Tài liệu Chỉ định và điều trị ngoại khoa ung thư phổi thứ phát tại Bệnh viện Chợ Rẫy: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 132
CHỈ ĐỊNH VÀ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA UNG THƯ PHỔI THỨ PHÁT
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Hoàng Bình*, Vũ Hữu Vĩnh*, Châu Phú Thi*, Phạm Thanh Việt**, Trần Thị Kim Phượng*,
Nguyễn Thị Hảo*, Phan Thị Kim Yến*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm ban đầu trong chỉ định và điều trị
ngoại khoa bệnh ung thư phổi thứ phát (u di căn phổi) tại khoa Ngoại Lồng ngực, bệnh viện Chợ Rẫy.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu các biểu hiện lâm sàng, chỉ định, phương pháp phẫu thuật và kết quả
điều trị ngoại khoa ung thư phổi thứ phát tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2015 đến 12/2017.
Kết quả: Trong thời gian 3 năm, chúng tôi đã điều trị ngoại khoa cho 24 bệnh nhân. Giới: 17 nam (70,8%),
7 nữ. Tuổi trung bình là 50,9 (lớn nhất: 71, nhỏ nhất: 19). Trong đó gồm: 9 ung thư đại trực tràng, 2 ung thư
thận, 1 ung thư vú, 2 sarcoma xương, 8 ung t...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 176 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chỉ định và điều trị ngoại khoa ung thư phổi thứ phát tại Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 132
CHỈ ĐỊNH VÀ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA UNG THƯ PHỔI THỨ PHÁT
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Hoàng Bình*, Vũ Hữu Vĩnh*, Châu Phú Thi*, Phạm Thanh Việt**, Trần Thị Kim Phượng*,
Nguyễn Thị Hảo*, Phan Thị Kim Yến*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm ban đầu trong chỉ định và điều trị
ngoại khoa bệnh ung thư phổi thứ phát (u di căn phổi) tại khoa Ngoại Lồng ngực, bệnh viện Chợ Rẫy.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu các biểu hiện lâm sàng, chỉ định, phương pháp phẫu thuật và kết quả
điều trị ngoại khoa ung thư phổi thứ phát tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2015 đến 12/2017.
Kết quả: Trong thời gian 3 năm, chúng tôi đã điều trị ngoại khoa cho 24 bệnh nhân. Giới: 17 nam (70,8%),
7 nữ. Tuổi trung bình là 50,9 (lớn nhất: 71, nhỏ nhất: 19). Trong đó gồm: 9 ung thư đại trực tràng, 2 ung thư
thận, 1 ung thư vú, 2 sarcoma xương, 8 ung thư tế bào gan, 2 ung thư hệ sinh dục. Phẫu thuật cắt thùy phổi kèm
u: 14 trường hợp, cắt u di căn: 10 trường hợp. Không có tử vong, biến chứng nặng được ghi nhận. Tất cả bệnh
nhân ra viện tốt. Một bệnh nhân tử vong sau 9 tháng do bệnh ung thư nguyên phát tiến triển, 1 bệnh nhân tử
vong sau 6 tháng do bệnh tim.
Kết luận: điều trị ngoại khoa ung thư phổi thứ phát là có chỉ định, kéo dài tiên lượng sống cho bệnh
nhân. Kết quả an toàn, không tai biến trầm trọng. Chỉ định phẫu thuật cắt thùy hay cắt u, PTNS đốt khối u
bằng vi sóng tùy thuộc vào lâm sàng. X quang phổi là phương pháp cận lâm sàng đơn giản, giúp phát hiện
sớm u di căn phổi.
Từ khóa: Ung thư phổi thứ phát.
ABSTRACT
INDICATION SURGICAL TREATMENT FOR PULMONARY METASTASES IN CHO RAY HOSPITAL
Nguyen Hoang Binh, Vu Huu Vinh, Chau Phu Thi, Pham Thanh Viet, Tran Thi Kim Phuong,
Nguyen Thi Hao, Phan Thi Kim Yen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 132 - 136
Objectives: Evaluate initial experience in indication, surgical treatment of pulmonary metastases at Cho
Ray hospital.
Methods: Descriptive and retrosprospective study of 24 patients underwent surgical treatment of
pulmonary metastases at Cho Ray hospital from Jan 2015 to Dec 2017.
Results: Among the 24 patients, 17 (70.8%) were male. The median age was 50,9 years (range 19 - 71).
Primary colonrectal cancer (37.5%) and hepatic cancer (33.4%) were the main site of origine of the metastases.
Lobectomy was achieved in 54.1% of patients (13/24). There was no perioperative mortality, no severe
complication. All of patients were discharged safely, one died after 9 months result from primary cancer.
Conclusions: Pulmonary resection in treatment of pulmonary metastases is good and safe procedure and is
indicated for improving survival prognosis in pulmonary metastasis patients.
Keywords: Pulmonary metastases, secondary lung tumors.
*Khoa Ngoại Lồng ngực, bệnh viện Chợ Rẫy, **Phòng Kế hoạch Tổng hợp, bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hoàng Bình, ĐT: 0908334789, Email: nguyenhoangbinh06@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 133
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi thứ phát là những khối u ung
thư ở phổi do ung thư từ những cơ quan khác di
căn đến. Ung thư di căn thường là biểu biện của
bệnh di căn xa, toàn thân, điều trị đặt ra thường
là hóa trị, xạ trị hay kết hợp đa mô thức. Tuy
nhiên đối với những trường hợp ung thư di căn
đến phổi khu trú, có thể phẫu thuật được thì vấn
đề phẫu thuật cắt bỏ khối u di căn đến phổi vẫn
được chỉ định, với điều kiện các ung thư nguyên
phát cũng đã được điều trị triệt để(1,8). Dù còn
nhiều tranh cãi quanh vấn đề nên can thiệp
ngoại khoa hay hóa, xạ trị, nhiều nghiên cứu đã
được tiến hành cho thấy nếu được chọn lọc kỹ,
một số bệnh nhân được phẫu thuật có tiên lượng
sống tốt hơn so bệnh nhân không được phẫu
thuật(3,6).
Tại Việt Nam, phẫu thuật ung thư thứ phát
vẫn còn ít, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này để tổng kết những kinh nghiệm về chẩn
đoán, chỉ định ngoại khoa, kết quả điều trị, theo
dõi lâu dài đối với những bệnh nhân này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
phổi thứ phát, sau khi đã điều trị bệnh nguyên
phát triệt để, u khu trú ở một thùy phổi, có chỉ
định phẫu thuật, đủ điều kiện phẫu thuật.
Loại trừ: bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
phổi nguyên phát, bệnh nhân được chẩn đoán
ung thư phổi thứ phát nhưng tổn thương nhiều
hay lan tỏa trong nhiều thùy phổi.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu mô tả.
Phương pháp
Bệnh nhân được ghi nhận:
Lâm sàng
Bệnh sử: ung thư nguyên phát, điều trị, thời
gian từ lúc điều trị ung thư nguyên phát đến lúc
phát hiện ung thư phổi thứ phát, các triệu chứng
lâm sàng.
Cận lâm sàng
Chụp X quang phổi, siêu âm bụng,
vúChụp cắt lớp ngực có cản quang (CT Scans),
nội soi phế quản, đại tràng, đo chức năng phổi,
PET
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật cắt thùy mổ mở hay phẫu thuật
nội soi (PTNS).
Phẫu thuật cắt u
Mổ mở hay PTNS. PTNS đốt khối u bằng vi sóng.
Sinh thiết lạnh trong khi phẫu thuật
Đường kính khối u, đánh giá sự di căn trong
phẫu thuật, thùy phổi được phẫu thuật.
Hậu phẫu
Ghi nhận thời gian rút ống dẫn lưu, thời gian
nằm viện sau phẫu thuật.
Thời gian phẫu thuật.
Đánh giá, ghi nhận các biến chứng như
Chảy máu sau phẫu thuật, tràn khí dưới da,
dò khí sau phẫu thuật, suy hô hấp, mủ màng
phổi, dò khí, viêm phổi.
Đánh giá, phân tích biến chứng, nguyên
nhân tử vong.
Kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật.
Theo dõi bệnh nhân, tiên lượng sống của
bệnh nhân (theo dõi trung hạn – dài hạn): tái
phát, thời gian sống thêm. Theo dõi dựa tái
khám, theo dõi bằng điện thoại hỏi thăm bệnh
nhân khi không tái khám được.
KẾT QUẢ
24 bệnh nhân ung thư phổi di căn được phẫu
thuật cắt thùy phổi hoặc cắt nốt phổi trong thời
gian từ 1/2015 – 12/2017 tại khoa Ngoại Lồng
ngực, bệnh viện Chợ Rẫy.
Nam: 17 (70,8%) Nữ: 4 (29,2%)
Tuổi: lớn nhất là 71 tuổi, nhỏ nhất là 19 và
tuổi trung bình là 50,9.
Thời gian từ lúc phẫu thuật, điều trị ung thư
nguyên phát đến lúc phát hiện u phổi
Nhanh nhất 6 tháng, lâu nhất: 6 năm (72
tháng), trung bình: 32,3 tháng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 134
Triệu chứng lâm sàng
Không triệu chứng, phát hiện tình cờ khi
theo dõi: 21 bệnh nhân (87,5%),
Ho khan: 2 bệnh nhân (8,3%);
Đau ngực: 1 bệnh nhân (4,2%),
Hình ảnh trên X quang, CT Scans: nốt phổi
đơn độc 24 trường hợp.
Bảng 1: Vị trí u phổi
Vị trí u Số lượng Phần trăm
Thùy trên phổi phải 3 12,5%
Thùy giữa phổi phải 3 12,5%
Thùy dưới phổi phải 11 45,8%
Thùy trên phổi trái 2 8,3%
Thùy dưới phổi trái 5 20,9%
Bảng 2: Kết quả mô học
Loại tế bào
Bệnh
nhân
Phần
trăm
Ung thư tế bào tuyến đại trực tràng 9 37.5%
Ung thư tế bào gan 8 33.4%
Ung thư tế bào tuyến vú 1 4.2%
Ung thư tế bào sáng thận 2 8.3%
Sarcom xương 2 8.3%
Ung thư tế bào hệ sinh dục (1
carcinoma buồng trứng, 1 tế bào vảy
dương vật)
2 8.3%
Thời gian phẫu thuật: trung bình 3,69 giờ
(lâu nhất: 6 giờ, nhanh nhất: 3 giờ).
Thời gian nằm viện sau mổ: 5,58 ngày (lâu
nhất: 7 ngày, nhanh nhất: 3 ngày).
Bảng 3: Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật Bệnh
nhân
Phần
trăm
PTNS cắt thùy phổi 11 45,8%
Mổ mở cắt thùy phổi 2 8,3%
Mổ mở cắt u 1 4,2%
PTNS soi cắt u 10 41,7%
Biến chứng: không ghi nhận biến chứng
trầm trọng.
Bảng 4: Biến chứng phẫu thuật
Biến chứng
Bệnh
nhân
Phần
trăm
Tràn khí dưới da 1 6,67%
Chảy máu vết mổ sau mổ 0
Xẹp phổi 1 6,67%
Rung nhĩ 0
Nhiễm trùng 0
Bảng 5: Kết quả lâu dài
Ung thư
nguyên phát
Theo dõi Thời gian
sống thêm
(TB)
Tái phát
Gan 6/8 BN 9 – 15 tháng
(15,7)
2 BN (ở gan)
Đại tràng 6/9 BN 6-21 tháng
(13,5)
1 BN (hạch TT
– 6 tháng)
Thận 2 BN 15- 23 (19) Không
Sarcoma xương 2 BN 6 -11 tháng 1 tái phát phổi
(4 tháng)
Vú 1 BN 6 tháng Mất liên lạc
Buồng trứng 1 BN 10 tháng Không
Dương vật 1 BN 5 tháng Không
BÀN LUẬN
Những năm đầu thập niên 1990, Meade và
Martini, là những người đầu tiên tiến hành phẫu
thuật bênh ung thư di căn đến màng phổi, phổi
một cách tình cờ khi phẫu thật cắt u màng
phổi(4). Divis và Tores là những người đầu tiên
tiến hành phẫu thuật cắt các u phổi thứ phát do
các ung thư nguyên phát từ nơi khác di căn đến.
Barney and Churchill báo cáo một trường hợp
sau cắt u thận, được mổ cắt u phổi thứ phát có
tiên lượng sống rất tốt, bệnh nhân sống đến 23
năm và tử vong do bệnh lý chứ không do ung
thư. Vì vậy, phẫu thuật những bệnh nhân ung
thư thứ phát ở phổi sau khi điều trị ung thư
nguyên phát triệt để đã được chỉ định ngày càng
rộng rãi trên khắp thế giới(2,3).
Lâm sàng
Đa số bệnh nhân ung thư thứ phát ở phổi
thường phát hiện sau khi điều trị ung thư
nguyên phát khoảng 1 năm(6,7). Ngày nay, với
sự phát triển của các phương pháp cận lâm
sàng, thuận lợi dễ dàng, các bệnh nhân sau
phẫu thuật ung thư nguyên phát đều được
theo dõi cẩn thận sau mổ, theo dõi mỗi tháng
trong 1 năm đầu, bệnh nhân được chụp X
quang phổi kiểm tra.
Bệnh nhân thường được phát hiện tình cờ
trên chụp phim kiểm tra định kỳ, đa số không có
triệu chứng lâm sàng(5,6). Dưới 5% bệnh nhân có
triệu chứng: đau ngực hay tràn khí màng phổi.
Srinivas và cs đề nghị bệnh nhân có ung thư
nguyên phát kèm tràn khí màng phổi thì cần
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 135
chụp X quang, CT Scans tầm soát ung thư di căn
phổi(3,6).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 21/ 24 bệnh
nhân được phát hiện tình cờ trên X quang phổi
kiểm tra định kỳ hay CT Scans sau phẫu thuật
ung thư nguyên phát.
X quang phổi hiện vẫn là phương pháp tốt
nhất tầm soát ung thư phổi thứ phát sau điều trị
các ung thư nguyên phát. Fleming và cs nhận
thấy < 1% bệnh nhân phát hiện có khối u trên
phổi khi chụp X quang phổi cùng thời điểm điều
trị sarcoma(1). Ren và cs nhận thấy chỉ có 48%
bệnh nhân phát hiện có u phổi. Bệnh nhân sau
khi phát hiện có di căn phổi, cần chụp CT –
Scans để xác định kích thước, bản chất, vị trí u,
cần phân biệt với các u lành, u lao khác. Tuy
nhiên, có những trường hợp bệnh nhân có di căn
mà chỉ phát hiện trên CT –Scans, không thấy
trên X quang. Margaritora cho rằng CT – Scans
xoắn ốc cho kết quả nhạy với u < 6mm. MRI và
PET – CT cũng được sử dụng, tuy nhiên hiệu
quả còn chưa được chứng minh rõ ràng(1,4).
Các phẫu thuật viên thường chọn CT – Scans
ngực để có chẩn đoán rõ ràng khối u, vị trí, bản
chất, sự xâm lấn xung quanh để quyết định cho
phẫu thuật cắt thùy phổi hay cắt u(6).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh
nhân đều được phát hiện khi chụp X quang
kiểm tra khi tái khám. Tuy nhiên để có quyết
định kế hoạch cho phẫu thuật, chúng tôi dựa
vào CT – Scans, để xác định rõ bản chất khối u
lành hay ác, chúng tôi dựa vào sinh thiết lạnh
trong phẫu thuật.
Chỉ định và điều trị phẫu thuật
Bệnh nhân ung thư phổi thứ phát được chỉ
định phẫu thuật khi: nốt phổi đơn độc, nếu
nhiều nốt thì các nốt này có thể cắt được, ung
thư nguyên phát đã kiểm soát được, không có di
căn xa, di căn ngoài lồng ngực, chức năng phổi
đủ để phẫu thuật(3,6,7).
Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi đều có một nốt đơn độc trong phổi,
không có hạch trung thất, ung thư nguyên phát
đã được phẫu thuật, một số được hóa trị bổ sung
sau đó, bệnh nhân đủ điều kiện phẫu thuật. Chỉ
có 1 bệnh nhân phát hiện u thùy dưới phổi trái
kèm nốt nhỏ phổi phải. Bệnh nhân này được
phẫu thuật cắt thùy phổi trái trước, sau 6 tháng
theo dõi, nốt phổi phải tăng kích thước và cũng
được nội soi cắt nốt
Đa số tác giả ủng hộ phương pháp cắt nốt
phổi, không cắt thùy vì do ung thư thứ phát nên
chỉ cần cắt nốt di căn là đủ mà còn giữ lại nhu
mô phổi cho bệnh nhân(1), tuy nhiên vấn đề đặt
ra là cần cắt đủ mô để không sót tế bào ung thư.
Phẫu thuật cắt thùy phổi chỉ được đặt ra khi u
lớn, gần mạch máu mà không thể cắt nốt phổi
được. Phương pháp phẫu thuật có thể thực hiện
bằng mổ hở hoặc PTNS. Mặc dù có nhiều tranh
cãi, nhiều tác giả vẫn lựa chọn phương pháp
PTNS trong điều trị ung thư phổi thứ phát , vì có
nhiều ưu điểm hơn so mổ mở(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 13
trường hợp được cắt thùy phổi trong đó 11
trường hợp phẫu thuật cắt thùy qua nội soi,
các trường hợp còn lại cắt nốt qua phẫu thuật
nội soi hay qua mổ mở. Với sự phát triển của
gây mê hồi sức, kỹ thuật, trang thiết bị, phẫu
thuật nội soi giúp phẫu thuật cắt thùy hay cắt
nốt phổi ngày càng hoàn thiện, an toàn, ít
nguy cơ biến chứng nên chỉ định phẫu thuật
cắt thùy phổi hay nốt phổi càng rộng rãi hơn.
Hiện nay, chúng tôi đang tiến hành PTNS đốt
khối u bằng vi song, chúng tôi chỉ mới tiến
hành được 2 bệnh nhân (bệnh nhân sau đó
được cắt khối u để xét nghiệm giải phẫu bệnh
đánh giá).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có
biến chứng nào nặng, ảnh hưởng tính mạng
bệnh nhân, không có trường hợp tử vong, chỉ có
1 bệnh nhân bị xẹp phổi sau mổ, được soi hút
phế quản, bệnh nhân ổn định, xuất viện. Tuy
nhiên, do số liệu chúng tôi còn ít, nên cần được
đánh giá thêm với số lượng lớn hơn.
Tiên lượng sống lâu dài
Pastorino và cs báo cáo một nghiên cứu
năm 1991 đa trung tâm trên 2,726 bệnh nhân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 136
được cắt nốt phổi di căn, thời gian theo dõi 46
tháng, với tiên lượng sống 36% sau 5 năm và
26% sau 10 năm(6).
Do điều kiện của nước ta nên chúng tôi chỉ
theo dõi được một số bệnh, không đánh giá
được tái phát, chỉ đánh giá tiên lượng sống.
Chúng tôi gọi điện thoại hỏi người nhà, bệnh
nhân còn sống, bệnh nhân tử vong do nguyên
nhân ung thư hay nguyên nhân khác.
Trong nghiên cứu chúng tôi theo dõi lâu dài
được 16 bệnh nhân (hơn 6 tháng), có 2 bệnh
nhân tái phát ở gan sau 9 tháng, sau đó diễn tiến
tử vong. Tất cả bệnh nhân còn lại hiện còn sống,
tuy nhiên có hai bệnh nhân tái phát ở phổi (1 sau
ung thư đại tràng, một sau sarcoma) được điều
trị hóa trị tiếp tục, 1 bệnh nhân tử vong do bệnh
tim mạch sau 5 tháng.
Chúng tôi hy vọng nghiên cứu của chúng tôi
tiếp tục, số lượng bệnh nhân nhiều hơn, theo dõi
lâu dài hơn để đánh giá hiệu quả của phẫu thuật
trong điều trị ung thư phổi thứ phát cũng như
tiên lượng sống lâu dài cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Điều trị ngoại khoa ung thư phổi thứ phát là
phương pháp phẫu thuật an toàn, có hiệu quả có
thể chỉ định chọn lọc trong một số bệnh nhân,
tiên lượng sống bệnh nhân tốt hơn. Chỉ định
phương pháp can thiệp ngoại khoa tuỳ thuộc
lâm sàng. PTNS là phương pháp được lựa chọn
vì có nhiều ưu điểm. X quang phổi là phương
pháp cận lâm sàng đơn giản, giúp phát hiện sớm
vì đa số bệnh nhân ung thư phổi thứ phát không
có triệu chứng lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Allen MS, Putnam JB (2009). “Secondary Tumors of the Lung”.
General Thoracic Surgery, pp1619-1646.
2. Axel Rolle (2015). “Laser Resection of Metastases”. Chest
Surgery, pp 129-136
3. Burt BM, Mery CM and Jaklitsch MT (2015). “Pulmonary
Metastasectomy”. Adult Chest surgery, pp 640-654
4. Ceppa DKP and Tong BC (2014). “Pulmonary Metastasis”.
Johns Hopkins’ Textbook of Cardiothoracic Surgery, pp 145-157
5. Cowan S, Culligan M and FriedbergJS (2010). “Secondary Lung
Tumors”. Sabiston & Spencer surgery of the chest, pp 349-362.
6. McComache PM, Bains MS (1996). “Role of Video-Assisted
Thoracic Surgery in the Treatment of Pulmonory Metastases:
Results of a Prospective Trial”, Ann Thorac Surg, 62: pp 213-7.
7. Pastorino U, Grunenwald D (2008). “Surgical Resection of
Pulmonary Metastases”. Pearson’ thoracic and esophageal surgery,
pp 851-863.
8. Trevor Williams (2014). “Pulmonary Metastasectomy”. Difficult
Decisions in Thoracic Surgery, pp 257 – 270.
Ngày nhận bài báo: 26/02/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/03/2018
Ngày bài báo được đăng: 25/09/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chi_dinh_va_dieu_tri_ngoai_khoa_ung_thu_phoi_thu_phat_tai_be.pdf