theo.
Thứ hai, không nên để quá lâu không
điều chỉnh tỷ giá. Việc USD liên tục tĕng giá
trong khi Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì tỷ
giá ổn định trong một thời gian dài, khiến khi
buộc phải điều chỉnh tỷ giá cho sát thực tế
sẽ phải điều chỉnh với biên độ lớn, gây ra cú
sốc bất ổn lớn. Do vậy, nên điều chỉnh tỷ giá
15
Chính sách tỷ giá hối đoái ...
thường xuyên hơn, song mỗi lần với biên độ
điều chỉnh nhỏ để tránh gây sốc thị trường.
Thứ ba, NHNN có thể dùng nhiều biện
pháp cần thiệp như mua bán ngoại tệ trên thị
trường liên ngân hàng đặc biệt là công cụ kỳ
hạn hay công cụ phái sinh, kiểm soát BoP
tạo ra cơ chế thị trường và không gây áp lực
ngoại tệ cho NHNN, đồng thời góp phần
tĕng dự trữ quốc gia, từ đó góp phần làm cho
VND ngày càng mạnh hơn (vì được bảo đảm
bởi dự trữ ngoại tệ)./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đĕng Dờn (2009), “Lý thuyết tài
chính tiền tệ”, Nhà xuất bản: Đại học quốc
gia, thành phố Hồ Chí Minh.
[2]. Nguyễn Đình Thọ ( 2011 ), “Phương
pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh”,
NXB Lao động - Xã Hội
[3]. Nguyễn Nam (2015a).Hồ sơ thị trường
Indonesia. Ban Quan hệ Quốc tế: VCCI.
[4]. Nguyễn Nam (2015b). Hồ sơ thị trường
Philippines. Ban Quan hệ Quốc tế: VCCI.
[5]. Trần Ngọc Thơ (2006), “Phương pháp
tiếp cận cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam”,
Đại học Kinh tế TP.HCM, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ.
[6]. Từ Cao Ánh (2008), “Hiệu ứng đường
cong J và cán cân thương mại song phương
của Việt Nam”.
[7]. Trần Huy Hoàng (2010), “Quản trị ngân
hàng thương mại”, Nhà xuất bản: Lao động
xã hội.
[8]. Akpan, E.O and Atan, J.A (2012)
“Effects of exchange rate movement on
Economic growth in Nigeria” CBN Journal
for applied statistic: 1 – 14.
[9]. Barry Eichengreen (2008), “The real
exchange rate and Economic growth”, The
World Bank
[10]. Chen, I.-C., Hill, J.K., Ohlemüller, R.,
Roy, D.B. & Thomas, C.D. (2011), “Rapid
Range Shifts of Species Associated with High
Levels of Climate Warming”, Science, 333,
pp.1024-1026
[11]. Crosby và Otto (2001), “Growth and
real exchange rate – Evidence from eleven
countries”, Working papers from Hong Kong
Institute for Monetary research.
[12]. Dani Rodrik (2008), “The real exchange
rate and Economic growth”, John F. Kenedy
School of Government Harvard University
Cambridge, MA 02138
[13]. Damyana Bakardzhieva, Sami Ben
Naceur, Bassem Karmar (2010), “ The impact
of capital and Foreign exchange lows on the
competitiveness of developing countries”,
IMF Working Paper
[14]. Gala, P. (2008), “Real exchange
Rate Levels and Economic Development
: Theoretical Analysis and Empirical
Evidence”,Cambridge Journal of Economics,
No.32, pp.273-288.
[15]. Olugbenga Onafowora (2003),
“Exchange rate and trade balance in East
Asia: Is there a J-curve?”, Economics
Bulletin, Vol.5, No.18, pp.1-13
[16]. Samuelson, P. A., (1964), “Theoretical
notes on trade problems”, Review of
Economics and Statistics 46 (May): 145-54
[17]. Yunfa Zhu, Adian A. McFarlane (2003),
“ Real exchange rate and Economic growth
- A theoretical re-examination of Balassa
Hypothesis”
Website:
[18]. www.worldbank.org
[19]. www.imf.org
[20]. www.sbv.gov.vn
16
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu đánh giá các nhân tố tác
động đến tĕng trưởng tín dụng của 21 ngân
hàng thương mại (NHTM) trong giai đoạn
2008 – 2015. Trên cơ sở cĕn cứ vào một số
nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước,
nghiên cứu xây dựng lại mô hình các nhân
tố tác động – đại diện cho chính sách tiền tệ
(CSTT) và chính sách an toàn vĩ mô (ATVM)
đến tĕng trưởng tín dụng, qua đó đánh giá ảnh
hưởng của các công cụ điều hành đến sự ổn
định tài chính tại Việt Nam. Theo Wooldrige
(2002), phương pháp để xây dựng mô hình
nghiên cứu là phương pháp bình phương
bé nhất tổng quát khả thi (Feasible General
Least Square – FGLS) nhằm khắc phục hiện
tượng tự tương quan, phương sai sai số thay
đổi nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững
và hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy các
công cụ của CSTT tại Việt Nam có tác động
mạnh hơn so với các công cụ đại diện cho
chính sách ATVM đến tĕng trưởng tín dụng.
Từ khóa: tĕng trưởng tín dụng, ổn định
tài chính, chính sách an toàn vĩ mô, chính
sách tiền tệ, FGLS.
HIỆU ỨNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH AN
TOÀN VĨ MÔ ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Hoàng Chung*
THE EFFECT OF MONETARY POLICY AND MACROPRUDENTIAL POLICY
TO FINANCIAL STABILITY IN VIETNAM
ABSTRACT
This paper analyses the factors affecting
credit growth of 21 commercial banks in the
period 2008-2015. Based on some previous
research hypothesis, empirical evidences, this
study contributes regression model with some
impact factors which representing monetary
policy and macroprudential policy to credit
growth, thereby assessing the impact of operating
tools to inancial stability in Vietnam. According
to Wooldrige (2002), we suggest regression
model with Feasible General Least Square
(FGLS) method to correct the auto-correlation
and heteroskedasticity to ensure stable, reliable
results. This result shows that monetary tools
have stronger effects than macroprudential
tools to inancial stability.
Keywords: credit growth, inancial
stability, macroprudential policy, monetary
policy, FGLS.
* ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. NCS.Trường Đại học Ngân hang Tp. Hồ
Chí Minh, ĐT: 0906.672.58
17
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
1. GIỚI THIỆU
Khủng hoảng tài chính toàn cầu (global
inancial crisis) cơ bản đã qua đi, nhưng
hậu quả để lại sẽ còn kéo dài trong nhiều
nĕm. Cuộc khủng hoảng này đã khiến nhiều
ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế
giới nhận thấy mục tiêu ổn định giá cả hay
kiểm soát lạm phát (price stability) không
đủ để đảm bảo ổn định tài chính (William R.
White (2006)). Vì vậy các NHTW cần phải
thực hiện các biện pháp, chính sách hướng
tới mục tiêu ổn định tài chính (inancial
stability). Hay nói cách khác ổn định tài
chính, an toàn kinh tế vĩ mô đang được xem
là mục tiêu trọng yếu của nhiều quốc gia bên
cạnh mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm
phát. Đây có thể được xem là chính sách mới
được áp dụng sau các cuộc khủng hoảng gần
đây, được chính phủ các nước trong khu vực
châu Á – Thái Bình Dương cũng vì thế mà
tĕng cường sử dụng các công cụ điều tiết
vĩ mô thận trọng (macroprudential tools)
nhằm mục tiêu ổn định tài chính trong khu
vực. Đây cũng chính là khu vực thực thi
chính sách an toàn vĩ mô (macroprudential
policy) thông qua việc sử dụng các công cụ
an toàn vĩ mô (ATVM) nhiều nhất trong suốt
20 nĕm qua so sánh với các khu vực địa lý
khác trên thế giới như Châu Âu, Châu Mỹ
La tinh, Trung Đông, Châu Phi và Bắc Mỹ
(Soyoung Kim & Aaron Mehrotra 2015).
Vì vậy bài nghiên cứu dự kiến đánh giá tác
động cụ thể của chính sách tiền tệ (CSTT)
(monetary policy) và chính sách ATVM
(macroprudential policy) tại Việt Nam đến
sự ổn định tài chính nhằm làm rõ vai trò
của chính sách ATVM đến sự ổn định tài
chính của một quốc gia mà Việt Nam là một
trường hợp áp dụng. Ngoài ra bài nghiên
cứu cũng nhấn mạnh mục tiêu quan trọng
của từng chính sách: CSTT hướng đến mục
tiêu chính là ổn định giá cả và chính sách
ATVM hướng đến mục tiêu chính là ổn định
tài chính, cách thiết lập như vậy cũng phù
hợp với quy tắc Tinbergen1 (Tinbergen, J
(1952); William A. Knudson (2008)). Cuối
cùng cả hai chính sách này đều hướng đến
mục tiêu cuối cùng ổn định nền kinh tế của
một quốc gia.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN
CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.1. Nền tảng lý thuyết về vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Ổn định tài chính
Mỗi quốc gia có một cách định nghĩa đi
cùng với sự điều hành hướng tới các mục tiêu
ổn định tài chính khác nhau. Theo NHTW
Thụy Sĩ thì ổn định hệ thống tài chính nghĩa
là một hệ thống tài chính mà trong đó các chủ
thể tài chính bao gồm: trung gian tài chính,
thị trường tài chính và hạ tầng tài chính thực
hiện tốt các chức nĕng của mình và có khả
nĕng chống đỡ được các cú sốc tiềm ẩn.
NHTW Đức định nghĩa ổn định tài chính là
khả nĕng vận hành tốt các chức nĕng chính
của hệ thống tài chính, kể cả trong thời kỳ
kinh tế cĕng thẳng và thời kỳ điều chỉnh cơ
cấu nhằm giúp phân bổ một cách có hiệu quả
các nguồn lực và rủi ro tài chính cũng như tạo
nền tảng hạ tầng tài chính hiệu quả. NHTW
Úc cho rằng ổn định hệ thống tài chính là
một trạng thái mà trong đó các trung gian tài
chính, thị trường và hạ tầng tài chính phân
bổ tốt các luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu
tư, nhờ đó thúc đẩy tĕng trưởng kinh tế. Và
NHTW Anh khẳng định ổn định tài chính
1. Quy tắc Tinbergen cho rằng đối với mỗi mục
tiêu chính sách phải có ít nhất một công cụ chính
sách. Nếu có ít công cụ thực thi mục tiêu chính
sách thì một số mục tiêu này sẽ không đạt được.
Hoặc một số công cụ giúp đạt được mục tiêu, và
một số công cụ khác trong khi đáp ứng một số
mục tiêu lại làm cho các mục tiêu khác trở nên
khó khĕn hơn.
18
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hàm ý việc xác định rủi ro trong hệ thống tài
chính và hành động để giảm thiểu chúng. Tuy
vậy, có thể thống nhất quan điểm về nội hàm
của thuật ngữ này như sau: Ổn định tài chính
là một trạng thái trong đó hệ thống tài chính
gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ
tầng tài chính có khả nĕng chống đỡ được các
cú sốc và những rủi ro do sự mất cân đối tài
chính gây ra từ đó làm giảm bớt khả nĕng sụp
đổ của các trung gian tài chính vốn sẵn có tác
động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm
và đầu tư (NHTW Châu Âu). Cuối cùng, có
thể nhận thấy tất cả đều có chung một nhận
định là chính sách an toàn vĩ mô có vai trò
hết sức quan trọng đối với ổn định tài chính,
sự mất ổn định tài chính sẽ tác động đến môi
trường kinh tế vĩ mô, các hoạt động kinh tế,
ổn định giá trị đồng tiền và quá trình truyền
dẫn CSTT (Ủy Ban Giám Sát Tài Chính Quốc
Gia Việt Nam).
2.1.2. Chính sách ATVM
Theo Hội đồng ổn định tài chính (FSB),
Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng chính sách
ATVM là chính sách sử dụng các công cụ
an toàn để hạn chế các rủi ro mang tính hệ
thống và/hoặc các rủi ro đối với tổng thể hệ
thống tài chính (inancial system) nhằm giảm
thiểu khả nĕng đổ vỡ của hệ thống tài chính
thông qua việc ngĕn ngừa các dịch vụ tài
chính có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối
với nền kinh tế thực (real economy) (IMF,
2013a). Điều này có thể được thực thi thông
qua việc tĕng cường sự bền vững của toàn bộ
hệ thống tài chính đối với các cú sốc thông
qua việc chủ động hạn chế tích tụ rủi ro.
Đối tượng điều chỉnh của chính sách ATVM
(macroprudential policy) là rủi ro hệ thống
(systemic risks) với mục tiêu ổn định tài chính
(inancial stability), bao gồm: (i) phát hiện
và ngĕn ngừa nguy cơ xảy ra khủng hoảng
tài chính (inancial crisis) làm sụt giảm tổng
sản phẩm quốc nội (domestic output), và (ii)
giảm thiểu các rủi ro lan truyền từ hệ thống
tài chính đến khu vực tài chính thực; và (iii)
thực hiện xử lý khủng hoảng (Đỗ Việt Hùng
và cộng sự, 2014). Cuối cùng bên cạnh chính
sách tiền tệ (monetary policy) và chính sách
tài khóa (iscal policy) thì chính sách ATVM
giúp NHTW tạo nên bộ ba quan trọng trong
điều hành kinh tế vĩ mô, đã và đang được áp
dụng để chứng minh sự hiệu quả tại các nước
phát triển và thị trường mới nổi (emerging
market economies (EMEs).
2.1.3. Chính sách tiền tệ
CSTT quốc gia là các quyết định về tiền
tệ ở tầm quốc gia của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu
ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công
cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra
(Lý Hoàng Ánh, Lê Thị Mận và các cộng sự,
2012). Chính sách tiền tệ là một phần đặc biệt
quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô,
bao gồm các quan điểm, chủ trương, đường
lối để quản lý, kiểm soát để điều tiết tiền tệ
trong nền kinh tế thông qua hệ thống ngân
hàng với vai trò chủ đạo là Ngân hàng Nhà
Nước, được cụ thể hóa trong các cơ chế, giải
pháp, biện pháp và công cụ điều hành lượng
tiền cung ứng, các hoạt động tiền tệ nhằm
bảo đảm đạt được các mục tiêu cơ bản của
nền kinh tế như: ổn định giá trị đồng tiền,
kiềm chế lạm phát, thúc đẩy phát triển và
tĕng trưởng kinh tế (Lê Quốc Lý, 2013).
Hay CSTT còn được xem là các hành động
của NHTW nhằm thay đổi cung tiền hoặc lãi
suất chính sách để hướng đến mục tiêu ổn
định lạm phát, tĕng trưởng kinh tế, toàn dụng
lao động và ổn định tỷ giá hối đoái (Araújo,
2015; Drakos and Kouretas, 2015; Sánchez,
2012).
19
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
Kênh dẫn truyền chủ yếu của CSTT đến
nền kinh tế thường là thông qua hệ thống tài
chính, trong đó quan trọng nhất là hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM).
2.1.4. Cơ sở lý thuyết về cung tiền và lạm
phát
Theo lý thuyết về lượng tiền của Milton
Friedman, mối quan hệ giữa cung tiền và lạm
phát được thể hiện qua phương trình định
lượng: MV=PY. Trong đó: M là lượng tiền,
V là vòng quay của tiền, P là giá cả, Y là
sản lượng (GDP thực tế). Phương trình định
lượng có thể viết dưới dạng phần trĕm như
sau:
% thay đổi của M + % thay đổi của V = %
thay đổi của P + % thay đổi của Y (1)
Hay: % thay đổi của M = %thay đổi của
P + % thay đổi của Y - % thay đổi của V (2)
Công thức trên cho thấy mối quan hệ qua
lại giữa các biến động của yếu tố cung tiền,
vòng quay của tiền, giá cả và GDP thực tế.
Thông thường, vòng quay của tiền hay còn
gọi là tốc độ chu chuyển của tiền V không
thay đổi nhiều qua từng nĕm. Giả sử V không
thay đổi, khi đó tốc độ tĕng của cung tiền
bằng tốc độ tĕng của giá cả cộng (+) tốc độ
tĕng của GDP thực tế. Bên cạnh đó, tại Việt
Nam thì cung tiền trong nền kinh tế chủ yếu
bởi hệ thống NHTM thông qua kênh cho vay
(). Như vậy, phương trình (2) cho thấy tốc
độ tĕng trưởng kinh tế thực và tỷ lệ lạm phát
sẽ quyết định tỷ lệ tĕng trưởng tín dụng trong
nền kinh tế.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trước
đây về vấn đề liên quan đến bài viết
2.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài liên
quan đến bài viết
Cĕn cứ theo nghiên cứu của Cesa –
Bianchi và Rebucci (2013) thì CSTT sẽ chịu
trách nhiệm với mục tiêu ổn định giá cả còn
các chính sách ATVM sẽ chịu trách nhiệm
với mục tiêu ổn định tài chính (inancial
stability). Theo đó trong thời gian gần đây,
vấn đề sử dụng chính sách ATVM nhằm đảm
bảo ổn định tài chính cũng như môi trường
kinh tế vĩ mô tại mỗi quốc gia là một trong
những nội dung quan trọng và đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới. Các phân tích, đánh giá và mô hình đã
được xây dựng nhằm xác định mức độ hiệu
quả của các công cụ ATVM và công cụ thực
thi CSTT tại nhiều quốc gia và khu vực. Một
số kết quả, nhận định được đưa ra từ các
nghiên cứu này như sau:
Cesa - Bianchi & Rebucci 2013 – Cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã tạo
động lực cho các học giả trên thế giới nghiên
cứu sâu thêm về việc tích hợp mục tiêu ổn
định tài chính và các chính sách ATVM
(macroprudential policy) vào các mô hình
kinh tế vĩ mô cùng với CSTT (monetary
policy). Công cụ ATVM và công cụ CSTT có
thể giải quyết cả hai biến dạng gây ra bởi lực
cản tài chính (inancial friction) và lực cản
kinh tế vĩ mô (macroeconomic friction). Bài
nghiên cứu có liên quan đến một số nghiên
cứu, với đại diện của trường phái New
Keynesian là các lực cản tài chính (inancial
friction) và quy tắc Taylor (Angelini, Neri,
and Panetta (2011), Beau, Clerc, and Mojon
(2012), Kannan, Rabanal, and Scott (2012)).
Những bài nghiên cứu này cho rằng công
cụ lãi suất tĕng cường và công cụ ATVM
(macroprudential tools) tĕng cường như là
tĕng trưởng tín dụng (credit growth), giá tài
sản (asset price), LTV (loan to value ratio)
tạo ra một sự kết hợp giữa lãi suất và quy
tắc ATVM để chính sách tiền tệ có thể nương
theo chiều gió (lean against the wind).
Shin 2015 – Bài nghiên cứu là sự so sánh
giữa chính sách ATVM và CSTT. Trong một
20
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
vài khía cạnh cụ thể, chính sách ATVM được
sử dụng bởi nhiều nền kinh tế phát triển trước
nĕm 1970. Trong khi đó CSTT ảnh hưởng
đến khả nĕng chấp nhận rủi ro, tác động cả hệ
thống tài chính trong nước và lan truyền sang
các nền kinh tế khác. Bên cạnh đó, các nghiên
cứu thực nghiệm được nêu trong bài cho rằng
tương quan giữa CSTT và chính sách ATVM
là bổ sung, thông qua kết quả của một vài cú
sốc khác nhau. Đó có thể là tương quan cùng
chiều (pull in the same direction) (Bruno
& Shim 2015). Các công cụ ATVM thường
được sử dụng thông qua các NHTM. Bài
nghiên cứu cho rằng việc thay đổi tỷ lệ của
mức chi trả nợ trên thu nhập (Debt service to
income ratio – DSTI) hoặc tỷ lệ tín dụng trên
giá trị (Loan to value ratio – LTV) sẽ hoạt
động theo một cơ chế như CSTT. Cụ thể, sự
biến động của hai chỉ số trên sẽ ảnh hưởng
tới chi phí và mức độ sẵn có của tín dụng cho
các hộ gia đình và doanh nghiệp, qua đó tác
động tới các quyết định đẩy mạnh hoặc trì
hoãn tiêu dùng.
Kuttner và Shim 2013 – Nghiên cứu
thực nghiệm là phần mở rộng của chính sách
ATVM, với mục tiêu hạn chế các rủi ro hệ
thống trong hệ thống tài chính (IMF-BIS-FSB
(2011)). Mục tiêu đầu tiên của chính sách này
là chứng minh được khả nĕng phục hồi của
hệ thống tài chính bằng cách thực thi tính
thanh khoản, vốn và tài sản thế chấp. Thứ hai
là thu hẹp lại các sự mất cân bằng về tài chính
bằng tín dụng và kênh giá tài sản. Mục tiêu
của bài nghiên cứu này là cung cấp những
đánh giá về sự hiệu quả của tín dụng và chính
sách thuế liên quan đến kênh cho vay nhà ở
và giá nhà. Bài nghiên cứu chỉ rõ tác động
của sự suy giảm tỷ lệ mức chi trả nợ trên thu
nhập (DSTI) và tỷ lệ cho vay (LTV) tới việc
tổng cầu và tiêu dùng cuối cùng giảm thông
qua cho vay nhà ở và giá nhà. Nghiên cứu
thực nghiệm cũng thống kê lại việc sử dụng
các công cụ chính sách khác ngoài lãi suất
để đảm bảo sự ổn định tài chính kể từ nĕm
2000. So sánh giữa các khu vực địa lý, tác
giả chỉ ra rằng nền kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương sử dụng các công cụ ATVM nhiều
nhất trong hơn 20 nĕm qua. Trong các nước
áp dụng lạm phát mục tiêu, Hàn Quốc là quốc
gia thực hiện nhiều biện pháp can thiệp nhất
với hơn 26 biện pháp ATVM, cụ thể là 21
biện pháp thắt chặt và chỉ 6 biện pháp là nới
lỏng. Tác giả còn rút ra kết luận quan trọng
là các biện pháp ATVM được sử dụng nhiều
hơn trong một số nền kinh tế sau khi NHTW
ban hành mục tiêu ổn định tài chính (Thái
Lan, Malaysia).
Kim, S & Mehrotra, A (2016) – Bài
nghiên cứu về vấn đề đánh đổi chính sách
giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát và duy
trì ổn định tài chính. Nghiên cứu được thực
hiện trong khuôn khổ các nước tại khu vực
Châu Á Thái Bình Dương áp dụng khuôn khổ
chính sách lạm phát mục tiêu, đồng thời cũng
thực thi chính sách ATVM. Thông qua ước
lượng mô hình hệ phương trình tự hồi quy
dạng cấu trúc (SVAR) cho các nước thực thi
chính sách lạm phát mục tiêu, bài nghiên cứu
xây dựng mô hình nhận diện các cú sốc của
CSTT và các chính sách ATVM, đồng thời
mô hình hóa được mối quan hệ giữa các biến
đại diện cho các chính sách như lãi suất chính
sách (policy rate) đại diện cho CSTT và biến
ATVM (prudential variables) đại diện cho
chính sách ATVM. Bài nghiên cứu này sử
dụng 5 biến nội sinh (endogenous variables),
trong đó có hai biến công cụ chính sách
(policy instruments) – lãi suất chính sách (R)
và biến chính sách ATVM (PP) (Shim et al,
2013). Ngoài ra, bài nghiên cứu sử dụng chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) đại diện cho biến mục
tiêu của CSTT, tổng tín dụng cho khu vực tư
nhân (CRD) được sử dụng như mục tiêu của
chính sách ATVM. GDP thực (RGDP) cũng
21
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
được đưa vào mô hình để phản ánh các hoạt
động kinh tế phát sinh. Mô hình trong bài
nghiên cứu được xem là mô hình mở rộng
từ mô hình xác định các cú sốc CSTT của
Christiano và cộng sự (1999). Thông qua
trọng tâm nghiên cứu là đánh giá phản ứng
của 5 biến nội sinh trước các cú sốc về CSTT
và chính sách ATVM cho thấy khi cả hai cú
sốc theo hướng thắt chặt: PP tĕng trước cú sốc
chính sách ATVM và R tĕng trước cú sốc về
CSTT. Cả hai cú sốc này đều dẫn đến sự sụt
giảm có ý nghĩa thống kê của CPI và CRD.
Điều đó có nghĩa là CSTT thắt chặt không
chỉ làm giảm mức giá mà còn là giảm cả khối
lượng tín dụng. Tương tự, chính sách ATVM
thắt chặt cũng làm giảm không chỉ tín dụng
mà cả mức giá, qua đó tác động đáng kể đến
lạm phát.
Angelini & cộng sự 2014 – Bài nghiên
cứu đã chứng minh được lợi ích của việc phối
hợp giữa CSTT và chính sách ATVM trong
bối cảnh thị trường tài chính có nhiều biến
động. Trong đó, NHTW sẽ góp phần ổn định
sản lượng và tỷ lệ tín dụng trên GDP (credit
to GDP), đây cũng là mục tiêu của nhà điều
hành chính sách ATVM tuy nhiên sẽ bị đánh
đổi bằng việc lạm phát cao hơn và lãi suất
chính sách biến động mạnh hơn.
Ueda & Valencia 2014 – Bài nghiên
cứu chỉ ra rằng khi NHTW chịu trách nhiệm
ổn định giá cả và ổn định tài chính, sẽ tồn
tại vấn đề không nhất quán thời gian (time
inconsistency problem) trong mô hình thực
nghiệm. Cụ thể sau khủng hoảng, CSTT
thường có xu hướng tạo ra mức lạm phát cao
hơn, mức lạm phát tối ưu (the social optimal
level of inlation) để làm giảm gánh nặng từ
các khoản nợ (private debt) do các chính sách
ATVM không thể được sử dụng để làm giảm
khối lượng nợ. Do các cơ quan hoạch định
chính sách ATVM biết NHTW có thể làm
giảm gánh nặng nợ thông qua lạm phát nên
cơ quan này có thể cho phép nền kinh tế tích
lũy một khối lượng nợ lớn hơn, từ đó tạo ra
khuynh hướng lạm phát (inlation bias).
Lim & cộng sự (2011) – Bài nghiên cứu
chỉ ra rằng các công cụ ATVM như LTV, DTI,
hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc (DTBB)
và dự phòng rủi ro (Loan Loss Provisioning)
thực sự hiệu quả trong việc làm giảm các
biến động rủi ro chu kỳ (counter-cyclical)
của tín dụng và đòn bẩy tài chính (inancial
leverage).
Crowe và cộng sự (2011) - đã chứng minh
được mối quan hệ giữa chính sách ATVM và
chu kỳ bất động sản. LTV là công cụ tốt nhất
để hấp thụ và giảm thiểu các rủi ro tín dụng
do sự bùng nổ bất động sản. Các công cụ với
mục tiêu làm gia tĕng sức chống đỡ cho hệ
thống ngân hàng (như dự phòng linh hoạt)
mặc dù không hiệu quả trong việc chấm dứt
tình trạng bùng nổ nhưng lại rất có hữu dụng
trong việc xử lý tình trạng vỡ bong bóng tín
dụng bất động sản.
Vandenbussche, Vogel, và Detragiache
(2012) - Trong nghiên cứu của mình tại các
quốc gia ở châu Âu đã nhận định rằng, các
công cụ an toàn vốn (CAR) và công cụ như
DTBB ký quỹ đối với các khoản vốn ngoại tệ
hoặc DTBB ký quỹ kết hợp với tĕng trưởng
tín dụng giúp hạ nhiệt giá bất động sản. Hay
các công cụ giới hạn tĕng trưởng tín dụng
trong ngành như LTV, DTI và các công cụ
kiểm soát vốn như dự trữ bắt buộc (DTBB)
giúp gia tĕng sức mạnh cho hệ thống tài chính
quốc gia (Gabriele Galati, 2015).
Claessens và các cộng sự (2012) - Chỉ ra
rằng cấu trúc, tổ chức và đặc điểm của hệ thống
tài chính (dựa vào ngân hàng hay dựa vào thị
trường) có tác động làm khuyếch trương chu
kỳ tài chính và chu kỳ kinh tế thực, vì thế đây
là yếu tố quan trọng nhất mà cơ quan giám
22
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
sát cần phải xem xét khi lựa chọn áp dụng
công cụ ATVM. Ví dụ như, đối với các quốc
gia có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng
thì các nhà chính sách nên sử dụng các công
cụ có liên quan đến hệ thống ngân hàng và tổ
chức tài chính và ngược lại. Điều kiện chính
sách tài khóa và tiền tệ đang được áp dụng
cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn công cụ.
Tiếp theo việc sử dụng các công cụ ATVM
tại các quốc gia có sự khác biệt; các quốc gia
phát triển ưu tiên sử dụng các công cụ làm
giảm tĕng trưởng tín dụng, trong khi đó các
quốc gia đang phát triển lại sử dụng kết hợp
nhiều công cụ với nhau, kiểm soát vốn, thanh
khoản và tĕng trưởng tín dụng.
Valla và Escorbiac (2006) – Bài nghiên
cứu tập trung vào một số yếu tố nội tại và
vĩ mô ảnh hưởng đến khả nĕng thanh khoản
của các ngân hàng ở Anh như nghiên cứu của
nhóm tác giả Aspachs và cộng sự (2005). Kết
quả nghiên cứu cho rằng tỷ lệ thanh khoản
của các ngân hàng Anh phụ thuộc đồng biến
vào tĕng trưởng tín dụng, GDP, lãi suất ngắn
hạn và nghịch biến với lợi nhuận ngân hàng.
2.2.2. Các nghiên cứu trong nước liên
quan đến bài viết
So với nhiều nghiên cứu nước ngoài thì
các nghiên cứu trong nước có phần hạn chế
hơn, các bài báo, nghiên cứu chủ yếu xoay
quanh việc làm rõ nội dung của chính sách
ATVM, về khái niệm, về các công cụ an toàn
vĩ mô theo thông tư 36/2014/TT-NHNN và
các vĕn bản sửa đổi, bổ sung đính kèm, các
công cụ này liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu, tỷ số thanh khoản, tỷ lệ cho vay
trên tổng vốn huy động các bài nghiên cứu
đánh giá tác động của các biến số này đến các
biến số đại diện cho chính sách an toàn vĩ mô
và chính sách tiền tệ nhằm đánh giá tác động
của các công cụ điều hành đến sự ổn định vĩ
mô. Bên cạnh đó là một số nghiên cứu liên
quan đến các biến số vĩ mô (GDP, CPI) tác
động đến tĕn trưởng tín dụng, cụ thể:
Nguyễn Thị Thu Hương & Nguyễn
Khánh Linh (2014) – Bài nghiên cứu thống
kê Việt Nam đang áp dụng 6 biện pháp cơ
bản nhằm đảm bảo an toàn cho kinh tế vĩ mô,
bao gồm: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Captial
Adequacy Requirement – CAR), tỷ lệ khả
nĕng chi trả (Liquidity ratio - LIQ), tỷ lệ cho
vay trên tổng vốn huy động (Loan deposits
ratio - LDR), giới hạn cho vay ngoại tệ, trạng
thái ngoại tệ và trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Tuy nhiên hiện nay chưa thể đánh giá được
hiệu quả của các công cụ này tại Việt Nam
nên bài nghiên cứu chỉ dừng lại dưới góc độ
lượng hóa tác động của các công cụ này đối
với vấn đề hiệu quả thực thi chính sách.
Vũ Hải Yến & Trần Thanh Ngân (2016)
– Trong bài nghiên cứu đã lựa chọn mô hình
dữ liệu bảng với tác động cố định (Panel
ixed-effects model) để đánh giá tác động
của các chính sách ATVM (Macroprudential
policy effects) đến sự ổn định của hệ thống
tài chính (Financial stability) giai đoạn
2007 – 2014. Biến phụ thuộc là tốc độ tĕng
trưởng tín dụng (Credit Growth) và chỉ số
giá chứng khoán (VN Index) được lựa chọn
để phản ánh sự ổn định tài chính. Biến độc
lập bao gồm: các công cụ của CSTT như tỷ
lệ dự trữ bắt buộc (RRR), lãi suất tái chiết
khấu (Rediscount rate - DR), hệ số an toàn
vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ dự trữ thanh khoản
(Liquidity ratio), tỷ lệ dư nợ cho vay so với
tổng tiền gửi (LDR). Ngoài ra, tác giả sử
dụng các biến kiểm soát tĕng trưởng kinh
tế (GDP) và tốc độ lạm phát (CPI) để giảm
tác động gây nhiễu của các biến bị bỏ sót và
hiện tượng hệ số ước lượng không đáng tin
cậy (mô hình không vững, hệ số ước lượng
không có ý nghĩa thống kê). Kết quả thực
nghiệm đánh giá hiệu quả chính sách đối với
23
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
tĕng trưởng tín dụng cho rằng hệ số CAR, tỷ
lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR)
và tĕng trưởng tín dụng (CRD) tương quan
đồng biến (+), tiếp đó sự thay đổi lãi suất tái
chiết khấu (DR) tác động ngược chiều (-) đến
tĕng trưởng tín dụng. Về hiệu quả chính sách
đối với chỉ số giá chứng khoán thì cho rằng
CAR tác động cùng chiều, tỷ lệ dự trữ thanh
khoản tại các ngân hàng có tác động tích cực
(+) nhưng lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc thì tác động ngược chiều (-) với chỉ số
giá chứng khoán.
Lê Tấn Phước (2016) – Trong bài
nghiên cứu đã lựa chọn mô hình OLS để
đánh giá các yếu tố tác động đến tĕng trưởng
tín dụng của NHTM tại Việt Nam. Theo kết
quả nghiên cứu thì các NHTM có tỷ lệ tài
sản thanh khoản cao sẽ đặt mục tiêu tĕng
trưởng tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận. Cùng
với đó, bài nghiên cứu còn tìm ra được mối
quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và GDP
tĕng lên sẽ khiến tĕng trưởng tín dụng tại
ngân hàng tĕng lên. Bài nghiên cứu dừng
lại ở việc xây dựng mô hình hồi quy nghiên
cứu OLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy các
NHTM có khoản vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ
tài sản thanh khoản cao sẽ đặt mục tiêu tĕng
trưởng tín dụng vì lợi nhuận. Cùng với đó,
bài nghiên cứu còn tìm thấy mối quan hệ
cùng chiều (+) giữa tĕng trưởng GDP với
tĕng trưởng tín dụng ngân hàng.
Lê Thị Mận và các cộng sự (2016) –
Bài nghiên cứu phân tích mối quan hệ dài
hạn giữa tĕng trưởng tín dụng ngân hàng và
tĕng trưởng kinh tế tại VN trong giai đoạn
1992 – 2014 thông qua mô hình VECM cùng
với hàm phản ứng đẩy và phân rã phương
sai kết hợp bộ lọc HP để kiểm định tốc độ
tĕng trưởng tín dụng ngân hàng tại VN. Kết
quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tồn
tại mối quan hệ dài hạn giữa tĕng trưởng tín
dụng ngân hàng đến tĕng trưởng kinh tế VN.
3. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Số liệu và lấy mẫu
Số liệu được lấy từ 21 Ngân hàng thương
mại cổ phần tại Việt Nam giai đoạn 2008 –
2015, trong đó có một số ngân hàng đang
niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
TPHCM (HOSE) và Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội (HNX).
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng
(panel data) theo ba phương pháp Pool
Regression, REM (Random Effect Model) và
FEM (Fix Effect Model). Sau đó sử dụng các
kiểm định Hausman Test, F – Test, Lagrange
Multiplier Test (LM Test) để lựa chọn ra mô
hình phù hợp. Nếu mô hình được lựa chọn
này vi phạm các giả thuyết kinh tế lượng như
tự tương quan và phương sai sai số thay đổi
sẽ làm cho các ước lượng thu được bằng các
phương pháp hồi quy thông thường trên dữ
liệu bảng (OLS, FEM, REM) không hiệu
quả, các kiểm định hệ số hồi quy không còn
đáng tin cậy. Vì vậy theo Wooldrige (2002),
tác giả áp dụng phương pháp bình phương
bé nhất tổng quát khả thi - Feasible General
Least Square (FGLS) để khắc phục hiện
tượng tự tương quan, phương sai sai số thay
đổi nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững
và hiệu quả.
3.3. Mô hình nghiên cứu
Mô hình dữ liệu được lựa chọn để đánh
giá tác động của chính sách bảo đảm ATVM
và CSTT đến sự ổn định của hệ thống tài
chính trong khoảng thời gian từ 2008 – 2015
dự kiến:
CRD = β0 + β1∆ RRR + β2∆ DR + β3CAR + β4LIQ + β5∆ LDR + β6GDP + β7CPI + εt
24
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
3.4. Cách thức đo lường các biến
Biến phụ thuộc là tĕng trưởng tín dụng
(CRD) được đo lường bằng tỷ lệ biến động
dư nợ cuối kỳ qua các nĕm. Tốc độ tĕng
trưởng tín dụng được lựa chọn là biến phụ
thuộc để phản ánh sự ổn định của hệ thống
tài chính. Theo IMF (2011), những thay đổi
bất thường trong tín dụng và giá tài sản là hai
tín hiệu quan trọng của rủi ro hệ thống, được
sử dụng để làm chỉ số cảnh báo sớm (Early
Warning Index - EWI). Kết quả nghiên cứu
của Soyoung Kim & Aaron Mehrotra (2015)
cho thấy các chính sách ATVM có tác động
tới tĕng trưởng tín dụng, đồng thời cũng có
ảnh hưởng đáng kể đến lạm phát. Cụ thể là
các chính sách ATVM thắt chặt sẽ góp phần
làm gia tĕng áp lực từ lạm phát thấp. Tĕng
trưởng tín dụng của các ngân hàng thường
có xu hướng tĕng nhanh khi chính sách tiền
tệ và tài khóa theo hướng mở rộng, đi kèm
với sự nới lỏng các chính sách và quy định
cấp tín dụng. Mở rộng tín dụng đồng nghĩa
với sự gia tĕng rủi ro tín dụng. Trong trường
hợp rủi ro xảy ra, nó không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của một
ngân hàng mà còn có khả nĕng gây mất ổn
định toàn hệ thống. Thực tế tại Việt Nam,
giai đoạn tín dụng tĕng trưởng quá nóng
2007 - 2010 (tỷ lệ tĕng trưởng dư nợ luôn
trên mức 25%) đã kéo theo hệ quả tỷ lệ nợ
xấu tĕng cao trong giai đoạn 2011 - 2013,
những ngân hàng yếu kém lâm vào tình
trạng mất khả nĕng thanh khoản và khiến
cho hoạt động toàn hệ thống kém ổn định.
Như vậy, chỉ số tĕng trưởng tín dụng (CRD)
có thể phản ánh mức độ rủi ro mà các ngân
hàng gánh chịu, từ đó biểu thị khả nĕng phát
triển bền vững và lành mạnh của hệ thống
tài chính trong tương lai.
Theo Vũ Hải Yến (2016), biến độc lập
được chia thành 03 nhóm biến; trong đó: (i)
Nhóm biến đại diện cho chính sách tiền tệ
bao gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (RRR) được đo
bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tiền
gửi VNĐ không kỳ hạn và dưới 12 tháng; lãi
suất tái chiết khấu (Rediscount rate – DR)
là lãi suất bình quân áp dụng cho nghiệp vụ
tái chiết khấu giấy tờ có giá. (ii) Nhóm biến
đại diện cho chính sách an toàn vĩ mô phải
kể đến bao gồm: Hệ số an toàn vốn (CAR)
được đo lường bằng tỷ lệ vốn tự có trên tổng
tài sản có rủi ro; tỷ lệ dự trữ thanh khoản
(Liquidity ratio – LIQ) được đo lường bằng
tài sản có tính thanh khoản cao so với tổng
nợ phải trả; Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng
tiền gửi (Loan to Deposit Ratio – LDR)
được đo lường bằng tổng dư nợ cho vay so
với tổng tiền gửi. (iii) và nhóm biến đại diện
cho các biến số vĩ mô bao gồm tĕng trưởng
kinh tế (GDP) và tốc độ lạm phát (CPI) chỉ
số phản ánh mức thay đổi tương đối của một
nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng theo thời
gian. Các biến số nêu trên được thu thập dữ
liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán
của các ngân hàng TMCP, NHNN Việt Nam
và Tổng Cục Thống Kê. Trong đó, do tác
động của chính sách thường có độ trễ nhất
định nên mô hình sử dụng biến trễ, lấy sai
phân bậc 1 (irst diffrence) của tỷ lệ DTBB (∆RRR hay DRRR), lãi suất tái chiết khấu (∆DR hay DDR). Về phía chính sách an toàn
vĩ mô, các chỉ tiêu được sử dụng trong mô
hình đều thuộc các quy định Thông tư số
36/TT/NHNN về tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt
động của ngân hàng, bao gồm: Hệ số an toàn
vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ dự trữ thanh khoản
(LIQ) và biến trễ của tỷ lệ dư nợ cho vay so
với tổng tiền gửi (∆LDR hay DLDR).
25
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê mô tả
Bảng 1: Mô tả các biến
STT Chỉ tiêu Giá trị trung bình
Giá trị
lớn nhất
Giá trị
nhỏ nhất
1 Tĕng trưởng tín dụng (CRD) 34,5% 423% (31%)
2 Dự trữ bắt buộc (RRR) 3,7% 8% 3%
3 Lãi suất tái chiết khấu (DDR) 6,8% 13% 4,5%
4 Lãi suất tái chiết khấubq (DR) 7,3% 12,5% 4,5%
5 Hệ số an toàn vốn (CAR) 11,7% 45,89% -
6 Tỷ số thanh khoản (LIQ) 25,54% 64,5% 6%
7 Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) 63,57% 108,4% -
8 Tĕng trưởng GDP (GDP) 5,9% 6,78% 5,25%
9 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9% 19,8% 0,6%
10 Số quan sát 168
Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các
NHTM và tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12
4.2. Kết quả ước lượng
4.2.1. Ma trận tương quan giữa các biến
Bảng 2: Ma trận tương quan giữa các biến
CRD DRRR DDR CAR LIQ DLDR GDP CPI
CRD 1,0000
DRRR -0,3923 1,0000
DDR -0,2195 0,2979 1,0000
CAR -0,1465 0,0648 -0,0224 1,0000
LIQ 0,2014 -0,2797 0,0784 -0,1144 1,0000
DLDR 0,2972 -0,1267 -0,0981 0,0121 -0,2319 1,0000
GDP 0,0130 0,5187 0,4960 -0,1026 -0,1424 -0,1145 1,0000
CPI -0,0194 -0,0113 0,6843 0,0683 0,3419 -0,1139 -0,0081 1,0000
Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các
NHTM và tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12
Dựa vào bảng phân tích tương quan nêu
trên, ta có thể nhận xét như sau: CRD tương
quan nghịch biến (-) với DTBB (DRRR) và
lãi suất tái chiết khấu (DDR) (2 biến có trễ -
hàm ý độ trễ chính sách), hệ số an toàn vốn
(CAR) và lạm phát (CPI). Tuy nhiên, CRD
26
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tương quan đồng biến (+) với chỉ tiêu thanh
khoản (LIQ), chỉ tiêu cho vay trên tiền gửi
(LDR), GDP (tĕng trưởng kinh tế).
4.2.2. Xác định các yếu tố tác động đến
tĕng trưởng tín dụng (CRD) • Lựa chọn mô hình Pooled OLS hoặc
FEM
Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định F để
lựa chọn giữa mô hình FEM và Pool OLS,
với giả thiết H0 là không có tương quan giữa
các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên
(Mô hình Pool OLS là phù hợp). Và giả thiết
đối H1: có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (Mô hình FEM là
phù hợp). Thông qua kiểm định F – test, với
mức ý nghĩa 10%; ta có Prob > F = 0,082 <
10% nên bác bỏ giả thuyết H0 đồng nghĩa với
việc chọn mô hình FEM.• Lựa chọn mô hình FEM hoặc REM
Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định
Hausman để lựa chọn mô hình với giả thiết
H0 là không có tương quan giữa các biến
giải thích và thành phần ngẫu nhiên (mô hình
REM là phù hợp). Và giả thiết đối H1: có
tương quan giữa các biến giải thích và thành
phần ngẫu nhiên (mô hình FEM là phù hợp).
Ta có: Prob > chi2 = 0,9778 nên chưa đủ cơ
sở để bác bỏ H0 hay lựa chọn mô hình REM.• Lựa chọn mô hình REM và OLS
Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định
Lagrangian multiplier với giả thiết H0 là lựa chọn mô hình Pool OLS và giả thiết đối là
H1: lựa chọn mô hình REM. Với mức ý nghĩa
10%, ta có Prob > chibar2 = 0,082 < 10% nên
bác bỏ H0 đồng nghĩa với việc chọn mô hình
REM.
4.2.3. Kiểm tra hiện tượng tự tương quan,
phương sai thay đổi và đa cộng tuyến• Kiểm định đa cộng tuyến
Cĕn cứ theo bảng 4 trong bài nghiên cứu
này thì mô hình hồi quy lựa chọn như trên
không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm
trọng do các hệ số tương quan có giá trị lớn
nhất là 0,68 vẫn nhỏ hơn 0,8 (chuẩn so sánh
theo Farrar & Glauber (1967)).• Kiểm định phương sai thay đổi
Đối với mô hình lựa chọn là REM nên
trên, bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Lagrange
multiplier (Breusch, T., và A. Pagan. 1980) cho
mô hình REM. Kết quả kiểm định như sau:
Bảng 3: Kiểm định phương sai thay đổi
Kết quả kiểm định Diễn giải
Random Effects, One Sided
ALM(Var(u)=0) =
-0.05
Pr>N(0,1) = 0.5180 Chưa đủ cơ sở để bác bỏ H0. Kết
luận mô hình không bị phương sai
sai số thay đổi.
Serial Correlation
ALM(lambda=0) =
5.14
Pr>chi2(1) = 0.0233
< 5%
Bác bỏ H0 với mức ý nghĩa 5%.
Kết luận mô hình bị tự tương quan.
Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các NHTM và
tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12
27
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
4.2.4. Kết quả mô hình nghiên cứu
Bảng 4: Mô hình hồi quy FGLS
Hồi quy bằng phương pháp FGLS
Với biến phụ thuộc là CRD, sau khi sử dụng phương pháp FGLS để khắc phục hiện
tượng tự tương quan và hiện tượng phương sai thay đổi, mô hình có ý nghĩa ở mức
ý nghĩa 1% (do Prob = 0,0000) nên kết quả mô hình phù hợp.
CRD Coef. Std. Err z P>|z|∆RRR -6,5454 0,9019 -7,26*** 0,000∆DR -4,2704 0,6512 -6,56*** 0,000
CAR -0,4402 0,1619 -2,72*** 0,007
LIQ 0,7301 0,1785 4,09*** 0,000∆LDR 0,7408 0,0760 9,74*** 0,000
GDP 27,3354 3,1862 8,58*** 0,000
CPI 1,4979 0,4380 3,42*** 0,001
Hệ số chặn -1,6629 0,2163 -7,69*** 0,000
Các ký hiệu ***, **, * tương ứng là mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%
Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các NHTM và
tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12
Vậy, kết quả mô hình nghiên cứu có
phương trình như sau:
CRD = –1,66 – 6,545*∆RRR – 4,27*∆
DR – 0,44*CAR + 0,730*LIQ + 0,741*∆
LDR + 27,335*GDP + 1,498*CPI + εit
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Mô hình đánh giá sự tác động của các
chính sách đối với tĕng trưởng tín dụng
CRD = – 1,67 – 6,55*∆RRR – 4,27*∆DR – 0,44* CAR + 0,73*LIQ + 0,74*∆
LDR + 27,34*GDP + 1,49*CPI + εit
Thứ nhất, tác động của tĕng trưởng kinh
tế (GDP), chỉ tiêu lạm phát (CPI) có tác động
cùng chiều đến tĕng trưởng tín dụng (CRD)
với mức ý nghĩa thống kê 1%. Kết quả nghiên
cứu thực nghiệm phù hợp với cơ sở lý thuyết
về cung tiền và lạm phát (Milton Friedman).
Về mặt lý thuyết cung tiền và lạm phát
tĕng trưởng kinh tế đã chứng minh rằng trong
dài hạn, GDP thực tĕng trưởng như là kết quả
của các nhân tố bên cung trong nền kinh tế,
như tiến bộ kỹ thuật, tích lũy vốn, và mức độ
và chất lượng của lực lượng lao động. Bên
cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy lạm
phát gia tĕng là hệ quả của tĕng trưởng kinh
tế có tác động ngược trở lại đối với cung tín
dụng.Tĕng trưởng kinh tế kéo theo sự gia tĕng
của lạm phát đã tác động đến tĕng trưởng tín
dụng tại các NHTM (Lê Tấn Phước, 2016).
Kết quả nghiên cứu cho thấy tĕng trưởng
kinh tế có tác động đến tĕng trưởng tín dụng
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Lê
Thị Mận và cộng sự (2012) và Nguyễn Minh
Sáng (2014).
Thứ hai, DTBB (RRR), lãi suất tái chiết
khấu (DR) và tĕng trưởng tín dụng (CRD) có
tác động ngược chiều nhau với mức ý nghĩa
thống kê 1%.
Về chính sách tiền tệ, tỷ lệ DTBB (RRR)
28
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
và lãi suất tái chiết khấu (DR) là những công
cụ được lựa chọn để phản ánh tác động của
chính sách đến sự ổn định tài chính. Theo
Federico và cộng sự (2012), tỷ lệ DTBB là
một công cụ đặc biệt hữu ích trong chính
sách “phản chu kỳ”1 tại các quốc gia đang
phát triển trong trường hợp những quốc gia
này thường không sẵn sàng sử dụng công cụ
lãi suất do lo ngại những tác động của công
cụ này đến sự ổn định tỷ giá và dòng vốn
đầu tư. Ngoài ra đây cũng là biện pháp có tác
động mạnh nên thường được sử dụng để ổn
định thị trường trong những tình huống cấp
thiết. Trong giai đoạn 2007 - 2010, NHNN
Việt Nam đã sử dụng rất linh hoạt công cụ
này để kiềm chế lạm phát và ngĕn ngừa cuộc
chạy đua tín dụng trong hệ thống NHTM. Bên
cạnh tỷ lệ DTBB, lãi suất tái chiết khấu (DR)
cũng đã được NHNN Việt Nam sử dụng tối
đa, liên tục điều chỉnh với chiều hướng mạnh
và quyết liệt trong khoảng thời gian tín dụng
tĕng trưởng nóng và lạm phát leo thang, việc
thay đổi lãi suất điều hành của NHNN sẽ tác
động đến sản lượng và giá cả theo bốn kênh
chủ yếu: lãi suất thị trường, tín dụng, giá tài
sản và tỷ giá (Trần Thị Thùy Anh, (2014)).
Về mặt lý thuyết, khi tĕng DTBB các NHTM
bị thắt chặt lượng vốn tín dụng cung ứng ra
thị trường. Đối với công cụ lãi suất tái chiết
khấu khi tĕng lãi suất lên, các NHTM không
thể vay NHTW một cách dễ dàng, buộc họ
phải giảm bớt khả nĕng cung ứng tín dụng.
Hơn nữa, khi chi phí đi vay tại NHTW tĕng
lên, các NHTM sẽ dần dần tĕng lãi suất cho
vay, dẫn đến nhu cầu tín dụng giảm xuống.
Như vậy, hai công cụ này cũng đã phát huy
được hiệu quả trong việc hạn chế tĕng trưởng
tín dụng nóng và khuyến khích tính tự chủ
1 Chính sách phả chu kỳ (counter-cyclical policy) là những
chính sách vận động ngược chiều với chu kỳ chung của nền kinh
tế, điển hình như thắt chặt tài khóa và tiền tệ trong điều kiện nền
kinh tế đang tĕng trưởng quá nóng và nới lỏng khi nền kinh tế
suy thoái.
của các NHTM trong việc huy động. Do tác
động của chính sách thường có độ trễ nhất
định nên mô hình sử dụng biến trễ của tỷ lệ
DTBB và lãi suất tái chiết khấu bằng cách lấy
sai phân bậc 1 (irst difference).
Thứ ba, hệ số an toàn vốn (CAR) và
tĕng trưởng tín dụng (CRD) có mối quan hệ
nghịch biến với mức ý nghĩa thống kê 1%.
Hệ số CAR phản ánh nĕng lực tài chính
và khả nĕng xử lý các loại rủi ro mà NHTM
có thể gặp phải trong quá trình hoạt động.
Vì vậy các NHTM đều nỗ lực cải thiện hệ số
này để gia tĕng chất lượng quản trị rủi ro và
vị thế trên thị trường. Những ngân hàng bảo
đảm hệ số CAR ở mức cao sẽ tạo ra một tấm
đệm chống đỡ trước những cú sốc tài chính,
có khả nĕng bảo đảm an toàn hoạt động cũng
như bảo vệ cho người gửi tiền. Tuy nhiên
thực chất tấm đệm chống đỡ này không thực
sự bảo vệ người gửi tiền trước các rủi ro đổ
vỡ của ngân hàng hay hệ số CAR không có ý
nghĩa nhiều trong thời điểm hiện nay (Nguyễn
Đức Trung và nhóm nghiên cứu, 2012).
Trong thực tế giai đoạn 2008 – 2015 cho
thấy nhóm NHTM Nhà Nước (chiếm hơn
46% thị phần tín dụng) phải triển khai nhiều
chương trình, chính sách của Chính Phủ, ưu
đãi về mặt lãi suất nên khả nĕng sinh lời thấp,
từ đó thiếu nguồn lực để tĕng vốn. Thêm vào
đó là tình trạng thâm hụt ngân sách buộc các
NHTM Nhà nước phải nộp cổ tức phần vốn
Nhà nước về Ngân sách dẫn đến tiềm lực về
tĕng vốn càng trở nên nan giải (Nguyễn Trí
Hiếu, 2016). Một nguyên nhân nữa là trong
bối cảnh hiện nay các ngân hàng trên thế
giới và trong khu vực đang hướng đến các
tiêu chuẩn Basel III, theo đó các NHTM Việt
Nam cũng đang tiệm cận với Basel II, tiến
hành áp dụng nhiều biện pháp (Thông tư 02,
Thông tư 09 nhằm phản ánh nợ và trích lập
dự phòng rõ ràng hơn, thúc đẩy quá trình xử
29
Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ...
lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Thông tư
36/2014/TT-NHNN quy định các tiêu chuẩn
về an toàn hoạt động của hệ thống tiến gần
hơn với thông lệ quốc tế) nên vừa làm
giảm vốn tự có và làm tĕng tài sản có rủi
ro từ đó tác động tiêu cực đến CAR (Trần
Bắc Hà, 2016). Trong khi đó theo Thông tư
số 06/2016/TT – NHNN, điểm dừng hiện tại
cho hoạt động giám sát ngân hàng hướng đến
chuẩn mực Basel II mà NHNN đang theo
đuổi (Châu Đình Linh, 2016) thì hệ số CAR
trước áp lực tĕng vốn buộc phải nâng tử số
(vốn tự có) nhưng không được để mẫu số (tài
sản “có” rủi ro) tĕng theo. Sự khác biệt giữa
chính sách và thực tế thực hiện làm cho hệ số
CAR ít có ý nghĩa áp dụng tại Việt Nam.
Thứ tư, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng
tiền gửi (LDR) có tác động cùng chiều (+)
đến tĕng trưởng tín dụng với mức ý nghĩa
thống kê 1%.
Kết quả này cho thấy những ngân hàng
có LDR cao là những ngân hàng tĕng trưởng
tín dụng mạnh. Mục đích LDR được sử dụng
là để giới hạn mức tĕng trưởng tín dụng dựa
trên nguồn vốn huy động, hạn chế sự chênh
lệch giữa kỳ hạn của tài sản và nguồn vốn,
qua đó tĕng cường các điều kiện bảo đảm
an toàn hoạt động. Tuy nhiên, khi quy định
về LDR tối đa 80% bắt đầu được áp dụng
từ thông tư số 13/2010/TT-NHNN, nhiều
NHTM đã gặp khó khĕn trong việc duy trì
lợi nhuận và khai thông dòng vốn do sự gia
tĕng của nguồn vốn dư thừa không có khả
nĕng sinh lời. Bên cạnh đó, quy định này
cũng gây nhiều tranh cãi về một cách thức
tính toán thống nhất chung cho hệ thống.
Chính vì vậy, NHNN đã phải bãi bỏ quy
định này trong Thông tư số 22/2011/TT-
NHNN và mới áp dụng trở lại trong Thông
tư số 36/2014/TT-NHNN. Thực tế giai đoạn
2007-2014 cũng cho thấy nhiều NHTM có
LDR cao hơn mức 80%, trong đó những
NHTM cổ phần là nhóm thường vi phạm với
những thời điểm LDR lên đến hơn 100% đi
kèm với mở rộng tín dụng 30% - 40%/nĕm.
Như vậy, LDR chưa thực sự là một chỉ tiêu
hiệu quả để thúc đẩy các ngân hàng nâng
cao chất lượng quản trị rủi ro nhằm bảo đảm
an toàn sử dụng vốn. Dư nợ tín dụng chiếm
tỷ trọng lớn trong danh mục tài sản của ngân
hàng, hoạt động này thường chiếm khoảng
60% - 80% tổng tài sản của NHTM, cho nên
thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng thu nhập của các NHTM.
Tốc độ tĕng trưởng tín dụng của các NHTM
có chiều hướng sụt giảm so với giai đoạn
trước 2012 và tĕng trở lại trong nĕm 2015,
khoản mục cho vay của các NHTM chiếm tỷ
trọng cao chủ yếu là bất động sản có nguy
cơ gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng.
Thứ nĕm, tác động của tỷ lệ dự trữ thanh
khoản (LIQ) và tĕng trưởng tín dụng (CRD)
là cùng chiều với mức ý nghĩa thống kê 1%.
Về mặt lý thuyết, các ngân hàng có tỷ lệ
dự trữ thanh khoản cao đồng nghĩa với việc
các ngân hàng nắm giữ nhiều tài sản có tính
lỏng cao để có thể nhanh chóng chuyển đổi
sang tiền mặt khi cần thiết, tạo một khoản
đệm vốn tốt đảm bảo cho các NHTM trước
các rủi ro tín dụng. Điều này đồng nghĩa với
việc các NHTM có tỷ lệ tài sản thanh khoản
cao sẽ đặt mục tiêu tĕng trưởng tín dụng vì
mục tiêu lợi nhuận (Lê Tấn Phước (2016)).
5. KẾT LUẬN
Đầu tiên, mô hình cho thấy công cụ tỷ lệ
DTBB (RRR) và lãi suất tái chiết khấu (DR)
đã phát huy hiệu quả trong việc hạn chế tĕng
trưởng tín dụng góp phần vào sự ổn định tài
chính.
Thứ hai, công cụ tỷ lệ dự trữ thanh
khoản (LIQ) chưa tác động hiệu quả đối với
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
biến phụ thuộc (CRD), mặc dù thông tư số
36/2014/TT – NHNN được ban hành, sửa
đổi bởi thông tư 06/2016/TT – NHNN quy
định chi tiết hơn cách thức tính toán và đo
lường đối với chỉ tiêu này nhưng tình hình
thực tế áp dụng tại một số NHTM chưa triệt
để tiềm ẩn nguy cơ rủi ro trong hệ thống ngân
hàng. Đặc biệt theo Nguyễn Vĕn Tiến (2010),
nguyên nhân khiến cho ngân hàng phải đối
mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là
huy động và đi vay vốn thời gian ngắn, sử
dụng phương thức tuần hoàn để cho vay dài
hơn nhưng có thể xảy ra rủi ro không trùng
khớp về kỳ hạn đến hạn giữa tài sản có và tài
sản nợ. Điều này đã được hạn chế khi gần đây
thông tư 39/2016/TT-NHNN có hiệu lực đã
ban hành các quy định cho vay chặt chẽ hơn
và có điều kiện khi áp dụng.
Thứ ba, tỷ lệ cho vay trên huy động tiền
gửi ngắn hạn (LDR) với nguồn vốn huy động
ngắn hạn bao gồm tiền gửi khách hàng và tiền
huy động được từ các tổ chức tín dụng hay
trên thị trường tài chính, tỷ số này càng lớn
chứng tỏ ngân hàng cho vay cao hơn nhiều so
với nguồn vốn huy động được. Tương quan
đồng biến giữa biến số này và tĕng trưởng tín
dụng đã phản ánh phần nào sự bất ổn định
tài chính khi các cơ quan giám sát ngân hàng
không theo dõi chặt chẽ việc tuân thủ các chỉ
số an toàn hoạt động của NHTM.
Cuối cùng, bài nghiên cứu cho thấy vai
trò quan trọng của tác động tĕng trưởng kinh
tế đến tĕng trưởng tín dụng, có thể thấy rằng
để đáp ứng được
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20_18_5425_2165673.pdf