Tài liệu Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam: Góc nhìn lịch sử và pháp lý - Bùi Nghĩa: 109
CHÍNH SÁCH PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI
VIỆT NAM: GÓC NHÌN LỊCH SỬ VÀ PHÁP LÝ
Bùi Nghĩa*, Nguyễn Hữu Hoàng**
TÓM TẮT
Từ năm 2011, dân số Việt Nam chính thức
bước vào thời kỳ già hóa trong khi vẫn còn là
một nước nghèo, đang phát triển. Đi ngược lại
cách tiếp cận phổ biến khi nghiên cứu chính
sách người cao tuổi (NCT) là nhà nước với
vai trò là chủ thể chính sách cần tăng cường
cung cấp phúc lợi xã hội để người cao tuổi
thụ hưởng, tiếp nhận một cách thụ động. Bài
viết tiếp cận ở góc độ tương đối mới mẻ khi
nhìn nhận NCT là nguồn lực to lớn của đất
nước và việc có chính sách thúc đẩy, khuyến
khích, phát huy vai trò của họ trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội hiện nay là việc làm
hết sức cần thiết, góp phần tạo ra thế hệ NCT
thích ứng chủ động với già hóa dân số; đồng
* ThS. NCS, Học viện Chính trị khu vực II – 0919.330.555 – Email: buinghia72@gmail.com
** CN, học viên cao học, Học viện Chính trị khu vực II. ĐT: 016 335 13343;
Email: huuho...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 799 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam: Góc nhìn lịch sử và pháp lý - Bùi Nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
109
CHÍNH SÁCH PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI
VIỆT NAM: GÓC NHÌN LỊCH SỬ VÀ PHÁP LÝ
Bùi Nghĩa*, Nguyễn Hữu Hoàng**
TÓM TẮT
Từ năm 2011, dân số Việt Nam chính thức
bước vào thời kỳ già hóa trong khi vẫn còn là
một nước nghèo, đang phát triển. Đi ngược lại
cách tiếp cận phổ biến khi nghiên cứu chính
sách người cao tuổi (NCT) là nhà nước với
vai trò là chủ thể chính sách cần tăng cường
cung cấp phúc lợi xã hội để người cao tuổi
thụ hưởng, tiếp nhận một cách thụ động. Bài
viết tiếp cận ở góc độ tương đối mới mẻ khi
nhìn nhận NCT là nguồn lực to lớn của đất
nước và việc có chính sách thúc đẩy, khuyến
khích, phát huy vai trò của họ trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội hiện nay là việc làm
hết sức cần thiết, góp phần tạo ra thế hệ NCT
thích ứng chủ động với già hóa dân số; đồng
* ThS. NCS, Học viện Chính trị khu vực II – 0919.330.555 – Email: buinghia72@gmail.com
** CN, học viên cao học, Học viện Chính trị khu vực II. ĐT: 016 335 13343;
Email: huuhoang.hcma2@gmail.com
thời, thúc đẩy giải quyết hiệu quả các vấn
đề vĩ mô khác của quốc gia. Thông qua việc
tìm hiểu, phân tích các tư liệu, dữ kiện và hệ
thống văn bản gắn với các chủ thể chính sách
trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, bài viết
là sự nhìn nhận, đánh giá một cách khá toàn
diện, đa chiều về tiến tình hình thành, phát
triển của chính sách phát huy vai trò NCT ở
góc độ lịch sử, pháp lý. Kết quả bài nghiên
cứu này sẽ cung cấp những căn cứ lý luận và
thực tiễn sinh động nhằm thúc đẩy, bổ sung
và hoàn thiện chính sách này trong thời gian
tới ở Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách người cao tuổi, lịch
sử, pháp lý, vai trò người cao tuổi, Việt Nam.
VIETNAMESE PEOPLE’S COMMITTEE POLICY:
HISTORY AND LEGAL VISIT
ABSTRACT
From 2011, Vietnam’s population officially
entered the age of aging while still a poor,
developing country. Contrary to popular
approach, the elderly policy research (NCT) is
the state as the subject of policy to strengthen
the provision of social welfare for the elderly to
receive, receive passive, the article approaches
a relatively new perspective when the NCT is
a great resource of the country and the policy
to promote, promote and promote their role in
the fields of life It is necessary to contribute
to the generation of active adults with aging
population; At the same time, promote effective
resolution of other macroeconomic problems of
the country. Through researching and analyzing
data, data and textual systems associated
with policy subjects throughout the history
of the nation, the article is a comprehensive,
Multi-dimensional development progress,
development of policies to promote the role of the
elderly in the historical and legal. The results of
this study will provide theoretical and practical
basis to promote, supplement and improve
this policy in the coming time in Vietnam.
Keywords: Elderly policy, history,
juridical, role of the elderly, Vietnam
Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt nam...
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. LUẬN GIẢI VỀ TÍNH CẤP THIẾT
TRONG NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH
PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI Ở
GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ
Theo dự báo, đến năm 2038, người cao
tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm khoảng 20% tổng
dân số - tăng gấp ba lần trong vòng 24 năm,
đến năm 2050, nước ta sẽ trở thành nước
“siêu già”. Trong khi NCT ở một số nước
như Thái Lan, Xingapo, Nhật Bản, Hàn
Quốc,... sau khi về hưu vẫn có nhu cầu lao
động, có cơ hội, được khuyến khích tiếp tục
cống hiến trí tuệ, kinh nghiệm, khẳng định
vai trò của mình đối với xã hội và giảm đến
mức tối thiểu sự phụ thuộc vào gia đình thì
phần lớn NCT ở Việt Nam vẫn có tư duy “lão
lai tài tận” (già là hết tài), “lão giả an chi” (an
hưởng tuổi già); sau khi nghỉ hưu cần được
nghỉ ngơi, dành thời gian cho con cháu, chăm
sóc vườn tược, phải được con cháu phụng
dưỡng, chăm sóc, được xã hội và nhà nước
quan tâm, kính trọng, chăm lo. Đây là thực
tế đáng quan tâm và cũng thách thức các nhà
nghiên cứu chính sách NCT hiện nay.
Việt Nam là quốc gia mang đậm dấu ấn
văn hóa Á Đông, vốn coi trọng vai trò, vị thế
NCT. Đặc biệt, thời kỳ già hóa dân số ở nước
ta diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn
lạc hậu, tăng trưởng chậm, lực lượng lao động,
nhất là lao động có tay nghề, kinh nghiệm và
kỹ thuật cao đang khan hiếm,... thì tính bức
thiết của chính sách phát huy vai trò NCT cần
phải được lưu tâm trên bàn nghị trình chính
sách. Điều này thể hiện ở các mặt sau:
Một là, NCT sẽ có vị trí, vai trò ra sao
trong hành trình phát triển của đất nước luôn
là thách thức các nhà hoạch định chính sách?
Bởi lẽ, nếu xét ở khía cạnh quản lý vĩ mô quốc
gia, trong bối cảnh lực lượng lao động nước ta
tuy đông nhưng vẫn còn thấp, yếu về chuyên
môn thì việc tận dụng hợp lí đội ngũ nhân lực -
NCT có tay nghề cao thực sự là điều cần thiết,
hợp lí và trở thành nhu cầu tất yếu trong quá
trình phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Theo
Báo cáo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
giai đoạn 2015 - 2016 thì chỉ số cạnh tranh
nguồn nhân lực của Việt Nam hiện mới chỉ
đạt 3,39/10 điểm. Trong tổng số hơn 53,4 triệu
lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc, chỉ
có khoảng 49% qua đào tạo, trong đó qua đào
tạo nghề từ 3 tháng trở lên chỉ chiếm khoảng
19%1. Đây là dấu hiệu cho thấy Việt Nam
đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công
nhân kỹ thuật bậc cao. Do vậy, các nhà hoạch
định chính sách NCT Việt Nam cần có lộ trình
và giải pháp cụ thể để giải quyết bài toán lớn
có vẻ mâu thuẫn giữa “việc gia tăng phúc lợi,
thụ hưởng dành cho NCT” và “khuyến khích
họ tiếp tục tham gia thị trường lao động, phát
huy vai trò của mình” thời gian tới.
Hai là, ở góc độ đối với NCT, thực tế cho
thấy, nhu cầu được tiếp tục tạo điều kiện để
tham gia lao động, cống hiến, truyền thụ tri
thức, tinh hoa, kinh nghiệm,... và đóng góp
tích cực cho xã hội không phải quá “hiếm” ở
nước ta hiện nay. Theo kết quả điều tra của
Ủy ban quốc gia về người cao tuổi năm 2007,
có 15,4% NTC tham gia cấp ủy địa phương,
60,3% NCT tham gia các cuộc họp với cộng
đồng nhằm xây dựng tổ chức Hội NCT, 3,7%
NCT đang tham gia quản lý cộng đồng 2,
28,9% NCT vẫn trực tiếp sản xuất, kinh doanh
1 Đình Phương (2016), Xếp hạng chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động Việt Nam có thể thua ngay
trên sân nhà, website:
dong-viet-nam-co-the-thua-ngay-tren-san-nha-20160815145048708.chn, ngày đăng tải: 15/8/2016
2 Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn hóa người cao tuồi, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
tr.23-24.
111
dịch vụ 1,... Điều này phản ánh tư duy mới,
tiến bộ, hợp xu thế chung của NCT; đồng thời,
càng củng cố và thể hiện rõ vị thế, vai trò đặc
biệt quan trọng của NCT trong sự nghiệp đổi
mới của đất nước hiện nay.
Ba là, chúng ta đều thừa nhận rằng hệ
thống phúc lợi cho NCT ở nước ta đang thực
sự “quá tải”, chưa thực sự “phủ kín” bởi lẽ
mức đóng góp của người lao động vào quỹ
lương hưu thấp do mức lương và thu nhập của
người lao động thấp; các hoạt động bảo trợ xã
hội chưa thực sự đáp ứng nhu cầu đông đảo
của NCT. Câu chuyện này đặt ra vấn đề rất
nan giải là Việt Nam vừa “eo hẹp” về ngân
sách chi trả cho NCT nhưng cũng đồng thời
cũng đang thiếu hụt (nếu không nói là “bỏ lỡ”)
nguồn lao động chất lượng cao này để có cơ
hội gia tăng ngân sách và cải thiện phúc lợi
xã hội (trong đó có việc tái phân bổ lại cho
chính bản thân NCT). Do vậy, chính sách phát
huy, khuyến khích và tận dụng hợp lí nguồn
lao động là NCT có kinh nghiệm, tay nghề,...
sẽ là chìa khóa quan trọng giải quyết tốt các
thách thức này cho Việt Nam trong tương lai.
Bốn là, việc thiếu vắng các công trình
nghiên cứu, đánh giá ở góc nhìn chính sách
quốc gia về việc phát huy vai trò NCT thời
gian qua đã tạo nên lỗ hỏng lớn trong việc
hoạch định, điều chỉnh, bổ sung chính sách
phát huy vai trò đội ngũ này trong hệ thống
chính sách NCT. Điều này làm cho chính sách
NCT hiện nay bị “khuyết”, “mất tính cân đối”
trong tư duy lẫn quá trình thực thi chính sách;
từ đó, vô hình chung đẩy NCT trở thành đối
tượng thụ hưởng chính sách này cùng các
thành quả kinh tế - xã hội một cách “bị động”
mà chưa thấy hết vai trò và nguyện vọng của
họ mong muốn tiếp tục “cống hiến” của họ đối
với sự nghiệp chung.
2. CHÍNH SÁCH PHÁT HUY VAI TRÒ
NGƯỜI CAO TUỔI Ở NƯỚC TA QUA GÓC
NHÌN LỊCH SỬ, PHÁP LÝ
2.1. Giai đoạn từ các triều đại phong kiến
Việt Nam đến những năm 30 của thế kỷ XX
Có thể thấy, sự trọng vọng, tôn kính đối với
họ đã thành nếp và ăn sâu trong tiềm thức mọi
thành viên làng xã từ xa xưa nhưng về văn bản,
theo các tài liệu còn lưu giữ được, nó chỉ được
đề cập một cách giản lược trong pháp luật thời
Lý, được đưa thành những điều luật cụ thể trong
luật nhà nước từ thời Lê sơ (thế kỷ XV), đươc
ghi chép tỉ mỉ trong các hương ước các làng xã
từ thế kỷ XVII - XVIII đến đầu thế kỷ XX 2.
Sử sách ghi lại, Lý Thái Tổ là vị vua đầu
tiên quan tâm và có chính sách ưu đãi với
NCT. Ngay sau khi lên ngôi, mùa xuân tháng
2 năm Canh Tuất (1010), năm 1010, vua Lý
Công Uẩn đại xa giá đến châu Cổ Pháp yết
lăng Thái hậu và “ban tiền, lụa cho các kỳ lão
có thứ bậc khác nhau”3 mở đầu cho truyền
thống tốt đẹp “lụa tặng già” của Việt Nam tồn
tại đến ngày nay. Đồng thời, tháng 12 năm
ấy, nhà vua đã ban chiếu đại xá thiên hạ trong
3 năm và “những người mồ côi, góa chồng,
già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả”4.
1 Tham khảo Đề tài của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cơ bản về người cao tuổi Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020, tr.98, tr.107 - 108, Hà Nội, 2010.
2 Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn hóa người cao tuồi, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
tr.23-24.
3 Quốc sử quán triều Nguyên (2007): Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, t.1, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, tr.268.
4 Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại việt sử ký toàn thư (dịch theo bản khắc năm Chính
Hòa thứ 18 (1697), t.1, Nxb. Khoa hoc xã hội, Hà Nội, tr.242.
Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt nam...
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban hành Luật
Hình thư. Luật có quy định rõ thể lệ cho phép
chuộc tôi bằng tiền đối với những người trên
70 tuổi trừ khi người đó phạm phải những tội
trong “thập ác”, đến năm 1051, Lý Thái Tông
đã quy định các quan văn võ nếu làm lâu năm
mà không có tội lỗi thì được phong chức tước
theo thứ bậc khác nhau. Năm 1162, vua Lý
Anh Tông ra quy định chung người 60 tuổi
trở lên được gọi là “lão liệt” để miễn sưu dịch,
đến năm 1179, thời vua Lý Cao Tông cho tiến
hành một cuộc đề bạt, chấn chỉnh quan lại, xét
công trạng các quan trong quá trình làm việc,
chia làm 03 loại để trao chức vụ. Trong đó,
vua có dành cho loại nhiều tuổi, có đức hạnh,
thông hiểu việc xưa nay 1...
Đến thời nhà Trần, năm 1242, Trần
Thái Tông trong khi tiến hành cải cách hành
chính địa phương làm sổ hộ khẩu đã quyết
định công nhận bô lão là người 60 tuổi, long
lão là người trên 60 tuổi. Đến năm 1262,
nhân sự kiện Thượng hoàng nhà Trần vê quê
cũ xây phủ Thiên trường, Thượng hoàng
đã khen thưởng cho người già và phụ nữ.
Ngoài ra, sự kiện có thể coi là điểm nhấn để
thấy rõ vai trò của NCT trong lịch sử nước
ta đấy là vào năm 1285, trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên - Mông, vua Trần
Thánh Tông đã mở Hội nghị Diên Hồng mời
các bô lão về kinh thành Thăng Long xin ý
kiến quyết định kế sách, động viên toàn dân
đánh giặc. Sử cũ ghi có nhiều cụ già trên 90
tuổi cũng hăng hái chống gậy về kinh thành
góp ý kiến, đồng thanh hô “Sát Thát” góp
phần tạo nên khí thế, sức mạnh của dân tộc,
giúp vua Trần 3 lần đánh bại quân Nguyên
- Mông 2.
Đến thời Lê sơ, tinh thần “trọng lão” tiếp
tục được pháp luật hóa, lan toả đến tận các
thôn làng. Trong Hồng Đức thiện chính thư ghi
rõ: “Trong hương thôn có người già mà không
kính nể, dám tự ngồi ăn uống cùng một mâm,
một chiếu, thì lấy tội khinh nhờn mà luận tội
phạt 300 trượng”3. Ngoài ra, những NCT khi
mắc tội như “từ 70 tuổi trở lên trừ khi phạm tội
thập ác còn nếu phạm tội từ lưu trở xuống đều
cho chuộc bằng tiền. Từ 80 tuổi trở lên, phạm
tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết
thì cũng phải tâu vua để xét định, ăn trộm và
đánh người bị thương thì cho chuộc, ngoài ra
thì miễn luận...”4.
Trọng lão trong dân gian cũng được ghi
kỹ trong các hương ước làng xã. Trước tiên là
miễn mọi sưu thuế, phu đài, tạp dịch. Đối với
việc làng xã, người già cũng thường xuyên
là thành phần tham gia tích cực vì người già
luôn được nhà nước và làng xã coi trọng.
Thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã ra
một đạo dụ (24 điều) về việc sửa đổi phong
tục các làng, trong đó có điều khoản nhắc đến
việc lựa chọn người già giữ các chức trưởng
thôn, trưởng xã. Trong những công việc
mang tính chất hành chính của làng xã, các
cụ cũng được tham dự như việc bầu lý dịch,
các cụ cũng được coi như là cử tri và được ký
vào đơn bầu. Ngoài việc được tham gia vào
các việc làng nước, trong những dịp lễ hội,
người già bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao
hơn so với các thành viên khác.
1 Chính sách của nhà nước Việt Nam trong lịch sử đối với người cao tuổi, Tap chí Dân số và Phát triển,
số 11/2005.
2 Khắc Minh (2005), Phép nước lệ làng xưa với người cao tuổi, Báo sông Bé.
3 Dẫn theo Nguyễn Đức Nghinh: Người giá trong làng xã. Trong cuốn Nông thôn Việt Nam trong lịch
sử, t.2, Viện sử học, 1978, tr.164.
4 Quốc triều hình luật (1991), Nxb. Pháp lý, Hà Nội, tr.41.
113
Tiếp nối truyền thống tôn trọng, đánh giá
cao vai trò của NCT của các triều đại trước
đó, Nhà Nguyễn cũng đã dành nhiều sự quan
tâm của mình đối với thành phần đặc biệt
này, phản ánh thông qua các luật lệ và chiếu
chỉ của nhà vua. Thời trị vì của vua Minh
Mệnh thì vị trí, vai trò của người cao tuổi bắt
đầu được xem trọng bởi “tuổi tác là cái quý
trong thiên hạ từ lâu. Chính sách của vương
giả lấy việc dưỡng lão làm đầu”1. Tháng 6
năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mệnh ban
dụ rằng: “Ta nghe trăm tuổi là kỳ, thật là
điềm tốt của nước. Vua trọng người già thì
dân không dám thờ ơ với cha mẹ, ấy là dạy
dân biết hiếu vậy... Từ xưa kính trọng tuổi
tác, ưu đãi bậc già, cất nhắc người hiếu, nêu
khen người liêm, đều là để rèn luyện phong
hoá cho dân, sáng tỏ trị giáo của nước, để dẫn
cuộc đời đến chốn nhân thọ.... Từ nay, quan
các thành dinh trấn đều phải dụng tâm tìm hỏi
dân gian, có ai trăm tuổi trở lên, cùng là con
hiếu thờ cha mẹ, có thực trạng rõ rệt, như tối
hỏi, sớm thăm, đón trước ý muốn, noi theo chí
hướng, sống nuôi thờ, chết chôn cất, hết đạo
làm con, mà châu xã đều khen là hiếu, người
nghĩa thì thấy lợi không động lòng, như bắt
được vàng mà trả lại chủ, của không muốn có
vì may, lợi không muốn được hú hoạ, từ hay
nhận, lấy hay cho, đều là hợp nghĩa, già trẻ
đều tin là liêm, thì đều cho hương lý kết trình
quan sở tại, kể đủ thực trạng, làm sách tâu
lên, do bộ Lễ đề đạt để chờ ban thưởng, để
biểu dương điềm tốt thanh bình, chấn hưng
thói tốt hiếu đễ, cho xứng cái ý thiết tha dạy
bảo và sửa tục của trẫm” 2. Ngoài ra, đối với
những vị quan nào đến tuổi 70, xin về hưu
mà vua không đồng ý, lưu lại làm việc thì họ
được hưởng thêm nhiều ưu đãi của triều đình,
đặc biệt là đối với những quan viên sống thọ
đang tại chức3. Bên cạnh đó, chẳng hạn, năm
Tự Đức thứ 5 (1852), vua định lệ an ban cho
các thọ quan và dân quan như sau: Thọ dân
hạng 70 tuổi trở lên: vải 2 tấm; hạng 80 tuổi
trở lên: lụa và vải mỗi thứ 1 tấm,...; thọ quan
đã hưu trí (văn, võ) theo phẩm hàm và bậc
tuổi từ 70 đến trên 100 tuổi,....4.
2.2. Giai đoạn từ sau năm 1930 đến năm
1945
30 năm đầu thế kỷ XX, truyền thống
“trọng lão” dù vẫn tồn tại vững bền trong dòng
chảy bất tận của lịch sử dân tộc nhưng chính
sách của nhà nước không thực sự tiêu biểu, rõ
nét, cứ liệu thu thập cũng không thực sự nhiều.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Từ đây, sự nghiệp giải phóng dân tộc có sự
dẫn dắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vì
mục tiêu xây dựng nhà nước vô sản của nhân
dân lao động. Trong đó, nhà nước kiểu mới
phải có trọng trách chăm lo, phát huy vai trò,
vị thế của NCT.
Sau khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, tại hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
(nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) từ ngày 10
đến ngày 19/5/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chủ trì hội nghị và đi đến quyết định thành
lập Mặt trận Việt Minh. Tuy nghị quyết này
không đề cập đến duy nhất NCT, nhưng có
khẳng định nhóm đối tượng này là một trong
những bộ phận của Mặt trận Việt Minh và các
đoàn thể cứu quốc.
1 Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.263-264.
2 Đại Nam thực lục, tập 2, sđd, tr.222
3 Chính sách của Nhà Nguyễn đối với người cao tuổi (giai đoạn 1802 - 1884), Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 4 (77) - 2014, tr.79.
4 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Nxb. Khoa hoc xã hội, 1960 - 1970, t.27,
tr.354.
Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt nam...
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung
ương, ngày 6/6/1941, tại chiến khu Việt Bắc,
Người đã viết thư “Kính cáo đồng bào” và
mở đầu bằng câu: “Cùng các vị phụ lão”, rồi
kêu gọi: “Toàn dân đồng bào hãy mau mau
đứng dậy. Hãy đoàn kết nhau, thống nhất hành
động đánh đổ Nhật, Pháp Mong các ngài
sẽ noi gương phụ lão đời nhà Trần trước họa
giặc Nguyên xâm lấn, đã nhiệt liệt hô hào con
em tham gia sự nghiệp cứu nước”. Điều đó
chứng tỏ Bác coi trọng vị thế người cao tuổi
trong cộng đồng, trong xã hội. Cũng trong
tháng 6/1941, Nguyễn Ái Quốc lại gởi riêng
một bức thư cho phụ lão bằng chữ Hán với
tiêu đề rất trân trọng: “Nguyễn Ái Quốc ký
thư chư thị ái chư phụ lão 6/1941” (dịch nghĩa:
Cụ Nguyễn Ái Quốc gởi các vị phụ lão trong
cả nước tháng 6/1941). Đây là lời hiệu triệu
đoàn kết, vận động các vị phụ lão. Trong thư,
Bác đề cao vị thế, vai trò của NCT khi cho
rằng: “Trách nhiệm của các vị phụ lão chúng
ta đối với nhiệm vụ đất nước thật là trọng đại.
Đất nước hưng thịnh do phụ lão gây dựng. Đất
nước tồn tại do phụ lão giúp sức. Nước bị mất,
phụ lão cứu. Nước suy sụp phụ lão phù trì.
Nước nhà hưng, suy, tồn, vong, phụ lão đều
gánh trách nhiệm rất nặng nề”, “Đối với gia
đình, đối với Tổ quốc, phụ lão có trọng trách
là bậc tôn trưởng, đối với bà con, phụ lão có sự
tín nhiệm lớn lao”1.
2.3. Giai đoạn từ khi thành lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1945) đến nay
2.3.1. Chính sách phát huy vai trò người
cao tuổi từ khi thành lập nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa đến trước thời kỳ Đổi mới
(1986)
Trong Thư gửi các vị phụ lão ngày
21/9/1945 (19 ngày sau khi Bác Hồ đọc bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà), Chủ tịch Hồ Chí
Minh khuyên các cụ già “Chúng ta là bậc phụ
lão, cần phải tinh thành đoàn kết trước để làm
gương cho con cháu ta. Vậy tôi mong các vị
phụ lão ở Hà thành ra xung phong tổ chức
“Phụ lão cứu quốc Hội” để cho các phụ lão cả
nước bắt chước và để hùn sức giữ gìn nền độc
lập của nước nhà”2.
Đặc biệt, từ khi lập quốc năm 1945, quyền
và địa vị chính trị của người cao tuổi đã được
ghi nhận trong các bản hiến pháp - là căn cứ
pháp lí vững chắc, cao nhất cho việc thực hiện
chính sách người cao tuổi trên thực tế. Tại
Điều 14, Hiến pháp năm 1946 đã hiến định:
“Những người công dân già cả hoặc tàn tật
không làm được việc thì được giúp đỡ”. Tuy
quy định ngắn gọn trong một (01) điều duy
nhất, với 17 từ nhưng tư tưởng, tuyên ngôn
pháp lý cao nhất đối với người cao tuổi có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Hiến pháp 1959 đã có quan điểm pháp lý
hết sức tiến bộ về vị trí, vai trò và hệ thống
chính sách dành cho NCT. Tại điều 32, Hiến
pháp 1959 quy định: “Người lao động có
quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu,
bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở
rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế
và y tế để bảo đảm cho người lao động được
hưởng quyền đảm bảo cho người lao động
được hưởng quyền đó”. Ở góc độ chính sách
phát huy vai trò NCT, so với Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959 dù chưa thể hiện rõ ràng về
câu chữ nhưng bước đầu đã nhấn mạnh đến
việc “đảm bảo điều kiện” để NCT thực hiện
quyền của mình và cũng tức là gián tiếp khẳng
định vai trò của họ trên các lĩnh vực này.
Tại Điều 59, Hiến pháp 1980 nhấn mạnh:
“Công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu,
bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng
1 Hội Người cao tuổi Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.7-8.
2 Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, t.4, tr.24.
115
quyền lợi bảo hiểm xã hội. Nhà nước mở rộng
dần sự nghiệp bảo hiểm xã hội theo trình độ
phát triển của nền kinh tế quốc dân và bảo đảm
cho người lao động được hưởng quyền lợi đó”.
Về nội hàm chính sách NCT, Hiến pháp năm
1980 vẫn kế thừa, thống nhất với các bản Hiến
pháp trước đó. Tuy nhiên, có 2 điểm nổi bật
dưới góc độ chính sách, cần lưu ý:
– Đối tượng thụ hưởng, thực hiện chính
sách người cao tuổi chú trọng hơn đến giai cấp
công nhân, đội ngũ viên chức, trí thức xã hội -
vốn là lực lượng nòng cốt cách mạng.
– Phương thức đảm bảo thực hiện quyền
thụ hưởng lợi ích từ chính sách NCT của Nhà
nước có phần thu hẹp so với các bản Hiến pháp
trước đó (duy nhất chỉ được đảm bảo thông
qua “bảo hiểm xã hội” theo trình độ phát triển
của nền kinh tế).
Như vậy, dù là chính quyền non trẻ nhưng
ngay sau khi giành chính quyền, Đảng và
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã rất
chú trọng đảm bảo và thực hiện nghiêm túc
về quyền, địa vị cho cho NCT thông qua đạo
luật có giá trị pháp lý cao nhất - hiến pháp.
Điều này vừa phản ánh giá trị văn hóa, đạo lí
của dân tộc ta nhưng cũng thể hiện chính sách
giàu tính nhân văn của nước ta đối với đội ngũ
NCT trong suốt quá trình cách mạng.
2.3.2. Chính sách phát huy vai trò người
cao tuổi từ sau thời kỳ Đổi mới (1986) đến nay
Từ năm 1986 trở đi, chính sách dành cho
người cao tuổi được đặt trong bối cảnh mới
của đất nước. Đó là quá trình đẩy mạnh thực
hiện công cuộc đổi mới toàn diện mà trước hết
là đổi mới kinh tế, chủ động hội nhập quốc tế,
xóa thế bao vây cấm vận và giữ vững thành
quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai
đoạn này, chính sách người cao tuổi có những
nét đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, chính sách đối với NCT mới bắt
đầu được định hình rõ nét hơn và phù hợp với
thông lệ của quốc tế. Trên cục diện quốc tế,
năm 1982, lần đầu tiên Liên Hợp quốc đã tiến
hành Đại hội Thế giới về NCT tại Cộng hòa
Áo, Việt Nam đã cử thành viên tham dự. Ngày
17/9/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị
số 332 về việc tổ chức Ngày Quốc tế người cao
tuổi, đã chỉ ra những việc các ngành, các cấp,
các cơ quan đoàn thể phải làm trong dịp này
(ngày 1 tháng 10) hàng năm, trong đó đã xác
định “Ngày Quốc tế người cao tuổi cần được
tổ chức tốt, có sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà
nước, các đoàn thể nhân dân, dưới sự chỉ đạo
của các cấp uỷ Đảng”.
Hiến pháp 1992 chứa đựng nhiều nội dung
tiến bộ về chính sách NCT. Tại Điều 61, Hiến
pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền được
hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy
định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện
phí” và tại Điều 67 ghi: “Người già, người tàn
tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà
nước và xã hội giúp đỡ”. Có thể thấy, qua đây
nhiều điểm tiến bộ về chính sách NCT ở nước
ta giai đoạn này:
– Hiến pháp xác định rõ đối tượng thụ
hưởng và tham gia thực thi chính sách người
cao tuổi là “công dân”. Điều này có nhiều ý
nghĩa, bởi lẽ, với tư cách công dân - người
cao tuổi ngoài việc được hưởng đầy đủ quyền
của công dân thì quyền được thụ hưởng phúc
lợi của người cao tuổi tiếp tục được đảm bảo.
Điều này thì Hiến pháp 1992 kế thừa tính tiến
bộ, hạt nhân hợp lí từ Hiến pháp 1946.
– Điểm nổi bật nhất chính là việc Hiến
pháp 1992 xác định rõ vai trò của các chủ thể
có trách nhiệm trong thực hiện quyền cơ bản
NCT và chính sách NCT đó chính là Nhà nước
và xã hội.
Tuy nhiên, so với các bản Hiến pháp trước
đây, Hiến pháp 1992 vẫn chưa có đổi mới về
tư duy, dự báo trong xây dựng chính sách phát
Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt nam...
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
huy vai trò NCT - vẫn hướng đến đảm bảo
phúc lợi và phân phối trong việc thụ hưởng
thành quả cách mạng, thành tựu tăng trưởng
kinh tế cho NCT hơn là phát huy vai trò to lớn
của lực lượng này.
Sau khi Hội người cao tuổi Việt Nam
được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW
ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc
người cao tuổi”, trong đó nhấn mạnh: “Hội
người cao tuổi Việt Nam mới được thành lập,
cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và
mở rộng hoạt động ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt
trận Tổ quốc, các ban Đảng, các đoàn thể nhân
dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả
thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận
động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng,
phát huy người cao tuổi phục vụ công cuộc
đổi mới.
Đặc biệt, năm 2000, lần đầu tiên, một văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất về chính sách
của NCT do cơ quan quyền lực ban hành - Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội - Pháp lệnh Người
cao tuổi. Điều này đã chính thức khẳng định
vị thế, vai trò của NCT đồng thời gắn trách
nhiệm của nhà nước và xã hội trong sự nghiệp
chăm lo đối với NCT ở nước ta giai đoạn phát
triển mới của đất nước. Ngay Phần mở đầu,
Pháp lệnh có đoạn: “Người cao tuổi có công
sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con cháu về
nhân cách và giữ vai trò quan trọng trong gia
đình và xã hội” và tại Điều 2, 4, Chương 3,...
đã đề cập trực tiếp đến nội dung mang tầm
chính sách là việc phát huy vai trò NCT trong
sự nghiệp cách mạng. Tiếp đó, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày
26/03/2002 nhằm quy định và hướng dẫn thi
hành một số điều của Pháp lệnh Người cao
tuổi, đảm bảo tính thống nhất, khả thi thực
hiện trên thực tế.
Có thể thấy, chính sách đối với người cao
tuổi trong thời gian này có bước tiến bộ hơn
so với giai đoạn trước, trong đó, phát huy vai
trò của đội ngũ NCT bắt đầu được quan tâm
không chỉ ở góc độ thực tiễn mà còn pháp lý
hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật; từ
đó, đưa lực lượng NTC nước ta có thể thích
ứng, chủ động hơn trong bối cảnh mới của
đất nước.
Năm 2004 cũng là năm có nhiều bước tiến
trong chính sách người cao tuổi. Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ số 141 “Về việc
thành lập Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi
Việt Nam”. Sự kiện thành lập Ủy ban quốc gia
về người cao tuổi có thể được xem là một bước
tiến bộ trong tư duy hành động của Chính phủ
về chính sách đối với NCT nói chung trong đó
có việc tăng cường hiệu quả công tác thực hiện
chính sách phát huy vai trò NCT trên thực tế.
Ngày 26/3/2006, Thủ tướng Chính phủ
đã ra quyết định số 772/QĐ-TTg lấy ngày 6/6
hàng năm là “Ngày truyền thống người cao
tuổi Việt Nam” nhằm tiếp tục giáo dục truyền
thống tốt đẹp của thế hệ đi trước làm gương
cho lớp trẻ đi sau tiếp tục đóng góp công sức,
trí tuệ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giàu
đẹp, văn minh, dân chủ bền vững, trong đó
vận động toàn dân tham gia phong trào chăm
sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, kêu gọi
sự đóng góp của cộng đồng chăm sóc NCT,
tạo điều kiện để NCT sống vui, sống khỏe,
sống có ích và nghĩa tình.
Đặc biệt, năm 2009, Luật Người cao tuổi
ra đời và đi vào thực tế từ tháng 7/2010 đã làm
nên nền tảng vững chắc cho việc xây dựng tổ
chức Hội Người cao tuổi Việt Nam, chăm lo
và phát huy vai trò, vị thế của NCT trong giai
đoạn mới. Theo đó, Luật đã dành nhiều phần
quy định về khẳng định chính sách nhất quán
trong việc phát huy vị thế, vai trò của NCT
trong xã hội hiện nay một cách đầy đủ và hoàn
thiện nhất như tại Điều 4, 5, 7 và Chương III.
Đồng thời, quyết định chọn ngày 6/6 hàng
117
năm - “Ngày truyền thống Người cao tuổi Việt
Nam” đồng thời là ngày “Toàn xã hội chăm
sóc và phát huy vai trò người cao tuổi”. Bên
cạnh đó, Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày
22 tháng 11 năm 2012 về phê duyệt Chương
trình hành động quốc gia về người cao tuổi
Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020 trong mục
tiêu tổng thể và chi tiết đều nhấn mạnh: “Phát
huy vai trò của người cao tuổi;.... phát huy
vai trò người cao tuổi phù hợp với tiềm năng
và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước” là yếu tố hàng đầu trong thực thi chính
sách quốc gia về NCT thời gian tới.
Đặc biệt, tại Khoản 3, Điều 37, Hiến pháp
2013 lần đầu tiên quy định rất rõ và tiến bộ về
các chính sách đối với NCT ở khía cạnh quyền
công dân, quyền con người: “Người cao tuổi
được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng,
chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tại điều, khoản
này đáng chú ý nhất là:
– Lần đầu tiên, sau hơn 75 năm lập quốc
và xây dựng Hiến pháp, quyền của người cao
tuổi được ghi thành một điểu khoản riêng, tách
hẳn với các đối tượng khác như người tàn tật,
trẻ em mồ côi, Đây không phải là sự hiển
nhiên mà khẳng định của Đảng, Nhà nước về
quyền tối cao và vai trò ngày càng quan trọng
của người cao tuổi trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước và vì vậy, đã đến lúc, vị
trí người cao tuổi cần đúng, tương xứng với ý
nghĩa vốn có của nó.
– Lần đầu tiên, quyền của người cao tuổi
được quy định đầy đủ nhất không chỉ được
thụ hướng giá trị vật chất, cơ bản nhất là chăm
sóc sức khỏe và trọn vẹn các quyền công dân,
quyền con người khác và đồng thời được đảm
bảo các giá trị tinh thần - được tôn trọng, được
công nhận, ghi nhận sự cống hiến và khẳng
định vai trò của mình trong xã hội.
– Lần đầu tiên, Hiến pháp phản ánh đầy
đủ, rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
người cao tuổi trong xã hội, đặc biệt trong xã
hội hiện đại. Đó là kiên quyết chống tư duy cổ
xưa, lạc hậu, không hợp thời: “lão lai tài tận,
lão giả an chi” và khẳng định, NCT có vai trò
quan trọng, và vai trò ấy cần có chính sách,
cơ chế thu hút, phát huy, tận dụng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay.
Như vậy, từ sau đổi mới đến nay, chính
sách phát huy vai trò NCT đã được thể hiện
ngày càng rõ nét, được cụ thể hóa thành mục
tiêu, nội dung, chương trình hành động trong
luật, văn bản pháp quy của các cơ quan nhà
nước. Đây là sự chuẩn bị quan trọng, có ý
nghĩa và thực sự cần thiết cho việc triển khai
các chính sách cụ thể nhằm phát huy vai trò
NCT ở các giai đoạn tiếp theo.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI TỪ GÓC
NHÌN LỊCH SỬ, PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, chính sách phát huy vai trò NCT
trong các lĩnh vực đời sống xã hội trải dài
qua suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Do đó,
nhà cầm quyền cần có tư duy, chính sách và
cách thức khơi dậy, huy động, tập hợp và phát
huy giá trị, sức mạnh tiềm ẩn trong lực lượng
NCT góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt
ra trong quá trình phát triển quốc gia. Đối với
Việt Nam hiện nay, chính sách này gắn liền với
việc giải quyết bài toán chính sách vô cùng hóc
búa - “NCT sẽ ở đâu và có vị thế ra sao trong
tiến trình phát triển bền vững của đất nước?”,
“Đâu là giải pháp hợp lí nhất giải quyết vấn đề
có tính vĩ mô giữa xây dựng chính sách già hóa
dân số chủ động với thực trạng thiếu hụt ngày
càng trầm trọng nhân lực lao động chất lượng
cao khi Việt Nam sắp sửa trở thành quốc gia
“siêu già” khi vẫn còn đang “nghèo” và các rào
cản văn hóa đang hiện hữu”.
Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt nam...
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Thứ hai, qua nghiên cứu chặng đường
rất dài của chính sách phát huy vai trò NCT
ở nước ta, có thể khẳng định sự chuyển biến
mạnh mẽ về mặt tư duy, quan điểm và pháp lý
hóa trong thực hiện chính sách này ở nước ta là
dấu hiệu rất đáng mừng. Tuy nhiên, đều đáng
phải quan tâm như tác giả cũng đã ít nhiều đề
cập trong bài viết này chính là (i). mức độ thể
hiện (lồng ghép) chính sách này trong tổng thể
chính sách NCT ở nước ta thời gian qua và
(ii). mức độ triển khai, hiệu quả thực thi mục
tiêu, giải pháp và nội dung phát huy vai trò
NCT theo Luật trên thực tế đang là vấn đề hết
sức trăn trở. Hiện nay, việc triển khai chính
sách NCT ở nước ta vẫn đang gặp phải các trở
ngại sau và đây chính là thách thức cho bản
thân chính sách phát huy vai trò chủ thể này
thời gian tới. Đó là:
– Nhà nước dường như vẫn đang loay
hoay, có vẻ như chưa tìm ra được các giải
pháp hữu hiệu, hài hòa nhất để có chính sách
cư xử với NCT sao cho vừa vẫn giữ được
nét văn hóa truyền thống vừa phù hợp xu thế,
yêu cầu thời đại mới. Điều này thể hiện ở sự
lúng túng là nên hay không nên thực thi hệ
thống chính sách phúc lợi đối với NCT ở khía
cạnh đặt NCT vào thế “bị động”, hay “chủ
động”, “vai trò NCT ra sao” trong tổng thể
chính sách.
– Dường như có độ “lệch” trong mục tiêu,
nôi dung và ưu tiên nguồn lực khi phần lớn
các chính sách dành cho NCT hiện nay đều
hướng đến cung cấp ngày càng gia tăng, cải
thiện phúc lợi của Nhà nước dành cho NCT
thông qua các chính sách bảo hiểm, chính sách
bảo trợ xã hội, chính sách chăm sóc sức khỏe,
hay chính sách tài chính,.... cho NCT. Trong
khi đó, chính sách phát huy vai trò NCT trong
giai đoạn hiện nay dù rất cấp thiết (như đã
phân tích ở trên) nhưng thường dễ bị bỏ quên,
hoặc được lồng ghép một cách không thực sự
đầy đủ trong các chính sách NTC khác.
Thứ ba, phải khẳng định, chính sách phát
huy vai trò NCT trong suốt chiều dài lịch sử
như đã phân tích có tác dụng tích cực, to lớn,
vừa khẳng định tính đúng đắn về mặt chính
sách, chủ trương của nhà cầm quyền nhưng
đồng thời cũng phán ánh đúng truyền thống,
đạo lí và yêu cầu thực tế của đất nước ở mỗi
chặng đường phát triển của đất nước. Ở đâu
và chừng nào, khi nào chính sách phát huy vai
trò NCT được coi trọng, thực hiện bài bản,
thực chất và mạnh mẽ thì lúc đó, sức mạnh
của NCT được huy tập một cách tốt nhất và
là động lực thúc đẩy đất nước phát triển, vượt
qua khó khăn, cam go nhất. Nghiên cứu điều
này giúp cho chúng ta nhận thấy rằng, việc
quan tâm và sớm ban hành chính sách phát
huy vai trò NCT trên các lĩnh vực đời sống
xã hội là cực kỳ cần thiết, bức thiết, có tính
then chốt trong hành trình phát triển bền vững
quốc gia, ít nhất trong 1/2 thế kỷ tiếp theo của
thế kỷ XXI. Việc chuẩn bị hành trang chính
sách càng chính xác, đầy đủ, chu đáo nhằm
giải quyết các thách thức từ việc già hóa dân
số ngày càng nhanh ở Việt Nam cũng như phát
huy vai trò NCT trong giai đoạn mới là đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta
ổn định trong vài thập niên tiếp theo.
Thứ tư, việc nghiên cứu chính sách phát
huy vai trò NCT ở khía cạnh lịch sử, pháp lý
trong chiều dài lịch sử dân tộc góp phần củng
cố, làm sáng tỏ cơ sở lý luận, lịch sử và pháp
lý cho việc thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình xây
dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả chính
sách này trong thời gian tới. Cùng với luận
cứ có được trong thời gian qua gắn với bối
cảnh kinh tế - xã hội mới của đất nước, các kết
quả nghiên cứu của bài viết sẽ làm sáng tỏ và
gợi mở nhiều ý tưởng cho quá trình thúc đẩy
hình thành, hiện thực hóa hệ thống chính sách
nhằm phát huy vai trò NCT ở Việt Nam sớm
nhất có thể.
119
4. KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu chính sách quốc gia,
trong đó có chính sách phát huy vai trò NCT
dưới góc nhìn lịch sử, pháp lý không phải bao
giờ cũng là công việc dễ dàng. Bởi lẽ, lịch
sử là chặng đường dài với nét thăng trầm rất
khác nhau và ở đó, pháp luật với tư cách là vật
chuyên chở các giá trị, tinh thần cho các chính
sách ấy lại được phản ảnh thông qua các triều
đại, nhà nước (dù ở các hình thức chính thể
khác nhau) cũng đậm, nhạt qua các giai đoan
khác nhau làm cho việc tìm tòi, chắt lọc và đúc
kết, lý giải, phân tích đảm bảo tính hợp lí của
các dữ kiện về chính sách này ở phương diện
lịch sử, pháp lý là thách thức đối với người
viết. Bằng việc thống kê, chắt lọc dựa trên
triều đại, giai đoạn điển hình, phù hợp, tác giả
đã bước đầu hệ thống, phân tích một cách khái
quát, khá toàn diện, có logic trước - sau nhằm
làm bật nổi sự tồn tại trên thực tế chính sách
phát huy vai trò NCT trong suốt chiều dài lịch
sử dân tộc Việt Nam từ góc nhìn lịch sử và soi
rọi dựa trên căn cứ pháp lý; từ đó, thúc đẩy
đổi mới tư duy, hành động nhằm giúp các nhà
hoạch định có thêm chất liệu xây dựng, ban
hành và tổ chức thực thi hệ thống chính sách
này một cách thực chất, đầy đủ, khả thi trên
thực tế, góp phần khắc phục trở ngại trong quá
trình phát triển của Việt Nam thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Lê Quang Chấn (2014), Chính sách của Nhà
Nguyễn đối với người cao tuổi (giai đoạn
1802 - 1884), Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 4 (77) -2014.
[2]. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí
- Hình Luật chí, t.3, Bản dịch của Viện sử học.
[3]. Chính sách của nhà nước Việt Nam trong
lịch sử đối với người cao tuổi, Tạp chí Dân
số và Phát triển, số 11/2005.
[4]. Đào Văn Dũng, Nguyễn Kim Phương
(2017), Giải pháp, chính sách an sinh xã
hội cho người cao tuổi, Tạp chí Tuyên giáo,
số 8/2017.
[5]. Đề tài của Viện Khoa học xã hội Việt Nam -
Một số vấn đề cơ bản về người cao tuổi Việt
Nam giai đoạn 2011-2020, Hà Nội, 2010.
[6]. Lê Văn Hảo (2017), Cảm nhận đa chiều của
người cao tuổi về già hóa, Tạp chí Tâm lý
học, số 4/2017.
[7]. Lê Văn Hảo (2017), Cảm nhận về già hóa
ở người cao tuổi, Tạp chí Tâm lý học, số
12/2016.
[8]. Hội Người cao tuổi Việt Nam, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
[9]. Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn
hóa người cao tuổi, Nxb. Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
[10]. Nguyễn Mộc Lan, Những vấn đề tâm lý -
xã hội của người cao tuổi Việt Nam:Thực
trạng - giải pháp trợ giúp và phát huy vai
trò người cao tuổi tại cộng đồng, Nxb. Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[11]. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993),
Đại việt sử ký toàn thư (dịch theo bản khắc
năm Chính Hòa thứ 18 (1697), t.1, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội
[12]. Khắc Minh (2005), Phép nước lệ làng xưa
với người cao tuổi, Báo sông Bé.
[13]. Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, t.3, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[14]. Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, t.4, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[15]. Dẫn theo Nguyễn Đức Nghinh: Người già
trong làng xã. Trong cuốn Nông thôn Việt
Nam trong lịch sử, t.2, Viện sử học, 1978.
[16]. Đình Phương (2016), Xếp hạng chất lượng
nguồn nhân lực thấp, lao động Việt Nam
có thể thua ngay trên sân nhà, website:
[17]. Nguyễn Văn Tiến (2001), Chính sách chăm
sóc sức khỏe người già Việt Nam và mô
hình chăm sóc sức khỏe người già ở nông
thôn, Tạp chí Y học thực hành, số 4/2001.
Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt nam...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 64_1922_2136194.pdf