Tài liệu Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương vùng Đông Nam Bộ hiện nay - Bùi Nghĩa: 109
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
Nghiên cứu - Trao đổi
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI QUA NGHIÊN CỨU
TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VÙNG ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY
Bùi Nghĩa*, Nguyễn Hữu Hoàng**
TÓM TẮT
* ThS. NCS, Học viện Chính trị khu vực II – 0919.330.555 – Email: buinghia72@gmail.com
** CN, Học viện Chính trị khu vực II – ĐT: 016 335 13343 - Email: huuhoang.hcma2@gmail.com
Thông qua phỏng vấn sâu 20 người cao
tuổi (NCT) và phát 530 phiếu điều tra xã hội
học (500 phiếu dành cho NCT, 30 phiếu cho
cán bộ, công chức tại Sở Lao động - Thương
binh và xã hội) ở 4 địa phương vùng Đông
Nam bộ là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Đồng Nai và Tây Ninh, bài viết phân tích, chỉ
ra những vấn đề cần được quan tâm trong
quá trình thực thi chính sách đối với NCT
của Vùng thời gian gần đây. Từ đó, tác giả đề
ra một số giải pháp, khuyến nghị chính sách
không chỉ đối với thực tiễn chính sách đối với
NCT ở địa bàn nghiên cứu mà còn có ý ...
15 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương vùng Đông Nam Bộ hiện nay - Bùi Nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
109
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
Nghiên cứu - Trao đổi
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI QUA NGHIÊN CỨU
TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VÙNG ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY
Bùi Nghĩa*, Nguyễn Hữu Hoàng**
TÓM TẮT
* ThS. NCS, Học viện Chính trị khu vực II – 0919.330.555 – Email: buinghia72@gmail.com
** CN, Học viện Chính trị khu vực II – ĐT: 016 335 13343 - Email: huuhoang.hcma2@gmail.com
Thông qua phỏng vấn sâu 20 người cao
tuổi (NCT) và phát 530 phiếu điều tra xã hội
học (500 phiếu dành cho NCT, 30 phiếu cho
cán bộ, công chức tại Sở Lao động - Thương
binh và xã hội) ở 4 địa phương vùng Đông
Nam bộ là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Đồng Nai và Tây Ninh, bài viết phân tích, chỉ
ra những vấn đề cần được quan tâm trong
quá trình thực thi chính sách đối với NCT
của Vùng thời gian gần đây. Từ đó, tác giả đề
ra một số giải pháp, khuyến nghị chính sách
không chỉ đối với thực tiễn chính sách đối với
NCT ở địa bàn nghiên cứu mà còn có ý nghĩa
tham chiếu, tư vấn cho các địa phương khác
trong cả nước.
Từ khóa: Chính sách, chính sách đối với
người cao tuổi, Đông Nam bộ, già hóa dân số,
Việt Nam.
POLICIES FOR HIGHER PEOPLE THROUGH RESEARCH IN SOME
LOCATIONS IN THE SOUTHEAST OF SOUTH KOREA
ABSTRACT
Through in-depth interviews with
20 elderly people and 530 social studies
questionnaires (500 for EL, 30 for cadres, civil
servants at Department of Labor, Invalids and
Social Affairs) in 4 areas The Southeast is the
city. Ho Chi Minh City, Binh Duong, Dong Nai
and Tay Ninh, the article analyzes, points out
issues that need attention in the implementation
of policies for the region recently. Since then,
the author has proposed a number of solutions
and policy recommendations not only for the
policy practice for the research area in the
field, but also reference and counseling for
other localities in the country.
Keywords: Policies, policies for the elderly,
the Southeast, aging population, Vietnam.
1. TÍNH BỨC THIẾT TRONG XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NCT
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đối với Việt Nam, việc kính trọng, chăm
sóc NCT luôn được Đảng, Nhà nước và toàn
xã hội đặc biệt quan tâm không chỉ ở bổn
phận, trách nhiệm gắn với truyền thống tốt
đẹp của dân tộc mà còn thể hiện ở tầm chính
sách. Trong bài viết này, tính cấp thiết của vấn
đề NCT dưới góc nhìn chính sách được phản
ánh thông qua các phương diện chủ yếu sau:
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Thứ nhất, số lượng lực lượng này trong
dân số Việt Nam ngày càng tăng. Nếu như
vào năm 1990, tỷ lệ NCT ở nước ta chỉ chiếm
7,2% dân số thì đến năm 2011, tỷ lệ này là
10%, chính thức bắt đầu giai đoạn “già hóa
dân số”. Theo dự báo, đến năm 2038, NCT
ở Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng dân số - tăng
gấp ba lần trong vòng 24 năm 1. Như vậy, sự
gia tăng đột biến về số lượng NCT đã đặt tra
nhiều thách thức, áp lực cho quá trình phát
triển bền vững đất nước và cả công tác hoạch
định các chính sách nhằm thỏa mãn quyền cơ
bản của NCT. Do đó, cần phải nghiên cứu để
kịp thời điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với
già hóa dân số hiện nay.
Thứ hai, tình trạng kinh tế, sức khoẻ của
NCT Việt Nam đang ở mức thấp. Theo Cuộc
Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy:
72,5% NCT sống ở nông thôn. Trong số này,
chỉ có khoảng 16% - 17% hưởng lương hưu
hoặc trợ cấp mất sức, hơn 10% các cụ hưởng
trợ cấp người có công với nước 2. Như vậy,
còn trên 70% NCT phải sống dựa vào chính
sức lao động của bản thân, bằng nguồn hỗ
trợ của con cháu và gia đình. Trong khi đó,
ở nông thôn ruộng đất ít, năng suất, thu nhập
thấp, ít có tiết kiệm phòng khi bất trắc. Thực
trạng kinh tế này cho thấy mức sống của NCT
không cao, dẫn đến khả năng hưởng thụ các
dịch vụ giáo dục, văn hoá, y tế và đời sống
tinh thần không cao.
Về tình trạng sức khỏe, theo điều tra quốc
gia về NCT năm 2011 có tới 56% NCT có sức
khỏe yếu và rất yếu; trung bình mỗi người 2,7
bệnh 3. Trong bối cảnh nhu cầu sinh đông có
xu hướng giảm, tình trạng con cái di cư, sống
xa cha mẹ nên việc chăm sóc sức khỏe cho
NCT càng trở thành vấn đề lớn của chính sách.
Thứ ba, chính sách người cao tuổi hiện
nay ở nước ta còn nhiều bất cập. Thời gian
qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách dành cho NCT; chính
quyền và đoàn thể các cấp tăng cường triển
khai các chính sách dành cho đối tượng đặc
biệt này; sự quan tâm của các tổ chức, cá nhân
trong công tác chăm sóc và phát huy vai trò
NCT ngày càng chuyển biến tích cực. Chẳng
hạn, đến nay, cả nước có hơn 2,8 triệu NCT
đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã
hội; hơn 1,5 triệu NCT hưởng trợ cấp xã hội
hàng tháng; 481.619 NCT được khám mắt,
84.105 NCT được chữa mắt miễn phí với số
tiền trên 103,5 tỷ đồng, 100% NCT đủ điều
kiện hưởng trợ cấp đều đã được nhận trợ cấp
đầy đủ và đúng thời gian theo quy định 4. Tuy
vậy, chính sách đối với NCT cũng còn không
ít tồn tại, cần được nghiên cứu, sớm khắc
phục. Hoạch định chính sách đối với NCT
chỉ mới dừng lại ở chính sách tổng thể, chưa
lồng ghép nội dung vào chính sách chuyên
ngành; chính sách nhanh chóng lạc hậu, chưa
bắt kịp và dự báo tình hình dân số của Việt
Nam và thế giới. Việc thực thi các nội dung
của chính sách đối với NCT còn chậm, chưa
đồng bộ thậm chí một số nội dung mang tính
hình thức như miễn giảm vé tàu xe, phí tham
quan,... Mặt khác, đang có hiện tượng “lệch”
về cán cân tổng thể chính sách đối với NCT
khi dành quá nhiều cho việc cung cấp phúc
1 Quỹ dân số Liên Hiệp quốc (UNFPA) (2016), Thông tin tóm tắt: Già hóa dân số nhanh chóng ở Việt
Nam - Thách thức và cơ hội, tr.1.
2 Nguyễn Đình Cừ (2014), Nhu cầu chuyển hướng chính sách dân số: từ dân số - kế hoạch hóa gia đình
sang chính sách dân số và phát triển, Tạp chí Cộng sản, đăng ngày 31/12/2014
3
4 Chính phủ (2015), Báo cáo của Chính phủ năm 2015,
đẩy-mạnh-chương-trình-chăm-sóc-sức-khỏe-người-cao-tuổi.
111
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
lợi, nâng mức thụ hưởng đối với NCT mà
thiếu chính sách tổng thể khơi dậy, phát huy
vai trò, vị thế của NCT nhằm đóng góp tích
cực cho sự phát triển bền vững đất nước.
Mặt khác, việc hiến định về vị trí, vai trò và
chính sách dành cho NCT đã được ghi nhận từ
năm 1946 tuy nhiên đến năm 2010 Việt Nam
mới chính thức có luật điều chỉnh về vấn đề
này. Đặc biệt, khi Hiến pháp năm 2013 ra đời
và lần đầu tiên ghi nhận quyền con người thì
việc ban hành, thực thi chính sách chăm sóc
NCT trở thành vấn đề bức thiết hơn bao giờ hết.
Bốn là, khu vực Đông Nam Bộ bao gồm 6
tỉnh, thành phố đa số các địa phương này nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là
trung tâm hàng đầu quốc gia về kinh tế, thương
mại, dịch vụ của cả nước, đóng góp hơn 2/3
thu ngân sách hàng năm. Theo kết quả điều
tra dân số ngày 01/4/2010, dân số vùng Đông
Nam Bộ là 14,5 triệu người, chiếm 16,34%
dân số Việt Nam, phần đa là dân nhập cư từ
các vùng khác đến sinh sống, trình độ dân trí
cao hơn so với mặt bằng của cả nước. Chỉ tính
riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, theo số liệu
điều tra từ năm 2015, NCT của Thành phố
hiện khoảng trên 453 992 người, chiếm tỷ lệ
trên 5,5% dân số Thành phố (hiện tại con số
này có thể tăng hơn nhiều). Có thể thấy, trong
vài thập niên tới đây, nếu các cấp chính quyền
vẫn chưa có chính sách tổng thể, kịp thời nhằm
thích ứng chủ động, tích cực để giải quyết các
vấn đề xoay quanh NCT rất có thể trong tương
lai vùng Đông Nam Bộ sẽ gặp nhiều trở ngại
trong việc giải quyết các vấn đề dành riêng
cho NCT lẫn cân bằng với việc giải quyết
các mục tiêu tăng trưởng, phúc lợi, đảm bảo
nguồn nhân lực cho phát triển trong dài hạn.
Như vậy, tất cả những vấn đề nêu trên là
yếu tố cốt lõi tạo ra thách thức cho quá trình
nghiên cứu, ban hành chính sách đối với NCT
nhằm giúp lực lượng này thích ứng chủ động
với già hóa dân số ở tầm quốc gia cũng như
khu vực.
2. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO
TUỔI QUA NGHIÊN CỨU TẠI MỘT SỐ
TỈNH VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
2.1. Khung phân tích
Chính sách đối với NCT là một dạng chính
sách xã hội với nhiều nội dung, giải pháp ở
các lĩnh vực, quy mô rộng hẹp khác nhau xoay
quanh vấn đề về NCT. Để có thể nghiên cứu
sâu sắc và đánh giá cặn kẽ, thấu đáo, người viết
khu biệt chính sách đối với NCT ở một số tỉnh
vùng Đông Nam Bộ qua hai nhóm vấn đề cùng
với các nội dung chủ yếu theo mô hình sau:
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Từ sơ đồ này, để đánh giá chính sách đối
với NCT vùng Đông Nam Bộ, bài viết đặt ra
02 vấn đề lớn để tiếp cận:
Thứ nhất, các chính sách về NCT trên địa
bàn tỉnh, thành phố của vùng thời gian qua liệu
đã đáp ứng được mong đợi, kỳ vọng của NCT?
Thứ hai, tính đồng bộ, đầy đủ của hệ
thống chính sách đối với NCT trên địa bàn
tỉnh, thành phố của vùng thời gian qua được
biểu hiện ra sao?
Từ đó, đối với nhóm vấn đề 1, tác giả lựa
chọn phân tích 03 tiểu chính sách chủ yếu là
(i). chính sách trợ cấp, (ii). chính sách chăm
sóc sức khỏe và (iii). chính sách chăm sóc vật
chất, tinh thần cho NCT. Đối với nhóm vấn đề
02, bài viết chọn ra 06 lĩnh vực chủ yếu (như
sơ đồ hóa trên) để đánh giá, kiểm chứng về
tính “đầy đủ, hệ thống” của chính sách NCT.
Các kết quả phân tích được tác giả sử dụng
từ dữ liệu thu thập được từ quá trình phỏng
vấn sâu, điều tra xã hội học qua phương pháp
phân tích định tính và định lượng cùng với các
phương pháp nghiên cứu phù hợp khác.
2.2. Kết quả nghiên cứu chính sách đối
với NCT qua một số địa phương vùng Đông
Nam Bộ
2.2.1. Đối với Nhóm vấn đề thứ 1 - mức
độ đáp ứng của các chính sách về người cao
tuổi trên địa bàn tỉnh, thành phố của vùng
a) Mức độ đáp ứng mong đợi dành cho
NCT thông qua mức trợ cấp xã hội
Thông qua kết quả điều tra, tác giả thu
thập và cho ra kết quả cụ thể về nội dung này
như sau:
Câu hỏi
Có Không
Số lượng % Số lượng %
Ông/bà có nghe tới chính sách trợ cấp xã hội
dành cho Ông/bà không?
485 100 0 0
Ông/bà có biết đến chính sách chăm sóc sức khoẻ
mà nhà nước dành cho Ông/bà?
444 91,5 41 8,5
Ông/bà có biết đến chính sách hỗ trợ Ông/bà
trong các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao,
362 74,6 123 25,3
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
Qua bảng số liệu, có thể thấy, NCT thời
gian qua nắm bắt khá tốt, đầy đủ các thông
tin về chính sách, quyền lợi dành cho mình.
Điều này gián tiếp phản ánh nỗ lực của chính
quyền các cấp tại vùng Đông Nam bộ trong
công tác tuyên truyền, phổ biến và cung cấp
thông tin đầy đủ, kịp thời các chính sách dành
cho NCT, đồng thời, cũng là biện pháp tốt để
đảm bảo quyền trợ cấp xã hội dành cho đối
tượng đặc biệt này được thực hiện nghiêm túc.
Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành khảo
sát chính sách trợ cấp xã hội đối với NCT thể
hiện ở 04 nội dung gồm: (1) mức độ trợ cấp
hàng tháng; (2) cung vấp tư trang, vật dụng
phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày; (3) dụng
cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng;
(4) hỗ trợ mai táng. Đây là bốn nội dung được
ghi nhận trong Luật NCT năm 2010. Kết quả
như sau:
113
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
Câu hỏi
Rất đảm
bảo
Đảm bảo
Không
đảm bảo
Rất không
đảm bảo
(1) Mức trợ cấp hàng tháng hiện nay ông/bà đang nhận
có đảm bảo được chi tiêu hàng tháng của ông/bà?
34 16 22,5 27,5
(2) Việc cung cấp tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh
hoạt thường ngày mà nhà nước dành cho
Ông/bà có đảm bảo không?
10 8 35 47
(3) Dụng cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng mà
nhà nước hỗ trợ có đảm bảo cho Ông/bà?
11,2 13,4 50,1 25,3
(4) Theo Ông/bà hỗ trợ về mai táng như vậy có đảm bảo
không?
62 12 15 11
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
mong nhà nước cho gì nhiều. Già rồi có cần
gì nhiều đâu. Nhưng mà những những cái
tôi nhận được cũng có ý nghĩa lắm. Xe lăn,
rồi thỉnh thoảng được cho gạo. Có đoàn
thanh niên gì đó, còn huy động mua cho
tôi cái tivi” (Cụ ông, 72 tuổi, ngụ TP. Hồ
Chí Minh). Qua phỏng vấn sâu có thể thấy,
những kết quả mà nhà nước, chính quyền
địa phương đạt được ở nội dung (2) và (3)
là tích cực, được bản thân NCT đánh giá tốt.
Nhìn lại kết quả khảo sát ở Bảng trên, sở dĩ
mức đánh giá của mục (2) và (3) thấp, có lẽ
vì nhiều người được khảo sát không thuộc
nhóm đối tượng được hưởng hai chế độ này
nên họ không biết và không đánh giá tích
cực đối với hai nội dung ấy.
b) Về mức độ đáp ứng của chính sách
chăm sóc sức khoẻ đối với người cao tuổi
Chính sách chăm sóc sức khoẻ là nội dung
chính của chính sách đối với NCT. Kết quả
đánh giá chính sách chăm sóc sức khoẻ ban
đầu NCT qua khảo sát được thể hiện ở bảng
dưới đây:
Ở nội dung số (1), có 50% NCT được
hỏi trả lời rằng mức trợ cấp hiện tại là “đảm
bảo” và “rất đảm bảo”, và số (4) có tới 74%
cho rằng mức hỗ trợ mai táng như vậy là
đảm bảo và rất đảm bảo - đáp ứng khá tốt
mong đợi của NCT, có tích cực đối với cuộc
sống của họ. Đặc biệt, trong bốn nội dung
xuất hiện trong bảng trên thì nội dung thứ
(2) và thứ (3) có tỷ lệ trả lời ở mức “đạt” và
“rất đạt” thấp cũng. Để hiểu sâu hơn nguyên
nhân, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu với
một số NCT về 02 nội dung này và kết
quả khá bất ngờ. Đây là lời một cụ bà chia
sẻ:“Việc cung cấp tư trang, vật dụng phục
vụ cho sinh hoạt thường ngày mà nhà nước
dành cho tôi có gì đâu? Tôi chỉ biết là do
hoàn cảnh của tôi neo đơn nên thỉnh thoảng
tôi có nhận hỗ trợ của bên phụ nữ một ít đồ,
rồi uỷ ban có phát gạo, có người tặng quạt.
Đó là những gì tôi nhận được. Tôi thấy như
vậy là vui rồi, được anh em quan tâm là thấy
vui. Quý lắm” (Cụ bà, 66 tuổi, ngụ Đồng
Nai) hay như nội dung trả lời của một cụ
ông được phỏng vấn cho hay “Cũng không
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Câu hỏi
Mức độ đánh giá
(Trong đó, 1: “không tốt”, 4: tốt nhất)
1 2 3 4
Trạm y tế xã, phường, thị trấn có đảm bảo trách nhiệm
triển khai các hình thức tuyên truyền, phổ biến kiến thức
phổ thông về chăm sóc sức khỏe?
62 14 10 14
Công tác hướng dẫn NCT kỹ năng phòng bệnh, chữa
bệnh và tự chăm sóc sức khoẻ của Trạm y tế?
43 24 13 20
Công tác lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khoẻ NCT; 16 49 25 10
Công tác khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với chuyên môn
cho NCT ở Trạm y tế;
69 21 7.5 2.5
Trạm y tế phối hợp với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
tuyến trên tổ chức kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho NCT
54 23,7 10,2 12,1
Vấn đề thụ hưởng dịch vụ tư vấn về dinh dưỡng của Ông/
bà ở địa phương
78,5 10,5 10 1
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
Theo đánh giá của NCT, những dịch vụ
liệt kê trong bảng ở trên chưa được đánh giá
cao khi tỉ lệ “rất tốt” và “tốt” thấp. Trong đó,
chỉ có một khía cạnh duy nhất là “công tác
lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khoẻ NCT” có
tỉ lệ đánh giá tích cực cao nhất so với các tiêu
chí khác (nhưng cũng chỉ với 35%). Lí giải
về điều này, một số ý kiến phỏng vấn sâu cho
tác giả hiểu sâu thêm vấn đề chính là ở chỗ
vì đa phần người tham gia khảo sát “không
hiểu”, cũng “không nắm” được những công
việc mà họ cho rằng “công tác lập hồ sơ theo
dõi, quản lý sức khoẻ” này “mang tính nội
bộ”, nên vì vậy có tình trạng thờ ơ, “đánh
giá cho xong việc” ở cuộc điều tra vẫn là phổ
biến.
Một số nội dung khác như công tác như
tuyên truyền, phổ biến cho NCT những kiến
thức phổ thông về chăm sóc sức khoẻ, dinh
dưỡng đều chưa thực hiện tốt ở khâu chăm
sóc sức khoẻ ban đầu; năng lực và trình độ
của cán bộ Trạm Y tế cấp phường còn hạn
chế... Đặc biệt, nhiều NCT được phỏng vấn
trả lời rằng họ chưa bao giờ đi khám sức khoẻ
định kỳ tại Trạm Y tế cấp xã. Chia sẻ của 1 cụ
ông cho chúng ta rõ thêm rằng: “Từ hồi giờ
tôi không có đi khám sức khoẻ định kì. Bệnh
tới đâu là đi khám tới đó à” (cụ ông, 74 tuổi,
ngụ Tây Ninh) hay như những bộc bạch của
cụ bà: “Thiệt tình là tôi chưa bao giờ bước
chân vào trạm y tế. Anh cứ hỏi nhiều người đi,
xem có mấy người biết cái Trạm Y tế đó nằm
ở đâu”(cụ bà, 69 tuổi, ngụ Bình Dương). Có
lẽ niềm tin của NCT dành cho hệ thống y tế cơ
sở là chưa cao bởi lẽ “Có chuyện gì là chúng
tôi đi thẳng xuống bệnh viện huyện, hoặc đi
lên bệnh viện tỉnh. Trạm y tế chưa khám sức
khoẻ định kì cho tôi lần nào” (cụ bà, 73 tuổi,
ngụ Đồng Nai).
Vấn đề thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa
bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế, kết quả khảo sát
thể hiện ở biểu đồ sau:
115
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
Biểu đồ: Đánh giá về chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT
(Đơn vị tính: Lượt ý kiến)
Nguồn: Kết quả điều tra, 2017
Kết quả khảo sát cho thấy 100% NCT
được tiếp cận với thẻ bảo hiểm y tế, trong khi
đó, kết quả phỏng vấn sâu về tình hình khám
chữa bệnh sử dụng thẻ bảo hiểm ở NCT trên
địa bàn nghiên cứu cũng cho ra những được
nhận định rất khả quan và tích cực. Đây là kết
quả tích cực và là một thành tựu quan trọng
của chính sách đối với NCT tại các địa phương
được khảo sát thời gian qua.
c) Mức độ đáp ứng về nhu cầu chăm lo
đời sống văn hoá, tinh thần và thể chất người
cao tuổi
Kết quả khảo sát về hình thức tiếp cận
thông tin của NCT được thể hiện ở biểu đồ sau:
Biểu đồ: Hình thức tiếp cận thông tin của người cao tuổi (Đơn vị tính: Lượt ý kiến)
Nguồn: Kết quả điều tra
Tiếp cận thông tin là nội dung quan trọng
giúp cho đời sống tinh thần của NCT trở nên
phong phú và đa đạng. Trong các kênh tiếp
cận thông tin, truyền hình là kênh thông tin
quan trọng và phổ biến nhất (chiếm 89,5%)
mà NCT tiếp cận được, vì nghe và nhìn thuận
lợi hơn cho NCT. Bạn bè cũng là kênh thông
tin quan trọng đối với NCT chiếm tới 86,6%.
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Về hoạt động thể dục thể thao, kết quả
khảo sát cho thấy chỉ có 35% người trả lời
là họ có khả năng tiếp cận với hoạt động thể
dục thể thao. Phần lớn những người trả lời có
đều tập trung ở khu vực đô thị, khu vực nông
thôn gần như là không. Qua phỏng vấn sâu,
một số nguyên nhân đã được phát hiện cụ thể
hơn. Theo ý kiến của một cụ ông được phỏng
vấn thì: “Thể dục gì đâu. Không có câu lạc
bộ nào hết. Anh em người già khu vực này, có
người thích thì sáng sáng đi bộ. Còn lại thì
dậy sớm quanh quẩn với mấy cái cây trồng.
Vậy đó”. (Cụ ông, 75 tuổi, ngụ Bình Dương).
Trong khi đó, cụ bà chia sẻ: “Tập thể dục, thể
thao thì cứ ra công viên, tui thấy mấy bà bạn
tui ở ngoại thành chẳng có tập gì vì không có
nơi và dụng cụ nào cả” (cụ bà, 70 tuổi, ngụ
TP. Hồ Chí Minh).
Tương tự như vậy, kết quả khảo sát mức
độ đầy đủ về địa điểm, cơ sở vật chất để tổ
chức sinh hoạt tinh thần cho NCT còn quá
thiếu. Có tới 82% trả lời là rất thiếu, 10% trả
lời là thiếu, còn lại trả lời là “rất đầy đủ” và
“đầy đủ”. Về hoạt động tặng quà và tiền mặt
nhân dịp lễ tết, mừng thọ cho NCT được đánh
giá tốt. Có tới 79% trả lời là thường xuyên và
rất thường xuyên.
2.2.2. Đối với Nhóm vấn đề thứ 2 - tính
đồng bộ, đầy đủ của hệ thống chính sách đối
với NCT trên địa bàn tỉnh, thành phố của
vùng thời gian qua
Ở nội dung này, tác giả tiến hành khảo
sát đối tượng là cán bộ, công chức đang công
tác tại Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
của 04 tỉnh là Bình Dương, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Tây Ninh. Mỗi Sở, tác giả
lựa chọn 3 thành viên. Tổng số phiếu phát ra
là 30 phiếu. Số phiếu thu về là 30 phiếu. Số
phiếu hợp lệ là 30 phiếu.
a) Khía cạnh an toàn về tài chính và thu
nhập dành cho người cao tuổi
Kết quả điều tra về nội dung này được thể
hiện ở biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ: Đánh giá khía cạnh tài chính và thu nhập dành cho người cao tuổi Việt Nam
Đơn vị tính: Lượt ý kiến
Nguồn: Kết quả điều tra, 2017
117
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
Kết quả khảo sát cho thấy, nhà nước
“không có hỗ trợ” NCT trong việc lập kế
hoạch về nhu cầu tài chính của họ (chỉ với 23%
số người khảo sát cho rằng nhà nước có quan
tâm). NCT ở Việt Nam nói riêng và người Việt
Nam nói chung thường ít quan tâm tới việc lập
kế hoạch nhu cầu tài chính. Người già càng ít
quan tâm đến điều này. Đối với những người
nghỉ hưu, hoặc đã đi làm có khoản tiền tích luỹ
thì họ ý thức hơn về kế hoạch chi tiêu, nhưng
với những NCT thuộc khu vực phi chính thức,
nông thôn thì họ không những gặp khó khăn
do nguồn tài chính hạn hẹp mà còn không hề
nghĩ tới kế hoạch tài chính của bản thân. Sự
hỗ trợ của nhà nước liên quan đến vấn đề này
cũng hết sức hạn chế.
Đối với những người đang tham gia vào
thị trường sức lao động mặc dù đã hết tuổi lao
động cũng không hề nhận được bất kì hỗ trợ
nào từ nhà nước. Những cán bộ, công chức
phụ trách chế độ, chính sách NCT cho rằng
họ chưa làm gì, và không có quy định nào về
những chế độ, hỗ trợ đối với nhóm đối tượng
này cả. Những người hết tuổi lao động nhưng
vẫn tham gia thị trường lao động chỉ nhận
được những hỗ trợ từ nhà nước như những đối
tượng là NCT khác, thậm chí thấp hơn. Chẳng
hạn như họ không nhận được trợ cấp xã hội
hàng tháng vì họ có nguồn thu. Không những
vậy, trong trường hợp thu nhập của họ vượt
chuẩn nghèo, họ lại không thuộc hộ nghèo và
không được hưởng những chính sách, chế độ
của hộ nghèo.
Mặc dù trong thời gian qua, ngân sách dành
cho phúc lợi xã hội, trong đó có phúc lợi giành
cho NCT, nhưng nếu nói là đảm bảo chưa thì
câu trả lời nhận được từ khảo sát là chỉ có 36%
cho là đảm bảo ở mức tốt và rất tốt.
b) Khía cạnh chăm sóc người cao tuổi
trong các trung tâm chăm sóc dành cho họ
Qua khảo sát, tác giả thu được kết quả
như sau:
Tiêu chí đánh giá Rất tốt Tốt Không tốt Tốt
Đáp ứng nhu cầu chăm sóc của NCT. 23 12 34 31
Tăng mức cung và sự đa dạng trong mức cung về mái ấm
tình thương, các dịch vụ chăm sóc từ cộng đồng.
45 34 10 11
Giám sát và cải thiện vấn đề cung ứng dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ và nơi ở dài hạn cho NCT, làm cho NCT có thể có
được sự an toàn và hưởng được dịch vụ có chất lượng.
32 17 37 14
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
Khảo sát về mức độ đáp ứng nhu cầu chăm
sóc sức khoẻ của NCT, chỉ có khoảng 35% trả
lời là đảm bảo rất tốt và tốt. Mức đáp ứng nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ như vậy là thấp. Tương
tự như vậy hoạt động giám sát và cải thiện vấn
đề cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và
nơi ở dài hạn cho NCT, làm cho NCT có thể
có được sự an toàn và hưởng được dịch vụ có
chất lượng hiện đang thực hiện chưa tốt. Kết
quả khảo sát cho thấy chỉ có 49% đánh giá
là tốt và rất tốt. Tuy nhiên, tiêu chí tăng mức
cung và sự đa dạng trong mức cung về mái
ấm tình thương, các dịch vụ chăm sóc từ cộng
đồng lại được đánh giá rất cao với 79% trả lời
là tốt và rất tốt.
c) Về vấn đề chăm sóc sức khoẻ dành cho
người cao tuổi
Việc chăm sóc sức khỏe NCT là một trong
những nội dung trọng tâm của chính sách
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chăm sóc NCT. Theo kết quả điều tra (bảng
bên dưới) cho thấy, hoạt động hỗ trợ cộng
đồng và cá nhân để những đối tượng này có
thể tham gia tích cực vào hoạt động chăm sóc
sức khoẻ của NCT không được đánh giá cao,
chỉ có 35% đối tượng tham gia khảo sát đánh
giá là rất tốt và tốt. Còn lại có tới 75% (gấp hai
lần) cho rằng không tốt và rất không tốt.
Công tác hỗ trợ để NCT định kỳ được
hưởng các dịch vụ y tế hiệu quả, có chất lượng
phù hợp với nhu cầu của họ tuy có được đánh
giá cao hơn tiêu chí vừa trình bày nhưng cũng
chỉ với 41% đánh giá là tốt và rất tốt. Riêng
tiêu chí phát triển một cung lao động cho phù
hợp với nhu cầu chăm sóc sức khoẻ NCT
trong xã hội thì chỉ có 18,3% đánh giá là tốt
và rất tốt. Theo đánh giá của những cán bộ,
công chức tham gia khảo sát, nhà nước chưa
tập trung vào phát triển thị trường lao động
trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cho NCT.
d) Về di chuyển và đi lại của người cao
tuổi
Vấn đề di chuyển và đi lại ở NCT thể hiện
ở Bảng kết quả sau:
Tiêu chí đánh giá Rất tốt Tốt Không tốt Rất không tốt
Hỗ trợ những NCT sử dụng các phương tiện giao thông
cá nhân an toàn
15 6,4 42 36,6
Phát triển các loại hình giao thông phù hợp, dễ tiếp cận
và giá cả hợp lý để NCT có thể tham gia lưu thông nếu
họ không muốn hoặc không thể sử dụng phương tiện
giao thông cá nhân
10 23 12 55
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
Với tiêu chí hỗ trợ NCT sử dụng các
phương tiện giao thông cá nhân an toàn, kết
quả khảo sát cho thấy chỉ có 21,4% đánh giá
là tốt và rất tốt. Trên thực tế việc hỗ trợ này
chưa được nhà nước quan tâm. Ở tiêu chí phát
triển các loại hình giao thông phù hợp, dễ tiếp
cận và giá cả hợp lý để NCT có thể tham gia
lưu thông nếu họ không muốn hoặc không thể
sử dụng phương tiện giao thông cá nhân được
đánh giá cao hơn so với tiêu chí hỗ trợ sử dụng
phương tiện cá nhân, với 33% được đánh giá
là rất tốt và tốt. Sở dĩ tiêu chí này không được
đánh giá cao vì trên thực tế, nhà nước chỉ phát
triển xe bus và NCT được ưu đãi giá vé, nhưng
về thực chất việc phát triển xe bus phục vụ cho
nhu cầu đi lại chung của người dân hơn là theo
nhu cầu riêng của NCT.
e) Về vấn đề an toàn cho người cao tuổi
Vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng
và người dân về vấn đề ngược đãi ngược cao
tuổi, bỏ rơi và cách thức để tránh hoặc phản
ứng trước những điều đó được đánh giá tương
đối tốt với 76% cho là tốt và rất tốt. Tiêu chí
tăng cường năng lực của cộng đồng để đáp
ứng trong những tình huống mà NCT bị ngược
đãi cũng có tới 58,6% đánh giá là tốt và rất tốt.
Vấn đề hỗ trợ cho gia đình và những người
chăm sóc NCT trong cộng đồng để giúp họ
hiểu hơn những thay đổi và thách thức trong
việc chăm sóc NCT trong bối cảnh có nhiều
thay đổi nhận được chưa tới 50% đánh giá tốt
và rất tốt.
119
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
Tiêu chí đánh giá Rất tốt Tốt Không tốt Rất không tốt
Nâng cao nhận thức của cộng đồng và người dân
về vấn đề ngược đãi người cao tuổi, bỏ rơi và cách
thức để tránh hoặc phản ứng trước những điều đó.
34 42 10 14
Tăng cường năng lực của cộng đồng để đáp ứng
trong những tình huống mà NCT bị ngược đãi.
35,6 23 20 21,4
Hỗ trợ duy trì sự tự chủ của cá nhân NCT trong
việc đưa ra những quyết định liên quan đến bản
thân và tài chính.
2,5 1,5 25 72
Hỗ trợ cho gia đình và những người chăm sóc NCT
trong cộng đồng để giúp họ hiểu hơn những thay
đổi và thách thức trong việc chăm sóc NCT trong
bối cảnh có nhiều thay đổi.
12 34 30 24
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
Trong bốn khía cạnh được liệt kê ở Bảng
trên, khía cạnh Hỗ trợ duy trì sự tự chủ của cá
nhân NCT trong việc đưa ra những quyết định
liên quan đến bản thân và tài chính nhận được
đánh giá thấp nhất, chỉ với 4%. Việc tự chủ tài
chính của cá nhân NCT thường được các cán
bộ, công chức nhà nước xem là việc của cá
nhân NCT và gia đình NCT.
Vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng
và người dân về vấn đề ngược đãi ngược cao
tuổi, bỏ rơi và cách thức để tránh hoặc phản
ứng trước những điều đó được đánh giá tương
đối tốt với 76% cho là tốt và rất tốt. Tiêu chí
tăng cường năng lực của cộng đồng để đáp ứng
trong những tình huống mà NCT bị ngược đãi
cũng có tới 58,6% đánh giá là tốt và rất tốt. Vấn
đề hỗ trợ cho gia đình và những người chăm
sóc NCT trong cộng đồng để giúp họ hiểu hơn
những thay đổi và thách thức trong việc chăm
sóc NCT trong bối cảnh có nhiều thay đổi nhận
được chưa tới 50% đánh giá tốt và rất tốt.
f) Về sự tham gia hoà nhập và đóng góp
cho cộng đồng của người cao tuổi
Kết quả khảo sát thể hiện ở Bảng sau:
Tiêu chí đánh giá Rất tốt Tốt Không tốt Rất không tốt
Xây dựng một cộng đồng thân thiện với NCT. 23 45 10,4 21,6
Hỗ trợ NCT đóng góp cho cộng đồng và
khuyến khích cộng đồng thừa nhận sự đóng
góp của NCT.
56 23 10 11
Chính phủ, nhà nước tăng cường làm việc, kết
nối với khu vực phi lợi nhuận để cung cấp và
hỗ trợ NCT để họ có thể tham gia và đóng góp
tích cực hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và lợi
ích của cộng đồng mà họ đang sống.
61 21 15 3
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Ở tiêu chí tham gia hòa nhập và đóng
góp cho cộng đồng, các thành viên tham gia
trả lời khảo sát đánh giá rất cao những hoạt
động, chính sách mà nhà nước đề ra để hỗ
trợ cho NCT. Có tới 68% cho rằng nhà nước
đã hướng tới xây dựng một cộng đồng thân
thiện với NCT ở mức tốt và rất tốt. Vấn đề hỗ
trợ NCT đóng góp cho cộng đồng và khuyến
khích cộng đồng thừa nhận sự đóng góp của
NCT nhận được 89% đánh giá là tốt và rất tốt.
Có tới 83% cho rằng Chính phủ, nhà nước đã
làm tốt và rất tốt việc tăng cường làm việc, kết
nối với khu vực phi lợi nhuận để cung cấp và
hỗ trợ NCT để họ có thể tham gia và đóng góp
tích cực hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và lợi
ích của cộng đồng mà họ đang sống.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NCT
TỪ THỰC TIỄN VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
Những kết quả khả quan mà chính quyền
vùng Đông Nam Bộ đạt được đã được phân
tích, luận giải qua 02 nhóm vấn đề với 09 nội
dung lớn nêu trên. Tuy nhiên, nhìn tổng thể,
do là vấn đề chính sách lớn nên trong quá trình
thực hiện chính sách này, một số địa phương
vùng Đông Nam Bộ vẫn còn một số hạn chế,
tồn tại nhất định. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, mức trợ cấp hiện tại chỉ đáp ứng
được có 50% NCT. Điều này cũng là tất yếu
trong bối cảnh khi Việt Nam đón nhận vấn đề
già hóa dân số trong bối cảnh quốc gia còn
nghèo, là một nước đang phát triển.
Thứ hai, chính sách chăm sóc sức khoẻ
ban đầu còn hạn chế. Điều đáng quan tâm là
công tác tuyên truyền, phổ biến cho NCT những
kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khoẻ, dinh
dưỡng đều chưa thực hiện tốt ở khâu chăm sóc
sức khoẻ ban đầu, năng lực và trình độ của cán
bộ Trạm Y tế cấp xã (xã, phường, thị trấn) còn
hạn chế, chưa đảm đương được công tác chăm
sóc sức khoẻ ban đầu cho đối tượng NCT.
Thứ ba, nhà nước, chính quyền một số
tỉnh vùng Đông Nam Bộ đang thiếu hẳn nội
dung hỗ trợ NCT trong việc lập kế hoạch về
nhu cầu tài chính của họ.
Thứ tư, nhà nước cũng như chính quyền
một số tỉnh vùng Đông Nam Bộ chưa đáp ứng
được mức độ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ của NCT. Không những vậy, hoạt động
giám sát và cải thiện vấn đề cung ứng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ và nơi ở dài hạn cho NCT,
làm cho NCT có thể có được sự an toàn và
hưởng được dịch vụ có chất lượng hiện đang
thực hiện chưa tốt.
Thứ năm, nhà nước ít quan tâm tới việc phát
triển các loại hình giao thông phù hợp, dễ tiếp
cận và giá cả hợp lý để NCT có thể tham gia
lưu thông nếu họ không muốn hoặc không thể
sử dụng phương tiện giao thông cá nhân được.
Thứ sáu, vấn đề hỗ trợ cho gia đình và
những người chăm sóc NCT trong cộng đồng
để giúp họ hiểu hơn những thay đổi và thách
thức trong việc chăm sóc NCT trong bối cảnh
có nhiều thay đổi chưa được nhà nước quan
tâm thỏa đáng. Trong khi đó, đây là chỗ dựa
quan trọng bậc nhất của NCT ở Việt Nam nói
chung và của vùng Đông Nam Bộ nói riêng
hiện nay.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ
Trên cơ sở các tồn tại, hạn chế nêu trên,
tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp,
khuyến nghị có tính tham vấn nhằm giúp
chính quyền địa phương vùng Đông Nam Bộ
nói riêng hoàn thiện chính sách đối với NCT
trong thời gian tới. Cụ thể như sau:
4.1. Giải pháp liên quan đến nhận thức
của các ngành, các cấp
Theo lý thuyết về thực hiện chính sách,
nhận thức của các ngành, các cấp, nhất là
chính quyền địa phương giữ vai trò quyết định
trong thực thi chính sách. Do vậy, việc nâng
121
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
cao nhận thức của các nhà quản lý, hoạch định
chính sách cũng như của toàn bộ cộng đồng
về những thách thức của già hóa dân số và đời
sống của NCT là cần thiết, trong đó cần tập
trung thay đổi nhận thức về:
- Thực tế già hoá dân số của Việt Nam.
Quá trình già hoá dân số nhanh chóng ở Việt
Nam mang theo những thách thức rất lớn đối
với hệ thống an sinh xã hội, nền kinh tế của
Việt Nam. Khi nhận thức được thách thức này,
các cơ quan nhà nước sẽ nhận thức rõ hơn nhu
cầu về mặt chính sách dành cho NCT, từ đó họ
tổ chức thực hiện chính sách chăm sóc NCT
hiệu quả hơn.
- Vai trò của người cao tuổi trong xã hội.
Nhiều nơi xem NCT là gánh nặng của xã hội
và gia đình. Cho nên việc thực hiện các hoạt
động phúc lợi xã hội cho NCT thường bị một
số nơi cho rằng đó là những hoạt động mang
tính “từ thiện”. Nhận thức này cần phải thay
đổi vì nó ảnh hưởng đến quá trình triển khai,
thực hiện chính sách đối với NCT.
- Vai trò của cộng đồng đối với hoạt động
chăm lo đời sống của người cao tuổi. NCT
ở Việt Nam thường sinh sống cùng gia đình,
gắn bó chặt chẽ với cộng đồng. Nhưng trên
thực tế, vai trò của cộng đồng trong chăm sóc
NCT chưa được các cơ quan nhà nước đánh
giá đúng nên trong quá trình thực hiện chính
sách đối với NCT, những hoạt động dành cho
cộng đồng không nhiều và thậm chí là bị cơ
quan nhà nước bỏ qua.
- Cấu trúc lại hệ thống chính sách đối
với NCT hợp lí, cân đối và thống nhất. Hiện
tại thể chế về chính sách NCT thực sự chưa
hoàn thiện, chỉ dừng lại ở quy định trong Hiến
pháp và 01 đạo luật. Việt Nam đang rất thiếu
các văn bản pháp quy hướng dẫn, triển khai
nhanh chóng, có lộ trình các mục tiêu, hướng
chính sách chủ đạo, trong đó, xác định rõ ràng
các “trục chính sách NCT” để triển khai xây
dựng, thực thi chính sách này là điều rất cần
làm ngay ở nước ta hiện nay.
4.2. Hoàn thiện chính sách chăm sóc đời
sống thể chất và tinh thần cho NCT
Trước hết, Nhà nước cần tăng cường đầu
tư hiện đại hóa các thiết chế và cơ sở vật chất
cần thiết, phù hợp để nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho NCT; phù hợp ngân sách
và đặc thù các địa phương như nhà sinh hoạt
cộng đồng, quy định có không gian dành cho
hoạt động NCT, dụng cụ phục vụ chuyên dụng
cho họ tập luyện thể dục, thể thao, trị liệu,
Thêm vào đó, nhà nước cần đưa ra các
quy định, cơ chế tạo điều kiện cho địa phương
liên kết, phối hợp với công ty, tổ chức trên
địa bàn trong việc tham gia cung ứng các
cơ sở hạ tầng về thể thao, sinh hoạt văn hoá
dành cho NCT.
4.3. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội
mà trọng tâm là hệ thống lương hưu và trợ
cấp xã hội cho NCT
Bảo đảm an sinh xã hội nhằm đảm bảo và
cải thiện thu nhập của NCT có được từ lao
động và hưu trí.
Một là, cải cách hệ thống hưu trí gắn với
cải cách tuổi nghỉ hưu hợp lí, có lộ trình.
Hai là, thực hiện tốt chính sách BHXH,
tăng cường khả năng tiếp cận của các nhóm
dân số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ
thống BHXH với thiết kế linh hoạt, phù hợp
với khả năng đóng góp và chi trả của đối
tượng.
Ba là, có hệ thống chính sách đủ mạnh và
bài bản để phát huy, thu hút vai trò NTC trong
các lĩnh vực đời sống - xã hội.
Bốn là, trợ cấp xã hội cho nhóm NCT dễ
tổn thương theo hướng mở rộng và tiến tới
một hệ thống phổ cập cho mọi NCT - một hệ
thống nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu.
122
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4.4. Hoàn thiện chính sách chăm sóc sức
khoẻ cho NCT
Một là, đẩy mạnh công tác truyền thông
giáo dục sức khỏe và nâng cao nhận thức
người dân về chuẩn bị cho một tuổi già khỏe
mạnh, tránh bệnh tật; ứng dụng các kỹ thuật
mới trong chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị
lâu dài các bệnh mạn tính.
Hai là, xây dựng và củng cố mạng lưới y
tế chăm sóc sức khỏe NCT, đặc biệt là mạng
lưới kiểm soát các bệnh mạn tính.
Ba là, nhà nước và chính quyền các địa
phương vùng Đông Nam Bộ cần đầu tư mạnh
mẽ hơn nữa vào phát triển hệ thống các trung
tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc,
nuôi dưỡng NCT, nhất là đối với NCT có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, NCT là những người
có công với đất nước; đồng thời đẩy mạnh các
hoạt động hỗ trợ cụ thể cho các trung tâm bảo
trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc, nuôi
dưỡng NCT do tư nhân cung cấp.
Bốn là, cần khẩn trương nghiên cứu, tiến
tới xây dựng hệ thống bệnh viện và tổ chức
nghiên cứu lão khoa. Trước mắt, cần hoàn
thiện hệ thống khoa lão khoa trong các bệnh
viện đa khoa, phát triển hệ thống các bệnh viện
chuyên khoa lão khoa ở Trung ương và tuyến
tỉnh; củng cố và hoàn thiện các bộ phận khám,
chữa bệnh lão khoa tại bệnh viện tuyến huyện
và đưa nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe NCT vào
chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế cơ sở.
Năm là, xây dựng được cơ sở dữ liệu (có
thể là dữ liệu trực tuyến, dữ liệu số) có tính
đại diện quốc gia và thực hiện các nghiên cứu
toàn diện về dân số cao tuổi. Không có những
thông tin chính xác, cập nhật về già hóa dân số
và NCT thì không thể có những đánh giá xác
đáng về các vấn đề kinh tế, xã hội và sức khỏe
của NCT.
5. KẾT LUẬN
Vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam diễn
ra từ năm 2011, tuy nhiên, việc nghiên cứu
về chủ đề này ở Việt Nam vẫn là mảnh đất
cần được tiếp tục khai phá, đầu tư bởi tính hấp
dẫn, bức thiết và có ý nghĩa thực tiễn rất cao.
Thông qua bài viết, tác giả đã tập trung tiếp
cận chính sách đới với NCT mà trung tâm là
xoay quanh nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu
về chăm sóc NCT từ thực tiễn một số tỉnh,
thành phố thuộc vùng Đông Nam bộ. Thông
qua áp dụng hợp lí phương pháp nghiên cứu
định tính và định lượng, các kết quả nghiên
cứu đã tập trung xoay quanh 02 nhóm vấn đề
chính với 09 nội dung cốt lõi qua đó phản ánh
rõ nét thực trạng về chính sách đối với NCT
của một số địa phương vùng Đông Nam Bộ
thời gian qua. Từ đó, mạnh dạn đề xuất các
nhóm giải pháp, đề xuất mang tính tham vấn
cho các cơ quan quản lý nhà nước các cấp,
của vùng Đông Nam Bộ nghiên cứu, vận dụng
trong quá trình tìm kiếm sự hiệu quả của chính
sách đối với NCT thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đào Văn Dũng, Nguyễn Kim Phương (2017), Giải pháp, chính sách an sinh xã hội cho người cao
tuổi, Tạp chí Tạp chí Tuyên giáo, số 8/2017.
[2]. Nguyễn Thị Mỹ Dung, Bùi Nghĩa (2017), Chính sách người cao tuổi tiếp cận từ quyền cơ bản của
công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
[3]. Nguyễn Văn Đồng (2017), Luật Người cao tuổi: Thực tiễn triển khai sau 8 năm ban hành, Tạp
chí Xã hội học, số 1 (137), 2017.
123
Chính sách đối với người cao tuổi qua nghiên cứu tại một số địa phương ...
[4]. Đề tài của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cơ bản về người cao tuổi Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội, 2010.
[5]. Lê Văn Hảo (2017), Cảm nhận đa chiều của người cao tuổi về già hóa, Tạp chí Tâm lý học, số
4/2017.
[6]. Lê Văn Hảo (2017), Cảm nhận về già hóa ở người cao tuổi, Tạp chí Tâm lý học, số 12/2016.
[7]. Hội Người cao tuổi Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
[8]. Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn hóa người cao tuổi, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[9]. Nguyễn Mộc Lan, Những vấn đề tâm lý - xã hội của người cao tuổi Việt Nam:Thực trạng - giải
pháp trợ giúp và phát huy vai trò người cao tuổi tại cộng đồng, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
[10]. Tạ Ngọc Tấn (2012), Lao động, tiền lương, an sinh xã hội. Một số kinh nghiệm của thế giới (tủ
sách phục vụ lãnh đạo), Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
[11]. Trường Trung cấp Quang Trung (2011), Tài liệu Hội thảo quốc tế: Về hỗ trợ chăm sóc và phúc
lợi xã hội cho người già và người tàn tật, TP. Hồ Chí Minh.
[12]. Quỹ dân số Liên Hiệp quốc (UNFPA) (2016), Thông tin tóm tắt: Già hóa dân số nhanh chóng
ở Việt Nam - Thách thức và cơ hội, Hà Nội.
[13]. Quỹ dân số Liên Hiệp quốc tại Việt Nam (UNFPA) & Tổng cục Thống kê (2016), Dự báo dân
số Việt Nam 2014 - 2049, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 78_1142_2136208.pdf