Tài liệu Chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng methadone: Mô tả tại một thời điểm: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 150
CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ
THAY THẾ CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG METHADONE:
MÔ TẢ TẠI MỘT THỜI ĐIỂM
Ngô Lê Quế Trâm*, Lê Huy Thành**, Lê Minh Thuận**
TÓM TẮT
Bối cảnh: Chất lượng giấc ngủ là sự hài lòng của một người sau khi trải qua giấc ngủ, được đánh giá
qua nhiều khía cạnh như việc bắt đầu ngủ, duy trì giấc ngủ, thời gian ngủ và tình trạng sức khỏe khi thức
giấc. Chất lượng giấc ngủ kém sẽ làm cho người ta cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ, sức khỏe về thể chất và
tinh thần không được hồi phục. Đối với bệnh nhân nghiện các chất dạng thuốc phiện, giấc ngủ ảnh hưởng
rất nhiều đến quá trình phục hồi sức khỏe và tình trạng tái sử dụng chất.
Mục đích: Xác định tỉ lệ bệnh nhân đang điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone
tại tỉnh Long An có chất lượng giấc ngủ kém và các yếu tố liên quan.
Phương pháp: Mô tả tại một thời...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 176 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng methadone: Mô tả tại một thời điểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 150
CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ
THAY THẾ CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG METHADONE:
MÔ TẢ TẠI MỘT THỜI ĐIỂM
Ngô Lê Quế Trâm*, Lê Huy Thành**, Lê Minh Thuận**
TÓM TẮT
Bối cảnh: Chất lượng giấc ngủ là sự hài lòng của một người sau khi trải qua giấc ngủ, được đánh giá
qua nhiều khía cạnh như việc bắt đầu ngủ, duy trì giấc ngủ, thời gian ngủ và tình trạng sức khỏe khi thức
giấc. Chất lượng giấc ngủ kém sẽ làm cho người ta cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ, sức khỏe về thể chất và
tinh thần không được hồi phục. Đối với bệnh nhân nghiện các chất dạng thuốc phiện, giấc ngủ ảnh hưởng
rất nhiều đến quá trình phục hồi sức khỏe và tình trạng tái sử dụng chất.
Mục đích: Xác định tỉ lệ bệnh nhân đang điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone
tại tỉnh Long An có chất lượng giấc ngủ kém và các yếu tố liên quan.
Phương pháp: Mô tả tại một thời điểm, trên 188 bệnh nhân điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện
bằng Methadone tại tỉnh Long An năm 2017. Nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu tỉ lệ theo cụm và
lấy mẫu bằng phương pháp phỏng vấn mặt đối mặt dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn. Chất lượng giấc ngủ,
stress, trầm cảm, lo âu và mức độ nghiện thuốc lá của bệnh nhân được xác định dựa vào thang đo PSQI,
DASS-21 và Fagerstrom.
Kết quả: Trong vòng 1 tháng trước thời điểm nghiên cứu, tỉ lệ bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ kém
là 40,4% dao động trong khoảng tin cậy 95% từ 33,4% đến 47,4%. Trong mô hình hồi quy đa biến logistic
cho thấy bệnh nhân có liều Methadone (>100 mg/ngày), bị lo âu và có mức độ nghiện thuốc lá vừa/nặng có
nhiều khả năng có chất lượng giấc ngủ kém hơn.
Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ kém trong nghiên cứu của chúng tôi cao nhưng thấp
hơn so với các nghiên cứu khác (40,4%). Từ kết quả nghiên cứu, các cơ sở điều trị Methadone cần chú
trọng việc đánh giá CLGN của bệnh nhân khi bắt đầu tham gia chương trình và trong suốt quá trình điều
trị.
Từ khóa: chất lượng giấc ngủ, điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone.
ABSTRACT
SLEEP QUALITY AMONG PATIENT ON METHADONE MAINTENANCE THERAPY CROSS
SECTIONAL STUDY
Ngo Le Que Tram, Le Huy Thanh, Le Minh Thuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 150 - 158
Background: Sleep quality is the satisfaction of the patient after sleep, which is assessed through
several aspects such as sleep initiation, sleep maintenance, sleep quantity, and refreshment upon awakening.
Sleep quality will make people feel tired, sleepy, physically and mentally unstable. For opiate addicts, sleep
greatly affects the recovery process and reuse.
Objectives: Determining the incidence of methadone maintenance treatment patient in Long An
province has poor sleep quality and related factors.
*CN Y tế công cộng 2013-2017, **Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: CN Ngô Lê Quế Trâm ĐT: 0939803747 Email: ngolequetram@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 151
Methods: A cross-sectional study, in 188 methadone maintenance treatment patient in Long An
province in 2017. The study utilized clonal sampling and sampling using face-to-face interviews based on a
set of questionnaires. Sleep quality, stress, depression, anxiety, and smoking dependence were determined
using PSQI, DASS-21 and Fagerstrom scales.
Results: In the 1 month before the study, the percentage of patients with poor sleep quality was 40.4%
(95% CI: 33.4% to 47.4%). In the multiple logistic regression model, patients with a methadone dose (>100
mg/day), anxiety, and moderate/severe cigarette smoking were more likely to have poorer sleep quality.
Conclusions: The percentage of patients with poor sleep quality in our study was high but lower than
in other studies (40.4%). Based on the results of the study, methadone treatment facilities need to focus on
assessing the quality of sleep of patients at the beginning of the program and throughout the course of
treatment.
Key words: Sleep quality, Methadone maintenance therapy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng giấc ngủ (CLGN) là sự hài lòng
của một người sau khi trải qua giấc ngủ, được
đánh giá qua nhiều khía cạnh như việc bắt
đầu ngủ, duy trì giấc ngủ, thời gian ngủ và
tình trạng sức khỏe khi thức giấc(6). Chất lượng
giấc ngủ kém sẽ làm người ta cảm thấy mệt
mỏi, buồn ngủ, sức khỏe về thể chất và tinh
thần không được hồi phục. Đối với bệnh nhân
nghiện các chất dạng thuốc phiện, giấc ngủ
ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình phục hồi
sức khỏe và tình trạng tái sử dụng chất(4,5,13).
Sử dụng chất ảnh hưởng rất nhiều đến sức
khỏe của người sử dụng và gây ra những hậu
quả nghiêm trọng. Người nghiện thường gặp
những vấn đề sức khỏe như rối loạn giấc ngủ,
HIV, viêm gan C, viêm gan B hay một số vấn
đề về sức khỏe tâm thần như stress, trầm cảm,
lo âu(15). Tháng 6/2016 tại tỉnh Long An có
1.148 người nghiện ma túy được quản lý.
Trong đó, có 721 người đang điều trị
Methadone trên toàn tỉnh. Hiện tỉnh đã thành
lập được 4 cơ sở điều trị Methadone với 2 cơ
sở đầu tiên được thành lập từ tháng 9 năm
2013 ở Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh
Long An và Bệnh viện đa khoa khu vực
(BVĐK KV) Hậu Nghĩa. Hai cơ sở còn lại ở
BVĐK KV Cần Giuộc và Trung tâm y tế
(TTYT) huyện Bến Lức. Để thuận tiện cho việc
tham gia điều trị của bệnh nhân thì tỉnh đang
tiến hành mở rộng chương trình. Mặc dù, tỉnh
cũng đã tiến hành một số nghiên cứu để đánh
giá tình trạng sức khỏe cũng như hiệu quả
điều trị của chương trình(7, 8) tuy nhiên cho đến
thời điểm hiện tại chúng tôi chưa tìm thấy
nghiên cứu nào được thực hiện ở đây để đánh
giá tình trạng giấc ngủ của bệnh nhân trên
toàn tỉnh. Chính vì những lý do đó chúng tôi
tiến hành nghiên cứu “Chất lượng giấc ngủ ở
bệnh nhân điều trị thay thế các chất dạng
thuốc phiện bằng metahdone tại tỉnh Long
An”.
Câu hỏi nghiên cứu: Tỉ lệ bệnh nhân đang
điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện
bằng Methadone có chất lượng giấc ngủ kém
là bao nhiêu? Có mối liên quan giữa chất
lượng giấc ngủ kém của bệnh nhân với các
yếu tố (1) đặc điểm về dân số - kinh tế - xã hội; (2)
tình trạng sử dụng các chất gây nghiện; (3) tình
trạng sức khỏe tâm thần; (4) quá trình điều trị
Methadone hay không?
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả tại một thời điểm tại 4 cơ sở điều trị
Methadone tỉnh Long An năm 2017.
Đối tượng – Cỡ mẫu
Bệnh nhân đang điều trị thay thế các chất
dạng thuốc phiện bằng Methadone ở tỉnh trên
3 tháng và đang ở giai đoạn duy trì trong thời
gian lấy mẫu. Chọn α = 0,05 (xác xuất sai lầm
loại I), d = 0,07 (sai số biên cần ước lượng),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 152
chọn p = 0,602 (trị số mong muốn của tỉ lệ) do
tương đồng về mục tiêu, đối tượng và phương
pháp nghiên cứu(14). Cỡ mẫu n 188 (bệnh
nhân). Sử dụng phương pháp lấy mẫu tỉ lệ
theo cụm trên tổng số 608 bệnh nhân đang
điều trị tại 4 cơ sở, sau khi loại những đối
tượng không thỏa tiêu chí chọn mẫu chúng tôi
có 553 bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu. Dựa
vào cỡ mẫu của nghiên cứu và số bệnh nhân
thỏa tiêu chí chọn mẫu tại mỗi cơ sở chúng tôi
có số bệnh nhân cần lấy tại mỗi cơ sở. Sau đó,
chúng tôi lấy mẫu thuận tiện cho tới khi đủ số
mẫu tại mỗi cơ sở. Để tránh trùng lắp vào
những ngày sau các đối tượng sẽ được đối
chiếu số thẻ với danh sách bệnh nhân.
Tiêu chí chọn vào
Những bệnh nhân đang điều trị tại phòng
khám Methadone trên 3 tháng đã vào giai
đoạn duy trì trong thời gian thực hiện và đồng
ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại ra: Những
bệnh nhân không đủ khả năng trả lời phỏng
vấn như bị các khiếm khuyết về mặt ngôn ngữ
như câm, điếc, nói ngọng hoặc không tỉnh táo
lúc trả lời phỏng vấn.
Thang đo
Chất lượng giấc ngủ, stress, trầm cảm, lo
âu và mức độ nghiện thuốc lá của bệnh nhân
được xác định dựa vào thang đo PSQI, DASS-
21 và Fagerstrom. Thang đo PSQI dùng để đo
lường chất lượng giấc ngủ và các rối loạn giấc
ngủ xảy ra trong vòng 1 tháng gần nhất được
phát triển bởi Daniel J. Buysse và cộng sự
(1989). Thang đo bao gồm 19 mục với 7 thành
phần tổng điểm của thang đo sẽ dao động từ 0
đến 21 điểm. Trong đó, tổng điểm của thang
đo PSQI ≤ 5 tương ứng với chất lượng giấc
ngủ bình thường và PSQI > 5 tương ứng với
chất lượng giấc ngủ kém với độ nhạy 89,6% và
độ đặc hiệu 86,5%(2).
Phân tích toán thống kê
Dữ liệu được mã hóa và nhập liệu bằng
phần mềm Epidata. Phân tích dữ liệu bằng
phần mềm Stata 13.0; R 3.1.1. Sử dụng kiểm
định chi bình phương hoặc kiểm định chính
xác Fisher (nếu trên 20% tổng số các ô vọng trị
<5 hoặc có ô vọng trị nhỏ hơn 1) để tìm liên
quan giữa CLGN với các yếu tố. Mối liên quan
được ước lượng bằng tỉ số số chênh OR với
KTC 95%. Dùng mô hình hồi quy đa biến
logistic để khử nhiễu. Sử dụng các Package
meta và metafor để phân tích tổng hợp (Meta
– analysis).
KẾT QUẢ
Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân
Bảng 1. Chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân đang
điều trị Methadone (n=188)
Chất lượng
giấc ngủ
Số trường
hợp
Tỉ lệ (%) Khoảng tin cậy
95%
Kém 76 40,4 33,4 – 47,4
Bình thường 112 59,6 52,6 – 66,6
Các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc
ngủ
Bảng 2. Mối liên quan giữa CLGN với các đặc
điểm dân số - kinh tế - xã hội (n=188)
Đặc điểm Chất lượng giấc
ngủ
Giá trị
p
OR
KTC 95%
Kém (%) Bình
thường(%)
Tuổi
< 30 tuổi 32 (36,4) 56 (63,6) 1
≥ 30 tuổi 44 (44,0) 56 (56,0) 0,287 1,38 (0,73–2,58)
Giới tính
Nữ 3 (60) 2 (40) 1
Nam 73 (39,9) 110 (60,1) 0,395* 0,44 (0,04–3,98)
Trình độ học vấn
Dưới THCS 17 (48,6) 18 (51,4) - 1
THCS 40 (39,6) 61 (60,4) 0,355 0,69 (0,32–1,50)
THPT trở lên 19 (36,5) 33 (63,5) 0,265 0,61 (0,26–1,46)
Tình trạng hôn nhân
Độc thân 30 (34,1) 58 (65,9) - 1
Có
vợ/chồng/bạn
tình
44 (48,9) 46 (51,1) 0,046 1,85 (1,01–3,38)
Ly hôn/ly thân 2 (20) 8 (80) 0,376 0,48 (0,10–2,42)
Tình trạng công việc
Có 51 (39,8) 77 (60,2) 1
Không 25 (41,7) 35 (58,3) 0,812 1,08 (0,55–2,10)
Sự hỗ trợ
Có 13 (39,4) 20 (60,6) 1
Không 63 (40,7) 92 (59,4) 0,894 1,05 (0,46–2,48)
Tình trạng kinh tế (n=168)
Khó khăn 30 (36,1) 53 (63,9) 1
Khá giả 39 (45,9) 46 (54,1) 0,200 1,50 (0,77–2,92)
* Kiểm định chính xác Fisher
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 153
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa CLGN kém với các yếu tố như
nhóm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân, tình trạng công việc, sự hỗ trợ
và tình trạng kinh tế của bệnh nhân (p > 0,05).
Bảng 3. Mối liên quan giữa CLGN với tình trạng
sử dụng các chất gây nghiện (n=188)
Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị
p
OR
KTC 95% Kém (%) Bình
thường (%)
Thời gian sử dụng Heroin
< 5 năm 30 (38,5) 48 (61,5) - 1
5 - 10 năm 31 (40,3) 46 (59,7) 0,819 1,08
(0,57–2,05)
> 10 năm 15 (45,5) 18 (54,6) 0,493 1,33
(0,59–3,04)
Số loại chất gây nghiện từng sử dụng
1 loại 2 (28,6) 5 (71,4) -* 1
2 loại 41 (36,6) 71 (63,4) 0,669 1,44
(0,27–7,78)
≥ 3 loại 33 (47,8) 36 (52,2) 0,341 2,29
(0,42-12,63)
Hiện còn sử dụng Heroin
Có 4 (44,4) 5 (55,6) 1
Không 72 (40,2) 107 (59,8) 1,000* 0,84
(0,17–4,39)
Số loại chất gây nghiện hiện đang sử dụng
≤ 1 loại 58 (39,2) 90 (60,8) 1
≥ 2 loại 18(45,0) 22 (55,0) 0,506 1,27
(0,59–2,72)
Mức độ nghiện thuốc lá
Không nghiện
/ nghiện nhẹ
25 (31,3) 55 (68,8) 1
Nghiện vừa /
nặng
51 (47,2) 57 (52,8) 0,027 1,97
(1,03 – 3,78)
* Kiểm định chính xác Fisher
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa CLGN kém với các yếu tố thời
gian sử dụng Heroin, số loại chất gây nghiện
từng sử dụng, tình trạng sử dụng Heroin hiện
tại, số loại chất gây nghiện đang sử dụng của
bệnh nhân (p > 0,05). Tuy nhiên, chúng tôi tìm
thấy sự khác biệt về tỉ lệ CLGN kém giữa
nhóm có mức độ nghiện thuốc lá vừa hoặc
nặng với mức độ không nghiện hoặc nghiện
nhẹ (p = 0,027).
Bảng 4. Mối liên quan giữa CLGN với loại chất
gây nghiện từng sử dụng (n = 188)
Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị
p
OR
KTC 95% Kém (%) Bình thường
(%)
Thuốc lá
Có 74 (41,1) 106 (58,9) 1
Không 2 (25,0) 6 (75,0) 0,477
*
0,48
(0,05–2,78)
Rượu, bia
Có 21 (45,7) 25 (54,4) 1
Không 55 (38,7) 87 (61,3) 0,406 0,75
(0,37–1,56)
Ma túy đá
Có 13 (46,4) 15 (53,6) 1
Không 63 (39,4) 97 (60,6) 0,483 0,75
(0,31–1,84)
* Kiểm định chính xác Fisher
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa chất lượng giấc ngủ kém với các
chất gây nghiện mà bệnh nhân từng sử dụng
như thuốc lá, rượu bia và ma túy (p > 0,05).
Bảng 5. Mối liên quan giữa CLGN với loại chất
gây nghiện đang sử dụng (n=188)
Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị
p
OR
KTC 95% Kém
(%)
Bình thường
(%)
Thuốc lá
Có 75(41,2) 107 (58,8) 1
Không 1 (16,7) 5 (83,3) 0,404* 0,29
(0,006–2,64)
Rượu, bia
Có 12(41,4) 17 (58,6) 1
Không 64(40,3) 95 (59,8) 0,909 0,95
(0,40 – 2,35)
Thuốc ngủ, an thần (Benzodiazipine)
Có 3 (75,0) 1(25,0) 1
Không 73(39,7) 111(60,3) 0,305* 0,22
(0,004–2,81)
*Kiểm định chính xác Fisher
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa CLGN kém với các loại chất gây
nghiện mà bệnh nhân hiện đang sử dụng như
thuốc lá; rượu, bia; thuốc ngủ, thuốc an thần
(Benzodiazepine) (p > 0,05).
Bảng 6. Mối liên quan giữa CLGN với tình trạng
sức khỏe tâm thần (n = 188)
Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị
p
OR
KTC 95% Kém (%) Bình thường
(%)
Stress
Có 11 (84,6) 2 (15,4) 1
Không 65 (37,1) 110 (62,9) 0,001 0,11
(0,01 – 0,52)
Trầm cảm
Có 11 (78,6) 3 (21,4) 1
Không 65 (37,4) 109 (62,6) 0,003 0,16
(0,03 – 0,65)
Lo âu
Có 25 (62,5) 15 (37,5) 1
Không 51 (34,5) 97 (65,5) 0,001 0,32
(0,14 – 0,69)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 154
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tìm thấy
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa CLGN
kém với tình trạng stress, trầm cảm, lo âu của
đối tượng (p < 0,05).
Bảng 7. Mối liên quan giữa CLGN với quá trình
điều trị Methadone (n = 188)
Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị
p
OR
KTC 95%
Kém
(%)
Bình thường
(%)
Thời gian tham gia điều trị
< 12 tháng 7 (30,4) 16(69,6) - 1
12 – 24 tháng 46
(43,0)
61(57,0) 0,270 1,72
(0,66–4,53)
> 24 tháng 23(39,7) 35(60,3) 0,440 1,50
(0,54–4,22)
Liều Methadone
≤ 100
mg/ngày
45(33,8) 88 (66,2) 1
> 100
mg/ngày
31(56,4) 24 (43,6) 0,004 2,53
(1,26–5,06)
Tuân thủ điều trị
Có 59(41,5) 83 (58,5) 1
Không 17(37,0) 29 (63,0) 0,581 0,82
(0,39–1,72)
Tác dụng phụ
Có 24(49,0) 25 (51,0) 1
Không 52(37,4) 87 (62,6) 0,156 0,62
(0,31–1,27)
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa CLGN kém với các yếu tố thời
gian tham gia điều trị Methadone, tuân thủ
điều trị và tác dụng phụ (p > 0,05). Tuy nhiên,
chúng tôi tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa CLGN kém với liều Methadone
của đối tượng (p = 0,004).
Phân tích đa biến
Bảng 8. Mô hình hồi quy đa biến logistic
Đặc điểm Giá trị
p
OR
KTC 95%
Liều Methadone (> 100
mg/ngày)
0,005 2,68
(1,35 – 5,34)
Trầm cảm (có) 0,057 4,10
(0,96 – 17,52)
Lo âu (có) 0,008 3,00
(1,34 – 6,70)
Mức độ nghiện thuốc lá (nghiện
vừa/nặng)
0,018 2,20
(1,14 – 4,25)
Sau khi khử nhiễu bằng mô hình hồi quy
đa biến Logistic thì chỉ còn 3 yếu tố có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê với CLGN kém của
bệnh nhân là liều Methadone, lo âu và mức độ
nghiện thuốc lá (p<0,05).
BÀN LUẬN
Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỉ
lệ bệnh nhân có CLGN kém là 40,4% (KTC
95%: 33,4% - 47,4%) (Bảng 1). Trong mô hình
phân tích gộp (Meta – analysis) về tỉ lệ CLGN
kém ở bệnh nhân đang điều trị thay thế các
chất dạng thuốc phiện bằng Methadone giữa
các nghiên cứu trong nước và trên thế giới.
Theo kết quả phân tích thì tỉ lệ bệnh nhân có
CLGN kém trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn so với các nghiên cứu khác với tỉ lệ
trung bình là 62,4% (KTC 95%: 59% - 65,7%).
Trọng số trong nghiên cứu của chúng tôi theo
mô hình bất biến hay biến thiên điều cao hơn
các nghiên cứu khác cho thấy nghiên cứu
chúng tôi có tính tin cậy cao (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Biểu đồ phân tích tổng hợp (meta-analysis) về tỉ lệ CLGN kém ở bệnh nhân đang điều trị thay
thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone giữa các nghiên cứu trong nước và trên thế giới.
* Ghi chú: Weight (fixed): Trọng số của mô hình ảnh hưởng bất biến; Weight (random): Trọng số của mô hình ảnh
hưởng biến thiên.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 155
Liên quan giữa CLGN với các đặc điểm dân
số - xã hội
Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan
giữa tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân, tình trạng công việc, tình
trạng kinh tế, sự hỗ trợ và CLGN kém (bảng
2). Các nghiên cứu khác trên bệnh nhân đang
điều trị Methadone cũng chưa tìm thấy mối
liên quan giữa các yếu tố trên và CLGN. Ngoại
trừ, nghiên cứu của Trần Thị Phương Nga
(2016) cho thấy có mối liên quan giữa tình
trạng kinh tế (p = 0,0013), mức độ hài lòng về
kinh tế (p = 0,0197) với điểm số CLGN của
bệnh nhân. Điểm CLGN sẽ tăng dần ở những
bệnh nhân có tình trạng kinh tế khó khăn và
không hài lòng với tình trạng kinh tế của
mình(14). Hay của Hsu (2012) thì có sự khác biệt
giữa trình độ học vấn và điểm CLGN (p =
0,049). Bệnh nhân có trình độ học vấn trung
học phổ thông có điểm CLGN cao hơn bệnh
nhân có trình độ học vấn tiểu học(4). Sự khác
biệt này có thể là do đặc điểm mẫu của các nơi
nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu của Zahari
(2016) những bệnh nhân có thu nhập dưới
1000 (Ringgit - đơn vị tiền tệ Malaysia) thì sẽ
có điểm CLGN cao hơn những người có thu
nhập trên 1000 (Ringgit) (p = 0,005)(16). Tuy
nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm ra
mối liên quan này là do một số đối tượng
không trả lời câu hỏi này.
Liên quan giữa CLGN với tình trạng sử dụng
các chất gây nghiện
Chúng tôi cũng chưa tìm thấy mối liên
quan giữa tình trạng sử dụng các chất gây
nghiện với CLGN kém (Bảng 3; 4; 5). Tuy
nhiên, theo các nghiên cứu khác thì những yếu
tố này có liên quan đến CLGN. Cụ thể, nghiên
cứu của Trần Thị Phương Nga (2016)(14) những
người từng sử dụng cần sa có điểm CLGN cao
hơn những người không sử dụng (p = 0,0042).
Hay những bệnh nhân sử dụng từ 3 loại ma
túy trở lên sẽ có điểm CLGN cao hơn những
bệnh nhân chỉ sử dụng 1 đến 2 loại ma túy
(p=0,0142)(14). Tuy nhiên, nghiên cứu chúng tôi
chưa tìm thấy các mối liên quan này do tỉ lệ
bệnh nhân sử dụng cần sa trong nghiên cứu
của chúng tôi rất thấp chỉ 1,1%.
Trong nghiên cứu của Zahari (2016) những
người có tuổi lần đầu sử dụng ma túy hay các
CDTP dưới 20 tuổi sẽ có điểm CLGN cao hơn
những người sử dụng ma túy hay các CDTP
lần đầu trên 20 tuổi (p = 0,0013 và p = 0,001).
Hay những bệnh nhân có thời gian tiếp xúc
với các CDTP hoặc nghiện các CDTP trên 10
năm sẽ có điểm CLGN cao hơn (p = 0,027 và p
= 0,022)(16). Nhưng chúng tôi chưa tìm thấy mối
liên quan giữa tuổi lần đầu sử dụng ma túy
hay các CDTP, cũng như thời gian nghiện các
CDTP với CLGN kém. Điều này là do thời
gian nghiện heroin của bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi ngắn.
Tương tự nghiên cứu của Peles (2006) thì
những bệnh nhân sử dụng thuốc ngủ sẽ có
điểm số CLGN cao hơn những bệnh nhân
không sử dụng thuốc ngủ (p=0,005). Hay
những bệnh nhân sử dụng ma túy đá cũng sẽ
có điểm CLGN cao hơn những bệnh nhân
không sử dụng (p=0,02). Nghiên cứu của Peles
(2009) đánh giá tình trạng giấc ngủ sâu hơn ở
2 nhóm có sử dụng thuốc ngủ và không sử
dụng thuốc ngủ với điểm CLGN cũng cho
thấy mối liên quan tương tự như vậy
(p=0,01)(11). Nhưng trong nghiên cứu của
chúng tôi tỉ lệ bệnh nhân sử dụng thuốc ngủ
và ma túy đá rất thấp với tỉ lệ lần lượt là 2,1%
và 14,9% nên chưa tìm thấy các mối liên quan
này.
Chúng tôi cũng tìm thấy mối liên quan
giữa CLGN kém với các nhóm có mức độ
nghiện thuốc lá khác nhau. Nhóm bệnh nhân
có mức độ nghiện thuốc lá vừa hoặc nặng sẽ
có tỉ lệ CLGN kém cao hơn nhóm không
nghiện hoặc nghiện nhẹ (OR = 1,97 trong KTC
95% từ 1,03 - 3,78 (p = 0,03)) (Bảng 4). Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Stien ở Mỹ
(2004)(13), nhiều nghiên cứu cho thấy hút thuốc
lá là một thói quen phổ biến ở những người sử
dụng các CDTP trong chương trình điều trị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 156
Methadone(3). Sự ảnh hưởng của mức độ
nghiện thuốc lá với CLGN có thể giải thích bởi
những lý do sau. Khi nồng độ Nicotine trong
máu thấp có thể gây ra sự an thần nhẹ nên
bệnh nhân có thể hút thuốc để dễ ngủ. Tuy
nhiên, khi nồng độ nicotine tăng, tác dụng an
thần được thay thế bằng cảm giác kích thích
và kích động. Khi hút thêm một điếu trong
vòng 1 giờ trước khi ngủ có thể làm khó
ngủ(12). Sau đó vào ban đêm, việc giảm nồng
độ nicotine trong máu gây ra những ảnh
hưởng khác nhau nhưng có thể tạo ra sự kích
thích vỏ não khiến cho người hút thuốc cảm
thấy cần hút thuốc lá để thỏa mãn ham muốn
của họ. Ngoài ra, việc hút thuốc lá còn có thể
làm tăng các triệu chứng ngáy, ho, khó thở khi
ngủ đây là những triệu chứng có thể gây rối
loạn giấc ngủ(1).
Liên quan giữa CLGN với tình trạng sức
khỏe tâm thần
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
tỉ lệ bệnh nhân bị stress, trầm cảm, lo âu lần
lượt là 6,9%; 7,5% và 21,3%. Các yếu tố này có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với CLGN
kém của bệnh nhân (p<0,05). Cụ thể là bệnh
nhân có CLGN kém ở nhóm không bị stress có
số chênh bằng 0,11 lần so với nhóm bị stress
(KTC 95%: 0,01 - 0,52). Bệnh nhân có CLGN
kém ở nhóm không bị trầm cảm có số chênh
bằng 0,16 lần so với nhóm bị trầm cảm (KTC
95%: 0,03 - 0,65). Bệnh nhân có CLGN kém ở
nhóm không bị lo âu bằng 0,32 lần so với
nhóm bị lo âu (KTC 95%: 0,14 - 0,69) (Bảng 6).
Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Stien (2006) cũng tìm thấy mối liên quan
giữa trầm cảm (r = 0,32; p < 0,05) và lo âu (r =
0,4; p < 0,01) với điểm số CLGN(13). Hay trong
nghiên cứu của Peles (2006) cũng tìm thấy mối
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm,
lo âu và điểm CLGN (p = 0,03)(10). Từ các kết
quả này ta có thể thấy rằng các rối loạn tâm
thần cụ thể là stress, trầm cảm, lo âu ảnh
hưởng rất nhiều đến CLGN của bệnh nhân.
Ngược lại, thì mất ngủ còn được xem là
một dấu hiệu của các rối loạn trầm cảm, lo âu
hay hoảng loạn. Trong nghiên cứu của
Nguyễn Thu Trang (2016) thì nguy cơ tâm
thần cao hơn 6,76 lần ở những bệnh nhân có
CLGN kém (KTC 95%: 3,84% - 11,9%)(9). Từ đó,
chúng tôi thấy rằng có một sự tương tác phức
tạp giữa rối lọan giấc ngủ và rối loạn tâm thần.
Vì thế chúng ta cần phải chú ý sàng lọc các
vấn đề về giấc ngủ và rối loạn tâm thần của
bệnh nhân để có thể phát hiện sớm các vấn đề
này và có biện pháp can thiệp thích hợp. Giúp
cải thiện tình trạng sức khỏe và nâng cao hiệu
quả điều trị của bệnh nhân.
Liên quan giữa CLGN với quá trình điều trị
methadone
Chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa
CLGN kém của bệnh nhân với liều
Methadone. Bệnh nhân có CLGN kém ở nhóm
có liều trên 100 mg/ngày có số chênh bằng 2,53
lần so với nhóm có liều thấp hơn 100 mg/ngày
(KTC 95%: 1,26 - 5,06 (p = 0,004)) (Bảng 7). Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của Stien
(2006) cũng tìm thấy mối liên quan tuyến tính
ở nhóm bệnh nhân có liều Methadone cao
(>100 mg/ngày) với CLGN kém (r = 0,18)(13).
Nghiên cứu của Peles (2006) cũng cho kết quả
tương tự giữa nhóm có liều Methadone cao
với CLGN kém (r = 0,48)(10). Tuy nhiên, các mối
tương quan này không chỉ ở mức độ vừa và
nhẹ nên không thể giải thích hết rằng những
ảnh hưởng ở CLGN là do liều Methadone.
Kết quả này khác với nghiên cứu của Trần
Thị Phương Nga (2016), theo nghiên cứu liều
Methadone không ảnh hưởng đến CLGN của
bệnh nhân. Sự khác biệt này là do liều
Methadone trung bình trong nghiên cứu này
là 150,5 mg/ngày và có đến 61,1% bệnh nhân
có liều Methadone trên 100 mg/ngày(14). Còn
trong nghiên cứu của chúng tôi liều
Methadone thấp hơn rất nhiều với 50% bệnh
nhân có liều Methadone từ 70 mg/ngày trở
xuống và chỉ có 25% bệnh nhân có liều trên
115 mg/ngày. Và đối tượng trong nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 157
của chúng tôi là những bệnh nhân đã vào giai
đoạn duy trì và điều trị trên 3 tháng. Còn
trong nghiên cứu của Trần Thị Phương Nga
thì thực hiện ở bệnh nhân điều trị Methadone
nên có người ở giai đoạn dò liều và điều chỉnh
liều nên liều sẽ thấp và CLGN sẽ không ổn
định. Sự chênh lệch này có thể là một trong
những nguyên nhân gây ra sự khác biệt giữa
các nghiên cứu.
Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có
ý nghĩa thống kê giữa CLGN kém và thời gian
điều trị Methadone và việc tuân thủ điều trị
của bệnh nhân (bảng 7). Kết quả này phù hợp
với các nghiên cứu mà chúng tôi tham khảo(10,
14) chỉ có nghiên cứu của Zahari (2016) thì
những bệnh nhân có thời gian điều trị trên 5
năm sẽ có điểm CLGN cao hơn những bệnh
nhân điều trị dưới 5 năm (p = 0,039)(16). Sự khác
biệt này có thể các cơ sở điều trị trong nghiên
cứu điều mới thành lập và chương trình này
cũng là một chương trình mới được triển khai
vài năm ở nước ta. Bên cạnh đó, chúng tôi
cũng chưa tìm thấy mối liên quan giữa việc
tuân thủ điều trị và CLGN kém kết quả này
phù hợp với tác giả Trần Thị Phương Nga
(2016)(14).
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong vòng 1
tháng trước thời điểm nghiên cứu, tỉ lệ bệnh
nhân có chất lượng giấc ngủ kém là 40,4% dao
động trong khoảng tin cậy 95% từ 33,4% đến
47,4%. Những yếu tố liên quan đến chất lượng
giấc ngủ của bệnh nhân là mức độ nghiện
thuốc lá, stress, trầm cảm, lo âu, liều
Methadone. Trong đó 3 yếu tố liều
Methadone, lo âu và mức độ nghiện thuốc lá
cần được chú trọng.
Từ kết quả nghiên cứu, các cơ sở điều trị
Methadone cần chú trọng việc đánh giá CLGN
của bệnh nhân khi bắt đầu tham gia chương
trình và trong suốt quá trình điều trị. Thường
xuyên tầm soát các vần đề về sức khỏe tâm
thần cũng như hỗ trợ các vấn đề về tâm lý cho
bệnh nhân để tránh ảnh hưởng đến tình trạng
giấc ngủ của bệnh nhân. Theo dõi quá trình
điều trị của bệnh nhân để có thể điều chỉnh
liều thích hợp và có kế hoạch giảm liều cho
bệnh nhân để cải thiện chất lượng giấc ngủ.
Đối với bệnh nhân, cần tuân thủ điều trị và
nghe theo sự hướng dẫn của bác sĩ và tư vấn
viên để cho hiệu quả điều trị được tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bloom JW, Kaltenborn WT, Quan SF (1988). Risk factors in
a general population for snoring: importance of cigarette
smoking and obesity. Chest, 93 (4): 678-683.
2. Buysse DJ, Reynolds CF, Monk TH, Berman SR, Kupfer DJ
(1989). The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new
instrument for psychiatric practice and research.
Psychiatry research, 28 (2): 193-213.
3. Clarke JG, Stein MD, McGarry KA, Gogineni A (2001).
Interest in smoking cessation among injection drug users.
The American Journal on Addictions, 10 (2): 159-166.
4. Hsu WY, et al. (2012). Sleep quality in heroin addicts
under methadone maintenance treatment. Acta
neuropsychiatrica, 24 (6): 356-360.
5. Lydon-Staley DM, Cleveland HH, Huhn AS, Cleveland
MJ, Harris J, Stankoski D, Deneke E, Meyer RE, Bunce SC
(2017). Daily sleep quality affects drug craving, partially
through indirect associations with positive affect, in
patients in treatment for nonmedical use of prescription
drugs. Addictive behaviors, 65: 275-282.
6. National Sleep Foundation Sleeptionary - Definitions Of
Common Sleep Terms,
https://sleepfoundation.org/sleeptionary, accessed on 31
Mar 2017.
7. Nguyễn Quang Vinh (2014), Chất lượng cuộc sống và nhu
cầu hòa nhập cộng đồng của bệnh nhân điều trị thay thế
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tỉnh
Long An. Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế công cộng,
Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh,tr. 1 -
120.
8. Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn
Ngọc Linh (2015). Kết quả điều trị thay thế nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tại thành phố Tân
An, tỉnh Long An năm 2015. Tạp chí y học dự phòng, Tập
XXV, số 10 (170): 322.
9. Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Bích Diệp, Văn Đình Hòa,
Bùi Nguyên Hồng, Lê Minh Giang (2016). Nguy cơ rối
loạn tâm thần ở bệnh nhân điều trị methadone và một số
yếu tố liên quan. Tạp chí nghiên cứu y học, 99 (1): 147 - 154.
10. Peles E, Schreiber S, Adelson M (2006). Variables
associated with perceived sleep disorders in methadone
maintenance treatment (MMT) patients. Drug and alcohol
dependence, 82 (2): 103-110.
11. Peles E, Schreiber S, Adelson M (2009). Documented poor
sleep among methadone-maintained patients is associated
with chronic pain and benzodiazepine abuse, but not with
methadone dose. European Neuropsychopharmacology, 19
(8): 581-588.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 158
12. Soldatos CR, Kales JD, Scharf MB, Bixler EO, Kales A
(1980). Cigarette smoking associated with sleep difficulty.
Science, 207 (4430): 551-553.
13. Stein MD, et al (2004). Sleep disturbances among
methadone maintained patients. Journal of substance abuse
treatment, 26 (3): 175-180.
14. Trần Thị Phương Nga (2016), Chất lượng giấc ngủ và các
yếu tố liên quan trên bệnh nhân điều trị tại phòng khám
methadone quận 6 TP. HCM. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ
Y học dự phòng, Đại Học Y Dược TP. HCM, TP. HCM, tr.
1 - 84.
15. UNODC (2016), World Drug Report. UNITED NATIONS.
New York, pp. X - XI.
16. Zahari Z, et al (2016). Association between Perceived
Sleep Disorders and Sleep Related Factors among Patients
on Methadone Maintenance Therapy (MMT) in Malaysia.
International Medical Journal, 23 (2): 134-137.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_giac_ngu_o_benh_nhan_dieu_tri_thay_the_cac_chat_d.pdf