Tài liệu Chất lượng kiểm soát đường huyết ở người đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận tại Bệnh viện Quận: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 162
CHẤT LƯỢNG KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT Ở NGƯỜI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TÍP 2 CÓ BIẾN CHỨNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN QUẬN
Lê Tuyết Hoa*, Nguyễn Hoàng Linh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề - mục tiêu nghiên cứu: Biến chứng thận ở người ĐTĐ khá thường gặp. Kiểm soát chặt chẽ
đường huyết có vai trò chính để dự phòng xuất hiện mới và tiến triển bệnh thận. Chưa rõ chất lượng kiểm soát
đường huyết ở người ĐTĐ có bệnh thận. Nghiên cứu này đánh giá mức đạt mục tiêu HbA1c, các thuốc hạ
đường huyết và yếu tố đi kèm với không đạt mục tiêu ở người ĐTĐ típ 2 có biến chứng thận.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 94 người đái tháo đường típ 2 có bệnh thận ĐTĐ được
quản lý tại BV Quận 10. Bệnh thận ĐTĐ chẩn đoán theo KDOQI 2007 và đạt mục tiêu đường huyết khi HbA1c
< 7%. Phân tích hồi qui đa biến xác định các yếu tố đi kèm độc lập với không đạt mục tiêu....
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng kiểm soát đường huyết ở người đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận tại Bệnh viện Quận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 162
CHẤT LƯỢNG KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT Ở NGƯỜI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TÍP 2 CÓ BIẾN CHỨNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN QUẬN
Lê Tuyết Hoa*, Nguyễn Hoàng Linh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề - mục tiêu nghiên cứu: Biến chứng thận ở người ĐTĐ khá thường gặp. Kiểm soát chặt chẽ
đường huyết có vai trò chính để dự phòng xuất hiện mới và tiến triển bệnh thận. Chưa rõ chất lượng kiểm soát
đường huyết ở người ĐTĐ có bệnh thận. Nghiên cứu này đánh giá mức đạt mục tiêu HbA1c, các thuốc hạ
đường huyết và yếu tố đi kèm với không đạt mục tiêu ở người ĐTĐ típ 2 có biến chứng thận.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 94 người đái tháo đường típ 2 có bệnh thận ĐTĐ được
quản lý tại BV Quận 10. Bệnh thận ĐTĐ chẩn đoán theo KDOQI 2007 và đạt mục tiêu đường huyết khi HbA1c
< 7%. Phân tích hồi qui đa biến xác định các yếu tố đi kèm độc lập với không đạt mục tiêu.
Kết quả: Đối tượng nghiên cứu có tuổi trung bình 64,4, 71,3% là nữ và thời gian bệnh ĐTĐ là 10,2 năm.
Chỉ 27,7% BN đạt được mục tiêu HbA1c. 48,9% phải chích insulin, 23,4% đơn trị với thuốc viên và 27,7% phối
hợp thuốc viên. Nhóm không đạt mục tiêu có tuổi cao hơn, mắc đái tháo đường hay tăng HA nhiều năm hơn, có
bệnh võng mạc, giảm độ lọc cầu thận ước tính và chích insulin.
Kết luận: Tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1c còn thấp, do vậy cần chú ý hơn đến điều trị thuốc hạ đường huyết trong
việc quản lý người bệnh thận ĐTĐ.
Từ khóa: bệnh thận ĐTĐ, kiểm soát đường huyết, mục tiêu HbA1c.
ABSTRACT
GLYCEMIC CONTROL IN TYPE 2 DIABETES PATIENTS WITH DIABETIC KIDNEY DISEASE
AT A DISTRICT HOSPITAL
Le Tuyet Hoa, Nguyen Hoang Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 162 - 167
Background: Little is known about quality of glycemic control in type 2 diabetes patients with kidney
disease. The study aimed to understand the use of various classes of anti-diabetic drugs, the proportion of
achieving ideal target for HbA1c and which factors are associated with failed metabolic control in patients with
diabetic kidney disease (DKD).
Methods: A cross-sectional study (from 01/2014 to 06/2016) was done in out-patients being treated at the
district hospital in HoChiMinh City (Vietnam). DKD was defined as followed the KDOQI 2007 criteria (eGFR <
60 ml/min/1.73m2, or albumin-creatinine ratio ≥ 300 mg/g or ≥ 30 mg/g coincident with diabetic retinopathy).
Factors potentially associated with HbA1c ≥ 7% were evaluated in multilogistic regression.
Results: 94 participants with DKD had mean age of 64.37 years, 71.3% in women and diabetes duration of
10.23 years. The average HbA1c of subjects was 8.4% and only 27.7% of them attained the glycemic target. 23%
of patients received oral anti-diabetic drugs alone, 28% combined oral drugs and 49% insulin alone or in
combination with oral agents. Factors associated with an HbA1c ≥ 7% were older, longer duration of diabetes or
hypertension, lower eGFR, retinopathy, and treatment with insulin.
Conclusions: Metabolic control was overall unsatisfactory; therefore, it is in need of focusing on anti-
diabetic treatment in managing patents with diabetic nephropathy.
*Bộ Môn Nội, Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch ** Bệnh viện Trưng Vương
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Tuyết Hoa ĐT: 09131 56 131 Email: letuyethoa@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 163
Key words: diabetic kidney disease, glycemic control, HbA1c target.
MỞ ĐẦU
Bệnh thận mạn là biến chứng mạn tính nặng
nề của bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), xảy ra ở 40%
người ĐTĐ(3). ĐTĐ là nguyên nhân hàng đầu
gây bệnh thận giai đoạn cuối ở tất cả các quốc
gia. Bệnh thận mạn (BTM) luôn đi kèm với nguy
cơ tim mạch cao tùy vào mức độ nặng của bệnh.
Kiểm soát đường huyết (ĐH) là vấn đề chính
yếu trong dự phòng các biến chứng vi mạch của
ĐTĐ. HbA1c < 7% làm chậm tiến triển của bệnh
thận(16). Kiểm soát ĐH tích cực so với điều trị
thường qui giúp giảm sự cố mạch vành ở người
ĐTĐ qua một số nghiên cứu(15). Dù hiện tại đã có
nhiều nhóm thuốc mới, việc chọn lựa điều trị
kiểm soát ĐH ở người ĐTĐ có bệnh thận cũng
vẫn còn là thách thức nhất là phải đảm bảo
HbA1c < 7%,. Hiểu rõ việc điều trị trên thực tế và
những yếu tố liên quan đến kiểm soát kém
chuyển hóa là điều quan trọng để đánh giá khả
năng của những phác đồ điều trị. Khảo sát được
thực hiện để tìm hiểu người ĐTĐ có BTM tại BV
Quận được dùng thuốc hạ ĐH như thế nào, mức
độ đạt mục tiêu đường huyết ra sao và yếu tố đi
kèm với không kiểm soát tốt ĐH.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu - Cỡ mẫu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên những BN
ĐTĐ típ 2 có bệnh thận ĐTĐ đang điều trị ít
nhất 6 tháng tại khoa khám bệnh BV Quận 10.
Tiêu chuẩn loại trừ là có bệnh nội khoa nặng nề
khác (suy gan, tai biến mạch máu não, bệnh phổi
tắt nghẽn mạn tính, suy tim độ III-IV, bệnh ác
tính), có bệnh thận không do ĐTĐ trên lâm sàng,
ghép thận, mang thai hoặc cho con bú. Nghiên
cứu thực hiện từ tháng 10/2014 đến 06/2016. Cỡ
mẫu được tính là 80 theo công thức:
p= 0,21 là tỉ lệ đạt mục tiêu ĐH trên người ĐTĐ típ 2 có
BTM tại BV NTP(8), Z2 (1-α/2)= 1.962, d là sai số ước lượng, ở
khoảng tin cậy 94% chọn d = 0,09. Chọn mẫu liên tiếp
không xác suất.
Các tiêu chuẩn chẩn đoán
ĐTĐ được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của
ADA 2014(1). Bệnh thận ĐTĐ chẩn đoán theo
định nghĩa của KDOQI 2007, khi độ lọc cầu thận
ước tính (eGFR) < 60 ml/ph/1,73m2 (công thức
CKD-EPI) hoặc có albumin niệu lượng nhiều >
300mg/g, hoặc albumin niệu lượng trung bình >
30mg/g kèm có bệnh võng mạc đái tháo đường(7).
Tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu ≥ 140
mmHg và / hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90
mmHg (JNC VII). Đạt mục tiêu đường huyết khi
HbA1c < 7%.
Xét nghiệm
Phân tích máu, nước tiểu buổi sáng được thu
thập theo đúng qui trình chuẩn và chuyển ngay
đến phòng xét nghiệm Công ty TNHH Hòa Hảo.
Thử albumin niệu khi tình trạng lâm sàng của
BN hoàn toàn ổn định, đo tỉ số albumin/creatinin
nước tiểu buổi sáng thực hiện ít nhất 2 mẫu
trong vòng 3 tháng. Creatinin huyết tương đo 2
lần cách nhau 3-6 tháng. Đo HbA1c từ máu toàn
phần bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng
cao, báo cáo kết quả theo đơn vị NGSP (%) và
IFCC (mmol/mol). Chụp hình màu võng mạc tại
BV Mắt Phương Nam cho những BN có albumin
niệu hoặc giảm eGFR, và BS chuyên khoa võng
mạc đọc kết quả.
Phương pháp thống kê
Xác định tỉ lệ đạt mục tiêu đường huyết và
nhóm thuốc hạ ĐH. Phân tích đơn biến tìm mối
liên quan giữa các yếu tố (đặc điểm dân số học,
thời gian mắc ĐTĐ, tăng HA, eGFR, mức
albumin niệu) với việc đạt mục tiêu HbA1c.
Phân tích hồi qui logistic stepwise với biến phụ
thuộc là HbA1c trên/dưới 7% và biến độc lập là
những biến có ý nghĩa thống kê với p< 0,1 trong
phân tích đơn biến. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê khi p hai đuôi < 0.05. Xử lý và phân tích
số liệu với phần mềm Stata 10.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 164
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Có 424 BN đái tháo đường típ 2 được thu
dung, trong đó 94 BN có bệnh thận đái tháo
đường (BT-ĐTĐ) gồm 28 BN albumin niệu
lượng nhiều, 29 BN albumin niệu lượng vừa
kèm bệnh võng mạc ĐTĐ và 37 BN có eGFR < 60
ml/phút/ 1,73m2. Đặc điểm chung của 94 BN có
BTM được trình bày trong bảng 1. Nhóm BT-
ĐTĐ có tuổi già hơn, tăng HA nhiều hơn, thời
gian bệnh ĐTĐ dài hơn đến 2 năm, HbA1c cao
hơn, phải phối hợp nhiều nhóm thuốc hạ đường
huyết hoặc chỉ định insulin nhiều hơn nhóm
không có BT-ĐTĐ. HbA1c trung bình còn cao
8,4% và chỉ 27,7% người BT-ĐTĐ đạt được mục
tiêu đường huyết.
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân phân theo nhóm có và không có BT-ĐTĐ
Bệnh thận (n= 94) Không bệnh thận (n=330) P
Tuổi (năm), TB (đlc) 64,37 (8,42) 60,92 (7,68) < 0,001
Nữ, n (%) 67 (71,28) 224 (67,88) 0,53
BMI (kg/m
2
)
TB (đlc) 24,52 (3,60) 24,41 (3,50) 0,69
Thừa cân/béo phì, n (%) 63 (67,02) 206 (62,43) 0,41
Béo bụng, n (%) 66 (70,21) 229 (69,39) 0,87
Hút thuốc lá, n (%) 18 (19,15) 61 (18,48) 0,88
Tăng HA, n (%) 90 (95,74) 278 (84,24) 0,0018
Thời gian ĐTĐ
(năm)
TB (đlc) 10,23 (5,26) 8,23 (4,25) 0,003
< 10 năm 50 (53,19) 237 (71,82) < 0,001
10 – 20 năm 40 (42,55) 88 (26,67) 0,0015
20 năm 4 (4,26) 5 (1,52) 0,10
HbA1c (%)
TB (đlc) 8,41 (1,81) 7,63 (1,39) < 0,001
< 7% 26 (27,66) 140 (42,42) 0,005
7 – 8 % 16 (17,02) 85 (25,76) 0,039
>8% 52 (55,32) 105 (31,82) 0,001
Số nhóm thuốc
hạ ĐH
Số nhóm thuốc hạ ĐH 2,17 (0,79) 1,92 (0,65) 0,004
1nhóm thuốc viên, metformin /SUs 16 (17,0) 83 (25,15) 0,001
Thuốc viên phối hợp 32 (34,4) 163 (49,39) 0,01
Insulin đơn thuần / kết hợp, n (%) 46 (49,0) 84 (25,45) < 0,001
TB (đlc): trung bình (độ lệch chuẩn), SUs: nhóm
sulfonylureas.
Đặc điểm bệnh nhân không đạt mục tiêu
HbA1c
Những BN không đạt mục tiêu HbA1c (≥
7%) thì già hơn trung bình 4 tuổi, nhiều tuổi hơn,
bị ĐTĐ hoặc tăng HA nhiều năm hơn, trung
bình eGFR thấp hơn, bệnh võng mạc ĐTĐ nhiều
hơn so với nhóm đạt mục tiêu. Không khác biệt
về BMI, vòng bụng, trị số HA tâm thu lẫn tâm
trương giữa hai nhóm. Bảng 1 cho thấy có đến 46
BN (49%) phải sử dụng insulin (đơn thuần hoặc
kết hợp thuốc viên), 16 BN (17,0%) dùng chỉ một
thuốc hoặc metformin hoặc sulfonylurea, 32 BN
(34,4%) dùng phối hợp các nhóm thuốc viên đa
số vẫn là metformin và sulfonylurea (rất ít nhóm
thuốc hạ đường huyết khác được chỉ định).
Bảng 2. So sánh những khác biệt về lâm sàng và sinh hóa giữa nhóm bệnh thận mạn đạt và không đạt mục tiêu
HbA1c
Không đạt (n=68) Đạt mục tiêu (n= 26) P
Tuổi (năm) * 67,65 (6,52) 63,02 (8,76) 0,008
Tuổi ≥ 70, n (%) 36 (52,94) 8 (30,76) 0,026
BMI (kg/m
2
)* 24,48 (3,47) 24,46 (3,95) 0,98
Vòng bụng (cm) * 89,07 (8,45) 88,88 (10,17) 0,92
Thời gian tăng HA (năm)* 10,50 (6,48) 8,44 (4,18) 0,039
Thời gian ĐTĐ (năm) * 11,01 (5,54) 8,71 (4,28) 0,029
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 165
Không đạt (n=68) Đạt mục tiêu (n= 26) P
Độ lọc cầu thận (ml/ph/1,73m2) * 64,75 (18,89) 72,77 (20,54) 0,043
Tăng HA, n (%) 66 (97,06) 1 (96,15) 0,56
HA tâm thu (mmHg) * 128,23 (10,57) 127,30 (11,76) 0,72
HA tâm trương (mmHg) 76,76 (7,41) 76,92 (7,88) 0,92
Bệnh võng mạc, n (%) 54 (79,4) 10 (38,4) < 0,001
Thuốc hạ đường huyết
Insulin, n (%) 44 (64,7) 2 (7,7) < 0,001
Thuốc viên đơn trị (8,8) 10 (38,5) < 0,001
Thuốc viên phối hợp 18 (26,5) 14 (53,9) 0,005
Chỉ điều trị tiết chế 0 0
* Số liệu trình bày: trung bình (độ lệch chuẩn).
Nhóm không đạt HbA1c dùng insulin nhiều
hơn nhóm đạt; trong đó 40 BN dùng insulin kết
hợp với thuốc viên (58,8%), chỉ 4 BN insulin đơn
thuần (5,9%) (bảng 2). Có 24 BN BTM dùng
thuốc viên đạt được mục tiêu (25,5%).
Những yếu tố liên quan đến HbA1c ≥ 7%
Những biến số có ý nghĩa thống kê trong
phân tích đơn biến được đưa vào mô hình hồi
qui đa biến. Tuổi cao hơn, thời gian tăng HA
hoặc mắc ĐTĐ nhiều năm hơn, có bệnh võng
mạc, eGFR thấp hơn đi kèm với nguy cơ không
đạt mục tiêu đường huyết. Có bệnh võng mạc đi
kèm với khó đạt mục tiêu đến 37% so với không
có bệnh. Giảm eGFR mỗi 10 ml/ph/1,73m2 đi
kèm khó đạt mục tiêu 14%. Dùng thuốc viên hạ
ĐH đơn thuần đi kèm với đạt mục tiêu HbA1c
cao hơn so với dùng insulin đến 14% (p < 0,001).
Bảng 3. Phân tích đa biến xác định yếu tố đi kèm với
đạt mục tiêu HbA1c
Yếu tố OR ktc 95% p
Tuổi 0,81 0,73 - 0,92 0,038
Thời gian ĐTĐ 0,72 0,54 - 0,87 0,042
Thời gian tăng HA 0,89 0,81 - 0,96 0,036
Bệnh võng mạc ĐTĐ 0,63 0,55 - 0,78 0,012
Giảm eGFR 0,86 0,80 - 0,95 0,05
Thuốc viên hạ ĐH 1,14 1,02-1,98 < 0,001
BÀN LUẬN
Nghiên cứu đã mô tả thực tại kiểm soát ĐH
ở một dân số có BT-ĐTĐ được chăm sóc bởi BS
nội tổng quát và BS đái tháo đường. Dữ liệu
phản ảnh chất lượng chăm sóc ở tuyến quận,
không phải ở tuyến có chuyên khoa thận. HbA1c
trung bình của 94 BN BTM là 8,4% và có đến
55% có HbA1c hơn 8%. Hoàn thành mục tiêu
ĐH chỉ 27% là khá thấp. Dù nhiều nghiên cứu
cho thấy điều trị tích cực so với điều trị thường
qui không cải thiện tử vong do tim mạch hay do
mọi nguyên nhân, nhưng nguy cơ biến chứng
mạch máu nhỏ trong đó có bệnh thận ở nhóm
điều trị tích cực luôn thấp hơn nhóm điều trị
theo qui ước(4,14). Điều này đồng nghĩa cải thiện
chuyển hóa có thể làm chậm tiến triển của biến
chứng thận, và sự tiến triển của BTM đều làm
tăng nguy cơ biến chứng tim mạch và tử vong
liên quan tim mạch đã được y văn khẳng định.
Chúng tôi không tìm thấy số liệu về mức độ
hoàn thành mục tiêu điều trị ở nhóm có bệnh
thận mạn tại BV Quận nội thành khác. Nhưng
năm 2013, báo cáo từ BV Quận 1 cho thấy ở
người bệnh đái tháo đường típ 2 (633 người gồm
cả bệnh thận mạn và không bệnh thận mạn), đạt
mục tiêu HbA1c là 41,5%(11) Một nghiên cứu trên
người đái tháo đường típ 2 có bệnh thận mạn tại
phòng khám Nội Tiết BV Nguyễn Tri Phương và
Công ty trách nhiệm hữu hạn Hòa Hảo báo cáo
có 23,9% không khác so với ở nghiên cứu này,
dù rằng dân số nghiên cứu thực hiện tại hai
trung tâm chuyên sâu có đặc điểm bệnh tật có
thể phức tạp hơn(8).
So với nhóm không bệnh thận mạn, nhóm
bệnh thận đạt mục tiêu thấp hơn rõ rệt (42,42%
so với 27,7% p < 0,01). Nhóm biến chứng thận có
tuổi cao hơn, thời gian tăng huyết áp và thời gian
đái tháo đường đều dài hơn, nhiều BN tăng
huyết áp hơn, tỉ lệ bệnh võng mạc (số liệu không
báo cáo) cao hơn nhóm không biến chứng thận
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tất cả phản ảnh
bệnh ĐTĐ tiến triển, khiến kiểm soát ĐH trở nên
khó khăn. Tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương,
các chỉ số điều trị ở người không BTM cũng tốt
hơn có bệnh thận(8).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 166
Nếu so sánh với những số liệu từ các phòng
khám chuyên khoa không phân biệt bệnh thận,
sẽ hiểu thêm về chất lượng kiểm soát ĐH ở dân
số ĐTĐ. Phòng khám chuyên khoa Nội tiết tại
Hòa Hảo báo cáo 33,7% đạt mục tiêu HbA1c(5)
gần tương đương với nghiên cứu của chúng tôi.
Các kết quả này cho thấy đạt mục tiêu HbA1c
vẫn còn khó khăn trên người có bệnh thận và cả
trên người ĐTĐ chung. HbA1c chưa được kiểm
soát đồng nghĩa với khó giảm nguy cơ tiến triển
bệnh thận.
Khi xét riêng nhóm có biến chứng thận, tỉ lệ
đạt mục tiêu HbA1c thay đổi giữa các nghiên
cứu. Số liệu quản lý ĐTĐ quốc gia của Taiwan
báo cáo một tỉ lệ tương đồng (28,72%)(10), nhưng
một số tác giả khác lại cao hơn hẳn, từ 36,8%(13)
đến 56%(17). Kiểm soát HbA1c ở nghiên cứu này
kém hơn của các nước phát triển. Trong nghiên
cứu so sánh hiệu quả thuốc hạ áp cho người đái
tháo đường có bệnh thận rõ, tác giả ghi nhận
HbA1c trung bình chỉ 7,11%(6) hay trong phân
tích bệnh chứng tìm nguy cơ bệnh thận mạn,
nhóm bệnh thận có HbA1c 7,6%(18). Khác biệt về
chất lượng kiểm soát ĐH như vậy có thể do đặc
điểm của mẫu nghiên cứu (gồm tuổi, thời gian
bệnh đái tháo đường, bệnh đi kèm) hoặc chất
lượng chuyên môn. Nghiên cứu này đạt mục
tiêu ĐH thấp phần lớn do tuổi BN cao, thời gian
bệnh đái tháo đường quá nhiều năm, nhiều biến
chứng mạch máu nhỏ của đái tháo đường như
bệnh võng mạc. Thực tế ghi nhận bác sĩ điều trị
có thể chủ ý chọn mục tiêu HbA1c cao hơn 7%
(mục tiêu cá thể hóa) cho một số BN đặc biệt là
người cao tuổi, có thời gian bệnh dài, từng hạ
đường huyết nhiều lần, hoặc mắc bệnh tim mạch
đáng kể.
49% BN dùng insulin mà HbA1c vẫn còn
cao, cho thấy ở người ĐH chưa ổn định hoặc đã
có bệnh thận tiến triển, insulin được chỉ định là
phù hợp. Thiết kế nghiên cứu không thể làm rõ
quan hệ nhân quả giữa sử dụng insulin và
không đạt mục tiêu. Và 48 BN (51%) dùng thuốc
viên (17% đơn trị, 34% kết hợp) vẫn có 24 BN
(25,5%) đạt được mục tiêu. Điều này chỉ ra thuốc
viên (chủ yếu là nhóm sulfonyurea, metformin)
vẫn có thể hiệu quả để kiểm soát ĐH ở một số
BN BT-ĐTĐ. Có nhiều yếu tố đi kèm với không
đạt mục tiêu HbA1c như: tuổi cao hơn, thời gian
bệnh đái tháo đường hoặc tăng huyết áp dài
hơn, không giảm độ lọc cầu thận ước tính so với
có giảm độ lọc cầu thận, bệnh võng mạc và dùng
insulin. Rất nhiều nghiên cứu đã ủng hộ kết quả
thời gian bệnh ĐTĐ dài đi kèm với khó kiểm
soát ĐH. Tác giả Huỳnh Thị Bích Ngọc báo cáo
trên 150 người ĐTĐ típ 2 tại BV Nguyễn Trãi cho
thấy BMI tăng hoặc vòng bụng to đi kèm với khó
đạt mục tiêu lipid lẫn kiểm soát ĐH qua phân
tích đơn biến (OR= 4, 1,14-13,97, p= 0.029)(9).
Nghiên cứu đa trung tâm do Hội Nội tiết và Đái
tháo đường Việt Nam thực hiện trên dân số ĐTĐ
không phân biệt có BTM cũng ghi nhận thừa cân
liên quan đến kiểm soát đường huyết kém(12).
Nhưng nghiên cứu này không ghi nhận thừa cân
có liên quan với khó kiểm soát HbA1c từ phân
tích đơn biến. Tuổi tác cũng đi kèm với khó đạt
mục tiêu đường huyết. Báo cáo hồi cứu trên 600
BN ĐTĐ tại phòng khám chuyên khoa cho thấy
tăng mỗi 1 tuổi đi kèm giảm 2% khả năng đạt
mục tiêu HbA1c(5). Bất kể có hay chưa có BTM,
người nhiều tuổi thường khó đạt mục tiêu
HbA1c hơn, một phần vì kiểm soát ĐH được
khuyên không quá chặt chẽ ở người có tuổi
không hoàn toàn khỏe mạnh. Mắc ĐTĐ nhiều
năm thường khó giữ HbA1c < 7% hơn người
mới bệnh. Kết quả này tương đồng với báo cáo
từ 56 trung tâm đái tháo đường tỉnh Jiangsu
(Trung Quốc, 2009)(19). Nghiên cứu tại BV
Nguyễn Tri Phương ủng hộ người có albumin
niệu nhưng chưa giảm eGFR kiểm soát ĐH tốt
hơn người giảm eGFR(8). Biến chứng võng mạc
nhiều hơn đi kèm với khó đạt mục tiêu HbA1c.
Dù mô hình đa biến đã hiệu chỉnh với yếu tố
eGFR nhưng bệnh võng mạc vẫn có liên quan
độc lập với không đạt mục tiêu HbA1c. Một
nghiên cứu theo dõi sẽ giúp hiểu rõ mối liên hệ
nhân quả này. Chích insulin đi kèm với tăng cao
HbA1c, tăng tử vong và xu hướng bị sự cố mạch
máu lớn từng được báo cáo trong một nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 167
cứu đoàn hệ hồi cứu(2). Nghiên cứu này cho thấy
insulin đi kèm với khó đạt mục tiêu, điều này chỉ
phản ánh ĐH cao cần chích insulin mà thôi.
Ưu điểm của đề tài là xác định người ĐTĐ có
biến chứng thận trên lâm sàng theo đúng tiêu
chuẩn của Hội Thận Học Hoa Kỳ; lại là nghiên
cứu cắt ngang đảm bảo lấy đủ và chính xác các
dữ liệu. Nhưng hạn chế của đề tài là chưa phân
tích đặc điểm của BN theo các nhóm thuốc hạ
ĐH đang sử dụng cũng không phân tích sự liên
quan giữa những nhóm thuốc với HbA1c.
Không có thông tin về thời gian điều trị để giúp
hiểu tại sao BN được chỉ định các thuốc này.
KẾT LUẬN
Đã có rất nhiều tiến bộ trong 20 năm qua
trong nhận thức của cộng đồng đái tháo đường
và các giải pháp điều trị, nhưng nhiều bệnh
nhân vẫn phát triển bệnh thận mạn và danh sách
bệnh nhân có chỉ định lọc máu cứ dài thêm. Tỉ lệ
kiểm soát đường huyết đạt mục tiêu trên người
ĐTĐ típ 2 có biến chứng thận tại BV Quận chỉ
27,7%, có thể góp phần ảnh hưởng đến kết cục
thận. Điều này chỉ ra sự cấp thiết phải nâng chất
lượng kiểm soát ĐH để dự phòng tiến triển bệnh
thận. Trong các yếu tố có liên quan đến việc
không đạt được mục tiêu, sử dụng các thuốc hạ
ĐH đóng vai trò chính yếu và là yếu tố duy nhất
có thể thay đồi được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Diabetes Association (2014). “Standards of Medical
Care in Diabetes – 2014”. Diabetes Care 37, Suppl. 1
2. Currie CJ, Peters JR, Tynan A (2010). Survival as a function of
HbA1c in people with type 2 diabetes: a retrospective cohort
study. Lancet 375:481-9
3. de Boer IH, Rue TC, Hall YN (2011). Temporal Trends in the
Prevalence of Diabetic Kidney Disease in the United States.
JAMA, 305:2532-39
4. Hemmingsen B, Lund SS, Gluud S (2013). Targeting intensive
glycemic control versus targeting conventional glycemic
control for type 2 diabetes mellitus. Cochrane Database Syst
Rev:11CD008143
5. Hứa Thành Nhân (2013). Tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1c và một số
yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 tại một
phòng khám chuyên khoa nội tiết. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ
nội trú, Đại Học Y Dược TP HCM
6. Imai E, Chan JCN, Yamasaki T (2011). Effects of olmesartan on
renal and cardiovascular outcomes in type 2 diabetes with
overt nephropathy: a multicenter randomized, placebo-
controlled study. Diabetologia 54:2978-86
7. KDOQI 2007 (2007). National Kidney Foundation: Kidney
Disease Outcomes Quality Initiative. Clinical Practice
Guidelines and Clinical Practice Recommendations for
Diabetes and Chronic Kidney Disease. American Journal of
Kidney Diseases, 49(suppl 2):S42
8. Lê Tuyết Hoa (2014). Khảo sát tỉ lệ đạt mục tiêu đường huyết
và huyết áp ở người đái tháo đường típ 2 có bệnh thận mạn. Y
Học Thực hành Bộ Y Tế, sô 10(938):49-53
9. Lê Tuyết Hoa, Huỳnh Thị Bích Ngọc (2015). Khảo sát chất
lượng kiểm soát đa yếu tố ở người đái tháo đường típ 2 có
nguy cơ tim mạch nhập Bệnh Viện Nguyễn Trãi. Y học TP Hồ
Chí Minh, tập 19* số 3*:232-239
10. Li-Na Liao, Chia-Ing Li, Chiu-Shong Liu (2015). Extreme levels
of HbA1c increase incident ESRD risk in Chinese patients with
type 2 diabetes: completing risk analysis in national cohort of
Taiwan Diabetes Study. PLOS ONE 19(6):1-12
11. Nguyễn Khánh Ly, Nguyễn Thị Bích Đào (2014) Khảo sát tỉ lệ
bệnh nhân đạt mục tiêu kiểm soát đa yếu tố nguy cơ tim mạch
ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh
viện tuyến quận. Y Học TP Hồ Chí Minh* Tập 18*(4*):44-52
12. Nguyễn Thy Khuê (2013). “Khảo sát tình trạng kiểm soát
đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2: Nghiên cứu đa
trung tâm”. Hội y học TP. HCM, hội nghị lần 2_2013.
13. Penfornis A, Blicklé JF, Fiquet B (2014). How are patients with
type 2 diabetes and renal disease monitored and managed ?
Insights from the observational OReDia Study. Vascular Health
and Risk Management 10:341-352
14. Perkovic V, Heerspink H, Chalmers J (2013). Intensive glucose
control improves kidney outcomes in patients with type 2
diabetes. Kidney Int 83:517-23
15. Ray KK, Seshasai SR, Wijesuriya S (2009). Effect of intensive
control of glucose on cardiovascular outcomes and death in
patients with diabetes mellitus: a meta-analysis of randomized
controlled trials. Lancet 373:1765–72
16. UK Prospective Diabetes Study (UKPDS) Group (1998).
Intensive blood-glucose control with sulphonylureas or insulin
compared with conventional treatment and risk of
complications in patients with type 2 diabetes (UKPDS 33).
Lancet 352:837–53
17. Vinagre I (2009). Control of glycemia and cardiovascular risk
factors in patients with typ2 2 diabetes in primary care in
Catalonia (Spain). Diabetes Care 35(4):774-9
18. Wang J, Leung R KK (2013). Using a multi-staged strategy
based on machine learning and mathematical modeling to
predict genotype-phenotype risk patterns in diabetic kidney
disease: a prospective case-control cohort analysis, BMC
Nephrology 162(14):1-9
19. Yan Bi (2010). “The status of glycemic control: a cross-sectional
study of outpatients with type 2 diabetes mellitus across
primary, secondary, and tertiary hospitals in the Jiangsu
province of China”. Clinical Therapeutics 32:973–983
Ngày nhận bài báo: 03/02/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_kiem_soat_duong_huyet_o_nguoi_dai_thao_duong_tip.pdf