Chính sách phát triển ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay - Phú Văn Hẳn

Tài liệu Chính sách phát triển ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay - Phú Văn Hẳn: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 33Ngày nhận bài 5/8/2017; Ngày phản biện: 24/8/2017; Ngày duyệt đăng: 10/9/2017(1) Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; e-mail: phuvanhan@yahoo.com.vn 1.Vài nét về ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài người Kinh là dân tộc đa số, nước ta còn có 53 dân tộc thiểu số (DTTS). Hiện người DTTS là 13,39 triệu người (năm 2015), chiếm 14,6% dân số cả nước. Đến nay số người DTTS tăng không đáng kể (14,3%, năm 1999). Số dân của các DTTS không đồng đều. Có 19 dân tộc có số dân từ 100.000 người đến trên 1,6 triệu người; 18 dân tộc có từ 10.000 người đến dưới 100.000 người, 11 dân tộc có từ 1.000 đến dưới 10.000 người. Có 5 dân tộc có dân số dưới 1.000 người: Si La có 709 người; Pu Péo 687 người; Rơ-mâm 436 người; Brâu 397 người; Ơ-đu 376 người. Về ngôn ngữ các DTTS, bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, một số ngôn ngữ của người Tày, Thái, Mường (các tỉnh phí...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách phát triển ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay - Phú Văn Hẳn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 33Ngày nhận bài 5/8/2017; Ngày phản biện: 24/8/2017; Ngày duyệt đăng: 10/9/2017(1) Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; e-mail: phuvanhan@yahoo.com.vn 1.Vài nét về ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài người Kinh là dân tộc đa số, nước ta còn có 53 dân tộc thiểu số (DTTS). Hiện người DTTS là 13,39 triệu người (năm 2015), chiếm 14,6% dân số cả nước. Đến nay số người DTTS tăng không đáng kể (14,3%, năm 1999). Số dân của các DTTS không đồng đều. Có 19 dân tộc có số dân từ 100.000 người đến trên 1,6 triệu người; 18 dân tộc có từ 10.000 người đến dưới 100.000 người, 11 dân tộc có từ 1.000 đến dưới 10.000 người. Có 5 dân tộc có dân số dưới 1.000 người: Si La có 709 người; Pu Péo 687 người; Rơ-mâm 436 người; Brâu 397 người; Ơ-đu 376 người. Về ngôn ngữ các DTTS, bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, một số ngôn ngữ của người Tày, Thái, Mường (các tỉnh phía Bắc), Ê-đê (ở Tây Nguyên), Chăm (ở Ninh Thuận và Bình Thuận), Khmer (vùng Tây Nam Bộ) đã trở thành ngôn ngữ vùng. Trong khi đó, một số ngôn ngữ thiểu số khác như các ngôn ngữ Ơ-đu, Brâu, Rơ-mâm lại đang có nguy cơ bị mai một. Về mặt chữ viết, có 10 dân tộc sử dụng chữ viết cổ truyền: Tày (chữ Nôm Tày), Nùng (chữ Nôm Nùng), Thái (chữ Thái cổ), Lào (chữ Lào), Cao Lan (chữ Nôm Cao Lan), Mông (chữ Mông), Dao (chữ Nôm Dao), Chăm (chữ Thrah, chữ Jawi), Khmer (chữ Khmer), Hoa (chữ Hán). Một số dân tộc thuộc nhóm này xuất hiện chữ viết mới theo chữ cái La Tinh gần gũi với chữ phổ thông; Khoảng 23 dân tộc có chữ viết theo La Tinh: Tày-Nùng, Mông-Dao, Bru-Vân Kiều, Pacô, Cơtu, Xơđăng, Bana, Hrê, Giarai, Êđê, Chăm Hroi, Mnông, Cơho, Xtiêng, Ra-glai, Churu, Chơro...; Khoảng 24 dân tộc chưa có chữ viết riêng: Mường, Khơ-mú, Xinh-mun, Kháng, Thổ, Chứt, Nguồn Nhiều dân tộc thuộc nhóm này có nguyện vọng xây dựng chữ viết. 2.Một số chính sách liên quan ngôn ngữ dân tộc thiểu số Đảng và Nhà nước ta luôn có chính sách bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của các DTTS. Đến nay đã có nhiều văn kiện chính trị được ban hành và được nhắc lại nhiều lần trong các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ, chữ viết các DTTS Việt Nam: - Hội đồng Chính phủ (1969), Quyết định số 153-CP ngày 20/8/1969 “Về việc xây dựng, cải tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu số”; - Hội đồng Chính phủ (1980), Quyết định số 53-CP ngày 22/2/1980 “Về chủ trương đối với CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CHỖ HIỆN NAY Phú Văn Hẳn(1) Chính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là một trong những chính sách lớn và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong điều kiện một nước đa dân tộc như nước ta. Trong những năm qua, chính sách này đã đáp ứng được các vấn đề về dân tộc và ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, góp phần thiết thực vào thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên tại một số địa phương khi triển khai chính sách ngôn ngữ đối với dân tộc thiểu số dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp cụ thể, hình thức tổ chức thực hiện thích hợp với từng khu vực, từng dân tộc, thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức và phương pháp Khắc phục tình trạng đó sẽ khiến cho bức tranh chung về thực trạng giáo dục, sử dụng tiếng nói, chữ viết dân tộc trong các dân tộc thiểu số tại chỗ Việt Nam hiện nay sáng sủa hơn. Từ khóa: Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số; chính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số; giáo dục, sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 34 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 chữ viết của các dân tộc thiểu số”; - Uỷ ban Khoa học xã hội và Bộ Giáo dục (1980), Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục, ngày 30/11/1980; - Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1984), Quyết định số 240/QĐ ngày 5/3/1984 ban hành “Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt” áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục; - Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 8 (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; - Quốc hội (1998), Luật Giáo dục; - Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg ngày 9/9/2005 “Về phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010; - Quốc hội (2005), Luật Giáo dục; - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Dự án hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống quản lý đất đai Việt Nam (VLAP) sử dụng nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới. Khung kế hoạch dân tộc thiểu số; - Chính phủ (2010), Nghị định số 82/2010/ NĐ-CP ngày 15/07/2010 “Quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên”. Văn kiện Đại hội lần thứ nhất của Đảng (tháng 3/1935), về công tác trong vùng DTTS đã xác định: “Các dân tộc được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá..”. Chính sách bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các DTTS của Đảng và Nhà nước thể hiện đầy đủ nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Chủ trương đó đã quán triệt suốt các giai đoạn cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V, (khoá VIII) tiếp tục xác định: “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết các DTTS, đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào DTTS học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng dân tộc”. Các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và gần đây nhất năm 2013 đều khẳng định: các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Luật Giáo dục, Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Toà án, Luật Báo chí, Luật Xuất bản đều ghi rõ, cụ thể về quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của các DTTS. Năm 1961, Chính phủ có Nghị định số 206/ CP ngày 27/11/1961 phê chuẩn các phương án chữ Tày-Nùng, chữ Thái cải tiến; đồng thời quy định phạm vi, mức độ sử dụng các loại chữ đó. Năm 1964, Ban Bí thư Trung ương có Chỉ thị số 84-CT/TW, ngày 3/9/1964 về “Nhiệm vụ công tác giáo dục ở miền núi trong 2 năm 1964/1965 và 1965/1966”, khuyến khích tiếp tục nghiên cứu và mở rộng việc dạy chữ dân tộc trong trường học, đồng thời sử dụng rộng rãi chữ dân tộc trong đời sống hàng ngày. Chỉ thị số 84-CT/TW nêu rõ: “Sử dụng chữ dân tộc là nguyện vọng thiết tha của các dân tộc, cần tiếp tục nghiên cứu về mặt khoa học, đồng thời mạnh dạn sử dụng rộng rãi ba thứ chữ Tày-Nùng, Mèo, Thái trên sách báo, trong cơ quan hành chính và trong đời sống hàng ngày. Chống tư tưởng coi thường chữ dân tộc, ngại khó, không mạnh dạn phát triển việc học và sử dụng chữ dân tộc. Đi đôi với việc học tập chữ dân tộc, cần dạy chữ phổ thông ngay từ các lớp cấp I. Đảng đoàn Bộ Giáo dục và Ban Dân tộc Trung ương cần phối hợp để chỉ đạo và rút kinh nghiệm về vấn đề này”. Năm 1969, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 153-CP ngày 20/8/1969 “Về việc xây dựng, cải tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu số”, trong đó xác định cụ thể trách nhiệm của các ngành và các địa phương trong việc xây dựng và phổ biến chữ dân tộc. Sau thống nhất đất nước, Hội đồng Chính phủ tiếp tục có Quyết định số 53-CP (ngày 22/2/1980), tiếp tục khẳng định “Tạo điều kiện thuận lợi cho các DTTS phát triển nhanh về kinh tế và văn hoá, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đáp ứng nhu cầu chính đáng của DTTS và tăng cường sự thống nhất của Tổ quốc”. Từ sau đổi mới (1986 đến nay), Đảng, Nhà nước và chính quyền các tỉnh tiếp tục cụ thể Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 35Số 19 - Tháng 9 năm 2017 hơn các chính sách về ngôn ngữ DTTS, đã ban hành một số chính sách, chương trình nhằm xúc tiến việc giáo dục ngôn ngữ - chữ viết DTTS Việt Nam trong cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, cụ thể: - Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1997, Thông tư số 01/GD-ĐT ngày 3/2/1997 “Về hướng dẫn việc dạy học tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số”; - Thủ tướng Chính phủ, 2004, Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg ngày 9/11/2004 “Về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức ở các vùng dân tộc, miền núi”; - Thủ tướng Chính phủ, 2005, Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg ngày 9/9/2005 “Về phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010”; - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, Quyết định số 3/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/1/2006 ban hành “Chương trình khung dạy tiếng dân tộc thiểu số (có chữ viết) cho cán bộ, công chức, công tác ở vùng dân tộc thiểu số”; - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, Quyết định số 30/2006/QĐ-BGDĐT ngày 4/7/2006 ban hành “Chương trình dạy tiếng Chăm cho cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi”. Từ các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về ngôn ngữ, các cơ quan chức năng có liên quan và các địa phương có đồng bào DTTS đã tích cực triển khai thực hiện, đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng tiếng DTTS đối với cán bộ, công chức ở các vùng dân tộc, miền núi. Nhiều cán bộ công chức công tác ở vùng dân tộc đã thông qua các khoá học như vậy mà đã sử dụng được chữ và tiếng của DTTS trong vùng. Đây là một lợi thế trong công tác dân tộc. Trong khi đó người bản ngữ của nhiều DTTS vẫn còn nhiều vấn đề về ngôn ngữ cần giải quyết để có thể được học chữ và tiếng của chính dân tộc mình. Tiếng nói và chữ viết của mỗi DTTS ở Việt Nam vừa là vốn quý của dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá của toàn dân tộc. Thực hiện chính sách ngôn ngữ, ở các vùng DTTS, tiếng nói và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông. Mọi công dân Việt Nam dù bất cứ là dân tộc nào cũng đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập, sử dụng tiếng Việt. Tiếng Việt phổ thông là quốc ngữ, là ngôn ngữ chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là phương tiện giao tiếp, giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc Việt Nam. Thông qua tiếng Việt, các dân tộc các địa phương xích gần nhau hơn, thông hiểu nhau hơn, có thể cùng nhau phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật Khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc Việt Nam tiếp tục được tăng cường. 3.Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở vùng dân tộc thiểu số tại chỗ 3.1.Tình hình dạy và học tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số Nhiều DTTS tại chỗ không ngừng truyền thụ tiếng nói và chữ viết của mình. Từ năm 1959, chữ Thái, chữ Mông đã được chính quyền địa phương và cộng đồng các dân tộc tại chỗ tổ chức dạy và học trong các trường ở vùng. Năm 1961, tại Nghị định số 206/CP đã phê chuẩn các phương án chữ Thái được cải tiến từ chữ Thái thuộc hệ chữ Phạn cổ; chữ Tày-Nùng và chữ Mông theo mẫu tự La Tinh, việc dạy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc tại chỗ phía Bắc đã được triển khai trên diện rộng. Ở miền Nam, sau khi thống nhất đất nước, nhất là từ khi có Quyết định 53/QĐ-CP (1980), các DTTS tại chỗ ở tỉnh phía Nam, Tây Nguyên và Nam Bộ đã triển khai dạy và học song ngữ: tiếng Dân tộc và tiếng Việt phổ thông. Các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Chăm; các tỉnh vùng Tây Nam Bộ dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Khmer; thành phố Hồ Chí Minh dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Hoa. Việc tổ chức dạy tiếng nói, chữ viết DTTS tại chỗ có nhiều chuyển biến khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 01/GD-ĐT, ngày 3/2/1997 hướng dẫn việc dạy tiếng nói, chữ viết DTTS. Đến nay, Bộ đã xây dựng được 8 bộ chương trình cho 8 thứ tiếng DTTS, gồm: chữ Chăm, chữ Thái, chữ Bana, chữ Hán, chữ Mông và chữ Khmer, chữ Giarai, chữ Xơđăng. Các tài liệu đó đang được đưa vào áp dụng tại một số trường tiểu học có người DTTS tại chỗ theo học đông và trường phổ thông dân tộc nội trú. Bộ cũng đã chỉ đạo biên soạn các sách song ngữ tiếng Việt - tiếng dân tộc gắn nội dung kiến thức địa phương để sử dụng trong nhà trường, biên soạn các loại từ điển so sánh, đối chiếu: Tiếng dân tộc thiểu số - tiếng Việt, các sách sổ tay phương ngữ tiếng Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 36 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 Việt – tiếng dân tộc thiểu số dùng cho học sinh tiểu học. Hiện nay có trên 30 tỉnh, thành phố dạy tiếng DTTS trong chương trình phổ thông tiểu học như: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Thanh Hoá, Nghệ An, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum, An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh Năm 2005, khi Luật Giáo dục (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 7, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Ủy ban Dân tộc và các cơ quan chức năng liên quan xây dựng Nghị định của Chính phủ “Quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số”. Thời gian qua ở nhiều địa phương có đồng bào DTTS tại chỗ cư trú đông, tập trung đều có những quan tâm và có những biện pháp thực hiện chính sách ngôn ngữ và nhu cầu ngôn ngữ. Hiện nay, ngoài các dân tộc Êđê, Chăm, Hoa, Khmer duy trì được truyền thống giáo dục ngôn ngữ và chữ viết dân tộc, các dân tộc khác đều không duy trì được hoặc duy trì rất cầm chừng việc giáo dục ngôn ngữ và chữ viết cổ truyền hoặc chữ La tinh hoá. Còn những DTTS chưa từng có chữ viết thì địa phương đó ít hăng hái xúc tiến việc xây dựng hệ thống chữ viết và lộ trình để phổ biến, duy trì. Ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên, trường hợp của tiếng Bru-Vân Kiều và chữ Bru- Vân Kiều là một trường hợp rất điển hình. Từ năm 1959 đến năm 1986, đã có đến ba bộ chữ La tinh hoá được xây dựng cho tiếng Bru-Vân Kiều ở Việt Nam, nhưng việc triển khai áp dụng đều bị gián đoạn (Lý Tùng Hiếu - Phú Văn Hẳn, Ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Nam Bộ, Hội thảo khoa học của Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, 2011) Trên địa bàn Trường Sơn - Tây Nguyên có 21 dân tộc tại chỗ. Hầu hết các ngôn ngữ DTTS đó đều đã có chữ viết từ lâu. Thế nhưng chỉ có tiếng và chữ Êđê là đã và đang tiến hành dạy ở các cấp lớp 3, 4, 5 bậc tiểu học, triển khai thử nghiệm ở bậc trung học cơ sở các trường dân tộc nội trú của tỉnh Đăk Lăk. Tiếng và chữ Giarai vẫn đang tiếp tục thử nghiệm ở các lớp 3, 4, 5 bậc tiểu học trên địa bàn Đăk Lăk, Kon Tum. Tương tự, tiếng và chữ Bana cũng đưa vào giảng dạy song ngữ ở ba cấp lớp 3, 4, 5 trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Tại tỉnh Đăk Nông, sau khi thành lập tỉnh năm 2004, một số cán bộ lãnh đạo tỉnh đã bày tỏ quyết tâm đưa bộ chữ Mnông vào giảng dạy cho học sinh dân tộc Mnông bên cạnh chữ phổ thông. Việc truyền thụ ngôn ngữ DTTS cho người bản ngữ đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển giáo dục ở vùng dân tộc, ổn định chính trị, nâng cao dân trí, bảo tồn văn hoá truyền thống và phát triển cộng đồng vùng các DTTS tại chỗ. Việc dạy tiếng nói, chữ viết DTTS còn phát huy được sự tham gia của cộng đồng vào sự nghiệp phát triển giáo dục, thực hiện tích cực quá trình xã hội hoá giáo dục và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng DTTS. 3.2.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong các hoạt động văn hoá Cùng với chữ Quốc ngữ, chữ viết của các DTTS đã được sử dụng trong các hoạt động văn hoá, trong sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian, trong sáng tác văn học nghệ thuật Một số tác phẩm văn học dân gian các DTTS như: Sống Trụ xôn xao (dân tộc Thái), Tiếng hát làm dâu (dân tộc Mông), Đăm San, Xinh Nhã (dân tộc Êđê), Luật tục (dân tộc Giarai, dân tộc Mnông), Devamano, Ariya Cham – Bini, Muk Chruh Palei (dân tộc Chăm) đã được giới thiệu rộng rãi trong cả nước. Điều đó giúp cho tiếng nói, chữ viết của các DTTS tồn tại và phát triển về ngôn ngữ, đồng thời làm giàu kho tàng văn học nghệ thuật của các dân tộc Việt Nam. Các ngôn ngữ DTTS luôn được khuyến khích và tôn vinh trong các hoạt động văn hóa. Nhiều lễ hội, nhiều làn điệu dân ca, dân vũ, các trò chơi dân gian của các DTTS nhờ vậy được bảo tồn, giữ gìn và phát huy, như các bài hát giao duyên của dân tộc Dao; hát Then của dân tộc Tày; lễ cầu mưa của dân tộc Chăm; sử thi các dân tộc Tây Nguyên; mo Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường; ngày hội Chol-Chnăm-Thmây của dân tộc Khmer; lễ hội Xên cẩu nó, Ksai sà síp của dân tộc Xinh-mun Các ngày hội văn hoá của các DTTS như lễ hội văn hoá dân tộc Khmer, dân tộc Chăm, dân tộc Hoa, dân tộc Mông và các ngày hội văn hoá các dân tộc khu vực Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, được tổ chức và khuyến khích sử dụng ngôn ngữ (cả tiếng và chữ) nhằm giới thiệu bản sắc văn hoá độc đáo của các DTTS Việt Nam với công chúng cả nước và bạn bè quốc tế. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 37Số 19 - Tháng 9 năm 2017 Các đợt nghiên cứu, sưu tầm ở khắp tỉnh, thành phố trong cả nước, thông qua ngôn ngữ dân tộc đã thu thập được hàng ngàn trang tài liệu, phim ảnh tư liệu, băng hình về văn hoá các DTTS. Đến nay, hàng loạt các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc được biên soạn, các từ điển đối chiếu như Việt - Tày Nùng, Thái - Việt, Mông - Việt, Việt - Chăm, Chăm - Việt, Việt - Khmer, Khmer - Việt được xuất bản các tài liệu ngữ pháp tiếng dân tộc, như ngữ pháp tiếng Giarai, tiếng Bana, tiếng Chăm, và một số dân tộc khác đã được công bố. Công tác nghiên cứu vấn đề tiếng nói, chữ viết của các DTTS tiếp tục được chú ý. 3.3.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong thông tin tuyên truyền Từ khá sớm, ngôn ngữ DTTS tại chỗ đã được quan tâm phát sóng. Từ năm 1956 Đài Tiếng nói Việt Nam đã thực hiện chương trình phát thanh tiếng DTTS với các tiếng dân tộc Giarai, Bana, Êđê, Hrê, Mnông, Mạ. Năm 1959, phát thanh tiếng Thái - Mông (khu tự trị Tây Bắc). Năm 1961, phát thanh tiếng Tày - Nùng (khu vực trị Việt Bắc). Tiếp theo là chương trình tiếng Mông - Dao. Đài Tiếng nói Việt Nam đã chuyển tải các nội dung phản ánh cuộc sống mới, con người mới lao động sản xuất, học tập xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến đấu và phục vụ chiến đấu của đồng bào các DTTS cả nước trong quá trình đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Ngày 28/8/1980, Đài Tiếng nói Việt Nam đã có Quyết định số 215- QĐ/ĐFT về việc thành lập Phòng chương trình phát thanh tiếng Khmer; tiếp theo là Quyết định số 201/2001/QĐ-ĐFT ngày 12/6/2001 về bố trí các chương trình tiếng dân tộc của Đài Tiếng nói Việt Nam tại các tỉnh Tây Nguyên và một số quyết định về phát thanh tiếng dân tộc khác như dân tộc Thái, Mông, Chăm Đến nay Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát thanh hơn 13 thứ tiếng DTTS: Khmer, Chăm, Êđê, Giarai, Bana, Cơho, Xơđăng, Mông, Dao, Thái Ngày 01/10/2004, thành lập Hệ phát thanh tiếng dân tộc (VOV4). Thời lượng phát sóng từ 90 phút đến 150 phút/ngày, phát cả 3 buổi sáng, trưa, tối. Tổng thời lượng phát sóng của các chương trình DTTS trong Hệ phát thanh tiếng dân tộc là hơn 30 giờ/ngày. Các buổi phát thanh tiếng DTTS được các cơ quan chức năng các cấp sắp xếp, bố trí thời gian, thời lượng hợp lý để đồng bào thụ hưởng được nhiều nhất từ tiếng dân tộc trên sóng điện. Dự án “Mở rộng mạng phủ sóng phát thanh các chương trình văn hoá - xã hội và các chương trình bằng tiếng dân tộc trong khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ giai đoạn 2006-2010” (Văn bản số 1835/TTg-VX, ngày 10/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ) của Đài Tiếng nói Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho triển khai thực hiện. Về truyền hình, Chính phủ đã ra Nghị định số 96/2003/NĐ-CP ngày 20/8/2003, Quy định cơ cấu bộ máy tổ chức của Đài Truyền hình Việt Nam có Ban Truyền hình tiếng dân tộc. Tiếp theo có Quyết định số 622/QĐ-THVN ngày 8/6/2004 của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Truyền hình tiếng dân tộc (Chương trình VTV5). Chương trình này phát 12 giờ/ngày so với năm 2005 và tăng gấp 3 lần so với giai đoạn phát sóng thử nghiệm, với 10 ngôn ngữ: Mông, Thái, Êđê, Giarai, Bana, Xơđăng, Cơho, Khmer, Chăm, Xtiêng. Theo lộ trình phát triển của kênh VTV5, thời lượng tăng 20 giờ/ngày với 19 thứ tiếng (nay đã nhiều hơn, 2017). VTV5 đã phản ánh nhiều mặt trong cuộc sống kinh tế, văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế, khoa học đời sống đến đồng bào các DTTS. Truyền hình bằng tiếng dân tộc VTV5 đã mang đến nhiều thông tin quan trọng, góp phần nâng cao dân trí ở vùng DTTS tại chỗ. Ở các địa phương có đông đồng bào DTTS, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh cũng đã dành thời lượng nhất định để phát thanh bằng tiếng DTTS tại chỗ về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của cấp uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân. Thông qua ngôn ngữ dân tộc tại chỗ, Đài Phát thanh và Truyền hình địa phương còn phổ biến khoa học kỹ thuật, nêu những gương mặt điển hình xuất sắc về lao động giỏi, làm giàu của một số hộ gia đình. Sách, báo, tạp chí, tranh ảnh bằng tiếng DTTS đã được một số địa phương phát huy trong in ấn, trên pa nô, áp phích trong những ngày lễ lớn, các kỳ bầu cử, đại hội Đảng, phát động các phong trào thi đua yêu nước. Một số ấn phẩm được in bằng cả tiếng dân tộc và tiếng Việt phổ thông để tuyên truyền về pháp luật, sách về môi trường, về y tế, giáo dục, trong đó Bản tin ảnh Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 38 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 Dân tộc và Miền núi do Thông tấn xã Việt Nam phát hành in bằng chữ dân tộc Êđê, Bana, Giarai, Khmer và Chăm cùng với các báo, tạp chí cấp không thu tiền cho vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đã thiết thực góp phần tuyên truyền hiệu quả ở vùng đồng bào DTTS. 3.4.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong công tác tư pháp Hiến pháp đã quy định Toà án Nhân dân đảm bảo cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc được quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà. Các Bộ luật Tố tụng Hình sự (năm 1988 và sửa đổi, bổ sung năm 1992), Luật Tổ chức Toà án Nhân dân năm 1992, Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự năm 1999 đều quy định cụ thể các DTTS có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc trước Toà. Hiện nay, trong các hoạt động tư pháp, người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết DTTS của mình thông qua phiên dịch sang tiếng và chữ dùng trong tố tụng là tiếng Việt Quốc ngữ. Toà án cho phép cử người phiên dịch tiếng dân tộc đối với công dân là người DTTS trong quá trình tố tụng, xét xử Như vậy tiếng nói và chữ viết của các DTTS được Nhà nước tôn trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển, đã góp phần xoá mù chữ dân tộc ở một số vùng mà đồng bào ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông; đáp ứng yêu cầu của đồng bào về việc dùng chữ dân tộc ghi sổ sách, viết thư từ, chép tư liệu văn học dân gian và tiến hành công tác thông tin, tuyên truyền ở địa phương. Một số ngôn ngữ DTTS đã được dạy và học ở các trường phổ thông. Bên cạnh đó, tiếng nói và chữ phổ thông ngày càng được phổ cập sâu rộng trong cộng đồng các DTTS với tư cách là ngôn ngữ chung của cả nước, đã và đang góp phần thiết thực thúc đẩy sự phát triển các mặt ở các vùng DTTS. 4.Vấn đề đặt ra trong chính sách đối với các ngôn ngữ thiểu số Đi đôi với thành tựu là những vấn đề bất cập trong chính sách và thực hiện chính sách đối với các ngôn ngữ thiểu số. Theo chúng tôi, những vấn đề bất cập đó là: - Việc thực hiện Quyết định số 53/QĐ-CP đến nay đã có những đóng góp nhất định giúp các dân tộc bảo tồn và phát huy hiệu quả ngôn ngữ của mình. Tuy nhiên vẫn cần đánh giá những mặt mạnh và những tồn tại để có giải pháp phát triển bền vững tiếng nói, chữ viết các DTTS tại chỗ. - Việc thực hiện chính sách ngôn ngữ thật sự chưa có sự chỉ đạo thống nhất, do đó mỗi địa phương đều thực hiện theo yêu cầu thực tế của địa phương mình. Vì vậy có những địa phương triển khai tương đối tốt, nhưng ngược lại cũng có địa phương thực hiện chưa tốt, hoặc không triển khai thực hiện. - Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc tại chỗ chưa chặt chẽ và đồng bộ, chưa thường xuyên. - Việc sử dụng tiếng và chữ dân tộc trong các công tác giáo dục, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền còn chưa sát với tình hình kinh tế, chưa phục vụ tốt nhu cầu đồng thời vừa học tốt chữ phổ thông và chữ DTTS tại chỗ. - Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và soạn sách giáo khoa bằng chữ dân tộc còn nhiều điều bất cập. - Trong nhận thức của các ngành, các cấp và ngay trong đồng bào DTTS (nhất là lớp trẻ) có quan niệm cho rằng việc bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số là không quan trọng, không cần thiết trước xu thế toàn cầu hoá về ngôn ngữ, về thông tin. Những bất cập, hạn chế này rất cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chứ không phải của riêng ngành giáo dục, với những lộ trình cụ thể và những giải pháp thiết thực. Tài liệu tham khảo [1] Barker, Colin (1996), Foundation of bilingual education and bilingualism, second edition, L’levedon, Philadelphia, Adelaide; [2] Coèdes, G. (1948), “Les langues de l’Indochine”, Extrait des conférences de l’Institut de Linguistique de l’Université de Paris, T.VIII, année 1940-1948; [3] Diffloth, Gerard (2003),“Tiếng Khmer”, Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 439- 452; [4] Francis, John de (1977), Colonialism and language policy in Vietnam, The Hague; [5] Hoffmann Charlotte (1991), An introduction to biligualism, Longman, London Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 39Số 19 - Tháng 9 năm 2017 and New York; [6] Ladefoged Peter & Ian Madieson (1997), The sounds of the world’s languages, Blackwell; [7] Ladefoged Peter (2007), Phonetic data analysis. Introduction to fildwork and instrumental techniques, Blackwell; [8] Thompson, Laurence C. (1965), A Vietnamese grammar, University of Washington Press, Seattle; [9] Đinh Lư Giang (2004), Tình hình song ngữ Việt - Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long (trường hợp ấp Trà Sết, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng), Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; [10] Phú Văn Hẳn & Jerold Edmonson (1990), “Eastern Cham as a tone language”, Mon-Khmer Studies, 20; [11] Phú Văn Hẳn (chủ biên) (2005), Đời sống văn hóa & xã hội người Chăm thành phố Hồ Chí Minh, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; [12] Phú Văn Hẳn (2006), Hiện trạng nghiên cứu khoa học xã hội về người Chăm Nam Bộ (1996 – 2006) và những mục tiêu nghiên cứu trước mắt, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; [13] Phú Văn Hẳn (2011), Một số vấn đề về dân tộc nhằm phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Đề tài Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; [14] Ngô Văn Lệ, 2017, Nghiên cứu tộc người và văn hóa tộc người: Tiếp cận Nhân học phát triển, NXB. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; [15] Võ Công Nguyện, (Chủ nhiệm đề tài), 2011, Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ: Lịch sử và hiện trạng đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước trong Đề án khoa học xã hội cấp Nhà nước: Qúa trình hìh thành và phát triển vùng đất Nam Bộ (đã nghiệm thu năm 2011); [16] Nguyễn Văn Tiệp (Chủ nhiệm đề tài), 2013, Chính sách dân tộc của chính quyền VNCH và tác động của nó đối với vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc Tây Nguyên (đã nghiệm thu năm 2013); [17] Đinh Lê Thư chủ biên (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; [18] Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, NXB. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội; [19] Đặng Nghiêm Vạn, 1993, Quan hệ tộc người trong quốc gia dân tộc, NXB. Khoa học Xã hội; [20] Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Quan hệ tộc người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, NXB. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh; [21] Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội; [22] Thạch Ngọc Minh (1996), “The phenomenon of monosyllab lization in the Kiengiang dialect of Khmer”, Proceeding of the IV International Symposium on Languages and Linguistics, January 8-10/1996. Vol. V, pp. 1780-1798. DEVELOPMENT POLICY IN ETHNIC LANGUAGES AT PRESENT Abstract: Ethnic minority language policy is one of the major and important policies of our Party and State, in the context of a multi-ethnic country like our country, responding to ethnic and linguistic problems in Vietnam, contributing to practical implementation of the policy of national unity. However, in some localities where language policy is applied to ethnic minorities, there has been few new ideas, general arguments, lack of plans, targeted programs and systems of specific measures and good forms of implementation to each region and each ethnic group, lacking a cadre of cadres who have good knowledge and training methods. Keywords: Languages of ethnic minorities; policy on the language of ethnic minorities; education, use of spoken and written languages of ethnic minorities.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf189_814_1_pb_9898_2151987.pdf
Tài liệu liên quan