Chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi - Bế Trung Anh

Tài liệu Chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi - Bế Trung Anh: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ Ngày nhận bài: 17/1/2018; Ngày phản biện: 24/1/2018; Ngày duyệt đăng: 27/2/2018 (1) Học viện Dân tộc, e-mail: betrunganh@cema.gov.vn (2) Học viện Dân tộc, e-mail: phamthikimcuong@cema.gov.vn Số 21 - Tháng 3 năm 2018 CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Bế Trung Anh(1) Phạm Thị Kim Cương(2) Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, diện mạo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) đã có những thay đổi đáng kể. Các chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã triển khai có hiệu quả góp phần giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội, ổn định cuộc sống; tình hình an ninh chính trị theo đó cũng ngày càng ổn định. Sau nhiều thập niên tập trung vào phát triển tổng thể nguồn nhân lực theo diện rộng, đến nay trình độ dân trí của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được nâng lên. Về cơ bản, chúng ta đã thực hiện thà...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi - Bế Trung Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ Ngày nhận bài: 17/1/2018; Ngày phản biện: 24/1/2018; Ngày duyệt đăng: 27/2/2018 (1) Học viện Dân tộc, e-mail: betrunganh@cema.gov.vn (2) Học viện Dân tộc, e-mail: phamthikimcuong@cema.gov.vn Số 21 - Tháng 3 năm 2018 CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Bế Trung Anh(1) Phạm Thị Kim Cương(2) Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, diện mạo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) đã có những thay đổi đáng kể. Các chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã triển khai có hiệu quả góp phần giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội, ổn định cuộc sống; tình hình an ninh chính trị theo đó cũng ngày càng ổn định. Sau nhiều thập niên tập trung vào phát triển tổng thể nguồn nhân lực theo diện rộng, đến nay trình độ dân trí của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được nâng lên. Về cơ bản, chúng ta đã thực hiện thành công trong việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng với tốc độ cao; trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của lao động cũng được nâng lên; tiềm lực và trình độ khoa học - công nghệ trong nước đã có những bước phát triển đáng kể... Tuy nhiên, so với mặt bằng chung toàn quốc, trình độ khoa học – công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói chung, chất lượng nguồn nhân lực khoa họ - công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Từ khóa: Nguồn nhân lực; khoa học và công nghệ; vùng dân tộc và miền núi. 1. Nhân lực khoa học và công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi Khi xem nguồn nhân lực là tổng thể tất cả những tiềm năng và năng lực của con người được huy động vào quá trình lao động sản xuất, là nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của một quốc gia, nguồn nhân lực được xem xét, nghiên cứu ở hai phương diện chính là số lượng và chất lượng. Số lượng của nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, địa phương. Chất lượng nguồn nhân lực được biểu hiện ở năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong lao động đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần thúc đẩy sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh những yêu cầu cần thiết mà nguồn nhân lực cần phải đạt được để thực hiện phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững. Theo UNESCO và OECD, “Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ” (Human resources for science and technology) của một quốc gia/vùng lãnh thổ bao gồm toàn bộ những người có trình độ từ cao đẳng/đại học trở lên (tương ứng với bậc đào tạo thứ III theo phân loại quốc tế về giáo dục và đào tạo) trong một lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) và những người tuy chưa qua đào tạo chính quy như trên, nhưng làm một nghề thuộc chuyên ngành KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương cao đẳng, đại học trở lên. Như vậy, “Nguồn nhân lực KH&CN” chỉ xem xét về trình độ mà không xem xét đến nghề nghiệp và hoạt động (có hoạt động trong lĩnh vực KH&CN hay không). Để tính toán và phân tích nguồn nhân lực KH&CN, UNESCO phân nguồn nhân lực KH&CN như sau: Nguồn nhân lực KH&CN = Tổng nhân lực có trình độ cao đẳng/ đại học trở lên Trong đó có: Nhân lực có trình độ cao đẳng/đại học trở lên đang làm việc Trong đó có: Nhân lực KH&CN Trong đó có: Nhân lực NC&PT Theo quan niệm trên thì nhân lực khoa học và công nghệ ở nước ta gồm 5 thành phần chủ yếu sau đây: (1) Viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học (giữ các chức danh khoa học như trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp), làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập (học viện, viện nghiên cứu, trường đại học); (2) Viên chức giữ các chức danh công nghệ (kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư chính, kỹ sư cao cấp) làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 53Số 21 - Tháng 3 năm 2018 nghiệp khoa học và công nghệ. (3) Cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện có tham gia hoặc chỉ đạo công việc nghiên cứu phục vụ việc hoạch định các quyết sách, quyết định quan trọng về khoa học và công nghệ trong thẩm quyền của mình. (4) Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài làm việc trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại Việt Nam. (5) Các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội yêu thích khoa học kỹ thuật, có sáng kiến cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống. Hệ thống số liệu về nhân lực KH&CN chính thức của nước ta hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc thống kê những người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Theo thống kê của Bộ KH&CN đến cuối năm 2014, Việt Nam có 164.744 người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trong đó, trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 128.997 người (gồm 12.261 tiến sỹ, 45.223 thạc sỹ, 66.684 đại học và 4.829 cao đẳng), cán bộ kỹ thuật là 12.799 người, cán bộ hỗ trợ là 15.149 người và làm các chức năng khác là 7.799 người. Nhìn vào những con số thống kê trên có thể thấy đội ngũ nhân lực KH&CN của Việt Nam đã tăng lên rõ rệt, đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo hiệu quả và bền vững ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, một trong những lĩnh vực mang tính đột phá là phát triển nguồn nhân lực trong đó có nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Bởi nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi được xem là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, đã xác định một trong ba đột phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định, một trong các mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm, giai đoạn 2016- 2020 là: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ. Chú trọng giáo dục đào tạo vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số”1. Cụ thể hoá chủ trương của Đảng về chiến lược 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.228, 295, 296. phát triển nguồn nhân lực, Chính phủ đã có nhiều chính sách phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số: Chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; Chính sách cử tuyển học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu về cán bộ là người dân tộc thiểu số tại địa phương; Chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng; Đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg; Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên nghèo... Ngoài ra, còn có các dự án như: Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ làm Phó Chủ tịch xã tại 62 huyện nghèo trong cả nước theo Nghị quyết 30a; Đề án tuyển chọn 500 trí thức trẻ về các xã tham gia phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 2013 - 2020; Kết luận số 86-KL/TW ngày 24 - 01- 2014 của Bộ Chính trị về Chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các cán bộ khoa học trẻ về công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi 2. Chất lượng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta hiện nay Với chủ trương “Đẩy mạnh việc huy động các nguồn lực cho thực hiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa Phát triển sản xuất, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, làm đổi thay rõ rệt bộ mặt kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi”2. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung đầu tư cho vùng DTTS&MN thông qua các chương trình như: Chương trình 134, Chương trình 135, Nghị quyết 30a, Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững; trong đó có phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ. Nhờ thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nên diện mạo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có những thay đổi đáng kể, góp phần giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định cuộc sống; tình hình an ninh chính trị theo đó cũng ngày càng ổn định... Tuy nhiên, kết quả xóa đói, giảm nghèo ở một số địa phương còn chưa bền vững và không đồng đều giữa các vùng, các nhóm dân cư. Xu hướng phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm dân cư ngày càng gia tăng. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng đồng bào DTTS tại địa bàn vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn giảm chậm. Mức độ tiếp cận các chính sách, dự án giảm nghèo của các hộ nghèo DTTS sinh sống ở vùng cao, vùng sâu như La Hủ, Si La, Mảng, Cống, Kháng, Khơ Mú, Nùng, Dao, Mông... còn quá thấp. Trình độ khoa học – công nghệ và chất lượng của 2. Quyết định số 122/20013/QĐ-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Công tác dân tộc. Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 54 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 lực lượng lao động vùng DTTS&MN còn rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Theo kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 dân tộc thiểu số năm 2015, tỷ trọng người dân tộc thiểu số có việc làm từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chia theo dân tộc, thời điểm 01/8/2015 là rất thấp. Một số dân tộc có tỷ lệ người lao động trên 15 tuổi có trình độ cao đẳng, đại học trở lên rất cao như dân tộc Tày, Ngái, Hoa, Mường, Chăm, Pu Péo, Bố Y bên cạnh đó, các dân tộc như Rơ Măm, Mảng chưa có người trên 15 tuổi có việc làm được đào tạo Cao đẳng và đại học trở lên. Nguồn: Kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 dân tộc thiểu số năm 2015 Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo “Nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi có trình độ đại học và trên đại học mới đạt 2,8%, riêng người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,1%, thấp hơn 4 lần so với toàn quốc”3. Như vậy, số lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở vùng dân tộc và miền núi còn rất thấp so với cả nước. Bên cạnh đó, sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành. Nhân lực nghiên cứu và phát triển theo khu vực hoạt động và vị trí hoạt động Khu vực hoạt động Tổng số Tỷ lệ (%) Vị trí hoạt động Cán bộ nghiên cứu Cán bộ kỹ thuật Cán bộ hỗ trợ Khác Tổng số nhân lực NC&PT theo khu vực và vị trí hoạt động 164.744 100 128.997 12.799 15.149 7.799 Tổ chức NC&PT 37.481 22,8 29.820 1.895 3.852 1.914 Trường đại học 74.217 45,0 63.435 2.524 6.131 2.127 Cơ quan hành chính 10.926 6,6 8.460 987 979 500 Đơn vị sự nghiệp khác 11.989 7,3 7.495 2.580 1.386 528 Doanh nghiệp 28.708 17,4 18.553 4.745 2.705 2.705 Phi lợi nhuận 1.423 0,9 1.234 68 96 25 Nguồn: Tổng hợp từ Điều tra NC&PT 2014 và Điều tra doanh nghiệp 2014. Vùng miền núi đã có 4 trung tâm đại học khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Đến nay, theo kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 dân tộc thiểu số năm 2015, có tổng cộng 3% số lao động người dân tộc thiểu số có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Nhưng nhân lực KH&CN phân bố không đều, tập trung ở các viện nghiên cứu, trường đại học và các thành phố lớn. Vì thế nhân lực KH&CN ở các vùng sâu và vùng khó khăn trở nên hiếm hoi chưa kể đến những nhân lực chất lượng cao. Chính vì điều đó dẫn đến hệ quả là không có cán bộ KH&CN đảm nhận nhiệm vụ KH&CN ở các địa bàn xa xôi, miền núi Cơ sở giáo dục đại học theo vùng địa lý 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2015), Thống kê giáo dục và đào tạo năm học 2014-2015, Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 55Số 21 - Tháng 3 năm 2018 Vùng Tổ chức dịch vụ Số lượng Tỷ lệ (%) 1. Hà Nội 55 16,22 2. TP. Hồ Chí Minh 38 11,21 3. Đồng bằng sông Hồng (không tính Hà Nội) 40 11,80 4. Trung du và miền núi phía Bắc 71 20,94 5. Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 60 17,70 6. Tây Nguyên 13 3,83 7. Đông Nam Bộ (không tính TP. Hồ Chí Minh) 22 6,49 8. Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ) 40 11,80 Toàn bộ 339 100 Nguồn: Điều tra tiềm lực của các tổ chức khoa học và công nghệ, năm 2014. Phân bố các cơ sở giáo dục đại học theo vùng địa lý Hiện tượng chảy máu chất xám vẫn đang diễn ra trong thời gian qua. Rất nhiều người sau khi hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ ở đã không trở về địa phương làm việc mà xin chuyển đi những vùng, địa phương khác có nhiều điều kiện phát triển hơn. Vì thế đội ngũ kế cận các nhà khoa học giỏi trong các viện nghiên cứu, trường đại học ngày càng thiếu hụt nghiêm trọng và các thiếu các nhà khoa học đầu ngành. Tổ chức nghiên cứu và phát triển theo vùng địa lý Vùng Tổ chức NC&PT Số lượng Tỷ lệ (%) 1. Hà Nội 262 51,9 2. TP. Hồ Chí Minh 90 17,8 3. Đồng bằng sông Hồng (không tính Hà Nội) 24 4,7 4. Trung du miền núi phía Bắc 34 6,7 5. Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 46 9,1 6. Tây Nguyên 14 2,8 7. Đông Nam Bộ (không tính TP. Hồ Chí Minh) 18 3,5 8. Đồng bằng sông Cửu Long 23 4,5 Toàn bộ 505 100 Nguồn: Điều tra tiềm lực của các tổ chức khoa học và công nghệ, năm 2014. Phân bố các tổ chức NC&PT theo vùng địa lý Tại các Uỷ ban nhân dân huyện cán bộ phụ trách KH&CN thường chỉ là cán bộ kiêm nhiệm, có địa phương thì bố trí cán bộ ở phòng Nông nghiệp, có địa phương lại bố trí cán bộ phòng Công thương, thậm có địa phương bố trí cán bộ phòng Kinh tế. Sự gắn kết, hợp tác giữa các nhà khoa học còn yếu là thực trạng khá phổ biến. Các chương trình khoa học công nghệ lớn được triển khai ở các địa phương chủ yếu do các chuyên gia ở trung ương hoặc các trung tâm khoa học công nghệ lớn chủ trì. Cán bộ làm công tác khoa học công nghệ ở địa phương chủ yếu là thành viên tham gia. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, vì sự nghiệp phát triển của các dân tộc. Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, đặc biệt là cán bộ KH&CN đầu ngành, cán bộ KH&CN là người dân tộc thiểu số. Chính sách tiền lương cho người làm KH&CN chưa thỏa đáng. Điều này là nguyên nhân quan trọng làm cho hiện tượng “chảy máu chất xám” trong các tổ chức KH&CN công lập gia tăng nhanh. Không có các chính sách cụ thể để thu hút nguồn nhân lực KH&CN ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Mọi chủ trương chính sách mới chỉ là dừng ở mức khuyến khích về tinh thần, không có các điểu kiện vật chất để thực hiện. 3. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay Một là, đẩy mạnh chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam nói chung, vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng thời kỳ 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 theo Nghị quyết số 52/NQ-CPg ngày 15/6/2016 của Chính phủ. Trong đó, chú trọng phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cho vùng DTTS&MN, tập trung “Nâng cao, phát triển toàn diện nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số về thể lực, trí lực và tác phong, kỷ luật, kỹ năng nghề nghiệp, cơ cấu hợp lý, trong đó ưu tiên các dân tộc thiểu số có nguồn nhân lực còn hạn chế để từng bước thu hẹp khoảng cách với trình độ chung của quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, nhu cầu thị trường lao động hiện tại và tương lai; xây dựng đội ngũ trí thức, doanh nhân, cán bộ người dân tộc thiểu số và lao động trực tiếp có chất lượng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, bảo đảm quốc phòng an ninh quốc gia và vùng đồng bào Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 56 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 dân tộc thiểu số và miền núi”4. Đồng thời, các địa phương cần có những cơ chế, chính sách sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ để thu hút được nhân tài, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” như hiện nay, đặc biệt là nhân lực công tác ở vùng DTTS&MN. Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng làm cho mọi người, đặc biệt là đồng bào vùng DTTS&MN thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay. Hai là, Ủy ban Dân tộc chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng đề án, dự án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng DTTS&MN, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước trong thời gian tới. Ðó sẽ là đội ngũ nhân lực có khả năng đặt ra các vấn đề và nhiệm vụ KH&CN, làm các tổng công trình sư có đủ năng lực thiết kế và chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH&CN lớn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; các nhóm nghiên cứu liên ngành trong thực hiện các nhiệm vụ KH&CN và đặc biệt cần nâng cấp ngay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH&CN vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ba là, các địa phương vùng DTTS&MN cần dự báo nhu cầu nguồn nhân lực; rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển nguồn nhân lực từ nay đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Thực hiện các chương trình, biện pháp, chính sách quản trị nguồn nhân lực đồng bộ (chế độ lương bổng, đãi ngộ, cơ hội thăng tiến) để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong đó có nhân lực khoa học và công nghệ về công tác tại địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Các doanh nghiệp được hưởng lợi trực tiếp và 4. Nghị quyết số 52/NQ-CPg ngày 15/6/2016 của Chính phủ về Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số 2016 – 2010, định hướng đến năm 2030, Hà Nội. gián tiếp trong quá trình khai thác, phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN cần có trách nhiệm hỗ trợ kinh phí đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN. Bốn là, xây dựng, thực hiện các chính sách đặc biệt để thu hút và sử dụng kịp thời lực lượng KH&CN hiện có ở vùng dân tộc và miền núi. Các chính sách này sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả, ít tốn kém tiền bạc và thời gian, đảm bảo thực thi các nhiệm vụ khoa học và công nghệ vùng dân tộc và miền núi. Tài liệu tham khảo [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2015), Thống kê giáo dục và đào tạo năm học 2014-2015, Hà Nội; [2] Bộ Khoa học & Công nghệ, (2015), Khoa học & Công nghệ Việt Nam 2014, NXB. Khoa học và Kỹ thuật; [3] Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ), 2012; [4] Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; [5] Nghị quyết số 52/NQ-CPg ngày 15/6/2016 của Chính phủ về Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số 2016 – 2010, định hướng đến năm 2030, Hà Nội; [6] Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005; [7] Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Khoa học và Công nghệ; [8]. Quyết định số 122/20013/QĐ-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Công tác dân tộc. QUALITY OF SCIENCE AND TECHNOLOGY HUMAN RESOURCES IN ETHNIC MINORITY AND MOUNTAINOUS AREAS Be Trung Anh Pham Thi Kim Cuong Abstract: In the past years, with the development of the whole country, the appearance of ethnic minority and mountainous areas(DTTS&MN)has been significant changes. Policies for ethnic minority and mountainous areas have been effectively implemented, contributing to hunger eradication and poverty alleviation, socio-economic development and life stabilization; the political security situation has also become more stable. After decades of focusing on the overall development of human resources in a wide area, the educational level of ethnic minority and mountainous areas has been raised. Basically, we have succeeded in eradicating illiteracy, popularizing primary and secondary education; the scale of training of universities, colleges, vocational schools and technical schools continued to increase at a high rate; the level of skills, technical expertise of labor is also raised; the potential and level of science and technology in the country have been remarkably developed... However, compared to the national level, the level of science and technology of ethnic minority and mountainous areas in general, the quality of science and technology human resources in ethnic minority and mountainous areas in particular is low; do not meet the development requirements of the country in the coming period. Keywords: Human resources; science and technology; ethnic minority and mountainous areas.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf147_646_1_pb_2174_2151964.pdf