Tài liệu Chế tạo các hạt kim loại cobalt bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao sử dụng chất trợ nghiền oleylamine - Vũ Hồng Kỳ: Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
77
CHẾ TẠO CÁC HẠT KIM LOẠI COBALT BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN
CƠ NĂNG LƯỢNG CAO SỬ DỤNG CHẤT TRỢ NGHIỀN OLEYLAMINE
Vũ Hồng Kỳ1,*, Nguyễn Trung Hiếu1, Đỗ Khánh Tùng1, Lê Thị Hồng Phong1,
Nguyễn Văn Đăng2, Đỗ Hùng Mạnh1
1Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam
2Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TĨM TẮT
Các hạt kim loại Cobalt (Co) với kích thước và hình thái học khác nhau cĩ tiềm năng ứng dụng
trong mợt sớ lĩnh vực như điện tử, xúc tác, y sinh học... Kỹ thuật tổng hợp, chế tạo các hạt kim loại
từ tính để cĩ thể điều khiển được kích thước, cấu trúc vi mơ và thành phần được nhiều nhà khoa
học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Trong bài báo này, chúng tơi báo cáo những kết quả
nghiên cứu ban đầu về ảnh hưởng của chất trợ nghiền Oleylamine và thời gian nghiền đến các đặc
trưng hình thái, cấu trúc và tính chất từ của các hệ hạt kim loại Co được chế tạo bằng ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 672 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế tạo các hạt kim loại cobalt bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao sử dụng chất trợ nghiền oleylamine - Vũ Hồng Kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
77
CHẾ TẠO CÁC HẠT KIM LOẠI COBALT BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN
CƠ NĂNG LƯỢNG CAO SỬ DỤNG CHẤT TRỢ NGHIỀN OLEYLAMINE
Vũ Hồng Kỳ1,*, Nguyễn Trung Hiếu1, Đỗ Khánh Tùng1, Lê Thị Hồng Phong1,
Nguyễn Văn Đăng2, Đỗ Hùng Mạnh1
1Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam
2Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TĨM TẮT
Các hạt kim loại Cobalt (Co) với kích thước và hình thái học khác nhau cĩ tiềm năng ứng dụng
trong mợt sớ lĩnh vực như điện tử, xúc tác, y sinh học... Kỹ thuật tổng hợp, chế tạo các hạt kim loại
từ tính để cĩ thể điều khiển được kích thước, cấu trúc vi mơ và thành phần được nhiều nhà khoa
học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Trong bài báo này, chúng tơi báo cáo những kết quả
nghiên cứu ban đầu về ảnh hưởng của chất trợ nghiền Oleylamine và thời gian nghiền đến các đặc
trưng hình thái, cấu trúc và tính chất từ của các hệ hạt kim loại Co được chế tạo bằng phương pháp
nghiền cơ năng lượng cao. Phân tích các ảnh SEM cho thấy sự đồng tồn tại của các hạt cĩ kích
thước lớn sub-micro mét với hình đĩa dẹt và các hạt nano hình tựa cầu với đường kính khoảng 30
nm. Đường cong từ hĩa chỉ ra rằng tính chất từ ít thay đổi theo thời gian nghiền. Ảnh hưởng của
tham sớ nghiền đến khả năng tạo chất lỏng từ chứa các hạt lớn (micro) và nhỏ (nano) cũng được
phân tích và biện luận. Bên cạnh đĩ, khả năng sinh nhiệt của chất lỏng từ chứa các hạt nano Co
cũng cho thấy tiềm năng ứng dụng trong nhiệt từ trị.
Từ khĩa: Hạt nano kim loại từ; Cobalt; nghiền cơ năng lượng cao; chất trợ nghiền
MỞ ĐẦU*
Vật liệu từ tính dạng hạt của các đơn kim loại
và lưỡng kim như Fe, Co, Fe-Co,.. gần đây
thu hút nhiều nghiên cứu vì chúng cĩ từ đợ
bão hịa cao và đợ từ thẩm lớn [1-8]. Ví dụ
như từ đợ bão hịa của các mẫu khới như Fe
(~218 emu/g), Fe-Co (~235 emu/g) và Co
(~166 emu/g) cao hơn khá nhiều so với mẫu
hạt oxit từ phổ biến là Fe3O4 (~100 emu/g) [8,
9]. Hơn nữa, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học cơng nghệ, các kỹ thuật tổng hợp,
chế tạo mẫu cho phép cĩ thể điều khiển được
kích thước, vi cấu trúc và hình thái học theo ý
muớn. Các hạt từ kim loại kích thước sub-
micro mét đến vài micro mét, cĩ thể sử dụng
trong chất lỏng lưu biến từ
(magnetorheological fluid), mợt chất được gọi
là “chất rắn mềm” với đợ nhớt và ứng suất
đàn hồi thay đổi mãnh liệt khi đặt trong từ
trường. Chất lỏng lưu biến từ được ứng dụng
rợng rãi trong thực tế như: cơ kỹ thuật (giảm
chấn, hãm), tự đợng hĩa (van, phanh chớng
sớc), quang học (đánh bĩng),[2, 3]. Các hạt
từ kim loại kích thước nhỏ hơn, cỡ nano mét
*
Tel:+24-37564274, Email:kyvh@ims.vast.ac.vn
đến vài chục nano mét cĩ thể sử dụng trong
chất lỏng từ nano (ferrofluid) với các ứng
dụng trong y sinh học (đớt nhiệt từ, tăng
cường tương phản ảnh cợng hưởng từ, dẫn
thuớc, phân tách từ,) [9]. Ngồi ra, từ các
hạt nano kim loại, các cấu trúc nano khác
nhau như cấu trúc lõi vỏ, cấu trúc tổ hợp đã
và đang được tập trung nghiên cứu. Dựa trên
các cấu trúc này, các vật liệu đa chức năng,
vật liệu được tăng cường tính chất, vật liệu lai
(ví dụ plasmonic-từ), vật liệu với các hiệu
ứng vật lý thú vị như tương tác trao đổi kép
(exchange-coupled), tương tác trao đổi hiệu
dịch (exchange-bias), vật liệu hạn chế được
các nhược điểm của hạt nano kim loại như
chớng oxy hĩa, bền với mơi trường, giảm đợc
tính và tương thích sinh học tớt hơn, v.v. đã
được nghiên cứu và tạo ra [9-12].
Các hạt kim loại từ với hình thái học khác
nhau được chế tạo, tổng hợp bằng mợt sớ
phương pháp vật lý và hĩa học: đồng kết tủa,
phân hủy nhiệt, nghiền cơ năng lượng cao,
hĩa siêu âm, lắng đọng từ pha hơi (CVC),
plasma,...[1-12]. Trong các phương pháp kể
trên, nghiền cơ năng lượng cao cĩ mợt sớ ưu
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
78
điểm vượt trợi như quy trình đơn giản và dễ
chế tạo được vật liệu với khới lượng lớn, giá
thành thấp. Phương pháp nghiền cơ chỉ dựa
vào lực tác đợng cơ học được tạo ra bởi bi và
cới nghiền quay với tớc đợ cao để phá vỡ các
hạt bợt cỡ micro, làm tăng sớ lượng biên hạt.
Quá trình nghiền cơ năng lượng cao liên quan
đến việc tới ưu nhiều thơng sớ để thu được
sản phẩm cĩ kích thước hạt bợt, pha hay cấu
trúc mong muớn. Trong việc nghiền để tạo ra
các hạt bợt phân tán, kích thước nhỏ, chất trợ
nghiền cĩ mợt vai trị rất quan trọng [13-17].
Chất trợ nghiền sẽ bao quanh các hạt mịn mợt
lớp mỏng hữu cơ để ngăn ngừa các hạt kết tụ
và hàn nguợi với nhau để duy trì kích thước
hạt nhỏ trong quá trình nghiền năng lượng
cao [17]. Quá trình nghiền cĩ và khơng cĩ
chất trợ nghiền được trình bày chi tiết trong
tài liệu [13].
Đã cĩ khá nhiều nghiên cứu, tiến hành mợt
cách hệ thớng, sử dụng phương pháp nghiền
cơ năng lượng cao để chế tạo các hạt nano từ
kim loại Fe, Fe-Co, Co [1, 8, 13-17]. Quá
trình nghiền được tiến hành trong các mơi
trường khác nhau như: nghiền khơ (trong mơi
trường khơng khí hoặc khí trơ bảo vệ), nghiền
ướt (trong dung mơi bảo vệ) và sử dụng kết
hợp chất trợ nghiền. Việc sử dụng chất trợ
nghiền kết hợp đã cho thấy hiệu quả rõ rệt
trong việc tạo ra các hạt nano phân tán. Đới
với các hệ vật liệu kim loại từ, chất trợ nghiền
được lựa chọn sử dụng chủ yếu là oleic acid
và/hoặc oleylamine với tỉ lệ thích hợp so với
lượng bợt nghiền. Trong các cơng trình [8,
15], nhĩm Ping Liu và các cợng sự đã chế tạo
thành cơng các hạt kim loại nano từ Co, cĩ
kích thước hạt từ vài đến vài chục nanomet,
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
sử dụng chất trợ nghiền. Họ đã khảo sát ảnh
hưởng của các thơng sớ nghiền, chất trợ
nghiền lên kích thước, hình thái học của hạt
nano Co. Chất trợ nghiền oleylamine được
cho là phù hợp trong việc nghiền kim loại Co.
Hạt nano kim loại Co cũng đã được mợt sớ
nhĩm trong nước nghiên cứu và chế tạo. Tiêu
biểu là các nghiên cứu tại Viện Khoa học vật
liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Cơng nghệ
Việt Nam. Hồng Anh Sơn và cơng sự đã chế
tạo hạt nano Co kích thước 50-100 nm bằng
phương pháp khử hồn nguyên từ Cobalt
hydroxit (Co(OH)2), và dùng chúng như mợt
nguyên tớ vi lượng để kích thích sinh trưởng,
tăng năng suất cây trồng [18]. Trong mợt
nghiên cứu khác, Nguyễn Xuân Trường và
cợng sự đã chế tạo các dây nano Co bằng
phương pháp nhiệt phân từ muới kim loại
trong dung mơi phân cực, ứng dụng để chế
tạo nam châm tổ hợp nano Co/MnBi [19].
Nhĩm chúng tơi, đã sử dụng phương pháp
nghiền cơ năng lượng cao chế tạo và tổng hợp
thành cơng mợt sớ hệ vật liệu cấu trúc nano
trong đĩ cĩ kim loại như Fe, Fe-Co [20-22].
Quá trình nghiền thơng thường được tiến
hành trong mơi trường khơ hay dung mơi bảo
vệ. Mặc dù đã thu được bợt vật liệu gồm các
hạt nano, nhưng các hạt này dễ bị kết tụ và
phân tán chưa tớt trong chất lỏng như dung
mơi hữu cơ hay nước. Việc các hạt nano từ
chưa thể phân tán tớt khiến cho tính chất của vật
liệu chưa đáp ứng, và giới hạn các nghiên cứu
và ứng dụng tiếp theo về hạt nano từ chế tạo
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao.
Trong bài báo này, chúng tơi tập trung vào
nghiên cứu, khảo sát các điều kiện cơng nghệ
để chế tạo hạt kim loại từ Co phân tán bằng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao sử
dụng kết hợp chất trợ nghiền. Hình thái, kích
thước hạt và các đặc trưng cấu trúc, tính chất
từ của các hạt được chế tạo dưới tác đợng của
nghiền cơ năng lượng cao sử dụng kết hợp
chất trợ nghiền sẽ được phân tích và bàn luận.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các mẫu hạt Co được chế tạo bằng phương
pháp nghiền cơ năng lượng cao sử dụng kết
hợp chất trợ nghiền Oleylamine (OL). Bợt
kim loại Co ban đầu cĩ đợ sạch > 99,5% và
kích thước hạt trong khoảng từ 2-5 micro mét.
Dung mơi hữu cơ n-hexane (chất hịa tan)
được sử dụng cĩ đợ sạch 99,8% và OL được
sử dụng cĩ đợ sạch > 98%. Mẫu được nghiền
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
79
trên máy nghiền năng lượng cao Spex D8000
với cới và bi nghiền bằng thép tơi. Tỉ lệ bi bợt
được chọn là 5:1. Lượng nguyên liệu sử dụng
cho mỗi mẻ nghiền là 5 g bợt Co, 10 ml dung
mơi n-hexane và 10 wt.% OL (so với khới
lượng bợt Co). Thời gian nghiền là 01, 05 và
10 giờ. Các mẫu nghiền khơng cĩ chất trợ
nghiền, với các thơng sớ nghiền tương tự
cũng được chế tạo để so sánh.
Các đặc trưng cấu trúc được khảo sát trên
máy nhiễu xạ tia X D8 Advance Brucker với
nguồn phát Cu-K, gĩc 2 theta từ 20 đến 70
đợ. Hình thái và kích thước hạt được xác định
trên kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường
(FESEM) Hitachi S-4800. Đường cong từ trễ
của các mẫu bợt được đo trên thiết bị từ kế
mẫu rung (VSM) tại nhiệt đợ phịng. Phép đo
đớt nĩng cảm ứng từ được thực hiện trên máy
phát thương mại RDO - HFI với từ trường đo
xoay chiều tần sớ 236 kHz, cường đợ 80 Oe.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Hình thái và kích thước hạt
Sản phẩm bợt kim loại Co nghiền năng lượng
cao cĩ và khơng cĩ OL thu được như trong
Hình 1. Mẫu bên trái là sản phẩm của quá
trình nghiền chỉ trong dung mơi n-hexane và
khơng cĩ OL. Bợt sau nghiền của mẫu này
lắng đọng khá nhanh, và phần chất lỏng vẫn
duy trì đợ trong của dung mơi nghiền. Mẫu
bên phải, sản phẩm của quá trình nghiền với
OL, được tách thành hai phần khá rõ rệt: phần
lắng đọng dưới đáy lọ và phần chất lỏng ở
trên. Tuy nhiên, phần chất lỏng này cĩ màu
nâu đen, và đợ đậm màu chất lỏng được quan
sát thấy tăng theo thời gian nghiền. Rất cĩ thể
các hạt bợt rất mịn cỡ nano mét đã hình thành
và phân tán vào trong dung mơi, gây ra màu
của chất lỏng.
Hình 2 là ảnh SEM chụp phần mẫu bợt lắng
của mẫu nghiền (khơng cĩ OL) sau 10 giờ đã
được làm khơ. Cĩ thế thấy các hạt bợt đã bị
kết tụ với nhau và tạo thành hạt với kích
thước lên đến 10 micro mét, lớn hơn cả kích
thước bợt ban đầu như thấy trong Hình 3a.
Nếu phĩng đại bề mặt mợt hạt (hình nhỏ hơn
chèn trong Hình 2) ta thấy bề mặt hạt khá gồ
ghề, hình thành các vùng từ vài chục đến
hàng trăm nano mét. Việc các hạt kết tụ thành
hạt lớn sau nghiền cĩ thể là lý do khiến bợt
nhanh lắng đọng và chưa tạo được các hạt
kích thước nano mét phân tán trong chất lỏng.
Hình 1. Mẫu Co sau khi nghiền 10 giờ khơng cĩ
(bên trái) và cĩ OL (bên phải)
Hình 2. Ảnh SEM mẫu bột Co sau khi nghiền 10 giờ
trong n-hexane, khơng sử dụng OL
Hình 3 là ảnh SEM của mẫu bợt kim loại Co ban đầu và các mẫu bợt lắng sau nghiền cĩ sử dụng
OL lần lượt trong 01, 05 và 10 giờ nghiền. Quan sát bằng mắt, thấy phần bợt lắng này cĩ màu
trắng, khác với màu nâu đen của bợt Co thơng thường, cĩ thể là do OL, mợt chất hoạt đợng bề
mặt, đã bao xung quanh các hạt bợt nghiền. Sau 01 giờ nghiền, từ kích thước ban đầu vài micro
mét, các hạt bợt đã bị tán dẹt và đứt gẫy thành các hạt sub-micro mét, cĩ dạng hình cầu, rời rạc,
kích thước điển hình trong khoảng 400-600 nano mét (Hình 3b). Sau 05 giờ nghiền (Hình 3c),
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
80
các hạt bợt cĩ dạng mảnh hình đĩa dẹt cĩ xu
thế rời rạc, khơng kết tụ với nhau. Với hy
vọng cĩ thể tạo ra đứt gẫy nhiều hơn để gia
tăng sớ hạt mịn cỡ nano mét, mẫu bợt đã được
nghiền đến 10 giờ. Tuy nhiên, ảnh SEM của
mẫu nghiền 10 giờ vẫn cho thấy xu thế các
mảnh dẹt được tạo thành là chủ yếu, mặc dù
biên hạt cĩ vẻ tăng lên. Bề rợng các mảnh dẹt
đĩ cĩ kích cỡ từ sub-micro mét đến mợt vài
micro mét, trong khi bề dày, ở mợt sớ gĩc
chụp thuận lợi (hình nhỏ chèn trong Hình 3d),
cĩ kích cỡ < 100 nano mét. Các mảnh dẹp
này cũng rời rạc nhau và về mặt hình thái học
khác biệt hẳn so với trong mẫu nghiền 10 giờ
khơng cĩ OL với hạt hình khới cầu lớn (Hình
2). Việc tạo thành các mảnh dẹt (hạt), kích
thước sub-micro mét như vậy cũng được cơng
bớ trong tài liệu [1, 8, 15] khi nghiền các kim
loại từ bằng phương pháp nghiền cơ năng
lượng cao sử dụng chất trợ nghiền. Như vậy,
cĩ thể thấy, ngay từ mẫu nghiền trong 1 giờ
đến mẫu nghiền trong 10 giờ, OL đã cĩ vai
trị ngăn các hạt bợt nghiền tái kết tụ và hàn
nguợi với nhau trong quá trình nghiền. Nhờ
việc bị hấp thụ trên bề mặt của hạt bợt, các
phân tử của chất trợ nghiền đã tạo ra lực tĩnh
điện và ngăn cách khơng gian khiến cho hạt
bợt ít bị tích tụ khi nghiền [16]. Mợt sớ tác giả
cho rằng, các chất trợ nghiền cĩ tác dụng hạ
thấp năng lượng bề mặt của các hạt mịn bằng
việc bao quanh hạt mịn mợt lớp mỏng hữu cơ
để tạo ra lực mao dẫn. Điều này ngăn ngừa
các hạt kết tụ và hàn nguợi với nhau để duy trì
kích thước hạt nhỏ trong quá trình nghiền
năng lượng cao [16, 17].
(a)
(b)
(c)
(d)
Hình 3. Ảnh SEM tiêu biểu của các mẫu bột Co (phần bột lắng) sau khi nghiền với OL: (a) bột ban đầu;
(b) nghiền 01 giờ; (c) nghiền 05 giờ; và (d) nghiền 10 giờ.
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
81
Phân tích cấu trúc tinh thể
Các mẫu bợt lắng thu được sau khi nghiền với
OL đã được khảo sát cấu trúc theo thời gian
nghiền. Hình 4 là giản đồ nhiễu xạ tia X của
mẫu nghiền trong 10 giờ. Phân tích định tính
pha cho thấy các đỉnh nhiễu xạ phù hợp với
đỉnh của pha tinh thể chuẩn Co (thẻ nhiễu xạ
98-008-6653) với cấu trúc lục giác
(hexagonal). Khơng phát hiện thấy các pha
tinh thể của oxit Co hay các pha lại nào khác.
Vạch nhiễu xạ của mẫu được mở rợng cĩ thể
là do các hạt bợt hình thành từ các miền
(vùng) tinh thể nhỏ cỡ nanomet và với sai
hỏng bề mặt lớn do tác đợng của nghiền năng
lượng cao. Cường đợ vạch nhiễu xạ của mẫu
đo tại gĩc 2 theta 44,48o (hkl - 0 0 2) tăng
mạnh, trong khi tại gĩc 44,45o (hkl - 0 1 1) lại
giảm, ngược xu thế khi so với với cường đợ
của vạch nhiễu xạ của phổ chuẩn. Đây cĩ thể
là do thiên hướng tinh thể (texture) ở những
hạt mẫu bợt cĩ hình dạng mảnh dẹt.
Tính chất từ
Hình 5 là đường cong từ trễ M(H) đo ở nhiệt
đợ phịng, từ trường ngồi lên đến 11 kOe,
của mẫu bợt kim loại ban đầu (tmill = 0 hour)
và các mẫu nghiền với OL trong 01, 05 và 10
giờ. Trước khi dùng để đo từ, các mẫu bợt
nghiền đã được rửa sạch OL bám xung quanh
bằng cách hịa tan (10 lần) trong dung mơi
cồn và n-hexane kết hợp rung siêu âm mỗi lần
30 phút. Mẫu bợt kim loại Co ban đầu cĩ giá
trị từ đợ bão hịa Ms tại từ trường 11 kOe
~156 emu/g và giá trị Hc tương đới nhỏ ~70
Oe. Các mẫu sau khi nghiền, Ms cĩ xu thế
giảm, lần lượt là 152, 151 và 148 emu/g
tương ứng với thời gian nghiền là 01, 05 và
10 giờ. So với mẫu bợt kim loại ban đầu, giá
trị Ms của mẫu bợt nghiền trong 01 giờ giảm
khoảng 4 emu/g. Theo thời gian nghiền tăng
đến 5 và 10 giờ, Ms tiếp tục giảm, tuy nhiên
giảm khơng nhiều. Sự suy giảm Ms của các
mẫu bợt nghiền so với mẫu ban đầu và khi
thời gian nghiền tăng cĩ thể là do mợt phần
chưa loại bỏ hồn tồn được chất trợ nghiền
khỏi mẫu khi rửa, và mợt phần do khuyết tật
bề mặt hạt tăng trong quá trình nghiền năng
lượng cao. Lực kháng từ của mẫu sau nghiền
tăng nhẹ từ 110 đến 190 Oe theo thời gian
nghiền tăng. Việc tăng Hc cĩ thể là do kích
thước hạt Co giảm và ứng suất tăng trong quá
trình nghiền cơ năng lượng cao [8].
Như đã trình bày ở trên, phần chất lỏng cĩ
màu nâu đen của mẫu nghiền với OL nhiều
khả năng cĩ các hạt nano kim loại từ phân tán
ở trong. Sau khi để lắng tự nhiên và được tách
riêng ra, chất lỏng này khơng bị lắng đọng,
kết tụ và khá bền theo thời gian. Hình 6 là ảnh
SEM mẫu chất lỏng nghiền trong 10 giờ với
OL. Cĩ thể quan sát thấy các hạt cĩ dạng hình
cầu và kích thước trong khoảng cỡ từ 20 đến
30 nano mét. Như vậy cĩ thể khẳng định, quá
trình nghiền cơ năng lượng cao sử dụng OL
đã tạo ra các hạt nano phân tán trong chất
lỏng. Kết quả tạo ra được các hạt nano phân
tán trong chất lỏng bằng nghiền với chất trợ
nghiền phù hợp với kết quả cơng bớ trong
cơng trình [1, 8, 15].
Hình 4. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu bột lắng
sau khi nghiền với OL trong 10 giờ
Hình 5. Đường cong từ trễ của các mẫu bột lắng
nghiền với OL ở thời gian khác nhau
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
82
Hình 6. Ảnh SEM của mẫu chất lỏng sau khi
nghiền với OL trong 10 giờ
Hình 7. Đường đốt từ nhiệt của mẫu chất lỏng sau
khi nghiền với OL trong 10 giờ
Để minh chứng cĩ phải là các hạt nano kim
loại Co cĩ từ tính hay cĩ thể là mợt loại hạt
nano nào khác (như muới của Co khơng cĩ từ
tính), chất lỏng sau khi nghiền 10 giờ với chất
trợ nghiền đã được khảo sát đớt nĩng cảm
ứng từ. Nếu trong chất lỏng tồn tại các hạt
nano cĩ tính chất sắt từ với từ đợ và nồng đợ
đủ lớn, theo thời gian sẽ ghi nhận được sự
nĩng lên của chất lỏng khi đặt vào từ trường
xoay chiều. Hình 7 là đường đớt nĩng cảm
ứng từ của mẫu chất lỏng thu được khi
nghiền trong 10 giờ với OL. Sau khoảng 800
giây, nhiệt đợ chất lỏng đã tăng từ 28 oC đến
47
oC, điều này cĩ thể giả thiết là các hạt nano
kim loại Co đã được tạo thành và phân tán
trong chất lỏng, như được quan sát thấy trên
ảnh SEM (Hình 6). Chúng ta cũng cĩ thể coi
sản phẩm chất lỏng thu được sau quá trình
nghiền với chất trợ nghiền như vậy là chất
lỏng từ, và cĩ thể nghiên cứu với định hướng
ứng dụng trong y sinh.
KẾT LUẬN
Các hạt kim loại từ Co với kích thước và hình
thái khác nhau đã được chế tạo bằng phương
pháp nghiền cơ năng lượng cao sử dụng kết
hợp chất trợ nghiền Oleylamine trong các
khoảng thời gian nghiền khác nhau. Nghiên
cứu này chỉ ra khả năng chế tạo các hạt Co
kích thước lớn từ sub-micro mét đến mợt vài
micro mét, hình đĩa dẹt để sử dụng làm chất
lỏng từ lưu biến. Các hạt nano Co kích thước
nhỏ hơn 30 nm, hình cầu, tạo thành chất lỏng
từ với đợ ổn định cao, cĩ khả năng tạo nhiệt
đợ thích hợp cho ứng dụng nhiệt từ trị trong
từ trường xoay chiều. Những nghiên cứu tiếp
theo về kỹ thuật nghiền là cần thiết để tạo
được các chất lỏng từ thích hợp cho các ứng
dụng trong thực tế.
LỜI CÁM ƠN
Nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí từ đề tài cấp
cơ sở Viện Khoa học vật liệu năm 2018 “Chế
tạo hạt nano từ Co phân tán bằng phương
pháp nghiền cơ năng lượng cao” và đề tài
Hợp tác quớc tế cấp Viện Hàn lâm KHCNVN
mã sớ QTSK01.01/18-19. Mợt sớ phép đo đạc
khảo sát được thực hiện tại Phịng TN Trọng
điểm Vật liệu và Linh kiện điện tử và Phịng
Nano y sinh, Viện Khoa học vật liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ưzer Çelik, Tezer Fırat (2018), “Synthesis of
FeCo Magnetic Nanoalloys and Investigation of
Heating Properties for Magnetic Fluid
Hyperthermia”, Journal of Magnetism and
Magnetic Materials, Volume 456, Pages 11-16.
2. Zarana Laherisheth, Kinnari Parekh, and R. V.
Upadhyay (2017), “Role of inter-particle force
between micro and nano magnetic particles on the
stability of magnetorheological fluid”, AIP
Advances 7, 025206.
3. M. Ashtiani, S.H. Hashemabadi, A.Ghaffari
(2015), “A review on the magnetorheological fluid
preparation and stabilization”, Journal of
Magnetism and Magnetic Materials, 374 716–730.
4. Sotirios Koutsopoulos, Rasmus Barfod,
Dimitris Tsamouras, K. Michael Eriksen, Rasmus
Fehrmann (2017), “Synthesis and characterization
of iron-cobalt (FeCo) alloy nanoparticles
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
83
supported on carbon”, Journal of Alloys and
Compounds, Volume 725, Pages 1210-1216.
5. Silke Behrens, et. al (2006), “Surface
engineering of Co and FeCo nanoparticles for
biomedical application”, J. Phys.: Condens.
Matter, 18 S2543–S2561.
6. M.V. Ananyeva, A.V. Kalenskii, A. A. Zvekov,
A. P. Nikitin, I.Yu. Zykov (2015), “The optical
properties of the cobalt nanoparticles in the
transparent condensed matrices”, Nanosystems:
Physics, chemistry, mathematics, 6 (5), P. 628–636.
7. An-Hui Lu, E. L. Salabas, and Ferdi Schith
(2007), “Magnetic Nanoparticles: Synthesis,
Protection, Functionalization, and Application”,
Angew. Chem. Int. Ed., 46, 1222 – 1244.
8. Narayan Poudyal, Chuan-bing Rong, and J.
Ping Liu (2011), “Morphological and magnetic
characterization of Fe, Co, and FeCo nanoplates
and nanoparticles prepared by surfactants-assisted
ball milling”, Journal of Applied Physics, 109,
07B526 .
9 Thuy T. T., Maenosono S., Thanh N. T. K.
(2012), “Next Generaion Magnetic Nanoparticles
for biomedical application. In: "Magnetic
nanoparticles: from fabrication and clinical
applications". Ed. N.T.K. Thanh, CRC Press,
Taylor and Francis, Boca Raton London New
York, p 99-128.
10. Manh-Huong Phan, Javier Alonso, Hafsa
Khurshid, Paula Lampen-Kelley, Sayan Chandra,
Kristen Stojak Repa, Zohreh Nemati, Raja Das,
Ĩscar Iglesias and Hariharan Srikanth (2016),
“Exchange Bias Effects in Iron Oxide-Based
Nanoparticle Systems”, Nanomaterials (Basel),
6(11): 221.
11. Juan A. González, Juan P. Andrés, Ricardo
Lĩpez Antĩn, José A. De Toro, Peter S. Normile,
Pablo Muñiz, J. Manuel Riveiro, and Josep
Nogués (2017), “Maximizing Exchange Bias in
Co/CoO Core/Shell Nanoparticles by Lattice
Matching between the Shell and the Embedding
Matrix”, Chem. Mater., 29, 5200−5206.
12. Le Trong Lu, Le Duc Tung, Ian Robinson,
Diane Ung, Bien Tan, James Long, Andrew Ian
Cooper, David Garth Fernigde and Nguyen Thi
Kim Thanh (2008), “Size and shape control for
water-soluble magnetic cobalt nanoparticles using
polymer ligands”, J. Mater. Chem., 18, 2453–2458
13. Mahbub Ullah, Md. Eaqub Ali and Sharifah
Bee Abd Hamid (2014), “Surfactant-assisted ball
milling: A novel route to novel materials with
controlled nanostructures – A review”, Rev. Adv.
Mater. Sci., 37 1-14.
14. Young Do Kim, Jin Youl Chung, Jongryoul
Kim, Hyeongtag Jeon (2000), “Formation of
nanocrystalline Fe–Co powders produced by
mechanical alloying”, Materials Science and
Engineering, A291 17–21
15. Narayan Poudyal, Chuan-bing Rong, and J.
Ping Liu (2010), “Effects of particle size and
composition on coercivity of Sm–Co nanoparticles
prepared by surfactant-assisted ball milling”,
Journal of Applied Physics, 107, 09A703.
16. J.A. Lewis (2000), “Colloidal Processing of
Ceramics”, J. Am. Ceram. Soc., 83 2341.
17. D Guerald, et al (2008), “Ball milling in the
presence of a fluid: results and prespectives”, Rev.
Adv. Mater. Sci., 18 225.
18. Hồng Anh Sơn và các cợng sự (2018), “Vật
liệu xúc tác xử lý khí thải, chất hữu cơ đợc hại và
các vật liệu nano ứng dụng trong nơng nghiệp”,
Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học kỷ niệm 25
năm Viện Khoa học vật liệu – Hà Nợi, ngày
11/6/2018, trang 260-274.
19. Truong Nguyen Xuan, Oanh Kim Thi Vuong,
Hieu Trung Nguyen, and Vuong Van Nguyen
(2017), “Preparation and Magnetic Properties of
MnBi/Co Nanocomposite Magnets”, Journal of
Electronic Materials, Volume 46, Issue 6, pp
3359–3366.
20. Đỗ Hùng Mạnh và các cợng sự (2018), “Vật
liệu hạt nano từ: chế tạo, tính chất từ và ứng
dụng”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học kỷ
niệm 25 năm Viện Khoa học vật liệu – Hà Nợi,
ngày 11/6/2018, trang 93-105.
21. Do Hung Manh, Do Khanh Tung, L. T. H.
Phong, P. T. Thanh, Nguyen Xuan Phuc (2014),
“Facile Synthesis of High Magnetization Air-
stable Fe65Co35 Nanoparticles by Mechanical
Alloying”, JPS Conf. Proc., 1, 012010 012010-2.
22. Do Khanh Tung, Do Hung Manh, P.T. Phong,
L.T.H. Phong N.V. Dai, D.N.H. Nam, N.X. Phuc
(2015), “Structural and magnetic properties of
mechanically alloyed Fe50Co50 nanoparticles”,
Journal of Alloys and Compounds, 640, 34–38.
Vũ Hồng Kỳ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 190(14): 77 - 84
84
ABSTRACT
PREPARATION ON THE MAGNETIC COBALT PARTICLES BY
OLEYLAMINE SURFACTANT-ASSISTED HIGH-ENERGY BALL MILLING
Vu Hong Ky
1
, Nguyen Trung Hieu
1
, Do Khanh Tung
1
,
Le Thi Hong Phong
1
, Nguyen Van Dang
2
, Do Hung Manh
1
1Institute of Materials Science – VAST,
2University of Sciences - TNU
Cobalt magnetic metal particles with different sizes and morphology have potential applications in
many fields of electronics, catalysis, biomedicine, The synthesis and preparation of these
particles with controllable size, micro structure and composition has been considered by many
research groups on the world. In this paper, we report preliminary results on the effect of
Oleyamine and milling time on the morphology, structure and magnetic properties of Cobalt metal
particles prepared by high energy ball milling. SEM images show the coexistence of sub-
micrometer particles with flattened-plate shape and nanoparticles with a smaller size of about 30
nm. The magnetization curves indicate that the magnetic properties are less varied by milling time.
The influence of milling parameters on the ability to produce fluid from the micro and nano
particles is also analyzed and dicussed. Heat generation of these Cobalt nanoparticles in AC
magnetic field can be used for magnetic fluid hyperthermia.
Keywords: Magnetic nano particles; Cobalt; high energy ball milling; surfactant
Ngày nhận bài: 14/11/2018; Ngày hồn thiện: 26/11/2018; Ngày duyệt đăng: 15/12/2018
Tel:+24-37564274, Email:kyvh@ims.vast.ac.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 105_135_1_pb_0792_2125078.pdf