Tài liệu Chế tạo cộng hợp ochratoxin-Albumin huyết thanh bò bằng phương pháp ester hoạt hóa trong môi trường micelle: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
117
CHẾ TẠO CỘNG HỢP OCHRATOXIN-ALBUMIN HUYẾT THANH BÒ
BẰNG PHƯƠNG PHÁP ESTER HOẠT HÓA TRONG MÔI TRƯỜNG MICELLE
Dương Ngọc Diễm*, Đỗ Thị Kim Yến*, Nguyễn Thị Nguyệt Thu*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ochratoxin A (OTA) là hapten nên không có tính sinh miễn dịch. Do đó, cần gắn OTA với 1
chất có tính sinh miễn dịch để kích thích tạo kháng thể đặc hiệu. Việc lựa chọn phương pháp cộng hợp và xác định
hiệu suất cộng hợp đóng vai trò đặc biệt quan trọng để chế tạo được cộng hợp tốt nhất và dự đoán sớm kết quả
gây miễn dịch.
Mục tiêu: Lựa chọn phương pháp thích hợp để tạo cộng hợp, xác định mật độ gắn OTA lên albumin huyết
thanh bò (Bovine Serum Albumin, BSA) và đánh giá đáp ứng kháng thể tạo thành của cộng hợp OTA-BSA tự
tạo so với OTA-BSA thương mại.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế thực nghiệm, OTA được cộng hợp vào BSA bằng phương pháp ester
hoạt hóa trong môi trường micelle. Xác định hiệu suất cộng hợp OTA lên...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế tạo cộng hợp ochratoxin-Albumin huyết thanh bò bằng phương pháp ester hoạt hóa trong môi trường micelle, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
117
CHẾ TẠO CỘNG HỢP OCHRATOXIN-ALBUMIN HUYẾT THANH BÒ
BẰNG PHƯƠNG PHÁP ESTER HOẠT HÓA TRONG MÔI TRƯỜNG MICELLE
Dương Ngọc Diễm*, Đỗ Thị Kim Yến*, Nguyễn Thị Nguyệt Thu*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ochratoxin A (OTA) là hapten nên không có tính sinh miễn dịch. Do đó, cần gắn OTA với 1
chất có tính sinh miễn dịch để kích thích tạo kháng thể đặc hiệu. Việc lựa chọn phương pháp cộng hợp và xác định
hiệu suất cộng hợp đóng vai trò đặc biệt quan trọng để chế tạo được cộng hợp tốt nhất và dự đoán sớm kết quả
gây miễn dịch.
Mục tiêu: Lựa chọn phương pháp thích hợp để tạo cộng hợp, xác định mật độ gắn OTA lên albumin huyết
thanh bò (Bovine Serum Albumin, BSA) và đánh giá đáp ứng kháng thể tạo thành của cộng hợp OTA-BSA tự
tạo so với OTA-BSA thương mại.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế thực nghiệm, OTA được cộng hợp vào BSA bằng phương pháp ester
hoạt hóa trong môi trường micelle. Xác định hiệu suất cộng hợp OTA lên BSA trực tiếp bằng phương pháp hấp
phụ quang, so sánh với phương pháp gián tiếp sử dụng 2,4,6-trinitrobenzensulfonic acid (TNBS). So sánh OTA-
BSA tự tạo với OTA-BSA thương mại (3OTA/BSA theo công bố của nhà sản xuất) bằng cách gây miễn dịch
trên thỏ và đánh giá khả năng đáp ứng bằng cột sắc kí ái lực miễn dịch (immuno affinity chromatography, IAC).
Kết quả: OTA cộng hợp lên BSA với mật độ gắn của cộng hợp OTA-BSA được xác định bằng phương pháp
hấp phụ quang là 5OTA/BSA. Phương pháp TNBS không xác định được mật độ gắn OTA lên BSA do nhiễu phổ
của OTA. Dung lượng cột IAC tương ứng OTA-BSA tự tạo và thương mại lần lượt là 150 ng và 50 ng.
Kết luận: Phương pháp hấp phụ quang là đơn giản và thích hợp để xác định hiệu suất cộng hợp OTA lên
BSA. Phương pháp cộng hợp trong môi trường micelle tạo được cộng hợp OTA-BSA với tỉ lệ gắn 5OTA/BSA và
hiệu giá kháng thể cao hơn so với OTA-BSA thương mại (3OTA/BSA).
Từ khóa: cộng hợp OTA-BSA, ester hoạt hóa, micelle ngược, TNBS
ABSTRACT
PREPARE OF OTA-BSA CONJUGATE BY ACTIVATED ESTER METHOD IN THE MICELLAR
MEDIUM
Duong Ngoc Diem, Đo Thi Kim Yen, Nguyen Thi Nguyet Thu
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 3- 2019: 117 – 123
Background: Ochratoxin (OTA) is hapten that only elicit an immune response when attached to a large
carrier protein such as BSA with a relevant method. To prepare an effective hapten-protein conjugate for the
desired immune response, it is important to select an optimize conjugate method and characterize the resulting
hapten-protein conjugates and to determine the hapten density on carrier protein.
Objectives: OTA conjugated to Bovin serum albumin (BSA). Determination of the molar ratio and
evaluation of immune response of OTA-BSA vs commercial conjugate.
Methods: Experimental design, coupling OTA with BSA by the activated ester method in the micellar
medium. The OTA-BSA conjugates were determined by direct spectrophotometry and compare with indirect
method using TNBS. Immune responses of OTA-BSA conjugate and commercial OTA-BSA were compared by
using immune affinity chromatography column (IAC).
* Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Dương Ngọc Diễm ĐT: 0909966780 Email: ngocdiem99s@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
118
Results: OTA was successfully conjugated to BSA. The OTA/BSA molar ratio of the conjugate by
spectrophotometric method was 5OTA/BSA. TNBS method gave no data because of interfering of OTA spectrum.
The IAC capacity of self-produced and commercial OTA-BSA conjugate was 150 and 50 ng, respectively.
Conclusions: The spectrophotometric method was relevant and simple to detemine the molar ratio of OTA-
BSA conjugate. The OTA-BSA conjugate prepared in the micellar medium gave the ratio 5OTA/BSA and the
antibody activity was higher than the commercial OTA-BSA (3OTA/BSA).
Keywords: OTA-BSA conjugate, activated ester method, reversed micellar, TNBS method
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các phân tử nhỏ (hapten) như độc tố vi nấm,
kháng sinh, không có tính sinh miễn dịch nên
không tạo được đáp ứng miễn dịch trên động
vật thí nghiệm khi tiêm trực tiếp(3). Do đó, cần
cộng hợp chúng với một protein mang có tính
sinh miễn dịch để kích thích tạo kháng thể. Một
quy trình cộng hợp lý tưởng khi tạo được liên
kết ổn định, cộng hợp không bị mất hoạt tính và
dễ thực hiện(2). Hapten trong trường hợp này là
ochratoxin (OTA) một độc tố vi nấm, tan rất ít
trong nước nên quá trình cộng hợp được thực
hiện trong dung môi. Một phương pháp tối ưu
đã được phát triển là cộng hợp hapten vào
albumin huyết thanh bò (bovine serum albumin,
BSA) bằng phương pháp ester hoạt hóa trong
môi trường micelle(5). Việc sử dụng môi trường
này có một số ưu điểm: (a) protein ưa nước và
hapten kỵ nước dễ dàng kết hợp thành dung
dịch đồng nhất vì protein hòa tan trong AOT
micelle và hapten nằm trong lượng dung môi
lớn; (b) protein vẫn giữ nguyên cấu trúc và chức
năng trong micelle; (c) các protein bị biến tính có
thể dễ dàng tách khỏi hỗn hợp phản ứng bằng
phương pháp tủa với acetone; (d) số lượng phân
tử hapten liên kết với một phân tử BSA có thể
được kiểm soát bởi thể tích micelle dựa trên
lượng nước được thêm vào dung dịch micelle.
Mật độ OTA của cộng hợp là thông số quan
trọng để xác định hàm lượng và chất lượng
kháng thể tạo thành. Hiệu giá kháng thể đặc
hiệu cao được hình thành khi số lượng hapten
tối ưu trên protein mang là 5 - 30 phân tử(2).
Chính vì vậy, đánh giá được hiệu suất cộng hợp
đóng vai trò đặc biệt quan trọng để lựa chọn
được cộng hợp tốt nhất và dự đoán sớm kết quả
gây miễn dịch. Để kiểm tra hiệu suất cộng hợp,
sử dụng phương pháp đo độ hấp phụ trực tiếp
của cộng hợp OTA-BSA tại bước sóng đặc trưng
của OTA và so sánh với chuẩn OTA. Một
phương pháp gián tiếp khác cũng được sử dụng
để xác định số lượng nhóm -NH2 đã tham gia
cộng hợp bằng phản ứng trinitrophenyl hóa với
2, 4, 6 - trinitrobenzensulfonic acid (TNBS)(4).
Mục tiêu của nghiên cứu
Lựa chọn phương pháp thích hợp để tạo
cộng hợp, xác định mật độ gắn OTA lên BSA
và đánh giá đáp ứng kháng thể tạo thành của
cộng hợp OTA-BSA tự tạo so với OTA-BSA
thương mại.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Động vật thí nghiệm: 6 thỏ.
Ochratoxin A, AOT (Docusate sodium salt),
BSA, DCC (N,N’-dicyclohexyl carbodiimide),
NHS (N-hydroxysuccinimide), TNBS và cộng
hợp OTA-BSA thương mại (tỉ lệ gắn 3 mol OTA/
1 mol BSA) được cung cấp bởi Sigma.
Dung môi hữu cơ (octane, N,N’-dimethyl
formamide (DMF), acetone) và đệm phosphate,
carbonate đạt chuẩn phân tích.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thực nghiệm so sánh.
Cộng hợp Ochratoxin A vào BSA bằng
phương pháp ester hoạt hóa trong môi
trường micelle ngược
Hòa tan 10 mg OTA trong 330 l dung môi
DMF chứa 6,1 mg DCC và 4,5 mg NHS. Để dung
dịch phản ứng ở nhiệt độ phòng. Ly tâm, thu
nước nổi. Hút 2,5 ml dung dịch BSA 13 mg/ml
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
119
trong đệm phosphate, pH = 7,5 cho vào 2 ml
dung dịch Docusate sodium salt 0,3 M/Heptane.
Sau đó, thêm 330 l OTA đã ester hóa vào hỗn
hợp BSA. Khuấy dung dịch.
Tủa dung dịch sau cộng hợp bằng 3 thể tích
acetone. Ly tâm, thu tủa. Hòa tan tủa trong dung
dịch PBS. Nồng độ dung dịch cộng hợp OTA-
BSA được xác định bằng phương pháp Bradford
với chất chuẩn là BSA.
Thí nghiệm đối chứng OTA-BSA (-) được
thực hiện song song chỉ với BSA trong các điều
kiện xác định.
Xác định số phân tử OTA gắn lên 1 phân tử
BSA của cộng hợp OTA-BSA tạo thành
Phương pháp hấp phụ quang trực tiếp
Chuẩn bị các dung dịch OTA 5 ppm, OTA-
BSA chứng âm và cộng hợp OTA-BSA. Mỗi
dung dịch lặp lại 3 lần. Tiến hành quét phổ từ
200-550 nm để quan sát sự thay đổi về phổ hấp
phụ của dung dịch OTA-BSA. So sánh mức độ
hấp phụ của chuẩn OTA và OTA trên cộng hợp
OTA-BSA để tính số phân tử OTA gắn trên 1
phân tử BSA.
Số phân tử OTA trên 1 phân tử BSA =
× ẩ ×
ẩ × . ×[ ]
Trong đó:
AOTA-BSA: độ hấp phụ của OTA-BSA tại bước sóng OTA.
AOTA chuẩn: độ hấp phụ của OTA chuẩn.
(OTA chuẩn): nồng độ OTAchuẩn (mg/ml).
(OTA-BSA): nồng độ OTA-BSA (mg/ml).
66000: trọng lượng phân tử BSA (g/mole).
403,81: trọng lượng phân tử OTA (g/mole).
Phương pháp gián tiếp sử dụng TNBS
Cho vào ống nghiệm lần lượt các dung dịch
sau: 0,5ml TNBS 0,01%, 0,5ml Na2SO3 0,05M,
0,5ml NaHCO3 0,1 M, pH 8,5, 0,25ml mẫu OTA-
BSA 0,2mg/ml. Thực hiện lặp lại 3 lần. Ủ ở 70°C
trong 15 phút, tránh sáng. Để nguội đến nhiệt độ
phòng. Đo dung dịch tại bước sóng 402nm (quét
250 - 550 nm). Hiệu suất cộng hợp OTA lên BSA
được tính theo công thức sau:
Hcộng hợp (%) =
ứ
ứ
100
Số phân tử OTA trên 1 phân tử
BSA = Hcộng hợp x35*.
(*) Trên phân tử BSA có 35 nhóm NH2 có thể tham gia
phản ứng.
Ống đối chứng được thực hiện song song lặp
lại tương tự nhưng chỉ chứa TNBS và các đệm
tương ứng.
Tạo kháng thể kháng OTA
Gây miễn dịch trên thỏ bằng cộng hợp OTA-
BSA tự tạo và thương mại
Hai nhóm 3 thỏ được gây miễn dịch dưới da
3 lần bằng cộng hợp OTA-BSA với hàm lượng
100, 75, 50 g trong tá chất. Mũi tiêm đầu tiên
trong tá chất toàn phần và cách nhau mỗi 4 tuần
bằng tá chất bán phần. 2 tuần sau mũi tiêm cuối,
thu máu và kiểm tra sự hiện diện của kháng thể
kháng OTA.
Một nhóm 3 thỏ được gây miễn dịch tương
tự, sử dụng cộng hợp OTA-BSA thương mại.
Kiểm tra kháng thể kháng OTA
Tinh chế kháng thể bằng ammonium
sulfate từ huyết thanh các thỏ đã được gây
miễn dịch (25 ml huyết thanh/thỏ).
Đối với kháng thể của mỗi thỏ thực hiện
như sau: Loại bỏ kháng thể kháng BSA bằng
cột CNBr-Sepharose 4B-BSA. Cộng hợp kháng
thể sau tinh chế lên gel Sepharose (10 mg
kháng thể/ml gel). Nén vào mỗi cột sắc ký 0,1
ml gel. Cho mẫu trắng (dung dịch đệm không
có OTA) và dung dịch đệm có OTA với lượng
500 ng đi qua hai cột sắc kí ái lực miễn dịch bắt
OTA khác nhau (cột IAC). Phân tích dịch thu
được sau giai đoạn rửa giải từ hai cột IAC bằng
phương pháp HPLC với đầu dò huỳnh quang.
KẾT QUẢ
Cộng hợp OTA vào BSA
OTA được cộng hợp vào BSA bằng phương
pháp ester hoạt hóa trong môi trường micelle.
Sau cộng hợp, OTA-BSA được thu lại bằng cách
Field Code Changed
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
120
tủa trong dung môi hữu cơ nên OTA dư sau
phản ứng được loại bỏ. Nồng độ OTA-BSA sau
phản ứng được định lượng bằng phương pháp
Bradford với chất chuẩn là BSA và hiệu suất thu
hồi BSA đạt 28,87%. Như vậy phần lớn BSA bị
mất đi qua bước tủa trong dung môi hữu cơ.
Bảng 1: Hiệu suất thu hồi BSA sau phản ứng cộng hợp
(n=3)
Lượng BSA phản ứng (mg) 33
Lượng BSA thu lại sau phản ứng
theo Bradford (mg)
9.384
Hiệu suất thu hồi BSA (%) 28.44
Sau khi cộng hợp vào BSA, mật độ gắn
OTA lên BSA được xác định theo hai phương
pháp hấp phụ quang trực tiếp và gián tiếp sử
dụng TNBS.
Phương pháp hấp phụ quang thông qua việc
quét phổ từ 250 - 550nm cho thấy đỉnh phổ đặc
trưng của OTA dịch chuyển tương ứng với các
dung dịch có pH khác nhau là pH 4,0, pH 7,0 và
pH 8,5 (hình 1).
Căn cứ vào sự dịch chuyển đỉnh phổ của
OTA và tăng mật độ quang tương ứng, chúng
tôi chọn dung dịch OTA-BSA ở cả pH 7 và 8,5 để
xác nhận sự hiện diện của OTA trên BSA và sử
dụng kết quả quét phổ ở pH 8,5 để ước tính số
lượng phân tử OTA gắn trên 1 phân tử BSA.
Kết quả được xác định trong trường hợp này là
5 phân tử OTA/phân tử BSA, cao hơn so với
cộng hơp OTA-BSA thương mại (3 phân tử
OTA/phân tử BSA) (hình 2).
Phương pháp sử dụng TNBS không xác định
được hiệu suất của cộng hợp vì độ hấp phụ của
OTA-BSA sau phản ứng với TNBS cao hơn độ
hấp phụ của OTA-BSA chứng âm với TNBS ở
cùng hàm lượng BSA (hình 3).
Hình 1: Phổ hấp phụ OTA trong các dung dịch đệm
pH 4,62, pH 7 và pH 8,5 (n=3)
a
b
Hình 2: Phổ hấp phụ của OTA, OTA-BSA (+) và OTA-BSA (-) trong đệm phoshat pH 7 (a) và đệm NaHCO3
pH 8,5 (b).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
121
Hình 3: Phổ hấp phụ sau phản ứng TNBS của OTA-
BSA (+), OTA-BSA (-) và blanc (n=3)
Khả năng đáp ứng miễn dịch của cộng hợp
OTA-BSA tự tạo và thương mại
Để đánh giá hiệu quả của cộng hợp OTA-
BSA tự tạo, cộng hợp OTA-BSA tự tạo
(5OTA/BSA) và thương mại (3OTA/BSA) được
gây đáp ứng miễn dịch trên 2 nhóm thỏ (3 thỏ
cho mỗi nhóm). Tất cả các con thỏ được gây
miễn dịch đều cho phản ứng dương với kháng
nguyên BSA (hình 4). Các thỏ này được chọn và
thực hiện tiếp qui trình gây miễn dịch để thu
kháng thể có ái lực cao đối với kháng nguyên
gây miễn dịch.
Kháng thể tạo thành được tinh chế, loại bỏ
kháng thể kháng BSA và sử dụng tạo cột IAC
(mỗi kháng thể thỏ làm 3 cột). Xác định khả
năng tóm bắt OTA của cột IAC bằng phương
pháp sắc kí lỏng hiệu năng cao với đầu dò
huỳnh quang. Kết quả tóm bắt OTA của cột IAC
từ cộng hợp OTA-BSA tự tạo và thương mại lần
lượt là 150ng và 50ng (Bảng 2).
Bảng 2: Khả năng tóm bắt OTA của cột IAC từ
OTA-BSA tự tạo và thương mại (n=3)
IAC từ OTA-BSA
tự tạo
IAC từ OTA-BSA
thương mại
Số phân tử OTA/BSA 5 3
Nồng độ kháng thể
(mg/ml gel)
10 10
Thể tích gel trên cột
(ml)
0.1 0.1
Lượng OTA qua cột
(ng)
500 500
Dung lượng bắt OTA
(ng)
150 50
Hình 4: Phản ứng khuếch tán kép trên thạch giữa BSA và huyết thanh thỏ
BÀN LUẬN
Cộng hợp OTA vào BSA
Cộng hợp được sử dụng để sản xuất kháng
thể đặc hiệu với hiệu giá cao nên chứa 5-30 phân
tử hapten liên kết với một phân tử protein
mang(2). Hapten trong trường hợp này là độc tố
vi nấm ochratoxin, tan rất ít trong nước nên quá
trình cộng hợp được thực hiện trong môi trường
micelle(5). Số lượng OTA gắn lên BSA được xác
định bằng phương pháp đo hấp phụ quang trực
tiếp của cộng hợp OTA-BSA tại bước sóng đặc
trưng của OTA và so sánh với chuẩn OTA. Một
phương pháp gián tiếp cũng được sử dụng để
xác định số lượng nhóm -NH2 đã tham gia cộng
hợp bằng phản ứng trinitrophenyl hóa với 2, 4, 6
- trinitrobenzensulfonic acid (TNBS)(4).
Phương pháp hấp phụ quang thông qua việc
quét phổ từ 250 - 550nm cho thấy đỉnh phổ đặc
trưng của OTA dịch chuyển tương ứng với các
dung dịch có pH khác nhau. Đỉnh của OTA
trong acid yếu pH 4.0 là ~330nm, trong dung
dịch trung tính pH 7,0 là 330nm và 380nm, dung
1. Huyết thanh thỏ trước khi gây miễn dịch
2. Huyết thanh thỏ sau mũi tiêm nhắc lại thứ 1
3. BSA
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
122
dịch kiềm pH 8,5 là ~380nm (hình 1). Sự chuyển
dạng phổ khi thay đổi pH là do tính chất mở
vòng của OTA (hình 5). Tại pH 4, OTA tồn tại ở
dạng proton hóa tương ứng với đỉnh ở 333nm.
Tại pH 7, OTA tồn tại ở hai dạng: proton hóa và
dianion tương ứng với đỉnh 333nm và 380nm. Ở
pH 8.5, OTA chuyển sang dạng dianion và dạng
OTA mở vòng (OP-OTA) khiến cho phổ OTA
dịch chuyển sang bước sóng cao hơn (khoảng
380nm) với sự tăng hấp phụ mol tương ứng. Ở
pH 12, tất cả chuyển về dạng OP-OTA và phổ
dịch chuyển sang bước sóng cao hơn (khoảng
385nm) với sự tăng mật độ quang tương ứng(1).
Hình 5: Sự mở vòng OTA (tạo thành OP-OTA) trong điều kiện kiềm(1)
Căn cứ vào sự dịch chuyển đỉnh phổ của
OTA, chúng tôi chọn dung dịch OTA-BSA ở cả
pH 7 và 8,5 để xác nhận sự hiện diện của OTA
trên BSA và sử dụng kết quả quét phổ ở pH 8,5
để ước tính mật độ gắn OTA lên BSA. Tại pH 12,
sự dịch chuyển phổ và mật độ quang cao hơn
chỉ đối với OTA. Tuy nhiên, ở giá trị pH này chế
phẩm cộng hợp OTA-BSA bị tủa nên không xác
định được tỉ lệ cộng hợp.
Đối với dung dịch OTA-BSA chứng âm ở pH
7 và pH 8,5, kết quả quét phổ cho thấy chỉ có
một đỉnh hấp phụ duy nhất là 280 nm. Đối với
cộng hợp OTA-BSA: bên cạnh đỉnh 280nm còn
xuất hiện thêm đỉnh 333nm và 378nm ở pH 7,
đỉnh 378nm ở pH 8,5. Đây là các đỉnh đặc trưng
của OTA. Như vậy, OTA đã được gắn vào BSA
bằng phương pháp ester hoạt hóa trong môi
trường micelle. Mật độ gắn OTA lên BSA được
xác định là 5 phân tử OTA/phân tử BSA, cao hơn
so với cộng hơp OTA-BSA thương mại (3 phân
tử OTA/phân tử BSA) (hình 2).
Phương pháp sử dụng TNBS không xác định
được hiệu suất của cộng hợp vì độ hấp phụ của
OTA-BSA sau phản ứng với TNBS cao hơn độ
hấp phụ của OTA-BSA chứng âm với TNBS ở
cùng hàm lượng BSA (hình 4). Như đã bàn luận,
OTA trong dung dịch pH kiềm 8,5 có đỉnh hấp
phụ cao bắt đầu từ 325nm kết thúc tại 425nm
(OTA 5ppm có đỉnh hấp phụ tại 378nm với OD
= 0,2053). Hỗn hợp dung dịch phản ứng TNBS
có pH ≈ 9 nên gây nhiễu làm tăng giá trị mật độ
quang và xác định hiệu suất cộng hợp bằng
TNBS tại bước sóng khoảng 335nm hoặc 402nm
sẽ cho đánh giá sai lầm. Do đó, phương pháp
hấp phụ quang trực tiếp sẽ được sử dụng để ước
tính mật độ gắn OTA lên BSA.
Khả năng đáp ứng miễn dịch của cộng hợp
OTA-BSA tự tạo và thương mại
Thỏ được gây đáp ứng miễn dịch với cộng
hợp OTA-BSA tự tạo và cộng hợp thương mại sẽ
cho kháng thể đặc hiệu với cả OTA và BSA. Giai
đoạn đầu gây miễn dịch, ái lực kháng thể còn
yếu, theo dõi đáp ứng miễn dịch của phân tử lớn
BSA dễ hơn nhiều so với phân tử nhỏ OTA. Sử
dụng kỹ thuật khuếch tán kép trên thạch để
kiểm tra đáp ứng với BSA. Kỹ thuật này có độ
nhạy thấp nên các thỏ cho kết quả dương tính là
các thỏ có kháng thể kháng BSA cao (mg/ml) và
được chọn để thu kháng thể.
Sau mũi tiêm cuối, ái lực của kháng thể đã
cao, tiến hành kiểm tra khả năng tóm bắt OTA
của kháng thể bằng phương pháp IAC bao gồm:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
123
tinh chế kháng thể, loại bỏ kháng thể kháng BSA
và gắn kháng thể lên gel tạo cột IAC. Cho OTA
chuẩn qua cột và xác định khả năng tóm bắt
OTA của kháng thể trên cột IAC bằng phương
pháp sắc kí lỏng hiệu năng cao với đầu dò
huỳnh quang. Kết quả tóm bắt OTA của cột IAC
từ cộng hợp OTA-BSA tự tạo và thương mại lần
lượt là 150ng và 50ng (Bảng 2). Hiệu giá kháng
thể đặc hiệu cao được hình thành khi số lượng
hapten tối ưu trên protein mang là 5 - 30 phân
tử(2). Như vậy, cộng hợp OTA-BSA tự tạo có mật
độ gắn phù hợp theo công bố và đáp ứng miễn
dịch trên thỏ tạo kháng thể kháng OTA có hiệu
giá cao hơn OTA-BSA thương mại.
KẾT LUẬN
Chúng tôi đã chế tạo được cộng hợp OTA-
BSA bằng phương pháp ester hoạt hóa trong
môi trường micelle và xác định được tỉ lệ gắn là
5OTA/BSA bằng phương pháp hấp phụ quang
trực tiếp. Cộng hợp tạo thành có khả năng tạo
kháng thể đặc hiệu với OTA và dung lượng tóm
bắt OTA là 150ng cao hơn so với kháng thể từ
cộng hợp thương mại là 50ng.
ĐỀ NGHỊ
Chúng tôi đề nghị tiến hành cộng hợp lượng
lớn để gây miễn dịch tạo kháng thể đặc hiệu với
OTA là tiền đề cho việc sản xuất cột sắc kí ái lực
miễn dịch bắt OTA dùng tách chiết ochratoxin A
trong thực phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bazin I et al (2013). Impact of pH on the Stability and the Cross-
Reactivity of Ochratoxin A and Citrinin. Toxins, 5(12): 2324-2340.
2. Hermanson GT (2013). Bioconjugate techniques, 3rd edition.
Elsevier Science Publishing Co Inc, San Diego, United States.
3. Meulenberg EP (2012). Immunochemical Methods for
Ochratoxin A Detection: A Review. Toxins, 4(4):244-266.
4. Yatsimirskaya EA et al (1993). Preparation of conjugates of
progesterone with bovine serum albumin in the reversed
micellar medium. Steroids, 58(11):547-550.
1. Venkataramana M et al (2015). Development of sandwich dot-
ELISA for specific detection of Ochratoxin A and its application
on to contaminated cereal grains originating from India.
Frontiers in Microbiology, 6(511):1-11.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 04/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
124
GIÁ TRỊ HOẠT ĐỘ ADENOSINE DEAMINASE
TRONG ĐÁNH GIÁ HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA
Huỳnh Thị Ngọc Ánh*, Võ Nguyên Trung**, Lâm Vĩnh Niên***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Adenosine deaminase được xem là dấu ấn cho tình trạng đề kháng insulin; tuy nhiên chưa có
nghiên cứu về giá trị của hoạt độ enzyme này trong hội chứng chuyển hoá.
Mục tiêu: Xác định nồng độ adenosine deaminase ở người mắc hội chứng chuyển hóa so với nhóm người
bình thường không có hội chứng chuyển hóa. Tìm hiểu mối liên quan và tương quan giữa hoạt độ adenosine
deaminase với các thành tố của hội chứng chuyển hóa.
Phương pháp: 60 bệnh nhân khám sức khỏe có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa và 60 người
bình thường không có hội chứng chuyển hóa được tiến hành đo hoạt độ adenosine deaminse.
Kết quả: Giá trị của hoạt độ adenosine deaminase của bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa cao hơn so với
nhóm chứng. Có mối tương quan thuận của hoạt độ adenosine deaminase với nồng độ triglyceid, glucose, chu vi
vòng bụng và có mối tương quan nghịch của hoạt độ adenosine deaminase với nồng độ của HDL-C.
Kết luận: Định lượng hoạt độ adenosine deaminase có thể giúp phát hiện sớm bệnh nhân có hội chứng
chuyển hóa và góp phần ngăn ngừa các biến chứng có thể xảy ra.
Từ khoá: adenosine deaminase, hội chứng chuyển hóa
ABSTRACT
VALUE OF SERUM ADENOSINE DEAMINASE LEVEL IN METABOLIC SYNDROME
Huynh Thi Ngoc Anh, Vo Nguyen Trung, Lam Vinh Nien
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 3- 2019: 124-128
Background: Adenosine deaminase is a marker for insulin resistance; however, the its value on metabolic
syndrome has not been investigated.
Objective: To determine serum adenosine deaminase concentration in people with metabolic syndrome,
comparing with the group without metabolic syndrome. We also explore the relationship between the activity of
adenosine deaminase and the components of metabolic syndrome.
Methods: 60 outpatients qualified with the criteria for metabolic syndrome and 60 control people were
recruited. Blood adenosine deaminase activity was determined.
Result: The level of the adenosine deaminase activity of patients with metabolic syndrome was higher
than the control group. There was a positive correlation of adenosine deaminase activity with blood
triglyceride and glucose levels, abdominal circumference and negative correlation of adenosine deaminase
activity with HDL-C levels.
Conclusion: Determination of adenosine deaminase activity may help to early detect patients with the
metabolic syndrome and prevent possible complications.
Key words: adenosine deaminase, metabolic syndrome
*Khoa Xét nghiệm Y học, Trường Đại học Kỹ thuật Y–Dược Đà Nẵng
**Khoa Ngoại, Cơ sở 2, BV Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh-Khoa Điều dưỡng Kỹ thuật y học,
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ***Khoa Y, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Lâm Vĩnh Niên ĐT: 0988846972 Email: nien@ump.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 117_8776_2166302.pdf