Tài liệu Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á dưới thời chính quyền Barack Obama: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00040
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 99-106
This paper is available online at
CHÍNH SÁCH TẬP HỢP LỰC LƯỢNG CỦA MỸ Ở ĐÔNG NAM Á
DƯỚI THỜI CHÍNH QUYỀN BARACK OBAMA
Phạm Hoàng Tú Linh
Phòng Tổ chức - Hành chính, Trường Đại học Dầu khí
Tóm tắt. Với việc phân tích chính sách “xoay trục” hướng về Đông Nam Á, tác giả khái
quát chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ tại Đông Nam Á. Từ những đánh giá này, bài
viết sẽ chỉ ra những lợi ích dẫn đến việc Mỹ tăng cường tập hợp lực lượng ở Đông Nam Á,
trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: “Nguyên nhân nào thúc đẩy Mỹ tiến hành tập hợp lực lượng
tại Đông Nam Á? Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á đã tác động tới các
nước trong khu vực như thế nào?” Trên cơ sở đó sẽ giúp dự báo được những tác động chính
sách tập hợp lực lượng của Mỹ tới Việt Nam trong nhiệm kì II của Tổng thống B. Obama.
Từ khóa: Đông Nam Á, Mỹ, chính sách tập hợp lực lượng, Tổng thống B. Obama.
1. Mở đ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á dưới thời chính quyền Barack Obama, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00040
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 99-106
This paper is available online at
CHÍNH SÁCH TẬP HỢP LỰC LƯỢNG CỦA MỸ Ở ĐÔNG NAM Á
DƯỚI THỜI CHÍNH QUYỀN BARACK OBAMA
Phạm Hoàng Tú Linh
Phòng Tổ chức - Hành chính, Trường Đại học Dầu khí
Tóm tắt. Với việc phân tích chính sách “xoay trục” hướng về Đông Nam Á, tác giả khái
quát chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ tại Đông Nam Á. Từ những đánh giá này, bài
viết sẽ chỉ ra những lợi ích dẫn đến việc Mỹ tăng cường tập hợp lực lượng ở Đông Nam Á,
trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: “Nguyên nhân nào thúc đẩy Mỹ tiến hành tập hợp lực lượng
tại Đông Nam Á? Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á đã tác động tới các
nước trong khu vực như thế nào?” Trên cơ sở đó sẽ giúp dự báo được những tác động chính
sách tập hợp lực lượng của Mỹ tới Việt Nam trong nhiệm kì II của Tổng thống B. Obama.
Từ khóa: Đông Nam Á, Mỹ, chính sách tập hợp lực lượng, Tổng thống B. Obama.
1. Mở đầu
Theo nhà nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực mới Stephen Walt, tập hợp lực lượng là biện pháp
để điều chỉnh tương quan lực lượng, đồng thời thực hiện các mục tiêu chính sách và cuối cùng là
bảo đảm các lợi ích quốc gia. Như vậy, Walt đã đề cập đến vấn đề lợi ích quốc gia và so sánh lực
lượng khi bàn tới nhu cầu tập hợp lực lượng, cụ thể là trường hợp của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình
Dương, nhằm cân bằng với Trung Quốc. Trong nền chính trị quốc tế hiện đại, “tập hợp lực lượng”
thể hiện tình trạng liên kết, hợp tác giữa các chủ thể, mà chủ yếu là các nhà nước với nhau. Có hai
yếu tố chính tác động tới quá trình tập hợp lực lượng của các quốc gia, đó là lợi ích quốc gia và so
sánh lực lượng.
Nhận chức vào tháng 01/2009 trong bối cảnh nước Mỹ đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh
tế trầm trọng do tác động từ sự sụp đổ của thị trường nhà đất Mỹ trong các năm 2007, 2008 và
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các cường quốc khác, Tổng thống B. Obama đã có sự điều chỉnh
chiến lược chính trị, an ninh và kinh tế khi chuyển trọng tâm chính sách từ Châu Âu, Trung Đông
sang Châu Á-Thái Bình Dương. Là một bộ phận của khu vực mà chính quyền Obama muốn tăng
cường can dự, Đông Nam Á nắm giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với các lợi ích về
kinh tế, an ninh và tự do hàng hải của Mỹ. Chính vì vậy, thông qua những chuyến thăm cấp cao và
các văn kiện hợp tác, chính quyền Obama đã tiến hành các hoạt động tập hợp lực lượng ở Đông
Nam Á nhằm tăng cường thắt chặt các mối quan hệ song phương và giúp cho Washington duy trì
được tầm ảnh hưởng chính trị, kinh tế và an ninh trong khu vực, hạn chế ảnh hưởng từ các cường
quốc khác (đặc biệt là Trung Quốc) ở Đông Nam Á.
Ngày nhận bài: 2/1/2015 Ngày nhận đăng: 10/6/2015
Liên hệ: Phạm Hoàng Tú Linh, e-mail: linhphamjeny@gmail.com
99
Phạm Hoàng Tú Linh
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở hình thành chính sách
Đông Nam Á luôn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong chiến lược toàn cầu của
Mỹ. Ở mỗi giai đoạn, chính sách của Mỹ đối với khu vực qua các đời Tổng thống đều có những
điều chỉnh và mức độ ưu tiên khác nhau. Nếu như chính quyền G.W.Bush do tập trung quá nhiều
thời gian vào chiến lược chống khủng bố nên đã xao nhãng khu vực Đông Nam Á, thì chính quyền
B. Obama lại coi khu vực này trở thành trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ bởi vai trò,
vị thế của khu vực Đông Nam Á ngày các tăng đối với nền chính trị, an ninh và kinh tế thế giới
trong thế kỉ XXI.
Dưới thời chính quyền G.W.Bush, mục tiêu chiến lược lâu dài của Mỹ tại Đông Nam Á như
sau: (i) ổn định khu vực và cân bằng lực lượng với mục tiêu chiến lược là không cho nước nào vươn
lên làm bá chủ tại Đông Nam Á; (ii) không để bị loại ra khỏi khu vực bởi một cường quốc hay một
liên minh nào; (iii) tự do lưu thông hàng hải; (iv) bảo vệ quyền lợi mậu dịch và đầu tư của Mỹ; (v)
ủng hộ đồng minh và các nước bạn bè; (vi) truyền bá dân chủ, chủ nghĩa pháp quyền, nhân quyền
và tự do tín ngưỡng; (vii) không để khu vực trở thành căn cứ địa của bọn khủng bố. Duy trì và phát
triển những mục tiêu cơ bản như chính quyền G.W.Bush đã theo đuổi vừa nêu trên, trong nhiệm kì
đầu của mình, Tổng thống B. Obama và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã phát triển chiến lược “tái
cân bằng” hay “xoay trục” sang Châu Á-Thái Bình Dương [2]. Với cách tiếp cận mới thông qua
“sức mạnh thông minh”, các mục tiêu chính sách của chính quyền Obama đối với Đông Nam Á
bao gồm năm nội dung chính: (i) làm mới quan hệ với các nước đồng minh, đối tác đồng thời ngăn
chặn các thách thức của thế kỉ XXI; (ii) nâng cao hiệu quả của chính sách đối ngoại trong việc kết
hợp lợi ích quốc gia của Mỹ với các nhu cầu chung của thế giới; (iii) tăng cường ngoại giao nhân
dân, đặc biệt đối với giới trẻ; (iv) tiếp tục hội nhập với nền kinh tế thế giới trong hài hòa lợi ích
giữa các bên; (v) xây dựng vai trò trung gian nhằm hình thành đồng thuận giữa các nước trong đối
phó với vấn đề an ninh năng lượng và biến đổi khí hậu [1].
Như vậy, qua phân tích sự tiếp nối trong mục tiêu chính sách Đông Nam Á giữa chính quyền
G.W.Bush và B. Obama, có thể thấy quá trình tập hợp lực lượng của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á
vẫn tuân theo logic chung là phục vụ lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, tại mỗi khu vực và với mỗi chính
quyền, Mỹ lại có những biện pháp và bước triển khai chính sách khác nhau.
Với chiến lược đặt trọng tâm tại khu vực Đông NamÁ, chính quyền B. Obama đã điều chỉnh
hàng loạt chính sách, tiến hành mọi biện pháp sử dụng mọi sức mạnh, nguồn lực và chính sách đối
ngoại để đạt được các mục tiêu mà mình đã đề ra. Thứ nhất, Mỹ tăng cường hợp tác và nâng cấp
quan hệ với ASEAN. Thứ hai, Mỹ can dự tích cực vào vấn đề biển Đông bằng phương pháp hòa
bình và đảm bảo tự do hàng hải theo cách tiếp cận đa phương trên cơ sở luật pháp quốc tế. Thứ
ba, Mỹ tích cực tham gia vào quá trình đàm phán Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Với mục tiêu tăng cường ảnh hưởng ở khu vực thông qua những điều chỉnh chính
sách quy mô lớn, đồng thời tăng tính cạnh tranh với Trung Quốc, nước mà Mỹ luôn nhìn nhận là
đối thủ chính ở khu vực.
2.2. Chính sách tập hợp lực lượng ở khu vực Đông Nam Á dưới thời B. Obama
2.2.1. Tập hợp theo đối tác
- Với đồng minh và các đối tác chiến lược
100
Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á dưới thời chính quyền Barack Obama
Trong quá trình triển khai chính sách đối với Đông Nam Á, Chính quyền Obama tiếp tục đặt
quan hệ với các nước đồng minh và đối tác chiến lược trong khu vực lên hàng đầu. Về an ninh-quân
sự, hiện Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Thái Bình Dương (USPACOM) đã xây dựng những mối liên hệ
chuyên môn sâu với các nước Philippines, Thái Lan và Singapore. “Hàng năm, USPACOM đều có
các cuộc tập trận chung với những nước này, chẳng hạn cuộc tập trận Vai kề vai với Philippines
và cuộc diễn tập Hổ Mang Vàng với Thái Lan” [3]. Trong năm 2012, Washington và đồng minh
đã tiến hành nhiều cuộc tập trận như cuộc tập trận giữa Mỹ - Philippines, Mỹ - Indonesia tại phía
nam biển Đông. Gần đây, từ ngày 11 đến 21/2/2013, tại khu vực Chiềng Mai, Thái Lan đã diễn ra
cuộc tập trận “Hổ Mang Vàng 2013” huy động 13.000 quân nhân từ Mỹ và 6 quốc gia Châu Á bao
gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan tham gia diễn tập trên bộ,
trên biển và trên không, với các nội dung huấn luyện chiến đấu, cứu trợ thiên tai, phản ứng nhanh
với các cuộc tấn công hóa học, sinh học, hạt nhân.
- Với các đối tác tiềm năng
Với Indonesia, Malaysia và Việt Nam, Mỹ cũng đã có các hoạt động tăng cường các mối
quan hệ. Indonesia với tư cách là một trong năm “Đối tác toàn diện” của Mỹ bắt đầu tham gia các
cuộc tập trận Hổ Mang Vàng với Thái Lan. Cuộc tập trận Garuda Shield vào năm 2013 có sự tham
gia của quân đội Indonesia và Mỹ trong các bài diễn tập hòa bình.
Mỹ xem quan hệ với Indonesia như một trụ cột cho quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông
Nam Á không chỉ vì Tổng thống B. Obama từng có thời gian sống tại quốc gia này. Là nước Hồi
giáo ôn hòa, một cường quốc kinh tế Đông Nam Á, một thành viên của G20, dân số đông thứ 4 thế
giới với 250 triệu người và thành viên trụ cột quan trọng của ASEAN, rõ ràng Indonesia có vai trò
ảnh hưởng nhất định tới khu vực.
Đối với Malaysia, Mỹ tiếp tục chú trọng quan hệ với nước này do vị trí chiến lược của nước
này tại eo biển Malacca và phía nam biển Đông. Mặc dù, nội bộ Malaysia có những đánh giá khác
nhau trong quan hệ với Mỹ, nhưng Chính quyền Obama xác định tăng cường quan hệ với quốc gia
này, Mỹ sẽ có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai chính sách tự do hàng hải, chống cướp
biến và khủng bố ở khu vực giao thoa giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Đông Nam Á và
Australia (thuộc Châu Đại Dương).
Với Việt Nam, Chính quyền B. Obama chủ động thúc đẩy một loạt các biện pháp nhằm tăng
cường quan hệ song phương. Quan hệ Việt-Mỹ trên các lĩnh vực như: Ngoại giao, kinh tế, văn hóa,
y tế và hỗ trợ nhân đạo đều có bước phát triển mới. Các quan chức quân sự Mỹ và Việt Nam bắt
đầu tiến hành ngày càng nhiều những cuộc đối thoại, trao đổi giao lưu về an ninh và quốc phòng.
Về kinh tế, thương mại hai chiều đã vượt con số kỉ lục 25 tỉ USD và Mỹ trở thành thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chính quyền B. Obama trong các phát biểu cho rằng tăng cường hợp
tác với Việt Nam không chỉ mang lại các lợi ích trong quan hệ song phương mà còn mang lại cho
Mỹ những thuận lợi nhất định trong triển khai chiến lược “xoay trục” sang khu vực Đông Nam Á.
Sự kiện hai nước thiết lập quan hệ “Đối tác hợp tác toàn diện” sau chuyến thăm của Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang tới Mỹ (7/2012) đã minh chứng quan hệ Việt-Mỹ có bước phát triển mạnh mẽ
sau gần 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.
Chính quyền B. Obama cũng thúc đẩy quan hệ với các nước còn lại như Brunei, Myanmar,
Lào và Campuchia. Năm 2012, Tổng thống B. Obama thăm Campuchia và Myanmar nhân dịp dự
Hội nghị cấp cao Đông Á, đáng chú ý là chuyến thăm của Ngoại trưởng Clinton tới Viêng Chăn
vào năm 2012 thể hiện rõ quan điểm hướng trọng tâm vào khu vực Đông Nam Á của Mỹ.
101
Phạm Hoàng Tú Linh
2.2.2. Tập hợp theo vấn đề
Tại khu vực Đông Nam Á, chiến lược tập hợp lực lượng của Mỹ thể hiện qua hàng loạt các
vấn đề thuộc về ba mục tiêu đó là an ninh, kinh tế và dân chủ.
- Tự do hàng hải
Là một quốc gia có lực lượng hải quân hùng mạnh và lượng hàng hóa lưu thương bằng
đường biển lớn nhất thế giới, Mỹ rất chú trọng tới khả năng tiếp cận các vùng biển quốc tế. Chính
vì vậy, tự do hàng hải là vấn đề Mỹ rất quan tâm khi tiến hành tập hợp lực lượng ở Đông Nam Á.
Quan điểm đối với vấn đề an ninh liên quan đến tự do hàng hải ở biển Đông được Ngoại trưởng
Hillary Clinton nhấn mạnh tại Diễn đàn khu vực ASEAN (7/2010). Mỹ đã hỗ trợ hình thành một
nỗ lực chung tầm cỡ khu vực nhằm bảo vệ quyền tiếp cận và tự do đi lại trên biển Đông. Nhờ động
thái tập hợp lực lượng này, Mỹ đã thực hiện một bước đi dài trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia liên
quan tới sự ổn định khu vực và tự do hàng hải. Đồng thời, chính quyền B. Obama đã triển khai
chính sách “sức mạnh thông minh” bằng cách thông qua ngoại giao đa phương với các bên có yêu
sách lãnh thổ ở biển Đông, tìm giải pháp hòa bình, tuân theo các nguyên tắc của Luật pháp quốc
tế phù hợp với lợi ích của Mỹ, bảo đảm ổn định khu vực và tăng cường hợp tác với Trung Quốc.
- Hợp tác kinh tế
Chiến lược trở lại Đông Nam Á của nước Mỹ ngoài ý đồ quân sự thì mục tiêu kinh tế
cũng đã được quan tâm trong các bước triển khai tập hợp lực lượng. Tại diễn đàn APEC ở Hawaii
(11/2011), B. Obama đã có phát biểu về tiến bộ trong các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), khẳng định hiệp định này có tầm quan trọng lớn đối với Mỹ và
mong muốn có sự hợp tác, liên kết kinh tế sâu rộng với các nước đang tham gia tiến trình đàm phán
TPP bao gồm các quốc gia Đông Nam Á. Tháng 7/2012, tại Campuchia, Ngoại trưởng H. Clinton
đã đồng tổ chức Diễn đàn Doanh nghiệp Mỹ-ASEAN lần đầu tiên và Sáng kiến đối tác kinh tế mở
rộng Mỹ-ASEAN. Tiến hành tập hợp lực lượng ở lĩnh vực kinh tế, Mỹ đã tham gia vào các thể chế
khu vực và bằng việc thông qua APEC, khuyến khích các quốc gia tham dự nhiều hơn vào Hiệp
định TPP.
- An ninh nguồn nước
Từ khi lên nắm quyền, chính quyền B. Obama đã bày tỏ mối lo ngại đặc biệt đối với sự gia
tăng ảnh hưởng của Trung Quốc và vấn đề an ninh nguồn nước trên sông Mê Kông. Nhằm giúp các
nước Đông Nam Á lục địa đối phó với các nguy cơ đối với an ninh lương thực, nguồn thủy sản do
các đập thủy điện trên sông Mê Kông. Mỹ đã hợp tác với các nước hạ nguồn sông Mê Kông, thành
lập cơ chế Sáng kiến hạ nguồn sông Mê Kông (LMI). Cơ chế này đã được các nước Campuchia,
Lào, Thái Lan và Việt Nam hưởng ứng. Nguyên nhân chính khiến chính quyền B. Obama can dự
vào vấn đề sông Mê Kông là ba mục tiêu nằm trong tổng thể chính sách “quay trở lại Đông Nam
Á” của Mỹ. Thứ nhất, Mỹ mong muốn mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á trong hoàn
cảnh có nhiều ý kiến cho rằng ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này đang suy yếu đáng kể từ sau thời
kì chiến tranh Việt Nam. Thứ hai, từ góc độ chiến lược đối với khu vực, việc thành lập cơ chế LMI
nhằm can thiệp vào Đông Nam Á lục địa là một bước đi cạnh tranh của Mỹ đối với sự trỗi dậy của
Trung Quốc. Thứ ba, việc Mỹ quan tâm tới khu vực hạ nguồn sông Mê Kông sẽ củng cố thêm mối
quan hệ toàn diện với ASEAN không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, ngoại giao, an ninh - quân
sự, mà có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế và chiến lược.
Đối với chính sách Đông Nam Á, mục tiêu xuyên suốt của Mỹ là xây dựng các mối quan hệ
mới cũng như duy trì các mối quan hệ truyền thống sẵn có với các nước ASEAN, coi đây là điều
102
Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á dưới thời chính quyền Barack Obama
kiện để Mỹ đảm bảo sự tiếp cận đầy đủ các địa bàn liên quan đến khu vực. Trong bối cảnh khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương có vai trò quan trọng ngày càng tăng thì thách thức đối với Nhà Trắng
chính là duy trì sự can dự và tầm ảnh hưởng ở Đông Nam Á thông qua các mặt quân sự, chính trị,
kinh tế và văn hóa.
2.3. Kết quả và tác động
2.3.1. Kết quả
Với sự điều chỉnh chiến lược, trong giai đoạn 2001-2012, Mỹ gia tăng hợp tác nhiều mặt
với các nước ASEAN, trong đó hợp tác an ninh-quân sự là một trong những trụ cột chính và đã đạt
được một số kết quả như sau:
Ở cấp độ đa phương, dưới thời Chính quyền Obama, Mỹ đã tận dụng và phát huy vai trò
tại các diễn đàn an ninh lớn của khu vực như ARF, EAS, ADMM+, Đối thoại Shangrila. Điều này
khác với Chính quyền của Tổng thống G. W. Bush. Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ cũng đã đề xuất
một loạt các sáng kiến mang tính đa phương có nội dung liên quan đến cuộc chiến chống khủng
bố như: Sáng kiến An ninh Công ten nơ (2002); Sáng kiến an ninh chống phổ biến vũ khí hủy diệt
hàng loạt (2003); Sáng kiến Megaports (2003); Sáng kiến An ninh hàng hải khu vực (2004). Trừ
Sáng kiến An ninh chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, ba sáng kiến còn lại đều liên quan
đến hàng hải, trong đó đối với Đông Nam Á là tuyến đường biển trọng yếu ở Biển Đông và eo
Malacca.
Ở cấp độ song phương, các cuộc diễn tập quân sự do Mỹ và Thái Lan (Hổ Mang Vàng) hay
Mỹ và Philippines (Vai kề vai) chủ trì là các điểm nhấn. Với quy mô ngày càng lớn trong những
năm gần đây, mức độ diễn tập với nhiều hạng mục phức tạp, đòi hỏi sự hiệp đồng tác chiến cao
giữa Quân đội Mỹ và các nước tham gia, nhất là nước chủ nhà, thu hút sự quan tâm lớn của các
nước trong khu vực. Gia tăng quy mô, lực lượng tham gia các cuộc tập trận này đã gửi một tín hiệu
đến Trung Quốc về mức độ thiện chiến và sẵn sàng của Quân đội Mỹ trong khu vực. Đồng thời,
Mỹ muốn tái khẳng định cam kết “sát cánh” cùng các đồng minh truyền thống, trấn an được các
nước này trước mối đe dọa ngày càng hiện rõ từ phía Trung Quốc.
Với sự tăng cường tập hợp lực lượng ở cả cấp độ đa phương và song phương giữa Mỹ và các
nước Đông Nam Á dưới Chính quyền Obama nhiệm kì I như đã nêu trên, có thể dự báo xu hướng
này sẽ được củng cố trong nhiệm kì II của Tổng thống Obama. Nỗ lực gia tăng ảnh hưởng đối với
ASEAN và từng nước thành viên sẽ tiếp tục là một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại
của Mỹ nhằm đối phó hiệu quả với sự thách thức ngày càng lớn của Trung Quốc, đảm bảo vị thế
lãnh đạo tại Châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ.
2.3.2. Tác động
- Mặt tích cực
Trên lĩnh vực chính trị: Sự trở lại và quan tâm nhiều hơn của Mỹ đối với Đông Nam Á đã
tạo thuận lợi cho chính sách “cân bằng quyền lực” của các nước ASEAN đối với các nước lớn. Mỹ
và các nước lớn khác như: Nga, Trung Quốc, EU, Nhật đều nhìn nhận Đông Nam Á có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng trên bàn cờ địa chính trị thế giới và gia tăng các hoạt động tranh giành
ảnh hưởng tại khu vực này. Chính sự cạnh tranh này đã làm nóng những mối quan hệ song phương
và đa phương ở khu vực, tác động sâu sắc tới chính sách chung của ASEAN và các nước thành
viên. Hiện nay, Mỹ đã công nhận ASEAN đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và thế giới, điều này giúp nâng cao vai trò, uy tín ASEAN trên
103
Phạm Hoàng Tú Linh
trường quốc tế và góp phần làm ổn định an ninh và hòa bình ở khu vực.
Trên lĩnh vực an ninh-quân sự: Mỹ sẵn sàng hợp tác trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ,
bán các phương tiện chiến đấu hiện đại, tăng cường tập trận chung với một số nước trong khu vực.
Điều này góp phần giúp các nước Đông Nam Á gia tăng tiềm lực quốc phòng đủ khả năng để bảo
vệ chủ quyền quốc gia và ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng phức
tạp.
Trên lĩnh vực kinh tế: Sự có mặt của Mỹ đã thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động thương mại,
đầu tư và viện trợ; tạo điều kiện cho các nước Đông Nam Á có thể thu hút được những tiềm năng
về vốn, khoa học-công nghệ của Mỹ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Kể từ năm 2002, chính quyền
Mỹ đã tăng cường quan hệ kinh tế với Đông Nam Á thông qua các bước triển khai “Kế hoạch hợp
tác ASEAN”, giúp các nước ở khu vực cải cách cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển, đặc biệt
là sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Chính quyền B. Obama còn đưa ra cam kết giúp đỡ
xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN, trở thành thị trường duy nhất, cơ sở sản xuất chung trong
những năm tới.
- Mặt tiêu cực
Thứ nhất, trọng tâm của chính sách xoay trục hướng vào Đông Nam Á của Mỹ là để duy trì
vị trí siêu cường số một thế giới. Vì vậy, thông qua chính sách tập hợp lực lượng, mở rộng hợp tác
với các nước trong khu vực, nhất là các nước đồng minh truyền thống. Mỹ muốn ngăn chặn không
cho các nước lớn thách thức vai trò lãnh đạo khu vực và thế giới của Washington, đặc biệt là Trung
Quốc. Các nước lớn trong khu vực như: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ vốn luôn trong trạng
thái vừa tìm cách ngăn chặn, kiềm chế lẫn nhau; vừa hợp tác, thỏa hiệp, chia sẻ lợi ích với nhau,
thậm chí mặc cả với nhau, khiến tình hình khu vực trở nên rất phức tạp và khó đoán định.
Thứ hai, do có sự khác biệt trong nhận thức giữa các nước thành viên của ASEAN nên sự
hiện diện của Mỹ ở Đông Nam Á sẽ làm phát sinh thêm các mâu thuẫn giữa các nước thành viên
về một số vấn đề nội khối cũng như giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài. Một số cơ chế trong
hoặc liên quan đến thành viên các nước ASEAN có sự tham gia của các nước lớn này nhưng không
có sự tham gia của các nước lớn khác, như: “ASEAN+6 không có Mỹ, TPP không có Trung Quốc,
EAS không có Nga và Mỹ...” [4]. Chính các cơ chế hợp tác có sự tham gia của các nước lớn đã đặt
ra thách thức cho các nước Đông Nam Á trong việc đảm bảo cân bằng giữa ủng hộ quan hệ với các
nước lớn bên ngoài với việc duy trì, củng cố, liên kết nội khối và cân bằng giữa các nước lớn.
Thứ ba, Việc Mỹ tăng cường tập hợp lực lượng tại Đông Nam Á trong bối cảnh tình hình an
ninh khu vực đang có nhiều diễn biến bất ổn cùng với các nhân tố khác tạo nên sự phức tạp trong
mối quan hệ an ninh-quốc phòng tại đây. Mỹ không phải là quốc gia duy nhất tăng cường viện trợ
quân sự hay bán vũ khí cho các nước Đông Nam Á vì vậy các nước này cần phải xem lại bài toán
hợp tác phát triển quan hệ kinh tế, an ninh - quân sự với Mỹ.
Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ tại Đông Nam Á đã gây tác động không nhỏ đến
hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Chính sách này của Mỹ tạo ra cho các nước ASEAN
những thuận lợi nhưng đồng thời cũng đặt họ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và những hệ
lụy khó đoán trước được trong tương lai.
2.4. Dự báo tác động tới Việt Nam
Nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam Á và với vai trò ngày càng tăng trong ASEAN, Việt Nam
cùng các nước trong Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng chiến lược ở khu vực
104
Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ ở Đông Nam Á dưới thời chính quyền Barack Obama
Châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, trong chiến lược tập hợp lực lượng, Mỹ không thể không tính
tới Việt Nam như một nhân tố để giành lợi thế trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn
khác ở Đông Nam Á.
Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, mong muốn tập hợp lực lượng của Mỹ với Việt Nam
được biểu hiện trong cuộc gặp bên lề Hội nghị APEC họp tại Hawaii (11/2011) với khẳng định
của Ngoại trưởng H. Clinton rằng Mỹ sẽ tiếp tục coi trọng và mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan
hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, trong đó có việc nâng tầm quan hệ, hướng tới “đối tác chiến
lược” [5]. Xu hướng tăng cường tập hợp lực lượng với Việt Nam cũng được thể hiện qua số lượng
các chuyến thăm của các quan chức cấp cao hai nước với nhau. Việc tăng cường quan hệ với cường
quốc số một thế giới mang lại cho Việt Nam cơ hội để nâng cao vị thế và hình ảnh một thành viên
tích cực của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình tập hợp lực lượng, Mỹ cũng gây sức ép
với Việt Nam về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo. Vì vậy, song song với những
thuận lợi của quá trình tập hợp lực lượng mang lại, Việt Nam cũng sẽ đương đầu với các thách thức
trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ các đòi hỏi về phổ biến các giá trị Mỹ ở
Việt Nam nhằm gây mất ổn định chính trị và lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
với Nhà nước và xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, hiện nay, quan hệ Việt - Mỹ có nền tảng khá vững chắc với Hiệp
định thương mại song phương (BTA) kí năm 2000 và Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) mà Mỹ dành cho Việt Nam vào tháng 11/2006. Giá trị thương mại hai chiều giữa hai nước
năm 2012 đạt gần 20 tỉ đôla. Năm 2010, Mỹ đứng thứ 6 trong số 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam đã cho thấy quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai nước đã tăng lên nhanh chóng
chỉ sau gần 20 năm bình thường hóa quan hệ. Trong thời gian tới, với chính sách tập hợp lực lượng
ở Đông Nam Á, Mỹ sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác với Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, trên cơ
sở phù hợp với lợi ích của hai quốc gia. Xu hướng này một mặt sẽ hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh
tế, nâng cao tiềm lực quốc gia, nhưng mặt khác cũng đặt ra những thách thức cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng, chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ sẽ tác động tới
Việt Nam xung quanh vấn đề tự do hàng hải và vấn đề biển Đông. Theo đó, với xu hướng Mỹ tăng
cường hợp tác quân sự với các quốc gia Đông Nam Á nhằm đảm bảo quyền tự do hàng hải ở khu
vực, Việt Nam sẽ có “đòn bẩy chiến lược” để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông. Nhằm bảo
vệ lợi ích của đồng minh và chính mình, Mỹ mong muốn sự hợp tác, chứ không phải xung đột tại
một trong những tuyến hàng hải quan trọng nhất thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp thách
thức trong việc xử lí tốt quan hệ với Trung Quốc mà vẫn đảm bảo những lợi ích chiến lược của
quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam phải nắm bắt được một thực tế rằng Mỹ và Trung Quốc là những
nước lớn, do đều coi lợi ích quốc gia là số một và tránh đối đầu nên họ có thể thỏa hiệp trong nhiều
vấn đề liên quan tới các nước nhỏ, vì vậy, đây sẽ là một khó khăn cho Việt Nam trong việc xử lí
mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc.
Như vậy, trong tương lai, chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ tại Đông Nam Á tác động
đến Việt Nam theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Một mặt, Mỹ muốn quan hệ với Việt Nam
để phục vụ cho chiến lược tập hợp lực lượng ở Đông Nam Á. Mặt khác, Mỹ muốn thông qua can
dự và tập hợp lực lượng để áp đặt các giá trị “dân chủ, nhân quyền” thúc đẩy cải cách kinh tế, chính
trị, từ đó có thể dẫn đến mất ổn định ở Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần có sách lược hợp lí, mềm
dẻo và linh hoạt để tối ưu hóa hiệu quả trong quan hệ với Mỹ, giúp quan hệ Việt - Mỹ phát triển
ổn định, đôi bên cùng có lợi.
105
Phạm Hoàng Tú Linh
3. Kết luận
Chính sách tập hợp lực lượng của Mỹ có những tác động to lớn đối với toàn khu vực Đông
Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính sách này của Mỹ không chỉ giúp củng cố những
mối quan hệ sẵn có với các đồng minh trong khu vực, mà còn cho phép Mỹ mở rộng tầm ảnh
hưởng thông qua thúc đẩy quan hệ với các đối tác mới, góp phần không nhỏ tới hòa bình và ổn
định khu vực. Tuy nhiên, xu hướng tập hợp lực lượng của Mỹ sẽ gia tăng trong nhiệm kì II của
Tổng thống B. Obama khi chính quyền của vị Tổng thống thứ 44 của nước Mỹ này được dự báo
sẽ tiếp tục duy trì chính sách tập hợp lực lượng như hiện nay đối với Đông Nam Á, thông qua đó
làm sâu sắc thêm quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh và đối tác ở khu vực. Quá trình tập hợp lực
lượng của Mỹ về cơ bản sẽ không thay đổi nội dung, nhưng cách thức và mức độ có thể có những
điều chỉnh nhất định cho phù hợp với tình hình mới. Quá trình tăng cường tập hợp lực lượng của
Mỹ tại Đông Nam Á do vậy dự báo sẽ còn diễn ra ít nhất trong bốn năm nhiệm kì hai của Tổng
thống B. Obama. Vì vậy, các nước trong khu vực, Việt Nam cần chú trọng nâng cao tính gắn kết
của khối ASEAN, và tăng cường tiềm lực quốc gia để có thể hạn chế tối đa những tác động tiêu
cực và tận dụng triệt để những lợi ích từ quá trình tập hợp lực lượng khu vực của Mỹ mang lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Fareed Zakaria, 2008. Thế giới hậu Mỹ. Nxb Tri thức, Hà Nội.
[2] Hillary Clinton, 2011. “America’s Pacific Century”, Phát biểu tại Trung tâm Đông Tây, Hawaii
(10/11/2011), truy cập tại www.state.gov/secretary/rm/2011/11/176999.htm.
[3] Mark E. Manyin (chủ biên), 2012. “Pivot to the Pacific? The Obama Administration’s
Rebalancing Toward Asia”. Báo cáo của CRS, số R42448, tại
R42448.pdf, truy cập ngày 6/4/2013.
[4] Richard L. Armitage & Joseph S. Nye, Jr., 2007. CSIS Commission on Smart Power: A
Smarter, More Secure America. Washington D.C: The CSIS Press, p.1.
[5] U.S. Department of State, 2009. “Remarks with Thai Deputy Prime Minister Korbsak
Sabhavasu”, ngày 21/7/2009 tại july/126271.htm,
truy cập ngày 10/4/2013.
ABSTRACT
U.S forces policy in Southeast Asia under the Barack Obama Administration
With the policy analysis “pivot” toward Southeast Asia, the generalized aggregation policies
set of US forces in Southeast Asia. From these assessments, the article points out the benefits
leading to enhanced aggregation US forces to Southeast Asia, the answer to the research question:
“What causes the US to promote conducted forces in Southeast Asia? How policy sets of US forces
in Southeast Asia had an impact on the countries in the region?”Based on that will help predict the
impact of the policy of the American forces to Vietnam in the second term of President B. Obama.
Keyword: Southeast Asia, US, generalized aggregation policies, President B. Obama.
106
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3583_phtlinh_0058_2193065.pdf